Tình yêu trở lại

Chương 42


Bạn đang đọc Tình yêu trở lại – Chương 42

Chương 42Tác giả: Madge SwindellsM ưa như trút nước, khuấy tung mặt đất lên thành một vũng bùn. Simon đang đứng trên miệng một cái hố rộng mà anh đã đào trong suốt mấy ngày qua cùng với sự trợ giúp của năm công nhân khác nữa. Anh đưa mắt buồn rầu nhìn quanh quất. Trời đã không mưa từ mấy tháng nay rồi, vậy tại sao lại không thể chờ thêm một tuần nữa cho tới khi miệng hố rắn chắc trở lại? 
Ngay lúc này đây bờ đất đang trượt lại xuống dưới hố; họ sẽ phải bắt đầu lại từ đầu khi nào mưa ngớt. Số phận của anh là vậy – một cuộc vật lộn bất tận với thiên nhiên, nhưng Chúa biết, họ cần mưa tới mức nào. 
Anh cúi xuống vốc lên một nắm đất và chà xát giữa những ngón tay. Nếu như mưa như bình thường thì đó chỉ là đất màu nhưng hôm nay lại có lẫn cả đá sỏi nữa. Lớp đất tơi lọt qua kẽ tay anh rơi xuống, để lại trên lòng bàn tay ba viên đá, nước mưa bắn vào tung tóe. 
Simon đã chuẩn bị ném chúng đi khi ánh mắt của anh bất chợt vấp phải một trong số đó. Trông nó hệt như một mảnh thủy tinh xù xì to cỡ bằng hạt đậu. Kim cương? Không thể như vậy được! Anh chưa bao giờ nghe nói có kim cương ở Namaqualand cả, mặc dầu vậy đây đúng là kim cương rồi. Anh biết chắc điều đó mà. Anh đăm chiêu đặt nó vào túi áo và liếc ra xung quanh xem có ai để ý. 
Anh đuổi tất cả đám công nhân về lán trại, nói rằng sẽ chẳng có việc gì làm cho tới khi mưa tạnh, rồi đi tới cửa hàng gần nhất để mua một cái sàng lớn. 
– Thăm dò à? – Viên quản lý pha trò. 
– Không, để xây dựng ấy mà. – Anh đáp. 
Khi trở về anh thấy rất bối rối. Liệu mình có nên gọi những công nhân kia tới không nhỉ? Công việc sàng đất dưới hố sẽ nhanh hơn rất nhiều, nhưng chắc chắn họ sẽ đưa chuyện. Cuối cùng anh quyết định sẽ làm việc một mình và ở lại dưới trời mưa suốt cả ngày, sàng đất, kiểm tra, xem xét, trong lòng nửa mừng nửa lo rằng đó chỉ là viên kim cương duy nhất. Nhưng cho tới cuối ngày thì anh đã có năm viên cả thảy và một trong số đó to bằng móng tay cái của anh. 
Anh lái xe về nhà, ướt sũng, kiệt quệ. 
Đã năm năm kể từ khi Simon chuyển tới sống ở Namaqualand. Trong thời gian đó càng ngày anh lại càng thấy yêu mảnh đất này; nó là một nơi tàn nhẫn khắc nghiệt, nơi con người phải đem hết tài trí và lòng dũng cảm ra đọ sức với những thế lực siêu phàm. Đây cũng chính là mảnh đất mà ở đó Simon có thể hàn gắn lại được những vết thương lòng, lấy lại được niềm kiêu hãnh sau vụ để mất Modderfontein và xóa đi mặc cảm tội lỗi về cái chết của Otto. 
Phải mất tới vài tháng để anh biết được điều đó, tin tức đến quá chậm trên một tờ báo gói một món đồ nông cụ mà anh đã đặt mua ở Cape. Anh lái xe suốt đêm hôm đó để tới Cape Town, gặp gỡ với những người chủ mới của doanh nghiệp trục vớt, thăm mộ Otto và cuối cùng là lái xe về Fonlainebleu mà lòng chẳng thấy phấn khởi tẹo nào. Hai đứa trẻ sinh đôi mừng quýnh lên khi gặp cha của chúng. 
Sau đó, anh gọi điện đi khắp nơi hỏi tin tức về Edwina nhưng vô ích cho tới khi Acker bất chợt đi vào phòng và nghe được, bèn nói: 
– Nhưng mà, Chúa ơi, may quá cha à, cô Edwina bây giờ đang dạy học ở trường con đấy. Họ đang sống trong một ngôi nhà nhỏ mà mẹ đã mua được từ dinh thự nhà Joubert ở phía sau khu chuồng ngựa. 
– Mẹ con đã mua nhà cho họ à? – Simon kinh ngạc. 
Khi anh hỏi lại Anna thì cô chỉ cười và nói: 
– Đó là điều duy nhất em có thể làm được khi anh vắng mặt mà, anh thân yêu. 
Simon gọi điện cho Edwina sau giờ cô lên lớp, nhưng cô bảo anh hãy tránh xa cô ra và đặt điện thoại xuống trước khi anh kịp hỏi han điều gì. Anh trút một hơi thở dài nhẹ nhõm và đưa hai đứa trẻ đi chơi. 
Kể từ ngày hôm đó anh làm việc cả ngày lẫn đêm để gây dựng trang trại với hy vọng sẽ thu được một nửa lợi nhuận từ phần mà ông André đã hứa chia cho anh để anh bắt đầu lại với một trang trại nào đó ở Malmesbury. Ít nhất một lần trong đời anh có được một tiền đồ tươi sáng. Anh thở dài. 
Mấy ngày kế tiếp. Simon sàng sẩy đất đá một mình ở dưới mưa cho tới khi anh bị một trận cúm đánh gục, và anh đã có hơn hai chục viên kim cương trong túi. Đó có vẻ như một mỏ quặng đặc biệt dồi dào. Anh định bụng sẽ kiểm tra xem gia đình nhà van Achtenburgh có quyền khai thác hay không trước khi tin tức bị rò rỉ ra ngoài. Rồi anh sẽ đưa túi kim cương này cho Anna và để mặc cô ấy xoay xở với công việc mà theo anh là chán ngắt: tìm thị trường cho chúng. 

* * 
Tháng Hai là thời gian mà Anna yêu thích nhất trong năm, vì từ lúc này trở đi những giàn nho sẽ lúc lỉu những chùm trĩu nặng, bóng loáng và bầu không khí vui nhộn sẽ bao trùm lên khắp trang trại Fontainebleu, lan tới lất cả mọi người. Những người trong gia đình, những người làm công và cả những người nấu bếp sẽ chạy đi chạy lại táo tác như phát khùng. Có quá nhiều việc phải làm. Hàng ngày, từng toán nông dân da đen, những người lang thang và tụi học sinh trong làng sẽ đổ xô đến, đi lại như mắc cửi trên lối đi giữa những giàn nho để giúp việc thu hoạch. Kho chứa sẽ lại được mở cửa, những chùm nho giống Hanepoot và Waltham Cross ngon nhất sẽ được bọc bằng những tờ giấy mềm và xếp vào khay chờ xuất khấu sang châu Âu. Loại nho dùng để nấu rượu vang thì được chuyển tới nhà máy rượu và loại nho dành cho tiêu dùng thường ngày thì được chất lên những chiếc xe tải chở ra bán ngoài chợ.
Nhưng năm nay bầu không khí tươi vui đó có phần bị kém đi nhiều bởi tâm trạng đau buồn về cái chết của ông André. 
Anna nhốt mình cả ngày trong phòng làm việc, cố gắng tìm hiểu để nắm vững những công việc mà ông André đang tiến hành cùng với Acker. Lúc Simon đến, cô cũng đang ở đó. 
Trông anh ấy mới mệt mỏi làm sao, cô nghĩ, và có vẻ chán nản nữa. Anh mặc bộ quần áo bằng vải kaki nhàu nát bẩn thỉu. Tuy nhiên, ở tuổi ba mươi tám, anh đang ở đỉnh cao của sự sung sức. Bờ vai rộng, làn da gần như cháy đen đi vì nắng, trông anh đẹp trai hơn bao giờ hết. 
Trông thấy anh, cô giật mình và buột miệng thốt lên: 
– Ôi Chúa ơi, trông anh… – cô định nói “đẹp trai quá” nhưng rồi cố nén lại, thay vào đó cô chỉ nói “mệt mỏi quá”. – Ở nhà đã cố gắng liên hệ với anh mà không được, anh đã ở đâu vậy? 
– Bận. – Anh thoái thác. 
– Cha mất rồi, mấy mẹ con em vừa chôn cất cha ngày hôm qua. – Cô nói bằng một giọng vô cảm. 
– Trời ơi, anh xin lỗi. Lẽ ra anh phải có mặt ở nhà lúc đó. Anh thực sự xin lỗi. Anh là một thằng con không ra gì. Anh và cha đã bắt đầu không mấy dễ dàng, nhưng mọi chuyện đang tiến triển tốt mà. 
– Em biết – Cô đáp. – Cha yêu anh lắm đấy. Cha đã nói như vậy với em trước khi mất. – Cô quay mặt đi, mắt chớp chớp, nhìn chăm chú qua ô cửa sổ ra ngoài quang cảnh thu hoạch nho bên ngoài. 
– Chúng ta đã có một mùa thu hoạch đặc biệt tốt – Cô nói tiếp – Cả lúa mì và nho. Công việc của anh thế nào? 
Anh đặt chiếc túi lên bàn. 
– Cái này là của em – Anh không trả lời thẳng vào câu hỏi của cô. 
– Một món quà à? – Mặt cô sáng bừng lên. 
– Không. 
– Ồ! – Cô cắn chặt môi lại. 
– Nói đúng ra nó là của em, từ trang trại. 
Cô vẫn nhìn chằm chằm vào chiếc túi. 
– Nào, em mở ra đi. – Anh nôn nóng. 

Cô mở túi ra và thấy trong đó đầy đá. 
– Kim cương thô à? – Cô phân vân. – Anh bảo nó từ Luembe à? 
– Đúng vậy. 
Cô tãi những viên đá ra bàn và lướt ngón tay trên đó. 
– Năm mươi viên. Em không thể tin nổi. Anh nhìn viên này này. – Cô cầm viên lớn nhất lên, viên kim cương mà anh đã tìm thấy trong ngày thứ năm. – Viên này mới to làm sao. Em thậm chí còn không biết là mình có quyền được khai thác hay không nữa. 
– Em có, hay ít nhất là André có. Anh đã kiểm tra rồi. Đó là nguyên nhân vì sao anh vắng mặt hai ngày qua. 
Đột nhiên cô kêu lên và ôm choàng lấy Simon: 
– Giàu rồi, giàu rồi, chúng ta giàu rồi! 
Anh nhẹ nhàng gỡ tay cô ra. 
– Ý em là em giàu rồi – Anh nói. – Còn anh, anh vẫn chỉ là một kẻ vô công rồi nghề mà thôi. 
Chẳng mất nhiều thời gian để tin đồn lan thổi ra khắp làng. Anna van Achtenburgh-Smit lại gặp hên một lần nữa và đã trở thành một nữ triệu phú tới mấy lần với một mỏ khai thác đá dồi dào, nơi mà người ta có thể đào lên được vô số kim cương chỉ với một cây thuổng; rằng cô đã bán quyền khai thác mỏ ấy lấy một triệu bảng; rằng đó là mỏ kim cương lớn nhất Châu Phi. Những câu chuyện đôi mách lan nhanh như những đám cháy trên thảo nguyên, cứ bị thổi phồng ra và tô vẽ thêm đến nỗi không bao lâu sau người ta chẳng còn nhớ ra nó được bắt đầu như thế nào. 
Sự thực là Anna đã có một cuộc đàm phán hết sức có lợi cho gia đình cô. Cô đã cho thuê khu mỏ với giá là mười phần trăm doanh thu, nhưng sự vui mừng của cô tắt ngấm khi giữa cô và Simon lại nổ ra một cuộc tranh cãi còn gay gắt hơn tất cả những lần trước cộng lại. Anna năn nỉ Simon nhận một nửa lợi tức từ trang trại kim cương đó theo như các điều khoản của hợp đồng, nhưng Simon lại khăng khăng từ chối vì cho rằng hợp đồng đó chỉ đề cập đến cừu karakul chứ không phải kim cương. Anna có cảm giác như Simon cứ hằn học phá ngang cô và cố tình làm cho cô phải đau khổ. Trong khi đó, Simon lại nặng với suy nghĩ số tiền không kiếm mà có thật là vô nghĩa. Anh muốn thành đạt theo cách của riêng mình. Cuối cùng anh chấp nhận một nửa khoản tiền thu được từ việc bán cừu, thuê một lúp lều nhỏ trong làng mở dịch vụ sửa chữa nông cụ và phương tiện đi lại. 
Anna nổi giận đùng đùng khi cô biết chuyện. Tại sao anh ấy lại làm một điều ngu xuẩn khiến cho cô và cả lũ trẻ nữa phải xấu hổ như vậy thế nhỉ? Cô thì ở đây trong một ngôi nhà rộng lớn và trống trải còn Simon lại sống trong một túp lều đi thuê ở vùng ngoại ô. Cuộc cãi vã của họ lâu và gay gắt hơn bao giờ hết. Cuối cùng Simon bảo cô hãy xéo xuống địa ngục và Anna chỉ còn biết nhìn theo chiếc xe cũ mèm rời nhà đi vào làng. 
Kể từ lúc đó trở đi cô phát hiện ra rằng của cải đối với cô chẳng còn chút ý nghĩa nào nữa. Cô cho lắp đặt một hệ thống điều hòa không khí và lò sưởi ở Fontainebleu, một việc mà cô còn do dự chần chừ từ nhiều năm qua. Cô xây thêm một cánh nhà nữa cho trường học của con em những người nông dân trong vùng và thuê thêm một giáo viên. Nhưng điều đó vẫn chẳng thấp tháp gì so với gia tài kếch sù của Anna. 
Anna trở thành mục tiêu quyên góp của vô số tổ chức từ thiện. Hầu như không có buổi tối nào trôi qua mà không có tiếng chuông cửa rung lên tới vài lần cho tới khi cô quyết định thuê một thư ký riêng để giải quyết những mối phiền toái khó chịu này. 
Anna không bao giờ có thể quên được cái năm đầu tiên ở Modderfontein, khi mà cô chỉ có một mình và không xu dính túi, phải chống chọi với biết bao khó khăn để tồn tại. Cho đến hôm nay, cô đã trở nên giàu có và quyền thế hơn, song lại cảm thấy bất an và cay đắng hơn trước rất nhiều. Thời gian trôi qua, vết thương lòng lại càng nhức nhối. Sâu thẳm trong lòng cô vẫn là một Anna Smit không có bạn bè mặc dầu vị thế hiện tại đã đem lại cho cô biết bao mối quan hệ. Dạo này, cô hiếm khi được ở một mình mà luôn bị quấy rầy bởi những hội từ thiện, những tổ chức quyên tiền và các trường học. Song họ càng cố làm thân với cô bao nhiêu thì lại càng bị cô xa lánh bấy nhiêu vì đối với Anna mọi cánh tay chìa ra đều là những cánh tay xin xỏ chứ không phải cánh tay bè bạn. Chẳng chóng thì chầy rồi cô cũng nhận ra được họ cần gì ở cô. Cô bắt đầu trở nên hoài nghi hơn, cô hoài nghi ngay chính bản thân mình. Suy cho cùng thì cô là ai? Anna Smit tội nghiệp. Sự giàu có của cô đã trở thành một rào cản và cô đã nổi tiếng khắp vùng là một người đàn bà cay nghiệt vì Anna đã học được cách sử dụng uy thế của mình như một thứ vũ khí đối với tất cả mọi người. 
Đối với Kurt, Anna là một nỗi thất vọng lớn. Tình bạn thân thiết của họ khi xưa cứ mất dần. Từ hôm thất bại trong việc thuyết phục Anna lấy mình, Kurt bây giờ đã nhận ra rằng Anna là một con người tự phụ, bảo thủ và khoe mẽ. 
Năm 1956, Kurt đã bước sang tuổi bốn mươi tám, cái tuổi mà con người ta phải quét hết mọi ảo tưởng khỏi đầu óc mình. Paul đã mười tám tuổi, đang học ở nước ngoài. Kurt chỉ còn lại có một mình. Anh quyết định sẽ lấy vợ, nhưng lấy ai? Anh buộc phải công nhận rằng mình đã trở nên già cỗi và khó thay đổi. Nhà của anh bây giờ giống hệt một viện bảo tàng, chứa đầy những bộ sưu tập tranh, tượng và thảm vô giá trị. Anh căm ghét cái ý nghĩ rằng có một người đàn bà xa lạ nào đó sẽ đến đây thay đổi mọi thứ, trưng bày chó mèo, cây cảnh khắp nhà cùng với biết bao đồ tế nhuyễn khác nữa. 
Suy nghĩ của anh hướng về Vera Mankowitz, cô gia sư trước kia của Paul. Cô ta giờ đã ba mươi mốt tuổi nhưng vẫn là một bà cô không chồng – một bà cô tròn trĩnh, luôn mỉm cười và bị ám ảnh bởi những cuốn sách. Cô ta đòi hỏi ở cuộc đời rất ít nhưng cũng chẳng làm được gì nhiều cho cuộc đời. Cô ta sống trong nhà anh nhiều năm rồi nhưng không bao giờ làm phiền đến ai, không bao giờ có ý định giảm cân và cũng chẳng buồn quan tâm nhiều tới ngoại hình của mình. 

Anh từ bỏ việc theo đuổi Anna và lấy Vera. 
Bây giờ Anna chỉ còn lại một mình. Mặc dầu đã bước sang tuổi ba mươi bảy, cô vẫn còn là một phụ nữ gây ấn tượng mạnh. Khuôn mặt hầu như không có một nếp nhăn nào cả, mái tóc vẫn đen nhánh chưa một sợi bạc. Trông cô chỉ như mới ngoài ba mươi, nhưng có một vẻ gì đó rất lạnh lùng bao quanh người cô, làm cho vẻ đẹp của cô giảm đi rất nhiều. Chỉ khi ở với lũ trẻ thì cô mới là một phụ nữ đáng yêu và đầy cảm xúc. Cô yêu chúng tới độ mù quáng, bên chúng cô mới thấy một niềm vui rộn lên trong lòng. Cô chiều chuộng hai đứa trẻ, đặc biệt là con gái. Cô còn có thể làm gì được hơn với tất cả số của cải mà cô đang có nào? 
Chỉ duy nhất có một người là biết cách sử dụng tối đa sự giàu có của gia đình. Đó chính là Katie, vì càng lớn cô bé càng tỏ ra yêu thích của cải. Cô khoe của như gà trống khoe đuôi, không bao giờ mặc một bộ quần áo nào tới lần thứ hai, và cứ sáu tháng lại đổi xe ô tô, đổi luôn cả người lái. Cô tổ chức những buổi dạ tiệc linh đình và vùi mình vào những cuộc chè chén ngông cuồng. Nhiều lời đàm tiếu về những trò chơi trội của cô bắt đầu lan truyền và đó thường là những lời đàm tiếu hết sức bất lợi đối với thanh thế của cô. 
Tuy nhiên, mẹ và con gái lại là đôi bạn không rời nhau nửa bước. Trong khi Acker tỏ ra phớt lạnh với cả gia tài kếch sù đó lẫn những kỳ vọng mà Anna đặt vào cậu thì Katie lại luôn đeo bám lấy mẹ. Hai mẹ con cùng nhau đoạt giải trong các cuộc đua ngựa, cùng nhau lập kế hoạch giải trí và mua sắm, cùng tham gia vào các buổi khiêu vũ. Katie trở thành cô gái ăn diện nhất vùng. Cô bé cũng rất xinh đẹp. thông minh, hoạt bát nhưng cũng hết sức kiêu căng ngạo mạn và hư hỏng tới độ không thể uốn nắn lại được. Cô thích mình là trung tâm của mọi sự chú ý; trong các buổi dạ tiệc, hội họp, cô luôn được yêu cầu đứng lên hát, và nếu mẹ cô cũng có mặt ở đó thì cô sẽ thuyết phục mẹ lên đệm đàn. Anna không thích trình diễn trước đông người nhưng cũng chiều theo ý Katie. Chẳng bao lâu sau hai mẹ con họ luôn được mọi người mời mọc. Họ trở thành niềm ganh tỵ của tất cả phụ nữ trong thị trấn, đặc biệt là Edwina, cô không khỏi ghen ghét khi so sánh tương lai của Katie với tương lai của hai cô con gái nhà mình. Nhìn thấy Katie đoạt giải trong các cuộc thi tiếng Anh, dẫn đầu trong các hoạt động của trường, thậm chí còn trình diễn các bản nhạc giao hưởng trong tòa Thị chính, cô không khỏi chạnh lòng. Thật không thể chịu nổi! Katie nhanh nhảu, thông minh, xinh đẹp và được trau dồi kỹ lưỡng về nhạc lý. Con bé cũng là một kẻ hợm mình thái quá, nó khinh người tới độ không bao giờ thèm bắt chuyện với Edwina và Margaret. Katie làm lu mờ tất cả đám con gái trong vùng và nếu so sánh Margaret với nó thì cũng chỉ thấy hết sức lố bịch bởi vì Margaret rụt rè nhút nhát, lại quá tròn trĩnh so với tuổi của nó và có một mái tóc vàng hoe lúc nào cũng rối bù. Con gái cô thường gặp khó khăn trong giao tiếp và mọi cảm xúc luôn bị che giấu của nó chỉ dành cho đám súc vật mà nó yêu như điên như dại. 

* * 
Margaret đang có hai điều bất hạnh lớn. Điều đầu tiên là cô bé phát hiện ra mình không thích mẹ. Đành rằng cô rất yêu bà bởi vì bà là mẹ đẻ của cô, nhưng còn thích – đó lại là chuyện khác. 
Edwina vẫn không thể nào thích nghi được với vùng đất Nam Phi này. Cô học thổ ngữ đủ để giao tiếp được với mọi người nhưng lại cố tình nói ấp úng để sau cùng người ta đề nghị chuyển sang nói tiếng Anh với cô. Mặc dầu Edwina nói tiếng Pháp và Đức hết sức trôi chảy nhưng cô lại gặp vấn đề với việc học tiếng và học cách sống của người Nam Phi. Cô cho rằng với nguồn gốc Anh của mình, cô vẫn ưu việt hơn tất cả những người khác sống trên mảnh đất này. Họ giàu có, nhưng cô là người Anh; họ đi lại trên những chiếc xe hơi đắt tiền, nhưng cô vẫn là người Anh; họ ăn mặc theo mốt mới nhất, nhưng quần áo của cô vẫn là loại vải tốt, bền và được may ở Anh. Cô níu lấy nguồn gốc Anh của mình như một người bị đắm thuyền níu lấy đám băng nổi. 
Edwina giữ khoảng cách với những người phụ nữ khác nên cô không có bạn, nhưng cô lại có rất nhiều mối quen biết và đã trở thành nguồn chuyện ngồi lê đôi mách chính ở trong thị trấn. Người ta e ngại miệng lưỡi châm chọc của cô, e ngại những lời nhận xét cay độc của Edwina về những yếu điểm của người khác. 
Giờ đã là một quả phụ rồi nhưng cô tự xây bao quanh mình một thành lũy kiên cố vì cô căm ghét đàn ông và không muốn bị dính vào một vụ tai tiếng nào nữa. Nhu cầu của cô rất ít, cô chỉ chú tâm vào việc tích trữ tiền để dành, số tiền mà chỉ nhích lên được ít một theo từng năm tháng. Cô luôn miệng nói với hai con về việc “trở về nhà”. 
Khi hai cô bé gái bước vào tuổi dậy thì, Edwina bắt đầu lo lắng rằng chúng sẽ lấy chồng ở đây và làm hỏng kế hoạch ấy của cô. Do vậy, năm 1957 khi Margaret tròn mười bốn tuổi thì cô bé vẫn chỉ có hai bộ váy áo đồng phục, một đôi giày đế bằng và vài đôi tất sợi. Cô bé không bao giờ được phép bước chân ra khỏi nhà vào buổi tối, không được phép hẹn hò và cũng không bao giờ được đến một hiệu ăn hoặc đi tới rạp hát để xem trình diễn âm nhạc. Margaret không mấy quan tâm, nhưng việc bị quản thức khắt khe cũng khiến cô bé khó chịu. 
Nỗi bất hạnh thứ hai là khi Margaret phát hiện ra rằng cô cũng sẽ không thể trở thành một bác sĩ thú y được. Mỗi buổi sớm cô bé đặt ra với bản thân mình vấn đề nghề nghiệp tương lai, cô nhận thấy rằng mẹ đang nóng lòng chờ tới ngày Margaret có thể đem lương về phụ giúp mẹ. Càng học lâu bao nhiêu càng tốn kém bấy nhiêu; cô bé chỉ có thể tham gia khóa học một năm ở trường sư phạm mà thôi. Lần đầu tiên trong đời Margaret mới cảm nhận được sự cơ cực của cảnh nghèo khó và cô hiểu ra được nỗi ám ảnh để dành tiền của mẹ. Cô bé bắt đầu làm việc chăm chỉ hơn trong các khu chuồng trại, dành dụm tiền cho những giờ học cưỡi ngựa. Có thể vài năm nữa mọi việc sẽ khác, cô hy vọng như vậy. 

* * 
Katie lại có một nỗi lo kiểu khác – bởi vì khi mà con người ta từ sáng đến đêm chỉ chăm chú theo đuổi một mục đích là tìm kiếm niềm vui thì rồi sẽ đến lúc người ta cũng phải phát chán lên và mệt mỏi nữa. Những người nông dân có thể ra về, nghỉ ngơi vào lúc năm giờ chiều, còn Katie lại phải dành tất cả những giờ cô thức để chăm chút cho bản thân. Cô bắt đầu cảm thấy bất an và muốn tìm một nguồn vui mới. Cuối cùng, cô quyết định chọn một trường trung học ở Thụy Sĩ, nơi mà những tiểu thư khuê các con của những tỉ phú dầu mỏ và những ngôi sao điện ảnh ghi tên nhập học. 
Cô bé bắt đầu năn nỉ Anna đồng ý để cô đi. Cô biết rằng không phải học phí đắt đỏ là điều Anna e ngại mà chính là sự vắng mặt của cô ở nhà. Do vậy Katie chuẩn bị những lý lẽ hết sức hoàn hảo để thuyết phục mẹ và trong vòng có hai mươi tư giờ đồng hồ Anna đã đành phải ưng thuận với một vẻ hết sức rầu rĩ. 
Lúc đầu, Anna rất thất vọng vì điều đó, nhưng rồi cô lý luận rằng lũ trẻ phải được hưởng những gì tốt đẹp nhất mà liền có thể đem lại. Vả lại cũng chỉ một hoặc hai năm là cùng rồi bọn chúng sẽ lại trở về nhà. Cô quyết định thảo luận chuyện này với Acker, nên sai Flora đi gọi cậu bé tới phòng làm việc. 
Như thường lệ, trông cậu như một kẻ lang thang. Điều đó khiến Anna khó chịu. 
– Quần con bị rách rồi, – cô bực bội nói, – và nhìn áo sơ mi của con kìa, nó mới bẩn thỉu làm sao. Con không có thứ gì khả dĩ hơn để mặc hay sao? 
– Có chứ, mẹ, – cậu bé đáp kèm với một nụ cười. – Nhưng mà để làm gì đâu bởi vì hôm nay con làm việc ở trong chuồng ngựa cả ngày cơ mà. 
– Có chuyện gì à? 
– Vâng, con ngựa cái của Katie bị mệt, nhưng mọi việc sẽ ổn cả thôi. 
Đó là câu trả lời quen thuộc của cậu. 

– Nào, bây giờ con hãy ngồi xuống, – Anna nói rồi gọi to: “ Vào đi”, khi có tiếng Flora gõ nhẹ vào cửa. Flora đã già. Một ngày nào đó họ sẽ phải cho bà ta về nghỉ hưu thôi. Già Jan đang sống trong một túp lều nhỏ của trang trại, còn Jacob thì chỉ có thể đi tập tễnh quanh vườn hoặc xén tỉa đám cây ăn quả. Nơi này đã trỏ thành một trại dưỡng lão mất rồi. Cô nhìn Flora khó nhọc đặt chiếc khay xuống bàn. 
– Cà phê à mẹ? 
Acker đang vội nên muốn tìm cách thoái thác, nhưng nhìn mặt mẹ cậu đoán ra đây là một câu chuyện quan trọng, có một điều gì đó đang khiến mẹ phiền lòng. Cậu giấu giếm sự nôn nóng của mình và ngồi xuống. 
– Acker này, mẹ đã nghĩ rất nhiều về việc con cứ phí thời gian lang thang ngoài trang trại. Suy cho cùng thì con là một học sinh xuất sắc ở trường cơ mà. 
– Ôi mẹ ơi, con có lang thang đâu nào, – cậu bé lắc đầu lia lịa. – Con đang trông nom tài sản gia đình nhà mình đấy chứ, cả trang trại ở Malmesbury nữa, rồi lại còn Modderfontein, nhà máy rượu, cừu karakul… 
– Thôi được rồi, được rồi, – cô ngắt lời con trai. – Vấn đề là bất cứ một người quản lý nào cũng có thể làm được điều đó. Còn con, con cần phải ra học ở nước ngoài. 
Acker ngả người ra sau và hít một hơi thật dài. Vậy là đã đến lúc rồi. Cậu biết chuyện Katie đang thuyết phục mẹ để được sang học ở Thụy Sĩ – điều đó tốt thôi với lũ con gái, còn cậu, cậu có nhiều việc khác còn quan trọng hơn. 
– Mẹ muốn con theo học ngành kinh tế, – Anna vẫn tiếp tục nói. – Một ngày nào đó con sẽ được thừa kế trang trại này, cả mỏ kim cương, cả một nửa tập đoàn phân phối thực phẩm Southern Cross cùng với mười bốn công ty khác nữa. Sẽ là rất khó khăn nếu như con không có một nền tảng kiến thức vững vàng. 
Acker thở dài. Từ nhiều năm trước cậu đã biết rằng sẽ có một ngày giữa cậu và mẹ có cuộc nói chuyện này; những lời cậu nghĩ không hoàn toàn đúng với những lời mẹ đang nói. Không hiểu mẹ có nhận ra được vực thẳm ngăn cách giữa hai mẹ con không nhỉ? Vì trong khi mẹ có quá nhiều hoài bão và khát vọng thì cậu lại chẳng có tí khái niệm gì về những thứ đó cả. Mọi quan tâm của cậu chỉ dành cho trang trại này, và dù là nó có thuộc về cậu hay thuộc về bất cứ ai khác thì cũng chẳng màng, chừng nào mà cậu vẫn còn được gắn bó với mảnh đất nơi cậu đã lớn lên này. Nhưng làm sao có thể giải thích được điều đó với mẹ mà không làm mẹ đau lòng được nhỉ? Cuối cùng, cậu chỉ biết nói có mỗi một câu đơn giản: 
– Không, mẹ ạ, con thích được ở nhà hơn. 
– Nhưng mà Acker, – Anna cố gắng thuyết phục. – Con thử nghĩ xem. Con sẽ cộng tác với Paul trong công việc kinh doanh, mà nó thì được học hành đến nơi đến chốn. Nó đang học ở đại học Cambridge đấy. 
Acker thở dài: 
– Mẹ ơi, con ước sao mẹ con mình gần gũi nhau hơn để có thể hiểu được nhau. Nếu như mẹ biết tính con thì mẹ đã không bao giờ mong con bước vào đường kinh doanh ấy đâu. Con không quan tâm. 
Anna cắn chặt môi, vẻ phật ý. 
– Vậy thế con muốn làm gì? – Cô nôn nóng hỏi lại. 
Đặt hai bàn tay lên đầu gối, Acker buồn bã nhìn chằm chằm xuống thảm. Cậu luôn là một con người không biết đối đáp nhanh nhảu và Anna thường xuyên phải nổi nóng với cậu. Lúc này cậu đang chần chừ để tìm câu trả lời. Anna cho rằng đó chính là nguyên nhân tại sao cô lại ít muốn trò chuyện với cậu. Suốt hai năm qua cô và con trai hầu như không có cuộc trò chuyện nghiêm túc nào cả trừ những khi họ bàn luận với nhau những công việc của trang trại. 
– Ôi chao, con đã lớn lắm rồi đấy – Cô nói. 
Khổ người cậu to lớn kềnh càng, cao bằng Simon, bề ngang thậm chí còn to hơn. Trông cậu như một khối đá granit chắc nịch, hình thù gai góc, cằm và mũi chìa ra, hai bàn tay to lớn tới độ có thể nhấc bổng cá một con bò đực. 
– Acker này, con có nghĩa vụ và bổn phận với gia đình mình. Con sẽ là người trông nom gia sản này, cả em Katie và bản thân con nữa. 
Acker đứng lên, mỉm cười. Rồi cậu cúi người về phía trước, hôn nhẹ vào má mẹ. 
– Mẹ ơi, mẹ bỏ phí thời giờ mất rồi, – cậu nói và so vai lại. – Con là một người nông dân. Đó là một điều không thể thay đổi được. 
Anna biết rằng sẽ không thể làm cho cậu thay đổi ý kiến. Nó giống hệt cha nó, bướng bỉnh, kiêu hãnh và không thể nào chịu nổi!


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.