Bạn đang đọc Trường Trung Học Avalon: Chương 20
Chương 19
Nửa tiếng sau, khi chiếc taxi dừng lại trước một toà nhà chung cư, tôi đưa cho tài xế gần hết nửa số tiền mang theo trong người – 8 đôla, tôi cũng chỉ còn chừng ấy để một lúc nữa trở lại trường – tôi cũng vẫn không quan
Tôi không quan tâm chuyện mình đang ở một nơi ở Annapolis, nơi chưa từng đến bao giờ. Tôi không quan tâm chuyện không biết phải về nhà bằng cách nào, hay liệu còn đủ tiền cho tôi về hay không. Tôi không quan tâm đến bất kỳ điều gì khác, ngoài một điều rằng tôi sẽ tìm được ông ta – nhờ vào Trung tâm Thông tin và một bốt điện thoại công cộng khác – và giờ tôi sẽ tìm được những câu trả lời có nghĩa lý.
Hi vọng là như vậy.
Tôi biết ông ta đã về nhà. Tôi có thể nghe thấy tiếng tivi vọng ra từ phía sau cánh cửa tôi gõ. Có thể ông ta không nghe thấy tiếng tôi đập cửa vì tiếng tivi bật to quá. Có thể vì thế mà một lúc sau ông ta mới trả lời.
Nhưng lúc ông ta ra mở cửa thì tôi thấy rằng, chẳng phải do ông ta không nghe thấy. Không phải vì thế mà một lúc lâu sau ông ta mới trả lời. Ông ta không trả lời ngay là bởi vì còn nhìn qua cái lỗ trên cánh cửa để xem ai đến.
Và tay ông ta cầm một cái chảo cực kỳ to để đánh tôi nếu chẳng may tôi là một kẻ nguy hiểm nào đó.
Ít ra thì đó là tôi tưởng thế, vì khi thấy tôi đi một mình, ông ta bèn hạ cái chảo xuống.
“Ô,” ông Morton nói. “Là em à.”
Ông ta không có vẻ ngạc nhiên. Chấp nhận thì đúng hơn.
“Đi đi,” ông ta nói. “Tôi bận lắm.” Và bắt đầu đóng cửa lại.
Nhưng tôi quá nhanh. Trước khi ông ta kịp đóng cửa lại, tôi thò một bàn chân qua ngưỡng cửa, lớp cao su dày của chiếc Nike giữ cho cánh cửa khỏi đóng sầm lại trước mặt tôi.
Tôi không biết lúc đó mình làm sao. Từ trước tới giờ, chưa bao giờ tôi làm thế này – bỏ học, ra khỏi trường mà không xin phép, đến nhà một giáo viên, thò chân qua ngưỡng cửa nhà ông ta để ông ta khỏi sập cửa – đó đâu phải là tôi. Tôi không làm bất kỳ điều gì trong số đó. Tim tôi đang đập thình thịch, lòng bàn tay dính mồ hôi toát ra vì lo lắng. Tôi nghĩ có khi mình ốm rồi.
Nhưng tôi không mất bao công đến được đây chỉ để bị đuổi về. Tôi phải làm việc đó. Tôi cũng chẳng biết tại sao.
Có lẽ đó là do tôi lớn lên trong một gia đình toàn những người biết hết những câu trả lời trong chương trình Jeopardy! Và giờ đây, cuối cùng tôi cũng muốn có câu trả lời cho chính mình.
Ông Morton nhìn xuống chân tôi. Lúc này ông ta ngạc nhiên thật. Ngạc nhiên trước khả năng xoay xở của tôi.
Nhưng ông ta không ngăn cản. Ông ta chỉ nhún vai và nói: “Muốn làm gì thì làm.”
Và quay đi, làm nốt công việc đang dang dở trước khi tôi đến gõ cửa. Ông ta đang sắp xếp đồ đạc vào vali.
Quần áo của ông ta bừa bãi khắp nơi. Nhưng ông ta không nhét quần áo vào trong mấy cái vali đặt trên sàn. Ông ta đang chất đầy sách. Những cuốn sách dày cộp, giống như loại bố tôi hay mượn về từ thư viện trong trường đại học. Phần lớn trong số đó trông cực kỳ cũ. Tôi không hiểu làm thế nào ông Morton lại nghĩ ông ta có thể xách nổi cái nào trong số mấy cái vali đó, khi đóng được chúng vào.
Tôi nhìn những cái vali. Rồi lại nhìn ông Morton, ông ta đang phân loại đống sách cầm trong tay. Vài cuốn cho vào vali. Những cuốn còn lại vứt trên sàn nhà. Rõ ràng ông ta không hề quan tâm chuyện gì sẽ xảy đến với những thứ ông ta bỏ lại.
“Vậy em muốn gì?” ông Morton hỏi, vẫn đang phân loại sách. “Tôi không có nhiều thời gian đâu. Tôi còn phải lên máy bay nữa.”
“Em thấy rồi,” tôi nói. Tôi nhặt một cuốn sách ở gần mình nhất. Tên sách không phải là tiếng Anh, nhưng tôi nhận ra nó, vì hồi còn ở nhà cũ ở St. Paul, bố tôi cũng có một cuốn trên giá sách. Le Morte d’Arthur. Cái Chết Của Arthur. Hay lắm. “Thầy đột ngột quyết định đi chơi một chuyến à?”
“Không phải đi chơi,” ông Morton nói cụt lủn. “Tôi đi khỏi thị trấn. Mãi mãi.”
“Thế ư?” tôi nhìn quanh đồ đạc trong phòng, không nhiều và còn khá mới, cho dù trông không có vẻ đắt tiền cho lắm. “Tại sao ạ?”
Ông Morton liếc tôi một cái nhìn như đánh giá. Sau đó ông ta lại tiếp tục sắp xếp.
“Nếu đây là về chuyện điểm số,” ông ta nói, không thèm để ý đến câu hỏi của tôi, “thì em không cần phải lo. Dù người ta có cử ai dạy thay tôi đi nữa thì người đó chắc chắn cũng sẽ cho em điểm A. Bản đề cương em đã nộp đó thực sự viết rất tốt. Em có thể ghép được hai câu thành một, thế là giỏi hơn nhiều so với phần lớn bọn học sinh ngu độn trong trường rồi. Em đã làm tốt. Giờ thì đi đi. Tôi còn nhiều việc phải làm lắm, và còn rất ít thời gian để hoàn thành.”
“Thầy định đi đâu?” tôi hỏi.
“Tahiti,” ông ta đáp, xem xét gáy một cuốn sách trước khi ném vào cái vali trước mặt ông ta.
“Tahiti?” Tôi nói. “Khá xa đấy nhỉ.”
Ông ta lờ câu hỏi đó đi, tiến ra đằng sau tôi, đóng cánh cửa tôi còn để ngỏ.
“Tôi đã nói với em rồi,” ông ta nói khi cửa đã đóng kín an toàn. Giọng nói ngắn gọn và khẽ khàng đến nỗi tôi hầu như không nghe thấy tiếng ông ta trong khi tiếng tivi vẫn phát ra ầm ầm từ căn phòng bên cạnh. “Vai trò của em trong chuyện này đã chấm dứt. Em không thể làm gì hơn được nữa… không gì hơn cái điều em cần làm. Giờ thì hãy ngoan ngoãn về trường đi Elaine.”
“Không.” Tôi gạt một đống sách, rồi ngồi xuống khoảng trống trong chiếc sofa tôi vừa mới tạo ra.
Ông Morton chớp mắt nhìn tôi như thể không tin nổi cái điều ông ta vừa mới nghe thấy.
“Em bảo sao?”
“Không,” tôi nói. Giọng tôi cứng rắn đến mức chính tôi cũng thấy ngạc nhiên. Còn thực ra, bên trong tôi đang run cầm cập. Chưa bao giờ tôi cãi lời một giáo viên – hay cãi lời người lớn. Tôi không biết lòng can đảm đó xuất phát từ đâu, nhưng tôi rất vui mừng vì bất ngờ lại tìm được nó. “Không, em không đi. Cho đến khi nào thầy nói cho em biết chuyện gì đang diễn ra. Tại sao thầy cứ nói mãi ‘vai trò của em trong chuyện này đã chấm dứt’? Vai trò của em trong chuyện gì mới được chứ? Tại sao thầy lại định đi khỏi đây nhanh thế? Thầy đang sợ sẽ có chuyện gì xảy ra?”
Ông Morton thở dài, nói bằng giọng mệt mỏi: “Xin em đấy. Harrison. Elaine. Tôi không có thời gian đâu cho việc này. Tôi còn phải lên máy bay.” Ông ta với lấy mấy cuốn sách mà tôi đã bỏ ra khỏi sofa. Lần đầu tiên tôi thấy hai bàn tay ông ta đang run lẩy bẩy.
Tôi ngước mắt nhìn ông ta chằm chằm, thực sự bị sửng sốt.
“Thầy Morton,” tôi nói, “chuyện gì vậy? Chuyện gì mà thầy phải sợ đến thế? Thầy đang chạy trốn khỏi điều gì?”
“Harrison.” Ông ta thở dài nặng nề. Sau đó, như thể nghĩ ngợi thêm về vấn đề này, ông ta nói: “Bố mẹ em đến đây trong kỳ nghỉ phép, phải vậy không? Bọn họ có thể nghỉ ngơi, ngừng nghiên cứu một thời gian. Sao em không hỏi họ xem ba người nhà em có thể đi nghỉ đâu đó? Một nơi nào đó xa khỏi vùng ven biển phía đông. Đi ngay lập tức là tốt nhất.” Cái nhìn của ông ta lại hướng về phía cửa sổ, qua khung cửa, tôi có thể thấy những đám mây đã che khuất ánh nắng chiều rực rỡ. “Đi càng sớm càng tốt.”
Sau đó, ông ta quay lại, bỏ thêm vài cuốn sách vào cái vali đang xếp.
“Thầy Morton,” tôi cẩn trọng nói, “em xin lỗi, nhưng em nghĩ thầy cần người giúp. Một bác sỹ tâm thần chuyện nghiệp.”
Ông ta liếc tôi qua mép kính. “Đó là điều em đang nghĩ à?” ông ta chỉ nói có vậy, giọng có vẻ bực bội.
Tôi không trách được ông ta lại thấy tự ái. Tôi không hẳn là người phù hợp để nói những điều đó. Nhưng vẫn phải có người nói chứ. Ông ta hoàn toàn điên loạn rồi. Cũng không phải ông ta không có lý do để thấy toàn bộ câu chuyện này hơi không bình thường. Nhưng mà…
“Em biết, tất cả những chuyện với Will, Lance và Jennifer có vẻ… trùng hợp,” tôi nói tiếp. “Nhưng thầy là một thầy giáo… một nhà giáo dục. Thầy phải suy nghĩ chín chắn và sáng suốt chứ. Chắc chắn thầy không thể hoàn toàn tin vào một chuyện ngớ ngẩn như vua Arthur tái sinh được.”
“Vì thế mà em đi cả quãng đường dài đến đây,” ông Morton nói. “Để nói với tôi rằng cái điều tôi tin tưởng là ngớ ngẩn. Em đang lo lắng cho tôi đấy à? Em sợ tôi có thể bị điên chứ gì?”
“Ừm,” tôi nói, cảm thấy thật tệ nhưng vẫn biết mình phải nói thật. “Vâng. Ý em là, em có thể hiểu khi một người – thậm chí người đó không ở trong… thầy biết đấy… cái giáo phái mà thầy tham gia – “
Ông ta trông chỉ hơi ngạc nhiên chút xíu khi nghe thấy tôi nói có biết về cái nhóm người đó. Khi cất tiếng quở trách, giọng ông ta cũng nhẹ nhàng: “Hội Gấu là một hội kín,” ông ta nói, “chứ không phải là một giáo phái, cô Harrison.”
“Sao cũng được,” tôi nói. “Em hiểu tại sao những người như em chẳng hạn, thấy hết được những điều trùng hợp đó – bố mẹ của Will; tên anh ta, chuyện với Lance và Jennifer; tên con chó và tên chiếc thuyền của Will. Những chuyện kiểu thế – và họ nghĩ: ‘Này, đó là vua Arthur tái sinh đấy.’ Nhưng còn có những điểm khác biệt nữa. Bà Jean không phải mẹ ruột của Will – mẹ ruột của anh ta đã chết rồi. Marco là anh con mẹ kế chứ không phải anh cùng mẹ khác cha với Will. Và chắc chắn em không phải là Tiểu Thư vùng Astolat. Em không thể yêu Lance, dù có cố. Thầy là một giáo viên. Đúng ra thầy phải suy nghĩ cho hợp lý chứ. Sao một người như thầy lại đi tin vào một chuyện hoàn toàn ngớ ngẩn như vua Arthur sống dậy từ cõi chết – trừ phi là thầy bị điên rồi?”
Ông ta chớp mắt nhìn tôi. Chỉ một lần.
Rồi ông ta nói: “Không phải ‘tin’, cô Harrison ạ. Mà là biết. Đó là một thực tế. Arthur sẽ trở lại. Đang trở lại. Chỉ có điều – ” Nét mặt ông ta tối sầm.
Rồi ông ta dường như lại kín đáo như trước.
“Không. Không được. Tốt hơn hết là em không nên biết,” ông ta nói, lắc đầu. “Kiến thức… có thể trở nên đáng sợ. Chính tôi cũng có đôi lúc ước gì tôi không biết.”
“Thầy cứ thử doạ em xem nào,” tôi nói, khoanh hai tay lại.
Ông ta nhìn tôi chằm chằm trong khoảng một phút.
Rồi ông ta nói: “Được thôi. Em là một cô bé thông minh – ít ra là có vẻ thế, cho đến lúc này. Nếu tôi nói với em rằng hội của tôi – Hội Gấu – là một tổ chức bí mật, với một nhiệm vụ duy nhất là cố gắng ngăn cản những thế lực xấu xa không cho vua Arthur tái sinh, giành lại quyền lực một lần nữa?”
“Ừm,” tôi nói. “Có lẽ nói cho thầy hay, em biết điều đó rồi. Cả những phương thuốc thầy nên uống để tránh khỏi những chứng hoang tưởng như thế này nữa.”
Nét mặt ông ta càng trở nên chua chát hơn. “Chúng tôi không mong đợi ông ấy chỉ đùng một cái xuất hiện ở nơi an nghỉ, với thanh kiếm Excalibur trong tay. Chúng tôi đâu phải những kẻ ngốc, cô Harrison. Giống như những thầy tu ở Tây Tạng đi khắp nơi tìm kiếm Đạt Lai Lạt Ma kế tiếp, những thành viên của Hội Gấu tìm kiếm những người tiềm năng có thể là Arthur trong mỗi thế hệ.” Ông ta tháo cặp kính và bắt đầu lấy chiếc khăn tay từ túi quần sau ra để lau. “Khi tìm được một người mà chúng tôi nghĩ rằng rất có tiềm năng, chúng tôi cử một thành viên của Hội đến nơi người đó sống, quan sát anh ta, nói chung thường dưới vỏ bọc của một giáo viên, như tôi đây chẳng hạn. Đa phần thì những người đó toàn làm chúng tôi phải thất vọng. Nhưng thỉnh thoảng – như trường hợp của Will – thì hội lại có lý do để hi vọng…”
Ông ta lại đeo kính lên, nhìn tôi qua cặp kính sáng bóng.
“Và sau đó chỉ cần phải lo giữ cho những thế lực hắc ám khỏi phá hỏng những cơ hội của người đó để vươn tới với tiềm năng trong con người anh ta.”
“Chính chỗ đó em không hiểu,” tôi nói. “Thế lực hắc ám ấy ạ? Thôi đi, thầy Morton. Thầy đang nói gì thế? Darth Vader[7]? Hay Voldemort? Cho em xin.”
“Em tưởng chuyện xảy ra bao nhiêu năm trước giữa Lancelot và nữ hoàng chỉ đơn thuần là một vụ ngoại tình thôi chắc?” ông Morton hỏi, có vẻ bị sốc trước suy nghĩ ngây thơ của tôi. “Bởi đó là một âm mưu xảo quyệt hơn nhiều, nguyên nhân của nó không chỉ do những điểm yếu trong tính cách của hai người đó mà còn là do sức mạnh của những thế lực chống lại Arthur gây nên, những thế lực tìm cách huỷ hoại ông ấy – không chỉ huỷ hoại niềm tin vào bản thân của chính ông ấy mà còn là niềm tin của mọi người vào ông ấy nữa. Đó là lúc Mordred – một kẻ luôn luôn là tay sai của quỷ dữ – đến giết hại Arthur.”
“Ừm,” tôi nói, nhìn ông ta chằm chằm. Tôi đang thấy khó khăn trong việc nuốt trôi vài điều trong số những gì ông ta nói. Thôi được, tất cả những gì ông ta đã nói thì đúng hơn. “Vâng, được rồi.”
Hẳn tôi nói có vẻ tin tưởng lắm, vì ông Morton được tôi khích lệ nên tiếp tục.
“Em biết đấy, ở lần đầu tiên, hắn đã quá muộn. Mordred ấy mà. Cho dù hắn – và quỷ dữ – có cố gắng đi nữa, thì Thời đại Đen tối cũng đã chấm dứt, vì Arthur đã lên ngôi đủ lâu để dẫn dắt người dân thoát khỏi thời đại đó. Và cuối cùng, không phải Mordred là người được ghi nhận trong suốt chiều dài lịch sử như là một vị vua tốt, mà đó là Arthur, em của hắn.”
“Nhưng Mordred rút được kinh nghiệm từ sai lầm đó,” ông Morton nói tiếp. “Và kể từ lần ấy, cứ mỗi khi Arthur cố gắng sống dậy, Mordred lại xuất hiện để ngăn ông ấy, xuất hiện ngày càng sớm hơn trong vòng đời, để Ánh sáng không bao giờ có thể thắng được. Và mọi chuyện sẽ tiếp tục như thế, Elaine ạ, cho đến khi thời gian dừng lại… hoặc là cho đến khi cái thiện cuối cùng cũng chiến thắng cái ác, một lần cho tất cả, và Mordred sẽ phải phải yên nghỉ.”
Tôi hắng giọng.
Vấn đề là thế này, ông Morton có vẻ cũng minh mẫn tỉnh táo đấy. Ông ta có vẻ cũng có đầu óc sáng suốt như… bố tôi vậy.
Nhưng cái điều ông ta nói – cái điều mà ông ta và “hội” đó tin… Thật là điên khùng. Không ai bình thường tỉnh táo lại có thể nghĩ Will Wagner là hiện thân tái sinh của vua Arthur cả. Mấy chuyện về tên tuổi đó – và cả con Cavall nữa – thật chẳng có nghĩa lý gì hết.
Và không chỉ có những chuyện đó vô lý thôi đâu.
“Em không hiểu,” tôi nói, giọng đều đều. “Nếu thầy thực sự cho rằng Will là Arthur – xin nói với thầy là chữ ‘nếu’ đó to lắm đấy nhé – thì tại sao thầy lại chạy trốn? Chẳng phải thầy nên ở lại đây để giúp đỡ anh ta hay sao? Cứ sửa lại nếu em nhầm, nhưng chẳng phải thầy là người đã được hội cử đến bảo vệ anh ta à?”
Trông ông Morton thực sự đau buồn.
“Giờ vô ích rồi,” ông ta giải thích. “Một khi Guinevere rời bỏ ông ấy, Arthur sẽ dễ bị tất cả những gì Mordred âm mưu làm hại. Chúng tôi đã thấy điều đó lặp đi lặp lại bao nhiêu lần rồi, cho dù chúng tôi có làm gì để cố ngăn điều đó đi nữa. Mordred – với sự trợ giúp của phe hắc ám – sẽ trở nên hùng mạnh như bao lần tái sinh trước trong quá khứ. Hãy nghĩ đến những nhà lãnh đạo chính trị độc ác nhất trong lịch sử, rồi em sẽ hiểu tôi đang nói gì. Tất cả những kẻ đó đều là Mordred. Và Arthur sẽ…”
“Ông ta sẽ làm sao?” tôi tò mò hỏi.
“Ừm,” ông Morton nói, có vẻ lúng túng khó chịu, “ông ấy sẽ chết.”