Đọc truyện Trước Ngày Em Đến – Me Before You – Chương 5
Hai tuần trôi qua và xuất hiện cùng đó là một chuỗi công việc hằng ngày đều đặn. Mỗi buổi sáng tôi đến dinh thự Granta lúc tám giờ, gọi báo mình đã đến, rồi sau đó, khi Nathan giúp Will thay đồ xong, tôi cẩn thận lắng nghe ông nói những điều cần biết về thuốc thang của Will – hoặc, quan trọng hơn, về tâm trạng của anh ta.
Khi Nathan đi rồi tôi sẽ chọn chương trình radio hoặc ti-vi cho Will, lấy thuốc cho anh ta, đôi khi nghiền thuốc bằng bộ chày cối nhỏ bằng đá cẩm thạch. Thường thường, sau khoảng chừng mươi phút anh ta sẽ nói thẳng rằng đã chán ngấy với sự có mặt của tôi. Tới lúc đó tôi sẽ bôi ra vài việc nhà lặt vặt để làm, giặt khăn mù-soa chưa bẩn, hoặc dùng cái đầu hút bất kỳ để làm sạch những đoạn viền chân tường bé tí hay gờ cửa sổ, cứ đều đặn mười lăm phút lại ngó đầu vào cửa như lời bà Traynor dặn. Lần nào nhìn vào tôi cũng thấy anh ta đang ngồi trên xe lăn nhìn ra ngoài khu vườn trống trải.
Sau đó có thể tôi sẽ mang cho anh ta nước lọc, hoặc một ly nước dinh dưỡng lờ nhờ như hồ dán giấy dán tường được cho là giúp anh ta tăng cân, hoặc mang thức ăn cho anh ta. Anh ta có thể nhúc nhích bàn tay một chút, nhưng cánh tay thì không, vì vậy tôi phải đút cho anh ta từng thìa. Đây là phần tệ hại nhất trong ngày; chẳng hiểu sao chuyện đút ăn cho một thanh niên dường như thật phi lý, và sự bối rối khiến tôi trở nên lúng túng vụng về. Will căm ghét chuyện này đến nỗi anh ta thậm chí không nhìn mắt tôi khi tôi đút cho anh ta ăn.
Thế rồi trước một giờ trưa một chút, Nathan sẽ đến và tôi sẽ chộp lấy áo khoác rồi biến ra ngoài đường, thi thoảng ăn trưa ở bến xe buýt bên ngoài lâu đài. Trời rất lạnh và chắc trông tôi rất thảm hại khi ngồi ở đó ăn sandwich nhưng tôi chẳng quan tâm. Tôi không thể ở cả ngày trong cái nhà đó được.
Vào buổi chiều tôi sẽ mở một bộ phim – Will là hội viên của một câu lạc bộ DVD nên hằng ngày đĩa phim mới được gửi tới qua đường bưu điện – nhưng anh ta chẳng bao giờ rủ tôi xem cùng, vậy nên tôi thường ra ngồi ở bếp hoặc trong phòng dành cho khách. Tôi cầm lên một cuốn sách hoặc tạp chí, nhưng tôi có cảm giác có lỗi kỳ quặc khi không thực sự làm việc nên tôi chẳng bao giờ tập trung hoàn toàn vào con chữ được. Đôi khi vào cuối ngày, bà Traynor sẽ tạt về – tuy nhiên bà chẳng bao giờ nói gì nhiều với tôi ngoài câu hỏi “Mọi việc ổn chứ?” mà câu trả lời duy nhất có thể chấp nhận được dường như là “Vâng ạ”.
Bà sẽ hỏi Will xem anh ta có cần gì không, thỉnh thoảng đề xuất một việc gì đó mà biết đâu anh ta muốn làm vào ngày hôm sau – đi đâu đó ra ngoài, hoặc gặp người bạn nào đó từng hỏi thăm sức khỏe anh ta – và anh ta luôn trả lời với giọng cộc cằn thô lỗ, nếu không thì cũng thờ ơ lạnh nhạt. Khi đó trông bà rất đau đớn, cứ mân mê sợi dây chuyền rồi lại biến mất.
Bố anh ta, một người đàn ông phương phi, trông lịch thiệp, thường tới lúc tôi sắp đi. Ông ấy thuộc típ người mà ta có thể thấy đội mũ Panama xem cricket, hình như ông coi sóc việc quản lý tòa lâu đài kể từ khi bỏ công việc được trả lương hậu hĩnh trên thành phố. Tôi nghĩ ông cũng chỉ làm cho có việc mà thôi. Ông kết thúc mỗi ngày vào đúng năm giờ chiều rồi ngồi xem ti-vi cùng Will. Thi thoảng khi ra khỏi phòng, tôi nghe thấy ông ta bình luận về chuyện gì đó trên mục tin tức.
Trong hai tuần đầu tiên này tôi đã nhìn Will Traynor kỹ hơn. Tôi thấy dường như anh ta quyết tâm khiến mình trông khác hẳn con người trước đây; anh ta để mái tóc nâu nhạt dài ra thành một mớ lộn xộn, râu ria lởm chởm bò quanh quai hàm. Đôi mắt xám của anh ta đầy nếp nhăn vì mệt mỏi, hoặc tác động của việc thiếu thoải mái triền miên (Nathan nói rằng anh ta hiếm khi được thoải mái). Chúng mang cái nhìn vô hồn của một kẻ đã trượt vài bước khỏi thế giới quanh mình. Đôi khi tôi tự hỏi phải chăng đó là một cơ chế phòng vệ, khi mà cách duy nhất để anh ta đối phó với cuộc đời là giả vờ mình không phải là người phải hứng chịu những gì đang xảy ra.
Tôi muốn thấy thương cảm cho anh ta. Tôi thật sự rất thương cảm. Tôi nghĩ anh ta là người đáng buồn nhất mà tôi từng gặp, trong những khoảnh khắc ấy khi tôi thoáng thấy anh ta nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ. Rồi khi ngày nối ngày trôi qua, khi nhận ra rằng tình trạng của anh ta không chỉ là chuyện bị mắc kẹt trong cái xe đó và cơ thể mất tự do mà còn là một chuỗi không bao giờ dứt của những tổn thương và vấn đề sức khỏe, của nguy hiểm và bất tiện, tôi nghĩ rằng nếu là Will, chắc tôi cũng sẽ cảm thấy hết sức khốn khổ như vậy.
Nhưng ôi Chúa ơi, anh ta cực kỳ khó chịu với tôi. Mọi điều tôi nói, anh ta đều trả lời rất gay gắt. Khi tôi hỏi xem anh ta đã đủ ấm chưa, anh ta sẽ vặn lại rằng anh ta thừa khả năng để báo cho tôi biết nếu anh ta cần thêm khăn choàng. Khi tôi hỏi anh ta liệu tiếng máy hút bụi có quá ồn với anh ta không – tôi không muốn làm gián đoạn bộ phim của anh ta – anh ta sẽ hỏi tôi sao cơ, tôi đã nghĩ ra cách nào đó khiến máy chạy im phắc à? Khi tôi đút thức ăn, anh ta sẽ kêu ca thức ăn quá nóng hoặc quá lạnh, hoặc tôi đã đút thìa tiếp theo vào miệng anh ta trước khi anh ta ăn xong thìa trước. Anh ta có khả năng bóp méo hầu hết mọi điều tôi nói hoặc làm ra vẻ như tôi rất ngớ ngẩn.
Trong suốt hai tuần đầu đó, tôi khá giỏi giữ nét mặt hoàn toàn vô cảm trước anh ta, xong việc là tôi quay người biến vào một căn phòng khác và kiệm lời với anh ta hết mức. Tôi bắt đầu ghét anh ta và tôi chắc là anh ta biết điều đó.
Tôi đã không nhận ra mình có thể nhớ công việc cũ nhiều hơn mình từng nhớ. Tôi nhớ Frank cùng vẻ vui mừng ra mặt của ông lúc nhìn thấy tôi khi tôi đến vào buổi sáng. Tôi nhớ khách hàng, sự bầu bạn của họ, nhớ tiếng chuyện trò thoải mái khoan nhặt rì rầm quanh tôi như tiếng sóng biển vùng ôn đới. Còn ngôi nhà này, đẹp đẽ hào nhoáng là thế nhưng lại tịch mịch lặng tờ như nhà xác. Sáu tháng, tôi thầm nhắc lại khi cảm thấy không thể chịu đựng nổi. Sáu tháng.
Rồi tới ngày thứ Năm ấy, đúng lúc đang pha ly nước dinh dưỡng làm bữa lửng sáng cho Will, tôi nghe thấy tiếng bà Traynor dưới sảnh. Ngoài ra lần này còn có những tiếng nói khác nữa. Tôi chờ đợi, chiếc dĩa nằm yên trên tay tôi. Tôi chỉ có thể nhận ra có tiếng một cô gái trẻ, giọng dễ nghe, và tiếng của một người đàn ông.
Bà Traynor xuất hiện ở lối cửa bếp, tôi cố tỏ ra bận rộn, khuấy mạnh vào chiếc cốc bê-se.
“Pha với tỷ lệ nước 60 sữa 40 đấy chứ?” bà hỏi, chằm chằm nhìn vào ly đồ uống.
“Vâng ạ. Một cốc dâu tây.”
“Bạn của Will đến thăm nó. Có lẽ sẽ tốt nhất nếu cô…”
“Tôi đang có rất nhiều việc phải làm ở đây,” tôi nói. Tôi thật sự cảm thấy rất dễ chịu khi được giải thoát khỏi anh ta trong khoảng một tiếng đồng hồ. Tôi vặn nắp cốc bê-se lại. “Khách của bà muốn uống trà hay cà-phê ạ?”
Bà nhìn tôi gần như ngạc nhiên. “Phải rồi. Thế thì hay lắm. Cà-phê đi. Tôi nghĩ tôi sẽ…”
Bà dường như còn căng thẳng hơn cả ngày thường, hai mắt dán ra phía hành lang nơi chúng tôi có thể nghe những tiếng rì rầm khe khẽ. Tôi đoán là Will chỉ có vài vị khách.
“Tôi nghĩ… tôi sẽ để chúng ở với nhau thôi.” Bà nhìn chằm chằm ra ngoài hành lang, nhưng ý nghĩ của bà có lẽ đang ở rất xa. “Rupert. Đó là Rupert, đồng nghiệp cũ của nó,” bà đột nhiên quay về phía tôi nói.
Tôi có cảm giác thời điểm này rất cam go và bà cần phải chia sẻ với một ai, dù cho người đó chỉ là tôi.
“Và Alicia. Hai đứa đã… rất thân thiết… trong một thời gian. Trà sẽ tuyệt đấy. Cảm ơn cô, Clark.”
Tôi nán lại một chút trước khi mở cửa, tựa hông vào cửa để cân bằng khay nước trên tay.
“Bà Traynor bảo rằng có thể mọi người sẽ muốn uống một chút cà-phê,” tôi nói khi bước vào, đặt khay nước lên chiếc bàn thấp. Khi tôi đặt cốc nước của Will lên góc để cốc trên xe lăn, xoay ống hút để anh ta chỉ cần cúi đầu xuống là có thể với tới, tôi lén nhìn mấy vị khách của anh ta.
Tôi để ý đến cô gái trước tiên. Đôi chân dài và mái tóc vàng, cùng với làn da màu caramel nhạt, cô thuộc típ người khiến tôi băn khoăn không biết có phải mọi người trên đời đều cùng loài không. Cô ta trông như ngựa chứng. Có đôi lần tôi đã thấy những người phụ nữ kiểu này; họ thường nhún nhảy lên đồi đến lâu đài, lôi theo đám con mặc đồ hiệu Boden, rồi khi tới quán cà-phê thì tiếng họ sẽ vang to, trong như pha lê và đầy tự tin khi hói “Harry, anh yêu, anh muốn cà-phê chứ? Để em xem họ có thể làm cho anh một ly macchiato không nhé?” Đây chính xác là kiểu phụ nữ sành điệu như ly macchiato. Mọi thứ từ con người cô toát lên mùi tiền bạc, quyền lực và một cuộc đời như sống trong những trang giấy của một quyển tạp chí thời thượng.
Rồi tôi nhìn kỹ cô hơn và nhận ra một chuyện giật mình là a) cô là cô gái trong bức ảnh Will đi trượt tuyết và b) cô trông thật sự, thật sự không hề thoải mái.
Cô đã hôn lên má Will còn bây giờ thì đang lùi bước ra sau cười gượng gạo. Cô mặc chiếc áo ghi-lê lông cừu màu nâu, kiểu áo khiến tôi trông giống như con khỉ đột, choàng quanh cổ chiếc khăn cashmere màu xám nhạt mà cô luôn tay vân vê, như thể cô chẳng quyết định được có nên cởi ra hay không.
“Anh trông khá lắm,” cô nói với Will. “Thật đấy. Anh đã để tóc hơi dài ra một tí.”
Will không nói gì cả. Anh ta chỉ nhìn cô, vẻ mặt thật khó hiểu. Tôi thoáng có cảm giác biết ơn khi tôi không phải là người duy nhất anh ta nhìn như vậy.
“Xe mới hả?” Người đàn ông vỗ vào lưng ghế của Will, đặt tay lên cằm gật đầu tán thưởng như thể anh ta đang ngưỡng mộ một chiếc xe hơi thể thao đỉnh cao. “Trông… tuyệt lắm. Công nghệ… rất đỉnh.”
Tôi không biết phải làm gì cả. Tôi đứng đó thêm một lúc nữa, chuyển chân trụ liên hồi, cho đến khi tiếng Will cất lên phá vỡ không gian yên lặng.
“Louisa, cô cho thêm mấy thanh củi vào lò sưởi được không? Tôi nghĩ cần phải vun lên một chút.”
Đây là lần đầu tiên anh ta gọi tên khai sinh của tôi. “Được chứ,” tôi nói.
Tôi khiến mình tất bật với việc nhen củi, đốt lửa và xếp gọn những thanh củi trong giỏ.
“Kinh khủng, bên ngoài trời lạnh lắm,” cô gái nói. “Thật tốt khi có lửa ấm.” Tôi mở cửa lò sưởi, lấy que cời gạt những thanh củi đang cháy.
“Thời tiết ở đây lạnh hơn London mấy độ liền.”
“Ừ, đúng vậy,” người đàn ông tán thành.
“Em cũng đang tính đặt một lò sưởi ở nhà. Chắc chắn kiểu lò này sẽ ấm hơn kiểu lò mở nhiều.” Alicia hơi cúi người xuống để xem chiếc lò sưởi, như thể trước đây cô chưa lần nào nhìn thấy loại lò này.
“Đúng đấy, anh có nghe nói vậy,” người đàn ông nói.
“Em phải xem xét nó. Một trong những việc mà anh cần làm đấy rồi sau đó…” cô nói nhỏ dần. “Cà-phê ngon quá,” cô nói thêm sau một lát im lặng.
“Thế… cậu đã phải làm những gì, Will?” người đàn ông hỏi bằng giọng cố tỏ ra vui vẻ.
“Chẳng làm gì nhiều, khôi hài thay.”
“Thế còn vật lý trị liệu. Vẫn tiếp tục chứ? Có… tiến triển không?”
“Tớ không nghĩ là tớ sẽ sớm đi trượt tuyết được đâu, Rupert,” Will trả lời với giọng đầy mai mỉa.
Tôi gần như mỉm cười một mình. Đó đúng là Will mà tôi biết. Tôi gạt gạt tro trong lò sưởi. Cảm giác như tất cả mọi người đang nhìn mình. Sự im lặng thật nặng nề. Tôi chợt băn khoăn tự hỏi có phải mác áo của tôi đang ló ra và cảm thấy muốn kiểm tra ngay.
“Vậy…” cuối cùng Will lên tiếng. “Tôi phải nợ vinh hạnh này điều gì đây?
Đã… tám tháng rồi?”
“Ôi, em biết. Em xin lỗi. Là vì… em bận quá chừng trời. Em vừa có việc làm mới ở Chelsea. Quản lý hiệu đồ của Sasha Goldstein. Anh nhớ Sasha chứ? Em còn làm bao nhiêu việc vào cuối tuần nữa. Thứ Bảy thì bận vô cùng. Rất khó có thời gian nghỉ.” Giọng Alicia trở nên căng thẳng. “Em đã gọi cho anh đôi lần. Mẹ anh có nói lại không?”
“Công việc ở Lewins đợt rồi lộn xộn lắm. Cậu… cậu biết nó thế nào rồi đấy, Will. Chúng ta vừa có sếp mới. Một thằng cha từ New York tới. Bains. Dan Bains. Cậu gặp ông ta chưa nhỉ?”
“Chưa.”
“Gã chết tiệt luôn làm việc hai tư trên hai tư và muốn tất cả mọi người đều phải làm như thế.” Ai cũng có thể nghe thấy tiếng thở phào rõ rệt của anh ta khi tìm ra một chủ đề khiến anh ta được thoải mái. “Cậu biết nguyên tắc làm việc của mấy gã Yankee già rồi đấy – không ăn trưa lâu lắc, không chuyện phiếm huyên thuyên – Will, tớ bảo cậu, không khí ở công ty bọn mình đã thay đổi hết rồi.”
“Hẳn vậy.”
“Chúa ơi, thật mà. Làm trâu bò lắm. Đôi khi tớ cảm giác như không dám nhấc mông khỏi ghế luôn.”
Toàn bộ không khí dường như đã rút sạch khỏi căn phòng trong thoáng chốc. Ai đó ho hắng.
Tôi đứng lên chùi tay vào quần jean. “Tôi sẽ… tôi chỉ đi lấy thêm ít củi,” tôi lẩm bẩm về phía Will.
Rồi tôi xách chiếc giỏ biến ngay ra ngoài.
Trời bên ngoài rét căm căm nhưng tôi vẫn nán lại, giết thời gian trong lúc lựa những mẩu gỗ. Tôi đang thử tính xem đứng đây đến chết rét có tốt hơn quay trở lại căn phòng đó không. Nhưng trời quá lạnh, cái ngón trỏ để khâu vá của tôi xanh xám lại và cuối cùng tôi đành phải đầu hàng.
Tôi xếp gỗ thật chậm, đi vào cửa sau rồi từ từ quay trở lại hành lang. Khi đi đến phòng khách tôi nghe tiếng cô gái bay ra từ cánh cửa mở hờ.
“Thật ra, Will ạ, có một lý do nữa mà bọn em tới đây,” cô nói. “Bọn em… có vài tin muốn báo.”
Tôi dừng lại gần cửa, hai tay nệ nên xách giỏ củi.
“Em nghĩ – ừm, bọn em nghĩ – sẽ là đúng đắn khi báo cho anh biết… nhưng, ừm, có một chuyện. Rupert và em sắp làm đám cưới.”
Tôi đứng im thít, tính xem liệu tôi có thể quay đi mà không ai biết không.
Cô gái tiếp tục nói đứt quãng. “Hãy nghe em, em biết điều này có thể hơi sốc đối với anh. Thật sự thì cả em cũng rất ngạc nhiên. Bọn em – chuyện đó – phải, chuyện đó thực sự chỉ bắt đầu một thời gian rất dài sau khi…”
Hai cánh tay tôi bắt đầu đau. Tôi nhìn chằm chằm xuống chiếc giỏ, cố nghĩ xem phải làm gì.
“Anh biết anh và em… chúng ta…” Lại một sự im lặng nặng nề. “Will, hãy nói gì đi.”
“Chúc mừng,” cuối cùng anh nói.
“Em hiểu điều anh đang nghĩ. Nhưng chẳng ai trong hai bọn em cố tình làm ra chuyện này. Thật lòng đấy. Trong suốt một thời gian rất dài bọn em chỉ là bạn bè. Những người bạn cùng quan tâm đến anh. Chỉ là Rupert giúp đỡ em rất nhiều sau tai nạn của anh…”
“Cậu ấy thật vĩ đại.”
“Đừng có như vậy chứ. Thế này thật khủng khiếp. Em đã vô cùng sợ hãi khi phải nói với anh. Cả hai bọn em.”
“Rõ rồi,” Will nói thẳng thừng.
Giọng Rupert chen vào. “Cậu nghe tớ, bọn tớ nói với cậu chỉ bởi vì cả hai bọn tớ đều quan tâm đến cậu. Bọn tớ không muốn cậu phải nghe chuyện này từ một ai đó khác. Nhưng mà, cậu biết đấy, cuộc đời vẫn tiếp tục. Cậu phải hiểu điều đó. Rốt cuộc cũng đã hai năm rồi.”
Lại một khoảng im lặng. Tôi thấy chẳng muốn nghe thêm nữa nên bắt đầu nhẹ nhàng rời khỏi lối cửa vào, khẽ làu bàu vì bưng nặng. Nhưng khi Rupert nói tiếp, anh ta nói lớn hơn nên tôi vẫn nghe thấy được.
“Thôi mà, anh bạn. Tớ biết sẽ vô cùng khó khăn… tất cả những điều này. Nhưng nếu cậu vẫn còn quan tâm tới Lissa chút nào, cậu phải mong mỏi cho cô ấy một cuộc đời hạnh phúc chứ.”
“Nói gì đi, Will. Hãy nói đi.”
Tôi có thể hình dung ra gương mặt anh ta. Tôi có thể thấy ánh nhìn đó của anh ta, luôn tỏ ra vừa khó đoán định vừa khinh thường xa cách.
“Xin chúc mừng,” cuối cùng anh ta nói. “Tôi chắc là cả hai sẽ rất hạnh phúc.”
Khi đó Alicia bắt đầu phản đối – mấy câu gì đó nghe không rõ – nhưng rồi Rupert ngắt lời. “Thôi nào, Lissa. Anh nghĩ chúng ta nên về thôi. Will này, không phải bọn tớ đến để chờ đợi lời chúc mừng của cậu đâu. Đó là phép lịch sự. Lissa nghĩ – phải, cả hai bọn tớ chỉ nghĩ rằng – cậu nên biết. Xin lỗi, bạn cũ. Tớ… tớ thật sự hy vọng rằng cậu sẽ tiến triển tốt và tớ hy vọng cậu vẫn giữ liên lạc khi mọi thứ… cậu biết đấy… khi mọi thứ ổn định đôi chút.”
Tôi nghe thấy tiếng bước chân nên xách ngay giỏ củi lên như thể tôi vừa mới bước vào. Tôi nghe thấy tiếng họ ở hành lang rồi Alicia xuất hiện trước mặt tôi. Đôi mắt cô ngấn đỏ như sắp khóc.
“Tôi dùng nhà tắm được chứ?” cô hỏi giọng u ám nghẹn ngào. Tôi từ từ giơ một ngón tay lên lặng lẽ chỉ về hướng nhà tắm.
Rồi cô nhìn tôi rất nặng nề khiến tôi nhận ra có lẽ những gì tôi nghĩ đang hiển hiện trên gương mặt tôi. Tôi chưa bao giờ là người giỏi che giấu cảm xúc.
“Tôi hiểu điều cô đang nghĩ,” cô nói sau một thoáng im lặng. “Nhưng tôi đã cố gắng. Tôi thật sự đã cố gắng. Suốt nhiều tháng. Nhưng anh ấy chỉ đẩy tôi ra xa.” Hàm răng cô cứng lại, nét mặt vô cùng giận dữ. “Thực sự là anh ấy đã không muốn tôi ở đây. Anh ấy đã nói rõ như thế.”
Dường như cô chờ tôi nói điều gì đó.
“Đó hoàn toàn không phải việc của tôi,” sau cùng tôi đáp. Hai chúng tôi đứng nhìn nhau.
“Cô biết đấy, người ta chỉ có thể thật sự giúp đỡ người nào cần được giúp đỡ thôi,” cô ta nói. Rồi bỏ đi.
Tôi chờ thêm đôi phút, lắng nghe tiếng xe hơi của họ chạy xuống đường, rồi tôi đi vào nhà bếp. Tôi đứng trong đó nấu một ấm nước mặc dù tôi không muốn uống trà. Tôi lướt qua một cuốn tạp chí đã đọc rồi. Cuối cùng tôi trở lại hành lang, hự một tiếng rồi xách giỏ củi lên bưng vào phòng khách, thúc nhẹ cánh cửa trước khi bước vào để Will biết tôi đang tới.
“Tôi băn khoăn không biết anh có cần tôi làm…” tôi lên tiếng. Nhưng chẳng có ai ở đó cả.
Căn phòng trống không.
Đúng lúc đó tôi nghe tiếng đổ vỡ. Tôi vừa chạy ra đến hành lang thì nghe thấy một tiếng nữa, cùng với tiếng thủy tinh vỡ. Âm thanh phát ra từ phòng ngủ của Will. Ôi Chúa ơi, xin đừng để anh ấy tự làm tổn thương mình. Tôi hoảng hốt – lời dặn của bà Traynor như găm vào óc tôi. Tôi đã bỏ mặc anh ta trong hơn mười lăm phút rồi.
Tôi chạy ra hành lang, lao tới trước cửa phòng rồi dừng lại, cả hai tay nắm chặt vào cánh cửa. Will đang ở giữa căn phòng, ngồi thẳng trên ghế, một cây gậy đặt nằm ngang trên tay ghế, nó chĩa ra phía bên trái của anh ta chừng bốn mươi phân – một cây thương đồ chơi. Chẳng còn tấm hình nào trên cả cái giá dài; những khung ảnh đắt tiền nằm vỡ vụn khắp sàn, thảm phủ đầy những mảnh thủy tinh lấp lánh. Trên vạt áo anh ta vương đầy mảnh thủy tinh và vụn khung gỗ. Tôi nhìn khắp khung cảnh đổ nát, cảm thấy nhịp tim mình chậm lại khi biết rằng anh ta không bị thương. Will đang thở dốc như thể những việc vừa làm đã lấy đi quá nhiều sức lực.
Chiếc xe lăn xoay lại, nghiến khẽ lên thủy tinh. Mắt anh ta chạm vào mắt tôi.
Đôi mắt ấy vô cùng tuyệt vọng. Nó thách tôi dám tỏ lòng thương cảm.
Tôi nhìn xuống vạt áo của anh ta rồi nhìn khắp sàn nhà xung quanh. Tôi chỉ có thể nhìn thấy tấm hình anh chụp cùng Alicia nằm giữa những thứ rách nát khác, gương mặt cô lúc này khuất dưới một khung ảnh bằng bạc đã gãy.
Tôi nuốt khan, chằm chằm nhìn vào tấm hình rồi từ từ ngước mắt lên nhìn anh ta. Mấy giây đó là khoảng thời gian dài nhất trong đời tôi từ trước tới giờ.
“Cái này có thể bị thủng không vậy?” cuối cùng tôi hất đầu về phía chiếc xe lăn của anh ta rồi hỏi. “Bởi vì tôi không biết cái bơm bỏ ở đâu.”
Mắt anh ta mở to. Trong một thoáng, tôi nghĩ tôi đã làm mọi chuyện thêm tồi tệ. Nhưng một khóe cười rất nhẹ lướt ngang gương mặt anh ta.
“Nghe này, đừng di chuyển,” tôi nói. “Tôi sẽ đi lấy máy hút bụi.” Tôi nghe thấy tiếng cây gậy rơi xuống sàn. Khi ra khỏi phòng, tôi nghĩ có thể tôi đã nghe thấy anh ta nói xin lỗi.
Quán Kings Head đêm thứ Năm nào cũng đông nghịt, trong góc căn phòng ấm áp người còn đông hơn nữa. Tôi ngồi trét giữa Patrick và một người đàn ông có tên là Rutter, chăm chú nhìn qua nhìn lại giữa những chiếc huy hiệu gắn hình ngựa đính trên xà nhà bằng gỗ sồi phía trên đầu tôi và những tấm hình chụp lâu đài làm điểm nhấn cho những thanh rầm, cố tỏ ra lơ đãng với câu chuyện đang bàn tán quanh mình mà chủ đề chính dường như là về tỉ lệ mỡ trong cơ thể và khẩu phần ăn nhiều carbohydrate.
Bấy nay tôi luôn nghĩ rằng cuộc họp mặt hai tuần một lần của nhóm Hailsbury Triathlon Terrors chắc chắn là ác mộng khủng khiếp nhất của chủ quán. Tôi là người duy nhất uống rượu và chỉ duy nhất gói khoai tây chiên của tôi hết nhẵn nằm nhăn nhúm trên bàn. Tất cả những người khác đều uống nước khoáng hoặc kiểm tra trước tỷ lệ chất làm ngọt trong lon Diet Coke của họ. Khi rốt cuộc cũng gọi đồ ăn, salad họ gọi sẽ chẳng bao giờ có lấy một cọng rau phủ nước xốt nhiều chất béo hay thịt gà còn một mẩu để nguyên da. Tôi thường gọi khoai tây chiên, chỉ để được nhìn tất cả bọn họ giả vờ rằng họ chẳng muốn ăn tẹo nào.
“Phil chạy kịch được cỡ bốn mươi dặm. Anh ta bảo khi đó anh ta thấy đầu óc ong ong. Chân nặng như chì. Mặt mũi như người cõi âm, các cậu hiểu không?”
“Tôi thì sắm mấy đôi giày Nhật. Giảm được mười lăm phút trên chặng chạy mười dặm đấy nhé.”
“Đừng mang túi đựng xe đạp loại mềm nhé. Nigel mang nó theo khi tham gia hội trại ba môn phối hợp, trông như một cái mắc áo dở hơi ấy.”
Tôi không thể nói là tôi thích những vụ hội họp của nhóm Triathlon Terrors, nhưng với những giờ làm thêm của tôi và thời gian biểu tập luyện của Patrick thì đó là một trong số những lúc hiếm hoi tôi có thể chắc chắn gặp được anh. Anh ngồi bên cạnh tôi, mặc quần soóc đến bắp đùi mặc cho thời tiết bên ngoài cực rét. Mặc ít quần áo hết mức là một biểu trưng cho niềm tự hào của các thành viên trong câu lạc bộ này. Đám đàn ông trông rất rắn chắc, mặc những bộ đồ thể thao tối màu đắt tiền khoe cơ thể siêu chuẩn và trọng lượng nhẹ hơn cả không khí. Họ gọi nhau là Scud hoặc Trig(1) và cong các bắp cơ nhằm khoe ra những vết trầy xước và những chỗ thịt đang lên da non. Các cô gái không trang điểm, ai nấy có làn da hồng hào của những người chẳng sợ gì việc đi bộ hàng dặm dài giữa trời băng tuyết. Họ nhìn tôi hơi khó chịu – hoặc thậm chí có thể là không hiểu nổi – chắc chắn họ đang tính tỉ lệ mỡ so với cơ thịt của tôi và nhận ra nó không đạt tiêu chuẩn.
“Thật là khủng khiếp,” tôi nói với Patrick rồi băn khoăn tự hỏi liệu mình có thể gọi món bánh kem mà không bị tất cả bọn họ ném cho những cái nhìn sét đánh không. “Người yêu và bạn thân nhất của anh ta.”
“Em chẳng trách cô ấy được,” anh nói. “Không phải thật lòng em đang muốn nói em sẽ ở bên cạnh anh nếu anh bị liệt từ cổ xuống đấy chứ?”
“Dĩ nhiên là em sẽ ở bên anh rồi.”
“Không, em sẽ không làm thế đâu. Và anh cũng không chờ đợi em làm như vậy.”
“Có đấy, em sẽ ở bên anh thật.”
“Nhưng anh sẽ không muốn em ở đó. Anh sẽ chẳng muốn ai ở bên mình chỉ vì lòng thương hại.”
“Ai nói đó là lòng thương hại? Trong tâm hồn anh vẫn là con người cũ thôi mà.”
“Không đâu. Anh sẽ chẳng còn gì giống con người cũ.” Anh nhăn mũi. “Anh sẽ không muốn sống nữa. Dựa dẫm vào những người khác từng giây từng phút. Để những người lạ chùi đít cho…”
Một anh chàng trọc lóc ngó đầu vào giữa hai chúng tôi. “Pat,” anh ta nói, “cậu đã uống thử loại nước ép mới đó chưa? Tuần trước có một lon nước tăng lực trong ba-lô của tớ. Chưa từng thấy cái gì như vậy.”
“Tớ chưa uống, Trig. Mỗi ngày cho tớ một trái chuối và một chai Lucozade là được rồi.”
“Dazzer đã uống một lon Diet Coke khi đang lướt trực thăng Norseman. Nôn sạch khi lên đến độ cao một ngàn mét. Chúa ơi, bọn tớ cười đau cả bụng.”
Tôi nở một nụ cười yếu ớt.
Cái đầu trọc biến mất và Patrick quay lại nhìn tôi, rõ ràng vẫn đang băn khoăn về số phận của Will. “Chúa ơi. Hãy nghĩ đến tất cả những thứ mình không thể làm được…” Anh lắc đầu. “Không thể chạy, không đạp xe đạp được nữa.” Anh nhìn tôi như thể điều đó vừa xảy ra với anh. “Không thể làm tình được nữa.”
“Dĩ nhiên là người ta có thể làm tình chứ. Chỉ có điều là người phụ nữ phải nằm trên.”
“Rồi sau đó chúng ta sẽ nhèo một đống.” “Nực cười.”
“Rồi nữa, nếu bị liệt từ cổ xuống thì anh đoán nhé cái… ừm… cái xe lăn không thể hoạt động được như ý muốn đâu.”
Tôi nghĩ đến Alicia. Tôi đã cố gắng, cô nói. Tôi thật sự đã cố gắng. Trong nhiều tháng.
“Em chắc nó có thể hoạt động ổn thỏa với một số người chứ. Dù sao vẫn phải có một cách nào đó cho những chuyện này chứ nếu như anh… tưởng tượng.”
“Haha.” Patrick uống một ngụm nước. “Ngày mai em sẽ phải hỏi anh ta thôi. Xem nào, em bảo là anh ta rất kinh khủng. Biết đâu anh ta đã rất kinh khủng từ trước khi bị tai nạn rồi. Biết đâu đó mới là lý do thực sự vì sao cô ấy rời bỏ anh ta thì sao. Em đã bao giờ nghĩ thế chưa?”
“Em không biết nữa…” Tôi nghĩ về những tấm hình. “Trông họ có vẻ như đã là một đôi rất hạnh phúc.” Nhưng mà, một tấm hình thì chứng minh được điều gì chứ? Tôi có một khung ảnh đặt ở nhà, trong bức hình tôi đang cười tươi roi rói với Patrick như thể anh vừa lôi tôi ra khỏi một tòa nhà cháy dở, vậy mà trong thực tế lúc đó tôi vừa mới gọi anh là “gã thúi” còn anh hét trả, “Ôi, khốn kiếp!”
Patrick không còn hứng thú nữa. “Này, Jim… Jim, cậu đã xem qua loại xe đạp siêu nhẹ mới chưa? Thấy ngon không?”
Tôi để anh chuyển chủ đề, rồi ngồi nghĩ về những điều Alicia đã nói. Tôi có thể tưởng tượng ra rõ ràng chuyện Will đẩy cô ấy ra xa. Nhưng chẳng phải khi yêu ai đó thì nhiệm vụ của chúng ta là phải gắn bó với họ sao? Để giúp họ vượt qua đau khổ? Khi đau ốm cũng như khi khỏe mạnh, đại loại thế?
“Em uống thêm gì không?”
“Vodka tonic. Loại tonic giảm béo ấy,” tôi nói khi anh nhướng lông mày lên nhìn.
Patrick nhún vai rồi đi về phía quầy bar.
Tôi bắt đầu cảm thấy hơi có lỗi về cách chúng tôi bàn luận về ông chủ của tôi. Nhất là khi tôi nhận ra rằng có lẽ anh ta luôn phải chịu đựng điều đó. Hầu như không thể nào không suy luận về các khía cạnh riêng tư trong cuộc sống của anh ta. Tôi dừng lại. Đang có cuộc nói chuyện về một khóa tập luyện cuối tuần ở Tây Ban Nha. Tôi chỉ nghe câu được câu chăng, cho đến khi Patrick xuất hiện trở lại bên cạnh tôi và huých vào khuỷu tay tôi.
“Thích nó không?” “Cái gì cơ?”
“Cuối tuần ở Tây Ban Nha. Thay cho kỳ nghỉ ở Hy Lạp. Em có thể nằm nghỉ bên hồ bơi nếu em không khoái vụ đạp xe bốn mươi dặm. Chúng ta có thể đặt vé máy bay giá rẻ. Đặt trước sáu tuần. Bây giờ mình đang bàn về chuyện đó…”
Tôi nghĩ đến bà Traynor. “Em không biết nữa… Em không chắc họ có đồng tình cho em nghỉ phép quá sớm như vậy không.”
“Thế em thấy sao nếu anh đi? Anh thật sự rất thích tham dự các cuộc tập luyện ở những vùng cao so với mặt nước biển. Anh đang nghĩ đến việc làm một vụ lớn đây.”
“Vụ lớn thế nào cơ?”
“Một cuộc thi thể thao ba môn kết hợp. Xtreme Viking. Sáu mươi dặm đạp xe, ba mươi dặm đi bộ và bơi một đoạn thật dài trên vùng biển Bắc Âu có nhiệt độ âm.”
Người ta luôn nói tới người Viking bằng giọng sùng kính, những người đã nỗ lực chịu đựng thương tích giống như những tay lính kỳ cựu của một cuộc chiến tranh đặc biệt tàn khốc nào đó thuở xưa. Anh chép môi chờ đợi. Tôi nhìn bạn trai và băn khoăn tự hỏi phải chăng thật tình anh là người ngoài hành tinh. Tôi thoáng nghĩ rằng tôi thích anh hơn khi anh còn là người bán hàng qua điện thoại và không thể đi qua một trạm bán xăng mà không mua cất dành mấy thanh sô-cô-la Mars.
“Anh sẽ tham gia thật đấy hả?”
“Sao không chứ? Anh chưa bao giờ khỏe mạnh hơn giờ.”
Tôi suy nghĩ về tất cả những cuộc tập luyện đặc biệt đó – những câu chuyện không bao giờ dứt về cân nặng và độ dài đường đua, sự cân đối và sức dẻo dai. Giờ đây thật quá khó để có được sự quan tâm của Patrick dù với bất cứ chuyện gì.
“Em có thể tham gia cùng anh mà,” anh nói mặc dù cả hai chúng tôi đều biết rằng anh không tin như vậy.
“Em sẽ để mặc anh với trò ấy thôi,” tôi nói. “Đúng thế đấy. Anh cứ tham gia đi.” Tôi nói. Rồi sau đó tôi gọi bánh kem.
Nếu tôi nghĩ những sự kiện xảy ra ngày hôm qua có thể làm tan băng giá tại dinh thự Granta thì tôi đã nhầm.
Tôi chào Will với một nụ cười tươi rói và tiếng chào vui vẻ còn anh ta thậm chí chẳng buồn rời mắt khỏi khung cửa sổ.
“Không phải là một ngày tốt lành rồi,” Nathan lẩm bẩm, khi ông choàng chiếc áo khoác lên vai.
Đó là một buổi sáng u ám, trời đầy mây đen tối sầm, mưa tạt không ngừng vào những khung cửa sổ và thật khó tưởng tượng mặt trời còn có thể ló ra được nữa.
Đến cả tôi cũng thấy buồn bã trong một ngày như thế này. Chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi Will cảm thấy tồi tệ hơn. Tôi bắt đầu công việc với những việc lặt vặt vào buổi sáng, nhắc nhở bản thân từng giây phút rằng đó chẳng phải vấn đề gì đáng kể. Dù sao ta đâu cần phải thích ông chủ, đúng không? Rất rất nhiều người không thích ông chủ của họ. Tôi nghĩ đến bà chủ của Treena, một phụ nữ ly dị nhiều lần có khuôn mặt cứng đờ, bà ta luôn theo dõi xem em gái tôi vào nhà vệ sinh bao nhiêu lần và luôn đưa ra những lời bình luận gai góc khi thấy bọng đái của nó hoạt động quá số lần thông thường. Hơn nữa, tôi đã làm việc ở đây được hai tuần. Điều đó có nghĩa chỉ còn năm tháng mười ba ngày làm việc nữa là được ra đi.
Những tấm hình vẫn nằm gọn gàng trong ngăn cuối của tủ ngăn kéo, nơi ngày hôm qua tôi đã đặt chúng, lúc này đây tôi cúi xuống sàn nhà bắt đầu lôi chúng ra để phân loại, nhận định xem những chiếc khung nào còn sửa được. Tôi sửa đồ khá giỏi. Ngoài ra, tôi nghĩ đó có thể là một cách hữu ích để giết thời gian.
Tôi loay hoay với việc này được mươi phút thì tiếng rì rì khe khẽ của chiếc xe lăn gắn động cơ báo cho tôi biết sự có mặt của Will.
Anh ta ngồi đó ngay cửa ra vào, nhìn thẳng vào tôi. Mắt anh ta thâm quầng. Thỉnh thoảng Nathan vẫn nói với tôi anh ta hầu như không ngủ được. Tôi không muốn nghĩ xem cảm giác đó sẽ như thế nào, nằm bẹp trên giường không dậy được cùng với những ý nghĩ tăm tối triền miên trong não suốt mấy giờ đồng hồ.
“Tôi nghĩ tôi nên xem coi có sửa được cái khung nào không,” tôi nói, giơ một cái khung lên. Trong khung là bức ảnh chụp anh ta đang thực hiện một cú nhảy bungee. Tôi cố tỏ ra vui tươi. Anh ấy cần một ai đó lạc quan, một ai đó vui vẻ.
“Tại sao?”
Tôi chớp mắt. “À… tôi nghĩ vài cái khung vẫn còn sửa được. Tôi mang theo keo dán gỗ đây rồi, nếu anh vui lòng để tôi thử dán chúng. Hoặc nếu anh muốn thay mới, giờ nghỉ trưa tôi có thể vào thị trấn để tìm mua vài chiếc. Hoặc hai chúng ta cùng đi, nếu anh muốn đi ra ngoài một chút…”
“Ai mượn cô sửa khung ảnh cơ chứ?” Anh ta nhìn chòng chọc không chớp mắt.
Ôi ôi, tôi nghĩ. “Tôi… tôi chỉ muốn giúp thôi.”
“Cô muốn sửa chữa lại những gì tôi đã làm ngày hôm qua.” “Tôi…”
“Cô có hiểu cái gì không, Louisa? Sẽ tốt hơn – dù chỉ một lần duy nhất thôi – nếu có ai đó quan tâm đến điều tôi muốn. Việc tôi đập tan đống ảnh đó không phải là một tai nạn. Đó chẳng phải là một nỗ lực thay đổi thiết kế nội thất theo hướng hiện đại. Đó là bởi vì tôi thật sự không muốn nhìn thấy chúng.”
Tôi đứng dậy. “Tôi xin lỗi. Tôi không nghĩ là…”
“Cô nghĩ là cô biết hết mọi điều. Tất cả mọi người đều nghĩ họ biết tôi cần gì. Hãy để những tấm hình phải gió này vào chỗ cũ. Cho gã tàn phế đáng thương kia cái gì đó để ngắm. Tôi không muốn những tấm hình chết tiệt đó chĩa vào tôi bất cứ khi nào tôi bẹp gí trên giường cho đến khi nào một kẻ chết tiệt nào đó đến lôi tôi ra khỏi giường. Được chứ? Cô có nghĩ là cái đầu cô hiểu được chuyện đó không?”
Tôi nuốt khan. “Tôi sẽ không lắp những tấm hình có Alicia – tôi không ngốc đến vậy… tôi chỉ nghĩ là trong một chốc anh có thể cảm thấy…”
“Ôi Chúa ơi…” Anh ta quay đi, giọng điệu rất gay gắt. “Tha cho tôi những liệu pháp tâm lý đó đi. Hãy đi đọc mấy quyển tạp chí nhảm nhí chết tiệt hoặc làm bất cứ việc gì những khi cô không phải pha trà.”
Hai má tôi đỏ chín. Tôi nhìn anh ta di chuyển trong hành lang chật hẹp, tiếng nói của tôi phát ra trước khi tôi kịp hiểu tôi đang làm gì.
“Anh không cần phải cư xử khốn kiếp như vậy đâu.” Từng từ vang lên trong không gian im ắng.
Chiếc xe lăn dừng lại. Một khoảng tĩnh lặng kéo dài rồi sau đó anh ta đảo xe và từ từ quay lại, nhìn thẳng vào tôi, bàn tay anh ta đặt trên chiếc cần điều khiển nhỏ.
“Gì cơ?”
Tôi nhìn anh ta, tim đập thình thịch. “Những người bạn của anh đã bị anh coi không ra gì. Rồi. Có lẽ họ đáng bị đối xử như vậy. Nhưng tôi đến đây ngày này qua ngày khác chỉ để cố gắng làm tốt nhất những việc tôi có thể. Vì thế tôi thật sự sẽ đánh giá cao nếu anh không khiến cuộc sống của tôi đáng chán giống như anh hành động với cuộc sống của tất cả những người khác.”
Hai mắt Will mở to. Anh ta ngập ngừng một chút rồi cất tiếng. “Thế nếu tôi nói với cô tôi không muốn cô ở đây thì sao?”
“Tôi không làm việc cho anh. Tôi làm việc cho mẹ anh. Và trừ phi bà ấy bảo với tôi là bà ấy không cần tôi ở đây nữa chứ không thì tôi vẫn sẽ làm việc. Không phải bởi vì tôi đặc biệt quan tâm tới anh hay yêu thích cái công việc ngớ ngẩn này hay muốn thay đổi cuộc đời anh theo cách này hay cách khác, mà là bởi vì tôi cần tiền. Được chứ? Tôi thật sự rất cần tiền.”
Vẻ mặt Will Traynor bề ngoài không thay đổi nhiều nhưng tôi nghĩ tôi đã nhìn thấy một thoáng ngạc nhiên như thể anh ta không quen với việc bị người ta bật lại.
Quỷ tha ma bắt, tôi nghĩ, khi hiện thực về những điều tôi vừa làm bắt đầu hiển hiện. Lần này mình làm hỏng bét mọi chuyện rồi.
Nhưng Will chỉ nhìn tôi chằm chằm trong giây lát, rồi khi tôi chưa quay đi, anh ta thở ra khe khẽ như đang muốn nói một điều gì buồn bã.
“Hiểu rồi,” anh ta nói rồi quay xe đi. “Cô cứ bỏ tất cả vào ngăn cuối tủ kéo, được chứ? Tất cả.”
Rồi cùng với tiếng xe lăn rì rì, anh ta biến mất. Chú thích:
(1) Tên của hai loại tên lửa.