Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 174: Hồi Ba Mươi Ba Về Bến Yêu Thương A


Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 174: Hồi Ba Mươi Ba Về Bến Yêu Thương A


Thể theo lời mời của mợ Hai, Vệ Thu lại làm một chuyến “Hành trình trên đất phù sa”.

Kỳ này Trì Thương không đi, ai nấy tự nhiên cảm thấy rất thoải mái.

Còn về phần xe cộ, ông khuyên nên mướn một chiếc chín chỗ đời mới; vậy là chú Thương chọn chiếc xe hiệu Ford – Tourneo Custom Titanium.

Chú Thương lên băng trước ngồi cùng hai tài-xế, băng giữa là hai cha con họ Vệ và mợ Hai, còn băng cuối là của xấp nhỏ.
Tiếng hát của Thanh Thúy trong bài “Tay vịn Cần Thơ” của nhạc sĩ Phan Ni Tấn gợi cho Vệ Thu nỗi nhớ một thời rời nhà đi làm lơ xe.
Mợ Hai thắc mắc hỏi bác Ba:
– Sao giọng cô Thanh Thúy bữa nay lạ vậy?
– À, đây là cô Thanh Thúy “trong Nước”, không phải cô Thanh Thúy kia.
– Hèn chi mà nghe giọng cô Thúy “Hải ngoại” bữa nay không trầm.
Chú Thương góp vui:
– Nguyên quán gia đình nhạc sĩ Phan Ni Tấn ở Long An, nhưng lớn lên ở Ban Mê Thuột, vậy mà giọng văn không bị pha tiếng Bắc nhiều.

Song ca Hương Lan – Bảo Thiên đang trình bày nhạc phẩm “Chợ đêm miền Tây” của nhạc sĩ Trần Trịnh.

Băng nhạc này do chú Thương đặt mua từ một người bạn sống ở bên Hoa Kỳ để làm món quà sinh nhật cho má.
Mợ Hai bình phẩm:
– Tôi thích nghe đôi này song ca bài “Gạo chợ nước sông” của nhạc sĩ Trần Trịnh.
Chú Thương góp lời:
– Bây giờ nhiều người mến chuộng giọng hát rặt kiểu Nam Kỳ, nhưng không biết tới nam ca sĩ này.

Vậy là Vệ Thu bèn bật bản “Nhớ biển Gò Công” của nhạc sĩ Hoàng Phương với phần trình bày của nam ca sĩ ấy, nằm trong băng nhạc “Gò Công quê hương thương nhớ (Hội ái hữu Gò Công)”.

Rồi vui miệng giới thiệu:
– Nhạc sĩ Hoàng Phương là người Gò Công.
Kế, Vệ Thu đổi tông sang nhạc phẩm “Mùa Xuân trông thư em” do Chế Linh ca, một sáng tác của nhạc sĩ Viễn Chinh và nam ca sĩ này (trong bài hát trên, ông đề bút hiệu là “Tú Nhi”).

Những trăn trở và ưu tư đời lính cứ như vậy được phác họa thông qua lời bài hát rất xưa của hai người nhạc sĩ ấy.
Cuộc trò chuyện tạm ngưng vì hai người tài-xế thông báo đã tới quán mỳ Tàu.

Đáng ra mua bánh mì đem lên xe ăn, nhưng ngại hai chàng kia phải ở lại quét dọn và hút bụi cực thân nên đổi sang ăn món này.
Quán “Vĩnh Hảo mỳ gia” nằm ở ngã ba Cây Me, từ đây chạy thẳng ra hai trăm mét là tới đường Huỳnh Tịnh Của.

– “Vằn thắn”? – Vệ Thu hỏi trong lúc nghe mợ Hai kể về một quán ăn gần đây.
Chú Thương chống cằm mà cười xòa:
– Vậy chắc người bán là Bắc Kỳ.
– Đúng một nửa thôi.

Chồng Hoa, vợ Bắc.
Nguyễn Quý Sinh bình phẩm:
– Xứng đôi xứng kép quá chèn rồi.
Chú Thương kể:
– Nhắc mới nhớ, thi sĩ Hồ Dzếnh cũng mang hai dòng máu Hoa – Việt: Cha ông người Quảng Đông, còn mẹ dân Thanh Hóa.

Rất nhiều nhạc sĩ sống trong Nam đã phổ thơ của ông thành nhạc.

Tên thật của ông là Hà Triệu Anh; ban đầu ông tính đặt bút hiệu là “Hồi Dinh” theo cách phát âm tên riêng trong tiếng Quảng Đông, nhưng thấy không xuôi tai nên sửa thành “Hồ Dzếnh”.

Tính ra ông cũng là người Minh Hương vì cha ông bỏ nhà Thanh để sang Nước Việt sống.
Vệ Thu hỏi:
– Có bài nào đặc sắc không con?
– Bài “Chiều”, nhạc sĩ Dương Thiệu Tước phổ từ thơ của thi sĩ Hồ Dzếnh, thưa chú Ba.

Chắc thấy họ nói chuyện lâu quá nên chủ quán đích thân ra giới thiệu món.

Thời buổi này kiếm khách đâu có dễ.
Vậy là Vệ Thu, chú Thương, hai người tài-xế và Phan Huy Tường ăn mỳ vịt tiềm, Vệ Thương ăn mỳ xào giòn thập cẩm để nước sốt riêng, mợ Hai và Nguyễn Huy Sinh ăn canh sườn nấu nước trà kèm bánh quẩy, và Vệ Giản ăn mỳ hoành thánh với một cái bẹ dính phao câu.

Phần đông uống cà-phê, số còn lại uống những loại ngọt hơn như cà-phê sữa, nước ngọt và sâm bông cúc.
Ông chủ quán đang mở băng nhạc “Sơn Ca – Xuân 72, Xuân hạnh phúc, Xuân nhớ nhau”; đang phát tới bản “Xuân về trên non sông Việt Nam” do Đức Minh ca, một sáng tác của nhạc sĩ Văn Phụng:
“Xuân đã về, trên muôn cánh hoa tươi cười
Xuân đã về, reo vui khắp muôn nơi
Xuân đã về, ta ca hát câu yêu đời
Xuân đã về, vui tươi khắp tươi ơi
Trên cánh đồng xanh tươi lúa hoe hoe vàng
Trong xóm làng, cô thôn nữ ca vang
Nơi chiến trường, anh lính hát khúc khải hoàn…”
– Bài này nghe hao hao bài “Xuân đã về” của nhạc sĩ Minh Kỳ.

– Mợ Hai nhận xét.
Vệ Thu gật gù.

Rồi biểu:
– Năm nào Tết đến – Xuân về là thiên hạ phát bài “Ước nguyện đầu Xuân” của ổng.
– Bài này có ai ca hay không anh?
– Cô Giao Linh hát bài này trước năm 75 đúng lời gốc, còn ông Chế Linh hát bản sửa lời.
Rồi ông bổ sung:
– Ông cũng đẹp trai lắm, nhìn khôi ngô, tuấn tú không kém Anh Việt Thu, Lam Phương, Thanh Bình và Thái Ngọc Sơn.

Và hầu như bài nào ổng cũng thêm chữ “Hồng” vì đó là tên của vợ ổng, tức bà Nguyễn Thị Hồng; đây là một cách thể hiện tình yêu với bạn đời rất dễ thương của ổng.
– Ổng người ở đâu anh?
– Nhạc sĩ Hoàng Trang là dân “Bến Te”, chánh gốc Kiến Hòa.
– Anh giới thiệu cho tôi biết tên những nhạc sĩ gốc miền Nam được không?
– Anh Việt Thu, Hoàng Phương, Trần Văn Trạch và Lê Dinh dân Mỹ Tho.

Thanh Sơn và Trường Hải dân Sóc Trăng.

Tô Thanh Tùng dân Đồng Tháp.

Phan Ni Tấn dân Long An.

Trúc Phương, Mặc Thế Nhân, Đài Phương Trang và Thái Ngọc Sơn dân Sài Gòn.

Song Ngọc và Viễn Chinh dân An Giang.

Hoàng Trang và Hùng Cường dân Bến Tre.

Huỳnh Anh dân Cần Thơ.

Nguyễn Tất Nhiên, Lê Hựu Hà và Nguyễn Trung Cang dân Đồng Nai.

Lam Phương dân Kiên Giang.

Nguyễn Văn Đông nguyên quán ở Tây Ninh, nhưng sanh ra tại Sài Gòn.

Mai Châu dân Bạc Liêu.

Còn nhiều người nữa song tôi không thể nhớ hết.
Nhân viên bưng nước lên trước.

Vừa đặt ly cà-phê sữa xuống chỗ mợ Hai, mợ đã bật cười và chỉ sang người tài-xế có làn da đen như cột nhà cháy, và biểu, “Cô uống cà-phê đen, con ơi.”
Cả đoàn tiếp tục cuộc hành trình vào lúc chín giờ rưỡi.

Trước tiên họ sẽ ghé Kiên Giang để chú Thương bàn công chuyện với người bạn Tư Kiền, kế đến sẽ dừng chân ở Hậu Giang mấy bữa và sau rốt sẽ thăm Kiến Hòa.
Do đã có hẹn nên ông cố và Tư Kiền đã đứng đợi anh trước cổng nhà.

Hàng rào trà đã được thằng bạn thiết cắt tỉa gọn gàng, còn cửa cổng đã được ông cố giăng đèn kết hoa rỡ ràng.
Đầu năm đầu tháng nhưng vì biết Tư Kiền không quá tin vào sự kiêng kỵ nên chú Thương biếu tặng một cặp vịt quay Bắc Kinh, hai hộp bánh quy bơ, hai hộp chocolate cỡ lớn, mấy bịch bánh mì Sài Gòn và chục ký khô bò thượng hạng.

Nghĩa cử của anh đã làm hai ông – cháu bối rối vì không biết lấy gì đáp lễ cho tương xứng.
– À, chừng nấm tràm vô mùa, cố gởi con mấy ký ăn lấy thảo nghen?
– Dạ, vậy cho con cảm ơn cố trước nhe.

Con nghe danh đã lâu nhưng lần nào cũng hụt ăn vì lu bù công chuyện nên quên mua mất.
Cố đưa chú Thương tới tận cửa chánh.

Thấy em họ của bạn thằng Kiền và cháu trai bên mình đã đem quà biếu sắp xếp ngay ngắn trên bàn, mới an tâm về lại y quán xắt và phơi thuốc.

Độ rày trái gió trở trời, bà con bị nhức mình nhức mẩy, ớn lạnh và cảm sốt liên miên, nên thuốc mau hao lắm.
– Người này có phải em trai mày không?
Tư Kiền để bình trà xuống nghe cái “Cốp”, mặt kiếng và mặt sứ đập vô nhau nghe chói tai vô cùng.
– Giống quá…!Nhưng nếu lỡ như người trong hình không phải em tao thì sao? Tự nhiên khiến người ta nhận tội thay cho nó hả?
Chú Thương lấy tấm hình lại, bỏ vô trong ba-lô, rồi mím môi nhìn thằng bạn.
– Tao xin lỗi vì đã nổi nóng với mày…!Vô nhậu với tao và cố nghen?
Chú Thương vừa lắc đầu vừa cười xòa:
– Để dịp khác đi mày.

Sáng tao mới ăn xong tô mỳ vịt tiềm rồi, giờ no lên tới nắp họng.

Chừng nào mày lên Sài Gòn thì “hú” tao một tiếng, nếu có cố nữa càng tốt, tao dẫn đi ăn bao bụng cho no cành-hông chơi.
Lấy cớ phải về Hậu Giang để lo mồ mả ông bà và sửa soạn đón Tết, nên chú Thương nói lời cáo từ.

Tư Kiền cũng không cầm chân bạn, chú đứng dậy tiễn bạn tới cửa xe, mới quày quả đi xuống dạy võ cho các môn sinh tiếp.
“Cạch.”
– Ủa sao ra xe sớm dữ vậy con? – Vệ Thu hỏi trong lúc đang ngồi ở cái ghế của con trai mợ Hai.

Ông lật đật bước xuống để trả chỗ cho chú Thương.
– Dạ, có nhiêu đó chuyện để nói thôi bác nên con về sớm luôn.
Vừa nói dứt câu, chú Thương leo lên xe, rồi mau chóng cài lại dây đai an toàn.
Vệ Thu còn đứng dưới đất mà xoay người ngó vô trong “Kiến Nghĩa đường”.

Mai năm cánh nhuộm vàng một góc sân chưa được lót gạch phẳng phiu, hương thơm ngào ngạt tới nỗi đứng đây mà ông vẫn ngửi thấy.

Ong bướm rập rờn chung quanh chậu bông bằng đất nung, một cảnh sắc hữu tình và dung dị mà đã lâu ông mới được thấy lại.

Chỗ ở của ông cùng các con bên Mỹ y hệt một tư dinh nhỏ, trên mảnh đất đó có luôn vườn thượng uyển, trường đua ngựa và nông trại, nhưng cảnh sắc chẳng khác nào được thảo trình sẵn trên máy móc nên thiếu hẳn nét tự nhiên như vầy.
– Anh Ba…!
– Ờ, tôi nghe rồi chị Hai.
Vệ Thu hối hả trở lên xe.

Rồi vừa ngồi lại ghế vừa rối rít xin lỗi mọi người.
– Khuôn bông mai đã bị thất truyền từ lâu rồi.

– Hả?
Mợ Hai cười mỉm và kể cho anh Ba hay:
– Có lên mạng tra Google nát tay cũng không học được cách làm khuôn đâu.

Hầu hết người biết cách làm đã chết hoặc vượt biển đi tìm tự do hết rồi.
Rồi mợ biểu xấp nhỏ chuyền bánh bò do bà tự đổ bằng khuôn bông mai cho nguyên đoàn cùng ăn, để mọi người cảm nhận coi nó khác biệt ra sao so với bánh bán ngoài chợ.

Sau đó bà nói:
– Phải làm đúng chất liệu, độ dày – mỏng và kích thước thì khuôn mới cho bánh ngon đặc biệt; còn làm trật thì ăn y hệt mấy chỗ bán khác.
– Nếu chị được bà cụ truyền nghề, chị sẽ làm gì?
– Tôi sẽ dành ra phân nửa lợi tức từ việc bán bánh mà làm học bổng cho trò nghèo.
– Tại sao?
– Người ta dạy nghề cho mình thì mình trao lại cơ hội đi học cho người khác.
Vệ Thu ăn thử một miếng bánh.

Màu sắc được tạo từ rau cải – trái cây nên không làm cho miếng bánh có mùi gay mũi.

Bột bánh pha vừa, có thêm một xíu nước cốt dừa thành ra vừa béo vừa lạ miệng.

Còn về thân bánh, nó có độ dai vừa và “đàn hồi” khá tốt.

Tựu trung miếng bánh đạt được cả sắc lẫn vị, cắn vô một cái là thấy khác bánh bán ở chợ liền.
– Bông mai nguyên thủy chỉ có năm cánh.

Sau mới lai/ghép ra nhiều cánh và màu sắc.

Anh Ba, anh ăn bánh bò nữa hôn?
Vệ Thu nhìn gương mặt đã lốm đốm vết nám đen do nướng bánh nuôi chồng con thuở còn hàn vi của mợ Hai, rồi nhớ về những cô vợ mỹ miều và tánh tình như thiếu nữ mới trổ mã, chợt cảm thấy mình ngu vì đã trọng sắc hơn tài.

Cậu Thương dư sức mua kem trị nám của Nhựt, của Hàn, nhưng dầu có bôi – trét tới cỡ nào đi chăng nữa, những thứ mỹ phẩm đó không thể gột rửa được sự tàn phá của lửa than trên mặt của má cẩu.

Không biết cẩu nghĩ sao, chớ trong lòng của ông, ông thấy không cần phải đi chữa trị nám cho mợ Hai, bởi gương mặt đó đã quá hoàn mỹ rồi.

“…!Lia thia quầy, quen chậu quay
Vợ chồng này, vợ chồng
Ơi con bạn quen hơi
Ơi con bạn quen hơi…
Chim ơi chim xa rừng
Thì chim thương núi nhớ con
Người cách xa cội nguồn
Người cách xa cội nguồn
Ôi đâu còn có gì buồn hơn
Ôi đâu còn có gì buồn hơn…”
– Anh Ba có thích nghe cô Hương Lan ca bài dân ca Nam Bộ “Lý chim Quyên” không?
Vệ Thu hoàn hồn, rồi cười mơn mà nói:
– Bài này với bài “Đau xót Lý chim Quyên” của nhạc sĩ Vũ Đức Sao Biển, tôi ưng nghe cổ ca lắm.
Mợ Hai cười chúm chím:
– Anh với tôi hạp ý ghê luôn!
– Hạp thì xáp vô làm đám cưới luôn đi mợ Hai…
Vệ Thu đỏ phừng mặt, day sang đánh thằng Út mấy cái bạt mạng.

Ông chưa kịp thanh minh thanh nga thì đã nghe cậu Thương nói:
– Phải a.

Thương thì tới với nhau luôn đi bác Ba…!Trời ơi má nhéo lỗ tai con đau quá!
– Hai thằng quỷ im hết! – Hai người nói một cách đồng thanh, rồi ngó nhau sượng trân.
Người tài-xế có có cái mũi cao như Tây Phương giải vây:
– Dạ, nào giờ con chưa nghe cô Hương Lan ca bài “Đau xót Lý chim Quyên”.

Thôi để con bật lên nghe thử nhe?
Do không biết lời bài hát ra răng, mà lại gấp nữa, thành thử ra khó xử tiếp diễn khó xử.

Nghe tới đâu, sắc mặt hai người tài-xế kiêm tài lanh xụ xuống tới đó.
– Để luôn đi Tài, Đức.

– Vệ Thu trấn an.
Một người suốt đời bị vợ trẻ bòn tiền và một người cả đời tảo tần lo cho chồng con tới nỗi hư nhan sắc trời cho cay đắng nghe cô Hương Lan hát tới đoạn này:
“…!Mà đôi ta không là tình nhân, không phải vợ chồng
Chưa hề bén tiếng, chưa hề quen hơi
Như chim Quyên chưa ăn trái nhãn lồng
Như lia thia chưa quen với chậu vàng
Nên dầu biệt ly cũng chẳng ai buồn chi
Chẳng ngậm ngùi đâu dù phải nghe câu hát “Lý chim Quyên”…
Chú Thương tính tắt nhạc, song đã bị mợ Hai chụp tay cản lại.

Bà và anh Ba đã ngoài hàng sáu, cái chết đã tới sát đ*t, ở đó mà bạn đời với bạn hữu; chưa kể anh Ba đã giàu sụ mà còn sang trọng, còn bà thì thứ dòng nghỉ học ngang, yêu đương sớm, quê mùa hết nước, mặt mày giờ nào khác chi Chung Vô Diệm…
“Chim Quyên chưa ăn trái nhãn lồng
Qua không thương bậu, bậu đừng thương qua…”
Xấp nhỏ biết gia đình đang có biến nên im re coi máy.

Sau hơn nửa tiếng lặng trang, mợ Hai lên tiếng:
– Mấy đứa nhỏ nghỉ học hoài có sao hôn anh Ba?
– Dạ, tôi cho tụi nó học online nên không sao đâu chị.

Học tiếng Anh cho giỏi, qua đó tôi gởi tụi nó vô trường học.

Riêng thằng Sinh, nếu học Đại học không nổi thì cho nó ghi danh vô trường Cao đẳng Cộng đồng học nghề.
– Ờ, mấy đứa dưới mười tám tuổi dễ học, biết tiếng Anh và hòa nhập với xã hội bên đó nhanh hơn thanh niên cứng cáp.

Con ráng chịu đựng mấy năm đầu sống như người câm – điếc nghen Sinh?
Nguyễn Quý Sinh vừa dụi mắt vừa trả lời bà:
– Dạ, con sẽ ráng chịu đựng, thưa má Hai.
Chiếc xe cà-rịch cà-tàng mới tới Hậu Giang.

Vì hễ thấy chỗ nào bán trái cây hay chợ chiền là mợ Hai cùng xấp nhỏ lại biểu ghé vô chơi.

Chắc chừng về đến nhà chiếc xe sẽ biến thành “ghe hàng” mất.
– Còn muốn mua gì nữa hôn chị Hai?
– Còn chớ anh…!Gì trợn mắt nhìn tui dữ vậy cha?
– Bác Ba đang ngạc nhiên vì má mua hết mấy cái sạp hàng rồi thì còn cái gì chưa mua mà muốn nữa.
Mợ Hai bẽn lẽn cười:
– Tôi tính mua sầu riêng ăn.

Ăn dằn bụng mấy múi trước, rồi xuống Bến Tre ăn cho đã miệng.
Bác Ba ghẹo:
– Tôi mời lơi mà chị mần thiệt hả?
Mợ Hai giận lẫy:
– Tiền của tui, tui muốn mua giống gì kệ tui, anh sao giống thằng Hai quá.

Chỉ khác ở chỗ, mỗi bận tui mua gì là nó “Thương tình ca”, “Mua về nhớ xài nhe má? Không thì để con mở chạp-phô cho má bán bớt đồ.” Tại tui hay quên chớ đâu phải mua về bỏ xó không xài đâu mà nói vậy chớ.
– Rồi, tôi thay mặt cẩu xin lỗi chị nghen? Lát muốn ăn mấy trái tôi đưa tiền cho mua.
– Thôi, tiền đó để dành mua sầu riêng dưới kia đi.

Còn đợt này để tôi lo.

Bác Ba biết mợ Hai vẫn còn đang lẫy nên mượn tụi nhỏ làm “cầu Ô Thước”:
– Mấy đứa có muốn đi ăn lẩu không? Bác nghe nói ở Cần Thơ có món lẩu vịt nấu chao ngon lắm…!Hình như mợ Hai hổng ăn được chao hả?
– Ăn được chớ sao hông, còn ghiền nữa là đằng khác.

Hồi nhỏ nhà nghèo có hũ chao ăn với rau hay bầu luộc là mừng rồi…!Í!
Biết mình “trúng kế” của ông già dịch vật kia, mợ Hai tức cành-hông nhưng chỉ biết lầm bầm chửi, “Thứ đồ cha già mắc dịch, mắc phong.” Cộng với chuyện xấp nhỏ và hai cậu tài-xế hùa theo thằng chả mà cười quê bà, càng khiến bà thêm quạu.
– Baba…!Con hổng có ăn được chao…
– Mày hổng ăn được thì mày kiếm món khác ăn, nói cho tao nghe chi…
– Trời ơi, tui con-ruột của ổng hả Trời?
Chú Thương bật cười:
– Tôi có thằng bạn mở quán ăn ở đây, quán nó bán nhiều món lắm, cậu ưng món nào thì kêu riêng.

Chớ vịt đã hôi mà còn thêm chao, cậu sao nuốt nổi?
Bác Ba chống cằm tư lự:
– Mà cũng ngộ thiệt chớ…!Phô-mai, sữa chua, mấy cái bánh chế sữa khẳng khẳng gì đó,…!thì nó ăn lìm lịm.

Mình ngó nó ăn mà bắt ngán.
– Bởi vậy cho nên con mới cao…
– Có cần tao dắt mày đi coi mấy đứa không uống một giọt sữa nào mà vẫn cao trên mét tám không?
– Con chưa nói hết mà, con cao hơn baba.
Mợ Hai nghe vậy thì hả dạ lắm.

Thật là “hậu sinh khả úy”.

Chú Thương sợ có thêm người giận lẫy thì mất vui nên mau lẹ bấm số gọi cho thằng bạn chủ quán để kêu nó đặt bàn giùm.

Nghe nguyên đoàn có chín người, nó biểu sẽ đặt bàn mười hai chỗ đặng mọi người ngồi cho rộng rãi và dễ đi đứng.

Vừa kết thúc điện thoại, chú đã quay qua nói địa chỉ của quán với hai chàng tài-xế; họ cũng mừng vì thuận đường chạy xe, không phải quay đầu hay quẹo ngả khác.
Ăn uống xong xuôi, vô chợ búa mua đủ đồ rồi, về tới nhà cũng hơn sáu giờ rưỡi.

Ai nấy đều hối nhau đi tắm – gội đầu, rồi trở về phòng của mình nằm sải lai như con cá mắc cạn.

Sực nhớ tới mớ thức ăn mua dọc đường, mợ Hai choàng dậy, rồi gõ cửa từng phòng “hiệu triệu” đám nhỏ, ông già mắc dịch và hai cậu tài-xế “mắt quầng thâm mất ngủ” ra phụ bà cất đồ.
– Mua chi cho dữ rồi cất rã tay.

– Vệ Thu nói xong, che miệng ngáp ngắn ngáp dài.
– Dạ, tui bổ đồ để trưa mai nấu cho anh ăn đó, cha già thấy ghét.
Vệ Thu khoái quá mà sợ mợ Hai pha lửng nên quýnh quáng hỏi lại:
– Vậy hen?
Mợ Hai nguýt dài, rồi bỏ đi một hơi ra sau hè.

Để lại Vệ Thu đứng cười mím mím trong gian bếp đã được sửa sang thành kiểu tân thời.
– Baba, mắc cười thì cười luôn đi ba, cười dzầy nhìn gian dữ lắm.
– Gian hả mày? Hả mày? – Vệ Thu kiễng chân khỏ đầu thằng con Út mấy cái cho bõ tức.

Trời vừa mới hưng hửng sáng, gian bếp nhà họ Trần đã bay mùi khói, dầu và cà-phê.

Mợ Hai diện áo bà ba lụa tím, mặc quần lãnh đen, chân đi đôi guốc mộc, tóc bới cao lên thành một cục và giữ chặt bằng cái chấu nhựa màu trà.

Vệ Thu tính ngủ nướng thêm một lát, nhưng nghĩ tới mợ Hai lui cui dưới bếp có một mình hà nên muốn xuống lấy le với người thương.

Ông đâu có hay thằng quỷ chót hiểu ý đồ của ông nên định bụng sẽ phá chơi.
– Ủa anh Ba! Dậy sớm dữ hen? Chà, nay mặc đồ ba ba coi trẻ trung ghê! Nhìn giống mấy ông Hội Đồng, chủ cả ngày xưa quá…
– Đáng ra phải gắn thêm chòm râu dê nữa mới “ấn tượng”…
Vệ Thu chưng hửng ngó ra sau lưng.

Thằng quỷ chót đang đứng khoanh tay và để chân trái chéo qua chân phải, vai phải dựa thành cửa, cái miệng nó cười toét ra (muốn) tới tận mang tai.
– Thôi con vô ngủ tiếp nghen ba? Tự nhiên khát nước bất thần nên phải xuống đây rót nước.
– Vậy cái bình nước in hình Minion mày để ở đầu giường thì sao?
– Bị thiu rồi.
Vệ Thu nheo mắt nhìn con trai:
– Nước để trong mát mà cũng bị thiu hả?
Vệ Thương chơi tình quờ:
– Vậy là ba hổng có biết tính chất và cấu tạo của Nước…
– Rồi, lên phòng ngủ tiếp đi con…
– Khoan, ba để con…
– Hết giờ cho mày giảng Hóa với tao rồi.

Bấm nút, “Biến.” Đi, lẹ lên!
Đuổi được cái thằng “thiên hôn địa ám” rồi, Vệ Thu quay sang cười mơn với mợ Hai, rồi hỏi sáng nay bà muốn ăn gì.

Bà nói muốn đi ăn riêng với ông, đương nhiên là ông chịu liền.
Đóng cổng rào xong xuôi, kiểm tra mấy chập, nhìn tới ngó lui ba – bốn bận, mợ Hai mới yên tâm đi.

Hai người trạc tuổi sóng vai đi dưới hai hàng tre xanh ngắt.

Sương mờ giăng đầy khắp nẻo.

Mặt trời he hé ở đằng Đông, những tia sáng nhạt nhòa vương lại trên vòm lá tre, hắt xuống mặt lộ những bóng nắng lung linh rất đẹp.

Họ nghe thấy tiếng của bầy chim sâu kêu ríu rít vọng xuống từ tầng không diệu vợi.

Gà trống trong xóm tranh tài với nhau mà gáy vang rền, con này chưa dứt tiếng mà con kia đã chen vô gáy inh ỏi.

Dưới rạch, ghe hàng và tác-ráng lưa thưa vài chiếc; có chiếc xuống neo lại bên bụi bần và bụp dừa nước cứ chòng chành mãi theo nhịp đẩy đưa của sức gió từ những chiếc ghe hàng và tác-ráng.

Khi vầng dương đã hiển lộ, con đường vườn mới thực sự bước vào một ngày mới.

Họ lặng mà nghe tiếng rao hàng ngọt sớt của một người đàn bà bận đồ bà ba cũ, “Ai…!ăn bún bì, thịt nướng, chả giò, nem lụi…!hôn?” Hai đứa học trò vừa đạp xe vừa hỏi nhau về câu trả lời trong bài kiểm tra môn Toán tuần trước, một trong hai đứa tự an ủi rằng, “Thôi kệ, còn Học kỳ Hai mà.”
– Anh Ba, cho tôi hỏi khí không phải…
– Dạ, chị hỏi đi, nếu biết tôi sẽ trả lời.
– Tôi nghe nói bên Mỹ đồ ăn – thức uống mắc dữ lắm phải hôn?
Câu hỏi của mợ Hai đã làm Vệ Thu quê xệ.

Tự nhiên hẹn ra đây nói chuyện kinh tế A Mỹ Lợi Gia chi trời?
– Tô phở/hủ tíu/bún riêu và mấy món có nước lèo khác trên mười hai đồng, trước đó thì phần đông giá tiền dưới con số này.

Nhưng bù lại mức lương tăng lên mười lăm đồng một giờ, thành thử ra không có gì quá đáng lo như mấy đứa bên đây hay “đi lo và khóc hộ cho nước Mỹ” tuyên truyền.
– Vậy thì vật giá leo thang thì lương – thưởng bắt buộc phải tăng?
– Phải, đó cũng là một trong những cách cứu vãn nền kinh tế thời lạm phát.
Rồi ngần ngừ một lát, Vệ Thu hỏi:
– Hết câu hỏi rồi hả chị?
– Lát ra quán rồi nói.

Làm như sợ tui mọc cánh bay mất hay sao mà anh biểu tui hỏi lẹ vậy? Hay anh đang có chuyện gì gấp nên muốn về sớm có đúng…
– Đâu có! Đâu có đâu! Quởn quá trời quá đất luôn nè!
Mợ Hai quýnh quá vả vô miệng cha Ba mấy cái thật nhẹ:
– Làm gì la bài hãi vậy cha?
– Tại tui…!tại tui sợ mợ bỏ dìa…
Mợ Hai xỉ vô trán cha Ba một cái, rồi tức khí la:
– Đã biết tui học hành không tới đâu thì phải để người ta có thời gian suy nghĩ câu hỏi chớ.
Sợ mợ Hai giận lẫy nữa, nên bác Ba nói vài lời vuốt ngọt.

Mợ Hai xuôi xị xuống được mấy phần.
– Anh đây muốn ăn bún gỏi dà hay cháo lòng Cái Tắc?
– Cháo lòng đi.

Qua ăn lẩu với bún ngán rồi.
Mợ Hai dẫn bác Ba tới một cái quán nhỏ rất đông khách nằm đối diện với trường mẫu giáo; lúc hai đứa con của mợ còn nhỏ, nơi đây là một bãi đất trống cỏ mọc cao lút đầu, tụi nó thường hay lẻn ra đây chơi năm – mười, cá sấu lên bờ với mấy đứa con nít trong xóm và làm mồi câu cá hủn hỉn hay tép mòng.

Cái mương nước mà tụi nó từng giăng câu nay đã chết vì nước xả thải sinh hoạt và nạn đổ rác.
– Tình người còn chết huống chi là cái mương nước…
– Hả?
Mợ Hai phủi, phủi tay:
– Tui nói nhảm thôi mà.
Bữa nay con dâu bà bạn đứng bán.

Mợ Hai ít khi nào về Hậu Giang nên con nhỏ hay quên lại càng không nhớ mặt, thành thử ra chỉ thưa hỏi sơ sịa mấy câu như những thực khách khác.

Bà cũng không giận, còn lấy đó làm mừng vì không sợ nó hỏi anh Ba là gì của bà.
Hai người chọn bàn nằm cạnh mương nước, có tán cây bần che nắng và bông ô-môi đỏ thắm.

Có lẽ do ngại lá – hoa rơi xuống đồ ăn – thức uống nên không có thực khách nào ngồi ở đây.
Vừa lấy chanh chà đũa đặng khử trùng, Vệ Thu vừa tâm tình:
– Thằng Út của tôi nó sống theo kiểu Tây, nên coi tôi như một người bạn lớn tuổi hơn là một người cha.

Nhiều lần tôi cũng muốn ép nó sống theo kiểu Nho Giáo, song nghĩ lại làm vậy chẳng khác gì đang tâm giết nó.
Mợ Hai cũng đang làm y hệt ông.

Bà thở ra một hơi dài thườn thượt trước khi nói:
– Còn tôi thì ngược lại…!Thằng Út của tôi mở miệng ra là tu hành, mực thước.

Tôi có cảm tưởng mình chỉ là nơi cho nó mượn chỗ đầu thai hơn là một người má.

Tôi muốn nó giống như hồi nhỏ, ăn nói hàm hồ, tin người sái cổ, quậy cùng trời nát nước với thằng Hai, và…!và…!đừng có ăn nói giữ kẻ như người dưng nước lã như vầy…
– Tôi thấy nó có hiếu với chị quá chớ? Không có một đứa con trai nào mà tôi từng gặp trong đời có thể quỳ xuống rửa chân cho mẹ.
Mợ Hai không trả lời.

Chỉ lặng thinh dõi mắt nhìn dòng nước đùng đục cuốn trôi bông ô-môi và bông bần.
Con nhỏ phụ việc bưng đồ ăn lên bàn hai người.

Họ kêu thêm bánh quẩy, dĩa lòng và trà đá.

Con nhỏ này cũng mới tới đây làm nên không biết mợ Hai, thành thử ra nó tưởng bà và ông là vợ chồng già dắt nhau đi ăn sáng.
Đợi nó “dời gót ngọc” rồi, mợ Hai mới khều bác Ba:
– Anh nè, tui thấy thằng con anh nó dễ thương chớ, tánh tình vui vẻ…
– Vui gì? Tui là cha nó mà nó dám giỡn trửng như vậy, còn ra thể thống giống gì.

Á à, hay là chị cự không lại tui cho nên mới cổ xúy nó ăn nói như vậy phải hôn?
Mợ Hai giựt mình:
– Đâu có.
– Nhìn sâu vào đôi mắt của chị, tôi biết chị đang chột dạ.
– Trời ơi cha già dịch, nghe cha nói “Nhìn sâu vào đôi mắt…”, tôi tưởng cha bắt nhịp lấy hơi ca rồi chớ?
– Già rồi hơi hám đâu mà ca, hò thì được.
– Ê, hổng có giỡn bậy nghen cha.
– Chị ham hố nên chị mới nghĩ tới…!chớ cái nghĩa tui nói đàng hoàng mà.
Mợ Hai cãi không lại thứ dòng ba lơn, chỉ biết nguýt ông Ba một cái thiệt dài tới nỗi muốn rớt luôn con mắt.
– Nói thiệt đừng buồn nghen…
– Kiếm chuyện gì nữa đây?
– Cậu Thương giống tánh chị y như khuôn đúc.

Còn đứa Út chắc giống tánh anh nhà nên điềm đạm.
Lu bu với chuyện tiền nong và quán xá riết bà đã quên béng người chồng vắn số.

Bây giờ ngẫm lại mới thấy hóa ra thằng Út càng lớn càng giống cha nó, từ nết ăn ý uống, tới cách xài đồ và nói năng.
– Còn anh, cậu Út mà anh hay la nó cũng có khác gì anh đâu.

Chỉ có điều bộ não nó còn trẻ nên cái miệng nó lanh hơn anh một chút thôi.
– Ờ há!
– Thường thì mấy người giống tánh nhau khó sống chung lắm.

Vệ Thu “Xí” một cái, rồi mới chịu cầm muỗng lên để ăn cháo.

– Chị biết “xuất xứ” tên của con tôi rồi, giờ chị giải thích cho tôi hiểu nguồn gốc tên con chị được không?
– Nó tên là Trần Kim Thương, còn thằng em tên Trần Mộc Thảo.

“Thương” là một loại vũ khí, thuộc hành Kim.

Và “Thảo” là cây cỏ, tượng trưng cho hành Mộc.

– À…
Rời khỏi quán cháo đông nghẹt, hai người bạn già rủ nhau đi thăm thú xứ Vị Thanh bằng xích-lô máy.

Gặp ông “tài-xế” có máu văn nghệ, thành thử ra buổi du ngoạn rất vui và đầy ắp thơ – nhạc.
– Anh chị có biết hôn? Hồi xưa còn là lính á, tôi hay ca cho con ghệ tôi nghe bài “Ngại ngùng” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh.
Rồi người lính dù ấy say sưa kể cho hai người khách đồng trang lứa nghe những kỷ niệm năm cũ của mình và đồng đội.

Đôi mắt ông chan chứa màu xanh của khung trời thanh xuân, tiếng nói của ông cũng trở nên hồn nhiên và trong hơn tuổi thật rất nhiều.
Ngang qua ngôi nhà mái tole xập xệ có cái cây trứng cá mọc trước sân, ông chỉ cho hai người khách thấy, rồi khoe rằng đó là tổ ấm của mình.

Bà bạn đời của ông sáng nay trúng gió nên không thể quảy đôi quang gánh để ra chợ bán chè.

Nghĩ cũng xui thiệt, bả mới nấu xong ba nồi chè thì bất thần đổ bịnh, báo hại vừa cụt vốn vừa phải đem bỏ.

Nói tới đây, sắc diện ông thoáng âu sầu và tủi phận.
Vệ Thu nghe vậy thì biểu dừng xe.

Rồi trước ánh mắt ngỡ ngàng của ông “tài-xế”, ông cất giọng hỏi:
– Anh muốn ăn gì tụi tôi bao?
Ông lính già thở phào nhẹ nhõm, rồi gãi đầu mà cười ngượng trông thật hiền:
– Sáng nhịn ăn quen rồi anh.
– Vậy thôi tôi đưa anh…
Hai cọc tiền dày tới nỗi khiến ông lính già muốn nổ đom đóm mắt.

– Gì nhiêu dữ vậy?
– Ăn nguyên một tháng luôn.
Ông “tài-xế” mếu máo bắt tay với Vệ Thu.

Đôi môi ông cứ bập ra bập vô hoài mà chẳng thốt được câu nào cảm ơn.
– Thôi, khóc cái gì hả thầy? Dành sức đi ăn bao bụng có sướng hơn hôn?
– Thầy? Vậy ra thầy đây cũng từng là lính như tôi.

Vệ Thu gật đầu, rồi cất giọng cáo biệt “Người bạn trường xưa”.
Len qua những góc chợ đầy màu sắc và thơm – thúi lẫn lộn, Vệ Thu tìm lại gian hàng bán đồ chơi cho con nít.

Người bán đang ngồi ngáp ruồi vì ế, Tết tới nơi rồi ai mà dư tiền mua mấy món quà này kia chứ?
Vệ Thu bỏ tiền ra mua hạo hết nguyên sạp.

Rồi rủ mợ Hai ngồi bán chơi.
– Giờ tui mới tin câu người giàu hay bị “điên tiền”…
– Đâu…!Tui ngồi đây phát quà Tết cho con nít mà…
– Cái thân thì không muốn bị người ta chú ý, mà cái đầu thì toàn kiếm chuyện để làm người ta chú ý.
– Kệ tui đi bà.
Ban đầu mấy đứa nhỏ và những người già đi ngang qua còn nghi kỵ, song nhận thấy lòng tốt từ tâm của hai ông bà nên đã thôi nhìn họ bằng ánh mắt không thiện cảm.

Mỗi phong bao lì-xì đựng hai trăm đồng, ông hy vọng món tiền mọn của mình có thể làm niềm vui nho nhỏ cho họ.
Chưa tới mười giờ sáng mà sạp hàng của ông bà đã sạch boong, hai người báo cho chủ sạp hay để thu dọn giùm.

Trước lúc tạm biệt chủ sạp, Vệ Thu phát cho anh ta năm phong bao lì-xì để làm lộ phí về quê.

Anh ta chắp tay cảm ơn từng người, rồi nói vài lời chúc Tết tốt lành.
Hai người sóng vai nhau bước lên cây cầu dẫn về xóm nhỏ.

Lề đường khá hẹp so với bề ngang của họ, nên ông đành đi trước, còn bà bám gót theo sau.
– Thằng Út đã đứng ra đài thọ cho một ca mổ…
– Ai anh?
– Có đứa con nít ở đâu không biết, thấy nó hào phóng với ông già bán chuối nếp nướng quá sức, nên men lại xin giúp đỡ.

Nó nhờ luật sư xác minh sự việc, biết thằng nhỏ không có nói láo nên đã nhận lời đài thọ.
Mợ Hai nghe vậy thì rất vui vì biết mình không nhìn lầm người.

Cái thằng ưa giỡn trửng đó nên người hơn những gì ông già họ nghĩ nhiều.
– Tới đây nó thấy còn nhiều người cần tiền nữa nên đã xin tôi mở hầu bao.

Mợ Hai ngó bóng lưng ông già đầu bạc tóc xoăn mà cười hỏi:
– Cha con anh đài thọ cho bao nhiêu ca?
– Ba mươi hai ca.

Tiền điều trị riêng, tiền giúp làm ăn riêng.

Gia đình bịnh nhân nào chí thú làm ăn thì đưa trước phân nửa tiền vốn, còn lèng phèng thì chỉ trao trước một phần năm thôi.
– Ờ, anh tính vậy coi hay đó!
– Nó xin tôi cho hoãn học Đại học hai năm để tìm kiếm đam mê và ước mơ của mình.

– Dạ?
– Nó định năm hai mươi mốt tuổi sẽ đi quân dịch.

Nếu chịu đựng nổi thì hơn ba năm, còn nếu không thì dưới hai năm.

Sau khi xuất ngũ mới vô trường Đại học hoặc ra làm ăn luôn.
Mợ Hai nói nhỏ với ông rằng thằng Hai rớt Đại học Ngoại Thương.

Nó nghe theo lời khuyên từ bạn bè và sách vở, nên ráng sức thi lại lần nữa.

Nếu ông bà không thương, ắt hẳn nó sẽ chết trước ngày thi mất.

Hỏi ra mới hay, do lao lực quá mức nên dẫn tới mệt tim rồi ngất xỉu.

Kể từ ngày đó, bà biểu con đừng học Đại học nữa mà hãy chuyên tâm lo làm ăn…
– Xin lỗi chị vì đã ngắt ngang, tôi nghĩ chị nên khuyến khích cậu Hai học chớ?
– Tôi không muốn giết con tôi bằng lòng sĩ diện hão của mình và quan điểm “có bằng cấp vẫn hơn” của xã hội.

– Chị có thể trình bày rõ ràng hơn không?
– Có nhiều đứa bị viêm xoang mạn tính, đau nửa đầu kinh niên, bịnh lý về thần kinh – tim,…!nhưng cha mẹ vẫn ra sức ép con học, và mỗi bận thấy kết quả không cao liền xài xể nó rằng, “Có mỗi việc học mà làm cũng không được”, “Mày coi con người ta đi móc bọc ni-lông mà vẫn đậu Thủ Khoa kìa, mày chỉ việc ăn, ngủ và học mà làm không xong, ra đời có nước bóc c*t mà ăn”,..

Nó đã không khỏe trong người mà còn bắt nó học và chửi bới cay độc như vậy không, có khác nào xui nó tự tử hay khiến nó phát khùng không?
Tôi từng gặp một đứa bù đầu bù cổ học Đại học, hỏi tới chánh trị, nhân quyền, đồng áng, nấu nướng, tình hình xã hội hiện nay, những chuyện thực tế nhứt trong cuộc sống,…!nó đều trả lời không rành.

Hễ ai mà nhắc tới chánh trị là nó lại than, “Nói chuyện gì mà nghe nhức đầu”, “Kiếm chủ đề gì vui vui đi”, “Thôi đừng nghe tụi phản động xuyên tạc”,…!
– Vậy chắc người này cầm tinh con rùa.
Mợ Hai cười buồn, rồi dụi dụi đôi mắt rơm rớm lệ.
– Ai ham con cái danh cao chức trọng, chớ tôi chỉ mong con mình biết thương người khác và để tâm tới xứ Việt này.

Ai thèm con cái tiền muôn bạc vạn, chớ tôi chỉ cầu con mình mạnh giỏi và đầu óc thảnh thơi.
Vệ Thu nắm tay dẫn người đàn bà miền Tây có sao nói đó ra bờ kè ngắm một nhánh sông Hậu.

Bằng cấp của ông cao hơn mợ Hai bội phần, song cách nhận định về giáo dục con cái của ông không bằng được cái gót chân bà.
– Chị Hai.
– Ơi.
– Thằng quỷ chót, nó khoái ăn củ từ luộc lắm, chị biết chỗ nào dắt tôi lại mua cho nó đi.
– Biết chớ.
– Khoan đi đã chị, để tôi ca cho chị nghe hai khổ của bài dân ca Nam Bộ “Lý chim Quyên”.
“…!Chim xanh quầy, bay tít, tít bay trời hồng
Trời hồng, ơi cô bạn mình ơi
Trong con quầy, chim nhỏ bay ở, ở lồng
Ở, ở lồng, ơi cô bạn thương ơi
*
Chim bay quầy, ai bế quay, quay tay bồng
Tay, tay bồng, ơi cô bạn mình ơi
Thương ai quầy, cam chịu quay cửa, cửa phòng
Cửa, cửa phòng, ơi cô bạn lẻ loi…
*
Ôi cô bạn mình ơi…”
– Người viết thêm lời cho bài này là nhạc sĩ Viết Chung, tôi đã từng nghe qua giọng ca của cô Thanh Tuyền, trong băng nhạc “Thanh Tuyền 3: Thuyền không bến đỗ”.
Mợ Hai cúi mặt cười ngỏn nghẻn.

– Tôi sẽ ca cho bậu nghe bài “Xin cho tôi giấc mộng bình yên” của Thông Đạt, tức bút hiệu của nhạc sĩ Văn Giảng.
“…!Xin trao người một cành hoa thắm
Biết không em hôm nay ngày lành
Ngày mùa hoa thương yêu đã tới
Tôi đưa em đi vào tình yêu…”
– Qua nói vậy thì…!thì…
Vệ Thu hối thúc mợ Hai mở lời.

Mợ Hai quạu quá trề môi nói:
– Từ từ chớ cha nội, gì mà hối như Tào Tháo rượt vậy? Tui chịu được chưa?
Hai con câu già dặn dò nhau thật kỹ rằng trước mặt người khác phải xưng hô cho đúng lễ, còn sau lưng muốn kêu sao cũng được.
Trong mắt hai kẻ đang yêu, đường về nhà trở nên lãng mạn và đầy thi vị, dù rằng vẫn là khung cảnh nguyên hiện ban nãy.

Nắng trưa bị những tán lá tre dày ken đặc như nêm cản lại, nên con lộ vừa mát vừa sáng.

Hứng chí, Vệ Thu ca tặng bà ghệ bài “Mùa Xuân đó, có em” của nhạc sĩ Anh Việt Thu; người trình diễn bài hát này đầu tiên là ca – nhạc sĩ Duy Khánh qua phần hòa âm phối khí của giàn nhạc đại hòa tấu “Đồng Vọng” do nhạc sĩ Y Vân điều khiển:
“…!Em có nghe trời vào Xuân chưa?
Bên sông từng giọt nắng vàng chợt lưa thưa…”
Mợ Hai xen vô hát:
“…!Và mùa Xuân đó có anh thì Xuân rất đẹp
Em không biết Xuân về lúc nào…”
Rồi hai người song ca:
“…!Lời tình đong đưa theo gió
Mình thương nhau mấy tuổi Xuân rồi…”
– Mới có một năm hà!
Vệ Thương bước ra từ sau một bụi tre mé tay trái con lộ.
– Củ từ của con đâu?
Vệ Thu gãi đầu cười gượng:
– Ba quên mua rồi.
– Có ghệ cái quên luôn con.
Mợ Hai mắc cỡ nên sượng trân, rồi cất giọng vỗ về:
– Sau hè nhà mợ củ từ mọc nhiều lắm, lát con chịu khó ra đào rồi đem vô cho mợ luộc hen?
Vệ Thương cũng không nỡ làm khó người mợ hiền lành nên tủm tỉm cười và gật, gật đầu.
Dọc đường đi, mợ Hai hỏi han Vệ Thương về cuộc sống Mỹ của cậu, và nhận về những câu trả lời dài như sớ Táo Quân.

Vệ Thu giờ mới hay con trai mình cần một người mẹ để tâm tình như thế nào, và tiếc là nó với hai thằng kia không ai được hưởng cái cảm giác mà ông đã từng trải qua hết.
Còn cách nhà chừng hai chục bước chân, đã thấy Nguyễn Quý Sinh, Phan Huy Tường và Vệ Giản đang đứng treo phong bao lì-xì lên mấy cành mai thơm phức.

Để lấy hên cho năm mới, mợ Hai biểu chọn phong bao có màu vàng và đỏ.
– Hai Thương đâu rồi mấy đứa?
Vệ Giản giành trả lời:
– Ảnh quá giang tác-ráng của chú Chín Cảo qua Kiên Giang rồi má Hai.
– Trời đất ơi, rồi đi chừng nào mới tới?
– Bất quá mơi nó tới.
– Tới cái cù lôi tôi chớ tới…!Thằng này thiệt tình, đường bộ không đi, toàn “hành quân” dưới nước.
– Đàn ông vốn có máu thương hồ mà chị.
Mợ Hai giận quá nên gọi điện thoại cho thằng Hai.

Mới vừa bấm phím gọi cái sột, Hai Thương đã bắt máy liền.
– Thương, mày tới đâu rồi con?
Chú Thương đáp nhỏ rí địa danh.
– Về mà bị bịnh là mềm xương với tao.

Đã biết cơ thể không…!A-lô!
– Thôi, chị la nó, nó mắc cỡ với người ta sao?
Mợ Hai nghe theo lời ông ghệ, đành đổi giận làm vui.

Rồi quay qua biểu cậu Thương ra sau hè đào củ từ với mình.

Ba đứa nhỏ kia ham vui cũng đòi đi theo làm.
Chỗ có nhiều củ từ nằm trên một bờ đất trồng mía cao như hàng rào.

Ý là Vệ Thương trên một mét tám mà vẫn còn thấp hơn luống mía ấy ít nhất năm tấc.
Mợ Hai thị phạm trước cho xấp nhỏ biết cách cầm xẻng.

Chỉ chỉ một hồi rốt cuộc phần việc đào củ từ giao luôn cho bà và ông ghệ, bởi mấy đứa cầm xẻng thấy ghê quá nên không ai dám tin tưởng.

Tụi nó bèn rủ nhau lên nhà trên chơi Lô-tô ăn tiền.
Còn lại hai con câu già, Vệ Thu mới hỏi mợ Hai về chuyện tu hành của Út Thảo.
– Thằng Thương càng lớn càng ốm yếu, ai nấy đều cho rằng nó sẽ chết bất đắc kỳ tử.

Và rồi lời quở của người ta cũng xảy ra: Bữa đó đang đi học về, tự nhiên nó lăn đùng ra bất tỉnh, có chú xe lôi thấy vậy mới chở nó vô nhà thương cấp cứu.

Không biết bị cái giống gì mà nó mê man suốt, không ăn không uống gì được; bác sĩ nhìn vợ chồng tôi bằng ánh mắt lấm lét, chừng như sợ vợ chồng tôi hay thì sẽ bị suy sụp nên không dám nói thật.

Tới ngày thứ mười, trời ơi, nó chỉ còn da bọc xương, thở thoi thóp như con chó già sắp đứt hơi chết, da dẻ trắng bệch mà lại mét xanh rất ghê, vợ chồng tôi…!
Kể tới đây, mợ Hai òa lên nức nở, rồi run rẩy thuật tiếp:
– Cho nên thằng Thảo mới đánh bài liều.

Nó thề độc rằng nếu anh Hai nó khỏe mạnh thì nó sẽ đi tu trả ơn.

Trời xui đất khiến sao mới vừa thề xong mấy bữa, bịnh tình thằng Thương thuyên giảm, rồi khỏe mạnh cùi cụi như chưa từng xảy ra chuyện gì.

Tôi chưa kịp đưa nó lên chùa xin gỡ lời thề hôm đó, nó đã trốn nhà đi tu, hành trang mang theo là cái cặp học sinh mà ông nội mua tặng dịp sinh nhật và vài bộ quần áo cũ mèm.

Tôi không biết bằng cách nào mà nó lại bương về An Giang được, giống như có ai đợi nó sẵn ở ngoài cổng rồi đem lên xe chở đi vậy…
Sau này nó mới thú thiệt, bữa đó nó bị bắt cóc, Châu Lợi xông vô cứu nó rồi dẫn nó về An Giang tu hành.

Ổng có ghé qua kiếm vợ chồng tôi để xin phép một tiếng, nhưng ngặt nỗi bữa đó thằng Thương tự nhiên bị viêm họng hành nóng – sốt, nên vợ chồng tôi không có ở nhà.

Ổng đành viết lá thơ nhắn lại, tụi tôi lên trển kiếm quá trời kiếm mà không thấy cái tịnh thất đó đâu, hỏi dân địa phương họ cũng trả lời ấm ớ nên tụi tôi phải chịu phép bỏ cuộc đặng không làm thằng Thương nhập học trễ.
– Có vẻ Kim Thương là nguyên nhân chính đẩy Mộc Thảo đi tu.

– Cây mai anh mua ở đâu mà đâm chồi xôm dữ vậy?
Biết người thương không muốn đề cập tới vấn đề này nữa nên Vệ Thu nói lảng theo:
– Dạ, tôi nhờ nhà vườn dưới Sa Đéc trồng giùm mấy năm nay.

Chừng cây cứng cáp thì hẵng biểu tôi xuống lấy về.
Cây mai này là món quà mà Vệ Thu dành tặng cho gia đình mợ Hai.
Đào được đâu mấy ký củ từ, mợ Hai vô bếp sửa soạn cơm trưa cho đại gia đình của mình; Vệ Thu cũng lẽo đẽo đi theo.

Bữa nay bà làm món gỏi đọt choại, rau muống luộc, cá kèo kho nghệ, sò huyết rang me và canh đu đủ nấu sườn non; ngoài ra còn ăn rau sống hái ngoài vườn.

Gia đình dì Ba và cậu Út cũng nấu vài món đem qua ăn cho vui; hai người đàn ông trụ cột ấy ra sông quăng được một mẻ tôm càng xanh rất ngon nên biểu vợ phân nửa làm tôm nướng muối ớt, nửa kia thì để mai nấu món khác.
Mợ Hai đang ngồi ca bài “Tình má Hậu Giang” của nhạc sĩ Phan Ni Tấn trong khi hớt bọt cho nồi canh đu đủ.

Bản này và bản “Mẹ Hậu Giang” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng rất giống nhau về mặt nội dung, chỉ khác có mỗi phần viết lời và sắp xếp ý.
Nghe tiếng dép loẹt xoẹt đi qua ngạch cửa hông, mợ Hai không cần ngửng mặt lên vẫn biết người đó là ai.


Bà cười mủm mỉm hỏi:
– Dì Ba, đem gì qua vậy?
– Tui với bà Tư làm chả cá thác lác…!Í, bữa nay bà ăn rau muống hả?
– Ờ, mọc cả đống, bỏ uổng, nên đem vô luộc ăn.
– Còn nhiều hôn?
– Còn.
– Cho tui với bà Tư ra cắt đem dìa bán kiếm tiền chợ chơi.
Mợ Tư vừa hay trờ tới, tay bưng mâm tôm sú nướng muối ớt và ếch chiên trứng muối vung chùng.

Vừa từ từ đặt mâm đồ ăn xuống cái bàn tròn – kiếng xoay, bà vừa cười hỏi.
– Gì? Bán gì kiếm tiền vậy hai bà?
Dì Ba cười tủm tỉm:
– Rau muống.
– Trời, rau muống mọc đầy vườn.

Quý báu gì mà đem bán.

Bộ bà túng thiếu dữ lắm hả bà Ba? Kẹt thì kêu vợ chồng tui móc bóp phụ cho vài trăm.
– Thời buổi vật giá leo thang, kiếm được đồng tiền nào thì ráng mót đồng nấy.
– Xí…!Bà chỉ tổ bày vẽ…!- Mợ Tư lườm mắt, rồi tháo cây kim-tây gài túi quần ra mà soạn tiền đưa cho dì Ba.

– Nè, sáng giờ bán được có mấy chục hột gà, bà cầm đỡ nghen? Rồi lát tui sai thằng con đem rau muống ra chợ bán giùm cho.

Nếu bán nhiều hơn chỗ này thì tui bù vô, bà mới hết bịnh nên đừng có kiếm chuyện mà làm.
Dì Bà quẹt mắt, rồi run giọng nói:
– Cảm ơn bà…!Nhỏ Út vô Đại học tốn tiền dữ lắm.

Mợ Hai thở dài mà nói:
– Đừng bắt nó học quá sức nghen bà?
– Dạ, nhưng mà nó hổng chịu nghe chị ơi.

Nó nói phải ráng để sau này nuôi được vợ chồng tui.
Mợ Tư đập bàn:
– Vợ chồng bà ở dưới vườn thì lo gì chết đói mà nó phải ôm cái suy nghĩ như vậy?
– Bởi mấy đứa mình có suy nghĩ giống vầy nên con cái hổng được nhờ…
– Bậy nghen bà!
Mợ Hai lên tiếng khuyên:
– Bà Ba, bà nghe tui nói một tiếng nè.

Nếu nó học giỏi bằng chính khả năng của nó thì mừng, còn nếu nó học giỏi nhờ siêng giải đề và đi học thêm thì không nên mừng đâu.

Cái mà tui thấy những đứa học giỏi ở vế sau hay mắc phải là thiếu tính sáng tạo mặc dù thừa tính thông minh, thành thử ra rốt cuộc vẫn phải đi làm công cho người ta…
– Bà nói gì kỳ vậy bà Hai?
– Ý của mợ Hai là muốn khuyên con nhỏ phải cân bằng được sự thông minh và sức sáng tạo thì mới dễ sống và thành công được.

Chớ chỉ đâu có biếm nhẽ ai đâu chị Ba.
Mợ Hai đã cụt hứng nên nhường phần diễn thuyết cho ông ghệ.

Về phần mình, bà mở tủ lạnh lấy ca trà đá ra uống cho hạ hỏa.
– Trong một công ty nếu chỉ toàn người thông minh và thiếu người sáng tạo, công ty đó vẫn phá sản như thường.
Tỷ dụ như chị đây bán bánh trung thu dở ẹt thì công ty của chị đâu có tồn tại lâu được.

Chị cần một người phải biết cách nêm nếm nhưn, nhào bột ngon và canh thời gian nướng bánh vừa đủ, chứ không phải một người giải được phương trình khó nhứt thế giới hay đoạt giải quốc tế.

Mấy cái thiên về trời phú hay năng khiếu như vậy những người thông minh đâu có làm được, họ phải nhường phần cho người sáng tạo; về phần mình, họ phải thảo trình máy móc hoạt động theo công thức mà người sáng tạo đưa ra, mà mấy công thức đó không phải là công thức mà họ giải được hay đã từng học ở trên trường.

Bên xe cộ cũng vậy, không có người sáng tạo thì doanh nghiệp đó không phát triển được, do kiểu dáng không đổi mới và tính năng của xe không được cải tiến.

Người thông minh thường theo khuôn khổ, và đó cũng là nhược điểm của họ.
Con người ngày nay trọng học hành là tốt.

Nhưng phải đi kèm theo rèn luyện kỹ năng sống và tìm cách để đầu óc khai phóng, sáng tạo.

– Anh đây nói tui mới để ý.

Con nhỏ tui học giỏi, nhưng người ta sai đâu đánh đó chớ hổng biết động não nghĩ cách hay hơn.
Mợ Tư hỏi:
– Ủa anh đây là gì của mợ Hai?
– Dạ, là bạn phương xa của mợ Hai.
Dì Ba ngó Vệ Thu, rồi cười tủm tỉm.
Mợ Tư mời Vệ Thu lên bộ ngựa ngồi chơi, chớ đứng hoài coi không đặng.

Mợ Hai quay qua biểu ông ghệ nghe “lệnh” con bạn thân của bà, rồi phát biểu:
– Tui thấy không nên cổ xúy đám con nít trong nhà coi mấy đoạn băng chiếu về phương pháp học thuộc ngữ vựng nhanh hay làm toán giỏi, bởi vì hành động này chỉ tổ khiến mấy đứa nhỏ bị bịnh tâm thần do áp lực quá lớn.

Cũng nên bớt cho tụi nhỏ coi mấy đoạn băng bắt phải có hiếu với cha mẹ.

Hãy để lòng hiếu thuận phát sanh từ tâm của tụi nhỏ, chớ không phải gieo rắc vô đầu tụi nhỏ rằng có hiếu với cha mẹ là một nghĩa vụ bắt buộc.
Mợ Tư gật gù:
– Đẻ con chớ đâu phải đầu tư cổ phiếu mà đòi sanh lãi.

Nó không nuôi mình được thì mình tự nuôi mình.
Dượng Ba và cậu Tư tắm rửa sạch sẽ, ăn diện thơm phức và chỉnh tề mới qua ăn cơm trưa.

Có lẽ nghe danh Vệ Thu nên muốn sửa soạn một chút.
Dượng Ba niềm nở hỏi:
– Anh đây tên chi?
– Dạ, tôi tên Vệ Thu.
– Anh là Ba…!À, người Hoa hả?
– Dạ, tôi mang hai dòng máu Hoa – Việt, gốc Tiều ở Bạc Liêu.

Sau năm 75, tôi cùng gia đình dắt díu nhau từ thành đô về quê.

Nhờ thuận đường biển nên tôi đánh bài liều vượt biên, bữa đó tưởng đâu chết rồi, may nhờ có hai má con cho núp và ăn uống mà mới đủ hơi sức chịu đựng tới cùng…
Cậu Tư mời Vệ Thu kể chuyện vượt biên.
– Tô cơm nguội với cái ơ kho quẹt, ăn cặp với trái dưa leo hái ngoài vườn.

Nghĩ cũng vô duyên, người ta cũng đâu có giàu sang gì mà mình lại tự nhiên múc thêm chén thứ ba.

Ngoại thấy tôi còn đói nên biểu con gái đi lùi khoai lang, cũng đào ở ngoài vườn luôn.

Vừa nhìn tôi ăn, ngoại vừa vuốt lưng tôi mà biểu, “Ăn từ từ thôi con, mắc nghẹn chết.”
Cậu kia là con trai của con gái ngoại, tên Nguyễn Quý Sinh.

Bây giờ là con nuôi của tôi.
Dượng Ba hỏi:
– Nhà anh được mấy người?
– Dạ, có bốn người, đều là nam hết.

Tôi thuộc dạng “Đoạt trưởng”.
– Ủa là sao cà? – Cậu Tư chưng hửng hỏi.
– Thưa, ba tôi đi lính, mẹ tôi có bầu mà không hay nên vẫn mần ruộng suốt, tới chừng sẩy thai mới biết…!Để tưởng nhớ đứa con vắn số, mẹ coi “ảnh” là vai trưởng, do đó xếp tôi xuống hàng thứ hai.
– Vậy là cái thai đã thành hình rõ ràng rồi…!
– Dạ, gần sáu tháng rồi mà cái bụng của mẹ mới “trương” lên chút ít.
Dượng Ba nhận xét:
– Rõ ràng là cái thai đã có điều chi bất thường từ rất sớm.
– Dạ, cha tôi thường nói cũng may không sanh “ảnh”, chứ nếu “ảnh” ra đời với thân thể dị dạng hay đầu óc khiếm khuyết thì tội nghiệp lắm.
Sắp nhỏ đã vô bàn ngồi đông đủ hết.

Bàn của chúng được đặt dưới gốc cây bình bát bên hông trái của căn nhà.

Riêng Nguyễn Quý Sinh và Vệ Thương thì ngồi chung bàn với người lớn trong nhà.
Trưa nay mấy ông không nhậu, đặng để dành sức cho tối nay “chiến đấu” tiếp.

Cánh đàn bà đã hứa sẽ thết đãi món gà hấp nước mắm, gỏi sầu đâu với tôm – thịt và bánh cóng.
Dượng Ba và cậu Tư mời Vệ Thu kể chuyện bên xứ người, và ông kể rằng:
– Có bà Bắc Kỳ di cư 54 nói vầy, “Tao lạy chúng mày.

Gia đình tao bỏ đất Bắc vào Nam năm 54 để tìm đường sống.

Tưởng đâu yên thân, ngờ đâu chúng mày kéo đến năm 75, làm gia đình tao phải bỏ hết nhà cửa và tài sản gầy dựng ở miền Nam mà vượt biển sang Mỹ.

Bây giờ thì chúng mày kéo đàn, kéo lũ qua đây tiếp…”
Dượng Ba bình phẩm:
– Số thật tâm muốn chống thì đều bị đâm sau lưng nên phải dẫn gia đình tháo chạy vô đây.
– Số đó hãn hữu còn hơn nước trên sa mạc.

– Cậu Tư nhếch miệng cười.
Vệ Thu gật đầu:
– Sống ở đâu mà mình phải nghi kỵ và đề phòng cả người sanh cùng địa phương thì nơi đó là Địa Ngục.

Hồi xưa, thầy dạy Sử – Địa thường nói với tôi như vậy, tôi không tin, và giờ thì tôi đã tin và hiểu.

Lúc mặt trời vừa tắt nắng, nhà mát dựng nơi sau hè của dòng họ Trần đã biến thành một quán karaoke.

Xấp nhỏ gầy sòng bài Tiến Lên và Đếm Nút, lát nữa Vệ Thu sẽ chỉ chúng cách chơi Xì-phé.

Còn dì Ba và mợ Tư thì lo phần bày mâm – sắp chén.
Vệ Thu với mợ Hai song ca bản “Người tình” của nhạc sĩ Phương Kim theo tông giọng của song ca Chế Linh – Hương Lan, để thử phẩm chất âm thanh.
– Bài “Nhà anh – Nhà em” của hai tác giả Anh Sơn – Hà Liên Tử mà hát trong đám cưới là chúng quánh cho mỏ máu không.

Đứa nào ca nhái giống Chế Linh là hết đường về luôn.

– Mợ Tư pha lửng.

Mấy người kia cũng kiếm cho bằng được những bài ca không hợp hát trong đám cưới.

Bị “réo tên” nhiều nhứt là nhạc sĩ Lam Phương và nhạc sĩ Vinh Sử; nghĩ sao vô đám cưới mà hát, “Cuối cùng là tình bơ vơ, cho anh xin một câu trăn trối”, “Thôi em ra đi về nơi xứ xa, đêm Đông cô đơn buồn cho kiếp không nhà” hoặc “Trời ơi, anh đã xa tôi mất rồi!Tại anh gian dối nên làm khổ tôi…”
Đờn ca hát xướng một hồi cũng mỏi miệng, nên chuyện biểu diễn văn nghệ bị dẹp qua một bên.
Cánh đàn bà và xấp nhỏ lui vô trong nhà ngồi chơi, để cánh “tu mi nam tử” ở lại nhậu nhẹt và tán dóc.

Dì Ba ướm hỏi mợ dâu về người khách ghé nhà chơi, rồi hỏi cơ rằng có muốn quen với ổng không.
Ai ngờ mợ Hai hỏi cơ lại:
– Chả nghèo lắm.
– Thôi đi bà, hai người hết xí-quách rồi, còn sống được bao lâu mà sợ khổ? Thương thì xáp lại đi.
Mợ Tư cũng hùa theo:
– Có gì tui năn nỉ cha Út cho.
Mợ Hai đánh trống lảng:
– Mấy bà làm củ kiệu chưa?
Dì Ba bĩu môi:
– “Muối dưa cải – ngâm dưa chua – mần củ kiệu”, Tết nào tụi tui không làm.
Thấy trời nổi gió báo mưa, mợ Tư lo lắng chạy ra coi, rồi ngoáy đầu vô kêu hai bà bạn:
– Kêu mấy chả “tan hàng” đi.

Khuya lơ khuya lắc mà còn ngồi đó “ca – múa nhạc cung đình” nữa.
Dì Ba cự:
– Gì “cung đình” bà?
– Thì tụi mình là “nữ tỳ” của mấy chả mà.
– Hông, tui là Võ Tắc Thiên, để tui ra…
Mợ Hai can:
– Thôi, để cho mấy chả “vui ca xang rồi đi tiến binh ngoài ngàn” đi.
Mợ Tư trề môi:
– Đánh tốt thí còn chơi không nổi chớ ở đó tiến binh.

Ở ngoài này, cánh đàn ông cũng đang lục tục thu dọn “tàn tích” để vô nhà ngủ.

Gió lạnh càng lúc càng hung, cơ hồ muốn trút bão và gieo dông lốc.
Dượng Ba nói:
– Mấy bà đó hình như đang nhóm lại để nói xấu anh em mình.

Sao tui nhìn mặt con vợ tui nó gian quá mấy ông ơi?
– Chị tui mà ông nói xấu hả?
– Làm người là phải trung thực…!- Thấy cậu Tư dứ dứ nắm đấm trên đầu mình.

Dượng Ba chữa lời.

-…!Mà muốn “vẹn toàn lãnh thổ” thì phải biết ba xạo.
Vệ Hai góp ý:
– Nhậu thêm tiếng nữa rồi giải tán.

Có lẽ nhờ men rượu nên ông bạo gan hỏi về nguyên do dẫn đến cái chết của cậu Hai.

Cậu Tư bùi ngùi thuật lại rằng:
– Ảnh đi làm thợ hồ, hít ba cái bụi mịn riết rồi bị lao phổi ho ra máu.

Gia đình mới bán miếng đất hương hỏa ở gần đây để chạy tiền thuốc men lo cho ảnh, nhưng sợ ảnh biết sẽ cản nên xin người mua từ từ lấy đất.

Người này nghe hoàn cảnh vậy cũng thương tình, nên không hối thúc chi sất.

Sau hơn nửa năm chống chọi với bịnh tật, ảnh thác.

Người này lại phải đợi đủ một trăm ngày nữa mới lại lấy đất, vì sợ hương hồn của ảnh tới đòi.

Trước lúc dọn vô ở và canh tác, người này có làm một mâm cơm cúng đất đai và một mâm cơm cúng ảnh.

Kể từ ngày đó, gia đình người này phất lên như diều gặp gió, hoa màu tốt tươi chưa từng thấy, mối lái đều là hạng trung tín, chắc kèo.

Nghĩ rằng nhờ ơn ảnh phù hộ nên năm nào người này cũng ghé nhà đốt nhang, tặng quà cáp và biếu chút đỉnh tiền.

Năm thằng Thương vô Đại học, người này còn lo học phí giùm; ai ngờ đâu nó rớt cái đụi.
Mới nói dứt câu, thằng Ba con cậu Tư chạy ra nhắn rằng má biểu ba vô ngủ đặng sáng mơi qua thăm nhà ngoại.

Nghe vậy ai nấy đều cười xòa, rồi người này hối người kia quét dọn và thu gom rác rến, chén dĩa cùng nồi – niêu – xoong – chảo – ly – nhạo dơ.
Cuộc vui đã tàn, trong nhà mát chỉ còn lại Vệ Thu còn khá tỉnh táo và hai chàng tài-xế xỉn quắc cần câu.

Thấy Tài – Đức đã ngoẹo cổ ngủ say, ông đỡ từng người nằm xuống tấm chiếu sạch, đắp mền – kê gối cẩn thận rồi mới xỏ dép ra ngoài sân ngắm trăng.

Năm nay không có Ba Mươi, nhưng không thiếu những bài viết đòi bỏ Tết Cổ truyền để Nước Nhà đi lên.

Họ làm như bỏ Tết xong cái Quốc Gia giàu liền.

Bỏ hết đi, bỏ hết mọi thứ của Ông Bà Tiên Tộc mà họ cho là cổ hủ – lạc hậu đi, rồi ngày sau họ sẽ thấy cái thảm cảnh kia…
Trời hù mưa mấy lần mà chẳng rớt một hột.

Mảnh trăng lưỡi liềm cong cong nằm chơi vơi như sắp chìm xuống biển tinh tú rực rỡ.

Mùi nấu bánh tét và nồi thịt kho nhà hàng xóm bay sang sau hè nhà họ Trần, hương thanh bình ngày Xuân cứ thế đưa hồn ông về miền ấu thơ sáng trong tựa lòng gương.
Cái thân già không cho phép ông thưởng ngoạn Ngân Hà quá lâu, nên ông đành lui gót vô trong nhà.

Vệ Thu bước lại bàn thờ gia tiên của nhà họ Trần, rồi lần tay lấy ba nén nhang mà châm lửa đốt, sau đó cắm vô bát hương tráng men sứ xanh.

Ông ngước nhìn lên di ảnh của cậu Hai, đoạn thầm khấn trong đầu rằng:
“Thưa anh Hai, tôi tên là Vệ Thu, nay xin kính anh ba nén nhang.

Trước là để chào hỏi anh, sau là để thưa chuyện với anh một tiếng.

Tôi với mợ Hai giờ tóc đã nhuộm màu sương, sống hôm nay – không biết ngày mai có còn tỉnh lại được hay không, nên nhân ngày nào còn mạnh giỏi, ngày đó tôi muốn được cùng mợ hủ hỉ với nhau làm bạn già…”
Một cơn gió lạnh thổi qua làm ba nén nhang tắt ngúm.

Không gian tăm tối tới rợn người.
Đôi mắt người đàn ông cả đời khổ vì tình ấy ầng ậc nước mắt.

Ông cay đắng chắp tay hỏi:
– Anh…!không đồng ý hả anh Hai?
Có ai đó đặt tay lên vai trái của ông mà thì thầm, “Trăm sự nhờ anh Ba lo cho ẻm.”
Đèn điện phựt sáng.

Ba nén nhang cũng cháy đỏ trở lại.

Hơi lạnh sau ót ông theo đó mà tan biến đi.
Mợ Hai ngây người nhìn ông ghệ đứng khóc trước án thờ chồng mình.

Rồi đưa mắt ngó lên di ảnh của chồng, dường như chồng bà đang mỉm cười mãn nguyện với hai người…
oOo
Tín nằm nhà thương đã được một tuần hơn.

Đương nhiên vẫn còn ê óc và nhức đầu thường xuyên, chưa kể tới là mình mẩy ê ẩm và đau từng khúc xương.

Anh Ba Hói và ông chủ nhiệm hứa rằng sẽ tìm cách đưa thân nhân của anh xuống thăm anh.

Bây giờ tụi nó rình dữ lắm, nhất cử nhất động đều có thể gây ra án mạng liên hoàn.

Bữa nay Xương Tuyết nấu nui thịt bằm với tôm khô, ai cũng có phần.

Đáng ra anh tính bỏ tôm nhưng sợ Tín sẽ bị nổi phong nên đành thôi.
Bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” không biết kiếm đâu ra ghế xếp mà người nào cũng có chỗ ngồi đàng hoàng.

Chàng bác sĩ Long Xuyên mượn được cái bàn gấp của căn-tin, nên đem lên đây cho mọi người xài.

– Ngon – dở gì cũng mong mọi người ăn vị bụng giùm tôi cho hết.
– Có người nấu cho ăn là mừng rồi.

– Đức Hoàng bật cười, rồi biểu người anh đồng nghiệp kể chuyện.
Xương Tuyết bèn kể:
– Ba tôi đã từng gặp bác Duy Khánh một lần.

Lần ấy là trong chuyến “lưu diễn” chui của bác và những ca sĩ trước năm 75.

Bác ở trên sân khấu sao, ngoài đời hệt vậy.

Khuôn mặt lúc nào cũng tươi cười và rất dễ gần.

Nhân cơ hội được gặp mặt bác, ba tôi có phỏng vấn bác về tiểu sử sáng tác của một số nhạc phẩm, và được bác giải thích ngắn gọn cho biết.

Sẵn đây, ba tôi mới khoe luôn mình có một ban nhạc nhỏ chuyên đi hát đám cưới, thường lấy bài của bác và những nhạc sĩ cùng thời với bác mà đem ra phục vụ văn nghệ cho bà con.

Ba tôi cảm nhận được niềm xúc động trong đôi mắt bác và một lời cảm ơn không thành câu trên môi.

Vài phút sau, chắc có lẽ đã lấy lại được bình tĩnh, bác mới hỏi ghẹo ba tôi về những chuyện riêng tư trong đời sống của ba, và ba tôi cũng pha lửng lại.

Tiếc rằng bác không thể nán lại lâu hơn được nên cuộc gặp gỡ khá ngắn ngủi.

Và ba tôi cũng buồn vì không thể ca thử cho bác nghe một đoạn nhỏ, để bác “chấm điểm” và phê bình giùm.
Tống Ngạn hỏi lúc đó bác Duy Khánh đang làm gì, và gã điên trả lời như sau:
– Bác đang đứng hút thuốc trong lúc đợi xe tới rước.

Anh Ba Hói vỗ đùi cái đét, rồi chỉ mặt thằng em mà hỏi:
– Tao nhớ có thằng “tuyên ngôn độc lập” bỏ thuốc, rồi sao?
Gã điên cười trừ:
– Bỏ hổng được.
– Biết vậy há? Tính làm Vũ Hoàng Chương đệ nhị hay gì?
– Ổng nghiện ma túy cha ơi.
Đức Hoàng pha lửng:
– Anh Việt Thu cũng “nghiện” thuốc.

Chí Công giựt mình hỏi:
– Thuốc gì?
– Thuốc Tây.

Ông bị bịnh nan y mà.

Rồi gã trai Bảy Núi tiếp:
– Nếu không bị bịnh thì ông Thu đẹp trai dữ lắm.

Bịnh vô, ốm nhom ốm nhách, mất hết nét đẹp bẩm sinh.

Chí Công tươi cười hỏi thằng bạn nay đẹp như tiên:
– Mày coi tao ốm hay mập thì đẹp?
– Mày mập hay ốm thì đều xấu quắc như nhau thôi con.
Đáng ra y không nên đặt câu hỏi này với thằng ba lơn như nó.

Mặc kệ nét mặt chỉm bỉm của thằng bạn, Đức Hoàng lại nói:
– Mà cũng ngộ, bịnh tật đầy mình mà ít sáng tác bản nào lụy tình, phần đông là những bài mang giai điệu trầm hùng, du dương và khẳng khái.
Khán Bình giờ mới có cơ hội mở miệng:
– Cái đó thuộc về bản chất, chẳng liên quan gì tới thể chất hết.

Như Trịnh Công Sơn đâu có bài nào mang giai điệu giống Anh Việt Thu đâu.
Tống Ngạn bổ sung:
– Anh Việt Thu bịnh nhưng không trốn lính, còn cha kia khỏe như trâu nhưng trốn lính như cơm bữa.
Anh Ba Hói kéo chủ đề lại:
– Tao nhớ hồi đó có phỏng vấn một nhỏ ca sĩ sau giờ diễn của nó.

Mày nhớ con đó không Tuyết, gì đâu mặt mày quạu đeo, đám ái mộ nó còn binh lấy binh để và trách tao “dô dziên” vì người ta đang mệt mà hỏi tới hỏi lui.

– Sao mà người ta vui vẻ được anh? Tại toàn nhảy không, còn phải hát nhép cho ăn khớp với bản nhạc, mệt gần chết thì nói sao nổi.
– Ờ há! Nếu không có cái danh “Ca sĩ”, tao còn tưởng mấy đứa nó là “Vũ sĩ”.

Ca thì không có bao nhiêu, nhảy thì nhiều, hát nhép thì tràng giang đại hải.
– Nếu như anh để ý kỹ, khi bác Duy Khánh hát nhạc Đỏ, giọng của bác miễn cưỡng và gượng gạo khôn cùng.
Rồi gã điên thuật lại lời kể của cha:
– Để tránh bị bắt, ông bầu sắp xếp cho các ca sĩ hát nhạc Đỏ trước để đối phó, còn nhạc Vàng thì nửa buổi sau.

Biết ý, khán giả chỉ kéo tới nghe khi chương trình đã biểu diễn được một nửa.

Về sau bị “bắt bài”, ông bầu mới để cho các ca sĩ hát xen kẽ cả hai thể loại nhạc, đương nhiên nhạc Vàng đã bị sửa lời rồi.
Hầu như các nhạc sĩ ở miền Nam đã tưởng dòng tân nhạc ấy coi như chấm dứt kể từ đó, không còn ai ca và nghe nữa.

Rốt cuộc, bây giờ nó đã quay trở lại.
Anh Ba Hói chợt cười cái khì, rồi kể:
– Tôi nhớ hoài một “Đi-ra” ngoài ngoải, bỉ bôi nhạc sĩ và ca sĩ ở miền Nam trước năm 75 rất nặng lời.

Ai ngờ lại lấy tên của một trong bốn “Tứ trụ nhạc Vàng” mà đặt tên cho con của mình.

Tín cũng biết tới người này, nhưng không rảnh để tìm hiểu sâu, nay nghe anh Ba Hói nói vậy thì vừa ngán ngẩm vừa mắc cười.
Tống Ngạn hỏi:
– Anh kể cho tụi tôi nghe chuyện ở Kiến Hòa được không Tuyết?
– Người lớn trong nhà tôi kể rằng ở đất Kiến Hòa có một ông bác sĩ chuyên chữa bịnh miễn phí cho bà con, hễ ai cần là ông lại lặn lội đi tới cấp thuốc và thăm khám.

Rồi một hôm nọ, ông bị “tụi nó” chặt đầu vì nghi ngờ nuôi lính; điều đáng nói ở đây là trong số những thằng đòi xử tử ông đã từng được ông chữa bịnh và lo thuốc.

Lúc mất, vợ ông đang mang bầu đứa thứ hai và đứa con đầu lòng của hai người còn chưa tới mười tuổi.

Sau năm 75, hai người con của ông đều thành tài: Một người làm nha sĩ, còn người kia là bác sĩ.

– Còn con “tụi nó”?
– “Lòi sĩ”.

– Đức Hoàng xen vô trả lời.
Đặng Xương Tuyết bật cười, rồi kể:
– Ông Hai Đạo Dừa đã từng lấy tiền túi ra mà mở trường làng xóa mù chữ cho bà con trong vùng, và mướn thêm thầy – cô giỏi về dạy.

Vậy mà sau năm 75, “tụi nó” vu khống Ông Hai loạn luân, điên khùng, lang chạ, tu lõa thể,…!
Ông Hai rất thương mấy đứa con nít.

Nhiều gia đình tản cư xuống Kiến Hòa sống đôi khi không kịp lo cơm nước cho xấp nhỏ trong nhà, xấp nhỏ nghe chùa của Ông Hai đãi cơm nước miễn phí bèn bơi qua ăn uống.

Gặp mấy đứa nhát, chỉ dám đứng thập thò ngoài mé “cổng”, mà trúng ngay lúc Ông Hai rời chòi thì thể nào cũng nghe Ông Hai mời, “Vô đây ăn cơm với ông Hai nè mấy con” hoặc “Cơm nước gì chưa? Nếu chưa thì vô đây ăn cơm với ông Hai nghen”.
Cho ăn đã rồi, trong số đó có nhiều khứa bội nghĩa tham gia “sáng tác” mấy tích truyện bôi nhọ và vu khống Ông Hai.

Khán Bình thở dài:
– “Cứu vật, vật trả ơn; cứu nhân, nhân trả oán.”
– Không phải trả oán mà là trả án.

Chúng bịa ra án loạn luân, lang chạ, tu lõa thể, lường gạt tín đồ,…!để trả ơn cứu mạng của Ông Hai.

Gia tộc Ông Hai giàu nứt đố đổ vách, ruộng vườn cò bay thẳng cánh, nguyên cái tỉnh Kiến Hòa ngày xưa không ai sánh bằng, thì lấy mấy đồng bạc cắc để làm gì?
Đức Hoàng hỏi:
– Anh có biết gốc tích của Ông Hai không?
Đặng Xương Tuyết gật đầu:
– Gia tộc Ông Hai Đạo Dừa theo Chúa Tiên Nguyễn Hoàng vô Nam.

Mỗi bận trong dòng họ có ai đó quen biết với người Đàng Ngoài là phải tra gia phả để tránh cưới lầm người cùng huyết thống.

Cái cuốn sổ gia phả ấy lâu đời tới nỗi trở thành cổ vật luôn.

Mà hầu như dòng họ Ông Hai rất ít có con cháu cưới người miền Bắc và Trung; người Hoa thì cũng nhiều, trong số đó có một người là bà cô hầu đồng rất linh.

– Tức là chỉ có phân nửa dòng họ Ông Hai theo Chúa vô Nam?
– Phải, thành thử ra phải cẩn tắc để vô áy náy.
– Mà sao anh biết rành dữ vậy Tuyết?
Gã điên chỉ nhếch miệng cười, rồi nói lảng sang chuyện khác:
– Ba tôi chơi nhạc cụ rất giỏi, còn tôi thì không biết chơi món gì.
Tống Ngạn cười hỏi:
– Sao vậy?
– Tại nghèo.

Tiền sách của tôi đã ngốn trọn rồi, đâu dám bày đặt đi học đàn học đóm hay mua nhạc cụ rồi nhờ ba dạy.

– Anh có từng viết bài khen ngợi người chính khách hay nhân vật lịch sử thuộc chính trường nào không?
– Không, luận Công – Tội thì có, chứ ngồi soạn bài diễn văn tâng bốc tận mây thì không.

Ngay cả thời Triệu – Đinh – Lê – Lý – Trần – Hồ – Mạc – Lê – Trịnh – Nguyễn cũng vậy.
Đức Hoàng le lưỡi:
– Anh mà liệt kê như vậy người ta lại gán cho anh mấy cái danh “mỹ miều” nữa bây giờ.
– Vậy anh suy nghĩ sao về cách liệt kê của tôi?
Đức Hoàng chỉ cười trừ, chớ không biết nói sao cho đỡ mích lòng.

– Tôi liệt kê như vậy cho gọn thôi.

Chẳng liên hệ hay liên can tới điều chi mà anh đang nghĩ trong đầu hết.
– Giờ chẳng lẽ nó nói nó thích trồng cây đào, cây mai, thì phải nói là “Tôi thích trồng cây đào miền Bắc và cây mai miền Nam” sao?
– Anh Ba…!”Rượu vào lời ra” mất vui.

Rồi gã điên lảng sang chuyện khác:
– Đọc Sử của người anh ghét cũng là cách để anh đối phó với họ.

Anh muốn đánh tâm lý chiến mà không chịu bỏ thời gian đọc sách của họ để nắm bắt tư tưởng của họ thì đánh làm sao được? Giống hệt như giao tranh ngoài sa trường mà không chịu cử quân đi do thám vì lý do, “Ghét nên không thèm nhìn tới cái mặt” vậy.
Tôi nhớ hoài tích truyện “Chửa đeo tướng ấn có ai chào?” trong sách “Túi khôn của người xưa”, truyện kể rằng thuở còn hàn vi Tô Tần đi tới đâu bị khinh tới đó, ngay cả họ hàng thân thích và vợ ông cũng không thèm nhìn tới mặt, ấy vậy mà tới chừng nghe ổng được vua một nước mời về làm tướng lại kéo nhau ra quỳ rạp nhận bà con.

Tô Tần thấy tình đời bạc bẽo mới ngửa mặt lên mà than, “Chửa đeo tướng ấn có ai chào ta?” Nhờ đọc tích truyện này từ hồi rất nhỏ mà tôi thấm thía được tình đời từ rất sớm.
Đức Hoàng hỏi:
– Anh còn tâm đắc với cuốn tiểu thuyết Tàu nào không?
– Tôi còn nhớ trong một cuốn tiểu thuyết của Tàu, đại ý một người tướng sắp bị xử trảm đã nói với người đã được mình cùng bạn bè phò tá lên làm vua rằng, “Mày lên làm vua mà mày quên phứt ai đã hậu thuẫn cho mày ngồi đó.

Không chỉ có tụi tao, mà còn cả lê dân bá tánh ở xứ này.

Mày suốt ngày cứ nói ý Trời cho mày làm vua.

Vua cái chó gì nếu như không có tụi tao và binh lính đổ xương đổ máu giành đất giành đai cho mày.”
Chí Công nhận xét:
– Nghe giống Lưu Bang xử Hàn Tín và những tướng tá khác quá.
Khán Bình gật đầu:
– “Được chim quên ná, được cá quên nom” là vậy.

Xương Tuyết lại tiếp:
– Nhiều người chê tiểu thuyết Tàu chứ tôi thấy nhờ nó mà tôi “sáng mắt, sáng lòng” về cái nhân tình thế thái và biến đổi thời cuộc.

Cứ hễ đọc xong một cuốn tiểu thuyết dã sử nước họ là lại thấy cái cảnh thanh trừng nội bộ một cách đáng khinh của kẻ được suy tôn làm vua, làm chúa.

“Phong thần diễn nghĩa” thì đỡ hơn một chút, vì nội dung đã hư cấu sang thần thoại diễm ảo nên không có người nào bị thanh trừng.
Tống Ngạn kể:
– Tôi nhớ hồi xưa đọc “Thuyết Đường”, tới đoạn La Thành chặt đầu Đơn Hùng Tín mà tức không thể tả, bởi lẽ Tần Thúc Bảo chịu ơn Đơn Hùng Tín mà tới chừng người ta lâm nạn không hề đứng ra bảo vệ hay nói một lời can gián với nhà họ Lý.

Tần Thúc Bảo vốn là anh họ của La Thành.
Cho nên bên bển mới có người dựng chuyện Cáp Tô Văn là kiếp sau của Đơn Hùng Tín, vì Cáp Tô Văn rất ghét quan quân nhà Đường và luôn truy cùng giết tận họ.

Anh Ba Hói tiếp:
– Từ đó có cuốn “La Thông tảo Bắc”, “Tiết Nhơn Quý chinh Đông”, “Tiết Đinh San chinh Tây”.
Chí Công nhận xét:
– Đọc truyện dã sử vẫn hấp dẫn và đỡ ngột ngạt hơn đọc chính sử.

Gã điên lại khơi gợi chủ đề mới:
– Giờ có thêm cái nạn nữa…
Anh Ba Hói hỏi:
– Nạn gì?
– Chữ nào không biết gốc tích thì đều đổ là chữ miền Bắc.
Đức Hoàng lấy làm lạ mới hỏi:
– Cho thí dụ được hôn anh?
– Vậy chứ mấy anh có biết “cái củng” là cái gì không?
Không có tiếng trả lời, gã điên trả lời luôn cho đỡ mất thời giờ:
– Cái đầm ngắn.

Chữ này Nam Kỳ rặt mà không xài, đòi để tiếng Pháp “Mini jupe” mới chịu.
– Hầu như chỉ còn dưới miền Tây là nhớ “Cái củng”.

– Anh Ba Hói bình phẩm.
– “Xiên lá cành xiên qua cành lá”, hàm ý mỉa mai những ai ăn nói móc họng hay có tật ưa đâm thọt người ta.

Anh có biết câu này chế từ bài hát nào không anh Ba?
Ba Hói bật cười:
– “Tình anh lính chiến” của nhạc sĩ Lam Phương: “Xuyên lá cành trăng lên lều vải.”
Gã điên giơ bịch trái cây lên và nói:
– “Trái bôm”, lấy từ chữ “Pomme” của Pháp, để phân biệt với cái “Ống bơm” và “Trái bom” người ta mới bỏ cái nóc nhà lên đầu nó.

Sợ Tín suy nghĩ hoài ăn không được nên mọi người tạm thời im lặng.

Chàng bác sĩ Long Xuyên nãy giờ làm “Linh hồn tượng đá”, song anh không lấy làm phiền mà còn cảm thấy rất vui vì được nghe mọi chuyện tranh luận và kể chuyện.
Sau bữa ăn, Tín cất giọng nói:
– Mốt tới mùa sen, mời mấy anh cùng tôi xuống ̣Đồng Tháp chơi một chuyến, rồi mua các sản phẩm về sen như đài sen, trà tim sen, mứt sen và…!củ sen chua ngọt.
Chí Công đặt câu hỏi:
– Cái đài sen với cái gương sen khác hay giống vậy anh?
– Cái đài sen với cái gương sen là một, thường thì trong này quen với chữ “Đài sen” hơn.

Mua hạt sen còn nguyên trong đài ăn cũng không khác gì hạt sen đã được lể sẵn bán theo bao.
– Còn búp sen là gì hả anh?
– Búp sen là bông sen chưa nở hết.
Khán Bình trách:
– Mày còn câu hỏi nào thừa thãi hơn không Công?
Xương Tuyết muốn giải vây cho Chí Công nên lên tiếng:
– Tôi đố mấy anh: “Cái cũi” là tiếng miền Nam hay miền Bắc?
Hầu hết đều trả lời là miền Bắc.
– “Cái cũi” là tiếng bình dân của giới nhà quê ba miền.

Bà cô bên họ tôi là Nam Kỳ rặt, ông bà – tổ tiên sanh đẻ ở trong này mà vẫn xài cái cũi thay cho gạc-măng-rê.
Ba Hói nhếch miệng cười:
– Nhiều người tưởng đâu đọc được sách của vài ông tác giả xứ Nam Kỳ là học được chữ viết trong này…!
Đứa em khùng của anh ta cũng nhếch miệng cười:
– Có rất nhiều chữ hiếm gặp, mà ông bà – tổ tiên đất Nam Kỳ đã từng xài, dưới sự hiểu biết và suy diễn của thế hệ sau bỗng chốc biến thành tiếng miền ngoài.
Rồi anh hỏi:
– Mọi người có biết chữ “Xẽo” không?
Không có ai trả lời anh.
– Không biết thì lật trang 579 của cuốn “Đại Nam Quấc Âm tự vị” quyển Hai của Paulus Huỳnh Tịnh Của ra coi.

Coi để thấy cái tào lao của đám sửa tên cầu “Xẽo Bướm” thành “Xẻo Bướm”.
Chí Công hỏi:
– Ngu ở chỗ nào anh?
– Người miền Nam mình có thói quen lấy số nhiều hoặc đặc điểm của vùng đó để làm tên địa danh.

Ở vùng đó cây bướm mọc ven dòng nước rất nhiều nên người đi khai khẩn thuở xưa mới đặt cái tên “Xẽo Bướm” cho nó.

Ngày nay tài lanh – tài lẹt sửa thành dấu hỏi, thành ra cái nghĩa tục tĩu như trên.
Đó là tiếng Nam Kỳ rặt của mình.

Và bây giờ nó đã “tuyệt chủng”.
Chàng bác sĩ Long Xuyên tính đi múc nu, nhưng đã bị gã điên cản lại rồi tự thân gã đi múc giùm.

Xong xuôi đâu đó, gã điên trở lại với chuyện ban nãy:
– Còn nữa, “Thịt kho tàu” cũng xuất hiện trong cuốn “Đại Nam Quấc Âm tự vị” quyển Hai, trang 349, nhưng cách giải thích của cụ khá sơ sài và quá vắn tắt.

Tôi cũng không hiểu tại sao cụ Của lại đưa nó vào sách của mình.

Đức Hoàng bèn mời người anh đồng nghiệp đố thử vài câu.
– Còn chữ “Cái quả”, theo mấy anh thì nó là Nam hay Bắc?
Chàng bác sĩ cười trừ:
– Nghe rất quen tai, nhưng thú thật tôi không nhớ ra nổi.
– Nó là chữ trong Nam, ngoài Bắc kêu là “Cái tráp”.

Nhờ có quen với mấy ông già Nam Kỳ bán đồ cổ mà tôi mới biết.
Rồi gã điên đặt câu hỏi tiếp:
– Còn một chữ nữa, cây gừa là tiếng Nam hay tiếng Bắc?
Chàng bác sĩ và Đức Hoàng ngó nhau cười ngất.

Rồi gã trai Ông Két nhường phần trả lời cho người đồng hương miệt Long Xuyên:
– Cây gừa không phải tiếng miền nào hết.

Nó là một cây thân gỗ gần giống với cây si, trên An Giang cây này mọc nhiều lắm.

– Thôi Tuyết ơi, mày mà đố một hồi là soạn thành nguyên cuốn tự điển Nam – Bắc luôn đó.
– Dạ, em nghe lời anh, em im đây.

Nhưng trước khi Tịnh Khẩu, cho em nói một lời sau cuối…
Khán Bình nãy giờ không trả lời được câu nào nên muốn thử sức với câu cuối.

Nhưng người anh đồng nghiệp không hỏi mà lại nói:
– Cá chạch và cá kèo là hai loài cá khác nhau.

Vậy mà có một người khăng khăng nói ngoài Bắc kêu “cá kèo” là “cá chạch”, và nói ai kêu “cá chạch” là bắt chước tiếng ngoài ngoải.

– Rồi, vừa lòng rồi phải hôn? Mày có nói khản cả cổ cũng chẳng thay đổi được gì đâu.

Chỉ có tao với cậu Hoàng hiểu mày nên mới thương mày nổi thôi.

Có khát nước không tao mua nước mía – hạnh cho? Mày gật đầu là đồng ý phải hôn? Rồi, lát nữa tao mua cho mày một ly cối.
Rồi anh Ba Hói phá lên cười:
– Tao nói “Ly cối” thể nào cũng bị quở là xài chữ Bắc.

Bắc khỉ mốc chứ Bắc.

Trước lúc đưa Tín lên Cô Tô tịnh dưỡng, chàng bác sĩ và bạn bè đồng nghiệp thăm khám cho anh ta thật kỹ lưỡng.

Cũng may chiếc xe vừa đủ chỗ cho bảy người.

Tín ngồi giữa Xương Tuyết và Ba Hói ở băng chót.

Băng giữa thì Đức Hoàng và Chí Công.

Hai cái ghế kia đương nhiên phải dành cho người lái xe giỏi là Tống Ngạn và Khán Bình.

Gã trai Sài Gòn vừa quay bánh lái để lách cái ổ gà, vừa hỏi thăm sức khỏe của Tín:
– Có lâu lư hôn mậy?
– Tôi vẫn khỏe, thưa anh.

– Chừng nào muốn ói thì nói tao một tiếng, tao dừng xe.

– Dạ.
– Hoàng.
Không nghe tăm hơi chi sất, Tống Ngạn đưa mắt nhìn kiếng chiếu hậu vì tưởng thằng bạn đã ngủ, ai ngờ đâu nó lõ mắt nhìn gã mà không thèm hé miệng đáp một tiếng.
– Hỏi hổng trả lời hả mậy?
– Cẩu Tịnh Khẩu chung với thằng Tuyết rồi.

Thôi “Điên” đi với “Khùng” cho vui, cho có đôi có bạn.

Ai cũng tranh làm người “Tỉnh”, “Bậc Giác Giả”, “Kim chỉ nam” hết, thôi thì mình lui xuống làm kẻ tâm thần như Bùi Giáng chơi.
Nguyễn Chí Công rầu rầu trình bày:
– Tâm thần mà như Bùi Giáng thì thành “Bậc Giác Giả” rồi.

Có một giai thoại về cụ rằng: Sau năm 75, cụ chôm đồ trong một tiệm chạp-phô và bị bà chủ quán bắt lại.

Cụ mới cười biểu, “Mất Nước không la, mất mấy món đồ thì la lên bài hãi.” Vậy theo mấy anh, Bùi Giáng có thực sự bị bịnh tâm thần không?
Tống Ngạn thở dài thườn thượt:
– Hôm bữa tôi có coi qua một đoạn phim ma, kể rằng ở xóm nọ có hai gia đình sống sát nhà nhau, bà A thấy bà B cũng có con dâu đang mang thai như con gái mình thì nảy sinh lòng thù ghét và căm phẫn.

Cho nên nhân một lần tới thăm người em họ đang mắc bịnh sắp chết, bà ta liền xúi em gái ăn nhau thai còn nguyên cuống rốn để khỏe mạnh.

Trời xui đất khiến sao bà đó lại đồng ý lia lịa.

Vậy là bà ta liền quay về ám sát con dâu bà B.

Run rủi ngày đó mưa tuyết trắng trời trắng đất, thành thử ra bà ta đi chậm hơn thường ngày tới mấy tiếng liền.

Ngay khi thấy cánh cửa nhà hàng xóm không khóa và bên trong tắt đèn tối om, bà ta lẻn vào rồi nhanh như cắt xuống dao hạ sát người thai phụ đáng thương.

Tới lúc nhìn lại, thì hỡi ôi người mà bà ta vừa giết và mổ bụng moi thai lại chính là con gái của bà.

Hóa ra người hàng xóm thấy cổ ở nhà một mình vừa lạnh vừa đói rất tội nghiệp, nên đã dìu qua nhà đặng tiện bề săn sóc.

Ai ngờ đâu cổ mới vừa thiu thiu ngủ thì lại bị mẹ ruột sát hại dã man…!Về phần bà ta, bà đã hóa điên và biến thành một con quỷ dữ chuyên đi hại những người lạc đường trên núi.

Anh Ba Hói dụi dụi đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ:
– Ngay từ đầu gieo Tâm Ác thì đã tự chiêu về Nghiệp Chướng cho mình rồi.

Nên “Bồ-Tát sợ Nhân, chúng sanh sợ Quả” là vậy.
Thường Khán Bình nói trong khi đang lột trái quýt Lai Vung, mẹ của Tín gởi lên cho anh ta ăn tẩm bổ:
– Cái đám hồi trước chửi Thương Hận thậm tệ và phán ảnh dựa hơi cái chết của Lê Hoài Sang để nổi tiếng giờ im ru bà rù rồi.

Không biết bây chừ có hối hận chưa ha?
Anh Ba Hói nhếch miệng cười:
– Tụi nó mắc bận đi kiếm người khác để rủa xả và lăng mạ rồi.

Chửi cho đã cái nư trước, còn người ta oan hay không oan thì thây kệ mẹ.

Mà cũng ngộ ghê, đám cầm quyền thì binh chết ông chết bà, còn người dân thì vùi dập cho tan xương nát thịt.

Châu Lợi đón họ ở quán cà-phê cóc hôm bữa.

Kể từ dạo đó, vợ chồng chủ quán rất nể vì ông và các hiền đệ.

Bởi nhờ lời khuyên của Trì Thương mà bà đã không đi lên Sài Gòn cự lộn, thành thử ra không bị chém chết.

Mất tiền nhưng cái mạng còn nguyên, thiệt là hên.

Nguyễn Chí Công cầm tờ thực đơn lên đọc cho có, bởi trong đầu y đã định sẵn uống sữa đậu nành đá.

Y hỏi:
– Mày uống gì Hoàng?
– Mỗi bận mà không biết uống gì, tao sẽ uống trà sữa cà-phê.
Nguyễn Chí Công rùng mình:
– Nghe là muốn giữ cầu rồi.
– Nói là muốn đục vô cái mỏ mày rồi.

Mày uống sữa đá nó còn chọt bụng hơn tao.
Thường Khán Bình vừa cột lại dây giày vừa châm chọc:
– Nó Tịnh Khẩu được một tiếng là kỳ tích há tụi bây?
Hai đứa kia đồng thanh:
– Phải.
– Tao Tịnh Khẩu một tiếng là để lấy hơi chửi tụi bây mười tiếng đó mấy con.

– Tuyết.
– Bạch Thầy, chuyện chi?
– Có những chuyện không nên ráng quá sức.

Mình không thể đứng bên này nhà mà chỉ cách làm vườn cho người ta được đâu.

Nếu người ta muốn biết cách làm vườn thì phải tự dấn thân và sẵn lòng chịu cực chịu khổ.
– Cũng may con không có “tơ vương khanh tướng” nên chẳng sợ bị chụp mũ.
– “Chẳng sợ” cũng là một loại Chấp.

Trong đầu còn mặc định mình là như vầy, như kia thì vẫn còn khổ vì Chấp do mình tự sanh ra.

Còn nhớ chuyện Đấng Thế Tôn phải cậy tôn giả Mục Kiền Liên tới hoằng pháp cho một ngôi làng nọ không?
– Dạ có.
– Ngài biết mình vô duyên với họ thì Ngài không lui tới nữa, và nhường cái Duyên đó cho đại đệ tử của Ngài.

Ngài không Chấp rằng tôi phải làm thế này, thế kia cho họ hiểu tôi; Ngài bình thản đón nhận sự ác cảm và kỳ thị của họ, bởi Ngài là bậc Giác Giả, đã phá tan hết mọi Kiến Chấp trong lòng.

– Con mà làm được thì đã nhập Niết Bàn rồi…
– Đừng nói lẫy, Tuyết.

Hãy quán tưởng lại những lần thoát chết hi hữu trong đời mình.

Con đã được cho cơ hội sống hết lần này đến lần khác không biết bao nhiêu lần…
Như con đã từng nghĩ, “Nếu không trải qua những cảnh khổ trong đời thì khó lòng viết ra những áng văn chân thật.” Con phải thọ Khổ thì mới thấu được Chánh Pháp.

Con chỉ mới Khổ một chút thôi Tuyết.
“Tin!”
Tiếng kèn xe hơi phát ra từ một chiếc Chevrolet – Corvette màu trắng mới cắt chỉ.

Thương Hận và Phá Vân mở cửa xe bước xuống, người chào hỏi mọi người trước là chàng nhạc sĩ bụi đời.

Kể sơ qua một chút về gốc tích nguồn tiền mua xe: Để lấy lại lòng tin với đối tác và mọi người, gia đình Lê Hoài Sang đã đưa thêm hai triệu rưỡi tiền bồi thường cho anh, anh mới trích ra năm trăm ngàn mua xe.
Thương Hận mở cửa xe ở băng sau, rồi hiền hòa mời:
– Tín lên đây ngồi nè Tín.

– Cảm ơn anh Tư.
– Tụi tôi lên núi trước nghen?
– Ừ, đi đi.


– Anh Ba Hói trả lời thay.
Lê Đức Hoàng trầm trồ:
– Xe đẹp quá anh!
– Dạ, vô trong hãng mua cho chắc ăn.
Bà chủ quán mời nhóm Tăng sĩ uống sâm rong biển – thảo mộc cho mát.

Châu Lợi và Phá Vân chắp tay và nói “Sadhu”, rồi làm ấn thủ chúc phúc cho gia đình bà.

Tuy đã biết đường lên núi nhưng Tống Ngạn vẫn không dám cầm lái lần hai, vì quá ư khó đi và gập ghềnh, lại bị nhiều cây lớn và bụi cỏ cản trở tầm nhìn.

Nên đành cậy Phá Vân chở giùm.

Trong lúc đợi Thương Hận và Phá Vân trở lại, mọi người vô quán nước ngồi nói chuyện chơi.

Anh Ba Hói hỏi Châu Lợi cảm nhận gì về lùm xùm của nhóm cư sĩ Hòa Hảo ở trại tế bần Bửu Sơn.

Châu Lợi bật cười, rồi nói:
– Quy Y Tam Bảo đặng xuất gia thành Tăng – Ni hoàn toàn khác với Quy Y Tam Bảo để nói lên mình là một người theo Đạo Phật và đã được nhận Pháp Danh từ người chủ trì buổi Lễ.
Đặng Xương Tuyết nêu ví dụ:
– Thí dụ như ca sĩ Hà Thanh, ca sĩ Thái Thanh, ca sĩ Quỳnh Giao, nhạc sĩ Anh Việt Thu, nghệ sĩ Hùng Cường,…!Cô, bác đều có Pháp Danh nhưng đâu phải là nhà tu hành hay thuộc hàng Tăng Thống.
Pháp Danh của Anh Việt Thu là “Minh Hạnh”.

Cái tên “Kim Sang” của ông lấy từ tên của vị sư trụ trì bên Cao Miên, ngôi chùa này là nơi mà ba má ông đã lui tới cầu tự.

Tên đầy đủ của ông là Huỳnh Hữu Kim Sang.
Châu Lợi tiếp:
– Nhiều người theo Phật chứ không hề hiểu Quy Y Tam Bảo gồm mấy loại và hình thức diễn ra như thế nào.

Họ tin vào “thầy vẽ” trên mạng chứ không chịu tìm hiểu kinh điển – tạng luật chính thống.

Vợ chồng chủ quán tính bật nhạc Xuân lên cho quán nhỏ thêm xôm, song sợ làm Châu Lợi phiền lòng nên đành thôi.

Dù đã ở đây hơn mười lăm năm, hai người chưa từng ghé đến tịnh thất trên đỉnh Cô Tô của họ, và mới biết tên từng người được đúng một tuần hơn.
Anh Ba Hói lại hỏi:
– Thầy nghĩ gì về sách có yếu tố triết lý Phật Giáo?
– Có nhiều cuốn sách mang yếu tố Phật Giáo chỉ có mỗi cái tựa nói trúng tinh thần của đức tin này, còn nguyên tác phẩm thì không.

Họ diễn giải lan man tới nỗi các Thầy tôi phải bật cười.

– Vậy Thầy có cuốn nào ưng ý không?
– Có chứ.

Nhưng tôi không thể nói tên sách và tác giả ra được vì không muốn khiến người khác rối trí.

– À…!Tại vì các Trưởng lão và quý Thầy đây thấy tác giả nói đúng và trí huệ, nhưng vô tay người khác thì họ lại nghĩ sách xàm, ba láp và truyền bá mê tín dị đoan.
Có tiếng kèn xe hơi từ ngoài lộ vọng vô.

Đức Hoàng đứng dậy đưa mắt ngó ra, chừng thấy xe của người khác thì tiu nghỉu ngồi xuống.
– Vậy theo Thầy thì tựa sách nào hay? Cái tựa thôi nghen.
– Tôi hiểu mà…!”Bởi vì thấu hiểu cho nên từ bi”, “Chỉ là một cội cây”, “Hành trình về phương Đông”, “Muôn kiếp nhân sinh”,…!Tác giả và người dịch rất khéo chọn tên cho quyển sách.
– Còn tác giả viết sách về Phật hay thì có ai hả Thầy?
– Nếu nói viết về Phật Giáo mà hoàn toàn bằng chân tâm và không diễn giải theo ý mình nhiều thì tôi chỉ thấy có mỗi tôn giả Ananda và Ma Ha Ca-Diếp.

– Thầy thấy có nên lồng ghép yếu tố Phật Giáo trong một cuốn sách Chính Trị không?
Châu Lợi lắc đầu, rồi nói:
– Bản thân Phật Tổ hoàn toàn có thể hiệu triệu tín đồ đứng lên cứu lấy dòng họ Thích Ca, nhưng Ngài không làm vì Ngài hiểu lẽ Vô Thường.

Ngài có chỉ cách và đưa ra nhiều lời khuyên trị quốc cho các vua chúa, nhưng thể hiện quan điểm chính trị hay yêu – ghét một nhà lãnh đạo nào đó thì không bao giờ.

Ngừng một lát, rồi Châu Lợi mới tiếp:
– Thí chủ có biết tại sao Đề Bà Đạt Đa lạc lối không? Vì ông ta vướng mắc vào Chính Trị, ông ta thấy Đức Phật được các bậc quân vương kính trọng nên cũng tìm cách thể hiện mình là một Bậc Giác Ngộ.

Nhưng dẫu có đắp nặn cỡ nào, sình lầy cũng không thể hóa thành tượng vàng, cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, những đệ tử thân cận và tín đồ bỏ Phật đi theo ông ta nhận thấy chân tướng nên đã hắt hủi, xa lánh và rời khỏi ổng.

– Tôi vẫn chưa hiểu, thưa Thầy?
Châu Lợi mỉm cười:
– Đâu phải thí chủ viết nhiều sách là sẽ trở thành đại văn hào phải không?
– Tôi đã hiểu, cảm ơn Thầy.
– Lành thay.
Rồi Châu Lợi tiếp:
– Con người thường ngộ nhận ai đó là người tốt hoặc là bạn chỉ vì sống theo quan điểm của mình, cũng ghét chung một người với mình, đi theo đường lối chính trị, tư tưởng – sở thích như mình,…!cho nên họ mãi mãi tự đọa vào bể khổ của Thiên Kiến và Chấp Ngã.

Ngược lại cũng vậy.

Tới chừng phát hiện bộ mặt thật hay những điểm sai trái của người đó, họ lại phẫn nộ vì cho rằng mình bị gạt.

Tự họ gieo cái Nghiệp Si, thì họ phải chuốc lấy cái Quả Khổ thôi.

Thí chủ nên tự tìm hiểu câu chuyện giữa tôn giả Nguyệt Quang và Đấng Thế Tôn thì sẽ hiểu cái Nghiệp Si là gì.
Anh Ba Hói trầm ngâm hỏi rằng Châu Lợi và các huynh đệ đồng môn tu theo hệ phái nào bên Phật.

Châu Lợi cười mà nói rằng:
– Ở đây không có Nam Tông, Bắc Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông, Thiền Tông,…!hay bất cứ cái tông nào.

Nên chúng tôi không mong muốn thí chủ sẽ gọi chúng tôi là Nam Tông.

Ở đây là Theravada – Nguyên Thủy Phật Pháp.

– Các Trưởng lão của các Thầy có để lại cuốn sách nào không?
– Có.

Duy nhứt một cuốn.
– Vậy lát nữa cho tôi coi được không?
– Sadhu.

– Tăng – Ni có được quyền tham dự chính trị không Thầy?
Châu Lợi lắc đầu, rồi ôn tồn giải thích:
– Cực chẳng đã, một người Tăng – Ni mới can thiệp vô chính trị và chuyện thuộc đời sống xã hội.

Nhưng nếu tình hình sau đó đã êm dịu rồi mà vẫn cứ quyến luyến quyền bính và tư tưởng chính trị, thì thôi họ nên hoàn tục và làm một cư sĩ luôn đi.

Vì cư sĩ muốn dính líu hay vướng mắc với thế gian thể nào cũng được, còn một Tăng – Ni thì phải tuyệt đối tuân theo Giới Luật của Đấng Thế Tôn và phải xả ly hết thảy mọi sự trên đời.
Khỏi cần biện minh cái kiểu, “Mỗi thời mỗi khác”, “Đất nước lâm nguy”,…!Đấng Thế Tôn dựa vào giấc mộng của tôn giả Ananda mà đã đoán trước rằng Tăng – Ni thời nay sẽ cải biên lời Ngài dạy và sửa đổi Giới Luật, số thì bởi muốn chứng tỏ ta đây tài giỏi và minh triết hoặc mắc chứng vĩ cuồng, số thì muốn thụ hưởng dục lạc và tài sản thế gian nên mới làm vậy, nhóm sau đông như quân Nguyên trên cái xứ này.
Thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, những vị tôn giả như Ananda, A-Na-Luật, Na-Tiên, Xá-Lợi-Phất,…!còn chưa dám nhận hay được xưng tụng là Đại Đức, Thánh Tăng, chân tu.

Thời nay chỉ cần ai sống vừa mắt mình là được “tấn phong” danh hiệu đó.

Đợi thêm gần một tiếng nữa, Phá Vân mới quay lại bằng đường bộ.

Hèn chi mà đi lâu dữ thần.
– Chết, ở đây có bảy…!À há! – Anh Ba Hói vỗ trán, rồi dựng cái ghế xếp ở trong xe lên.

Xe này nguyên thủy chỉ có bảy chỗ, nhưng hãy còn rộng nên họ mua thêm ghế rời dạng xếp để sẵn ở đó, thành thử ra ai cũng có phần.
Sau hơn nửa tiếng băng rừng, rốt cuộc nguyên đoàn cũng nhìn thấy cái tịnh thất ấy.

Phòng của Tín có cửa sổ trổ ra sân sau, tầm nhìn vừa vặn trúng với gốc cây sứ trắng đang nở hoa thơm ngát.

Chàng bác sĩ Long Xuyên cùng bằng hữu của Quý Tâm vẫn đang lúi húi sắp xếp các trang – thiết bị y tế cần thiết cho anh.
– Nước biển, thuốc men, bình oxy trợ thở, bông băng – gạc – cồn sát trùng, nẹp, nạng,…!tụi tôi để ở buồng kế bên nghen?
Tín chắp tay mà nói với người trai bản xứ:
– Rất cảm ơn anh và các vị.
Rồi người bác sĩ trẻ hỏi:
– Các Thầy có cần tôi chỉ cách xài không?
Châu Lợi đáp:
– Thưa khỏi.

Thủy Diệu lo được.
– À…
– Sách đâu thưa Thầy?
Trì Thương đưa cho Ba Hói một tập sách mỏng vánh, bìa đã ố vàng.
– Ủa? Sao hổng có chữ nào vậy Thầy?
– Càng viết thì càng diễn giải tầm bậy về Phật Giáo.

Mỗi bận tụi tôi định hoằng pháp hay viết sách, các Trưởng lão lại đưa nó cho tụi tôi.
– Ha…!Gặp đứa nào hổng ưa mấy Thầy là tụi nó quy chụp Thầy chửi các ông thầy tu khác.
– Phải, các Thầy tôi không can dự sự đời hay phê bình cách tu hành của ai.

Mỗi người đều có một cái Nghiệp riêng, chẳng ai có thể thay đổi được hết.
Nói xong, Trì Thương xin phép vô rừng hành thiền.

Bước chân của chú nhẹ hẫng như không.
Ba Hói luyến tiếc vì không thể bắt chuyện với người Tăng sĩ khả ái có đôi mắt sáng lạ thường.

Anh buồn hiu bỏ vô trong phòng Tín ngồi chơi với mấy anh em.

Đội ngũ bác sĩ đã ra về gần hết.

Chỉ duy chàng bác sĩ Long Xuyên còn nán lại.

Cũng may trước khi lên đây, Chí Công có nhắc nên mua đồ ăn – thức uống sẵn đặng lót lòng nên người trai đó mới có phần.
– Đội ơn quý vị nghen? Tôi đói meo râu rồi.

Hộp cơm tấm Long Xuyên làm ấm bụng người bác sĩ trẻ măng và có giọng nói hiền khô.

Uống thêm ly nước mía – hạnh, càng giúp anh khỏe lại.
– Tụi tôi mua nhiều món lắm.

Muốn ăn gì cứ hâm lại nhe? – Chí Công niềm nở mời.
– Dạ.

Mà cũng ngộ thiệt, mới ăn nui cái sột, giờ đói nữa.
– Thằng khùng kia đâu rồi?
Đức Hoàng cười:
– Vô rừng rồi.
– Má…!Tết nhứt tới nơi mà hổng chịu nộp bài cho tôi…!Nó đi hướng nào? Chỉ cho tôi biết đặng bắt nó viết coi.
Khán Bình nhăn mặt:
– Ui chu choa mạ ơi, mần răng tui biết eng đi mô hè? Bốn bề toàn rừng không…
Ba Hói quơ lấy gói bắp hầm, rồi hùng hùng hổ hổ xông vô rừng để kiếm thằng quỵt bài.
Hoàng hôn đã đổ bóng xuống triền núi Thất Sơn.

Nắng chiều hãy còn vương lại cái mùi hăng đặc trưng của vắt trưa oi ả và màu sắc dễ chịu hơn thời điểm ấy đôi chút.

Gió lộng len lỏi qua những ngõ ngách của khu rừng thốt nốt trầm mặc, thổi từng cơn hiu hắt vô đó như để ôn cố tri ân với hương hồn người khai khẩn.

Một đàn bò đang nhởn nhở gặm cỏ bên phiến đá rêu phong xanh mốc.

Mảnh trăng bạc phếch nằm chênh chếch sau ngọn cây sầu đâu già cỗi.

Vài cánh diều của xấp nhỏ sống trong xóm nghèo dưới chân núi thả hồn chơi vơi trên nền trời ráng vàng rực rỡ.

Đôi ánh sao le lói mọc sớm, để rồi cam chịu ẩn mình vì ánh sáng của vầng dương chưa chịu tắt.
Lần theo tiếng nước chảy róc rách, Ba Hói tìm thấy một cái khe suối cao chừng hai thước mấy, trên phủ đầy cây trinh nữ và dương xỉ.

Hình như có bóng áo cam đằng sau màn nước trong văn vắt.
– Oa!
Đó là một Chánh Điện rất trang nghiêm và có kiến trúc hoài cổ.

Ba Hói đưa mắt nhìn sang phải, rồi mở bừng mắt lên: Một bức tranh khắc hình Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi trên tòa sen ngàn lớp và hai bên là thị giả Ma Ha Ca-Diếp và Ananda hầu cận; theo thiển ý của anh thì hai ngài tôn giả đang đứng trên mặt nước vì anh thấy những vòng tròn lan tỏa như sóng nước xung quanh hai ngài.

– Sadhu.
Châu Lợi và Thủy Diệu ngồi đâu lưng với mé tường bên tay trái mà Ba Hói không để tâm tới.

Chỉ khi vị Tăng sĩ đã gần bảy mươi lên tiếng mới hay.

Anh chắp tay xá và thưa hai người trước khi lựa thế ngồi xuống cho thoải mái với cái bụng bia của mình.
– Ai điêu khắc bức tranh đẹp dữ thần vậy hai Thầy?
Châu Lợi cười và trả lời:
– Là hai Trưởng lão của các Thầy tôi.

Mất năm năm ròng mới hoàn thành xong.
– Còn cái bệ thờ này mua ở xưởng mộc nào vậy? Tôi muốn mua hai cái về biếu song thân hai bên.
– Là một Trưởng lão khác tự đóng, chạm trổ và cẩn trai – ốc.

– Nguyên cái Chánh Điện này là một tay các Đại Trưởng lão đời trước xây cất lên sao?
– Phải.

– Sao tôi thấy mấy ngôi chùa xây cất trăm triệu ở cái Nước này không hề đẹp bằng một góc cái Chánh Điện ở đây vậy?
– Vì các Đại Trưởng lão xây cất bằng lòng thành và tôn kính tuyệt đối nên mới tạo cho thí chủ cảm giác trên.

Trong đầu các Thầy không có khái niệm vẽ vời xây cất cho được nhiều tiền hay tranh đua với các công trình du lịch tâm linh khác, toàn tâm toàn lực chỉ dành hết cho Phật và Pháp.
Nơi bức tường mé tay trái là bài “Kinh Itipiso Katha” nguyên văn tiếng Pali được điêu khắc hết sức công phu và sắc sảo.

Ý nghĩa của bài Kinh đó là niệm ân Tam Bảo, tức Phật – Pháp – Tăng.

Châu Lợi giới thiệu:
– Nội dung của bài Kinh không dính dáng gì tới phù chú, đạo bùa hay thư ếm, nhưng nhiều người thời nay lại áp dụng nó vô những loại hình như trên.
– Ở đây có nhà vệ sinh không hai Thầy?
Thủy Diệu bật cười, rồi ra hiệu cho Ba Hói đi theo mình.

Châu Lợi đi sau chót.
Sau khi vượt qua hai ngách hang động tối om như mực, họ mới tới được khu vệ sinh nằm ở trên mặt đất và dưới tán cây gạo.

Thật ngạc nhiên vì nó được xây như dạng một nhà vệ sinh công cộng, có nước máy và điện đóm đàng hoàng, cũng như bồn cầu, bồn rửa mặt, máy hong khô tay, quạt thông gió và vòi sen tân tiến.

Trên mái lắp bảy miếng pin năng lượng mặt trời trông vẫn còn rất mới.
– Xây hồi nào vậy Thầy?
– Khoảng đâu mười hai năm trước, bằng tiền túi của Thủy Diệu.

Thủy Diệu ngó vô cái xô đựng dụng cụ lau chùi nhà vệ sinh mà phì cười.

Bữa nay tới lượt chú đi dọn dẹp.
– Nhiều lữ khách ghé vô sử dụng rồi làm tầy quầy.

– Châu Lợi vừa nói vừa chỉ cái ống nước mới coóng.

– Tụi tôi phải thay cái mới vì họ xả rác vô bồn cầu gây nghẹt.

Quý Tâm bỏ tiền túi sửa chữa giùm.
Ba Hói nhìn thấy cuộn băng vệ sinh nằm trong sọt rác, thì ái ngại hỏi thăm:
– Dọn mấy cái này có ngại hôn Thầy?
Châu Lợi nhún vai:
– Ngoại trừ Trì Thương, tụi tôi đều đã từng có vợ hoặc người yêu rồi, nên…!có sao đâu.

Thủy Diệu nêu cảm nghĩ của mình:
– Cứ coi như băng – gạc cầm máu khi chúng ta bị thương thôi, tại sao phải nghĩ sâu xa tới những chuyện tế nhị kia chứ?
– Ờ há…!- Ba Hói bẽn lẽn gãi đầu.

– Vậy mà tôi nỡ lòng nào nạt vợ tôi khi ẻm để quên nó trong nhà tắm.
Châu Lợi vừa cột bao rác vừa trình bày:
– Không có những ngày chịu đau và khổ sở của họ, chúng ta không có mặt trên đời này đâu.
Ba Hói gãi cằm:
– Nhưng nếu không có chúng ta thì phái nữ cũng không thành hình.
Thủy Diệu bổ sung trong lúc chà bồn rửa mặt bằng cây cọ cán nhựa:
– Thế giới này là thế giới của Nhị Nguyên, của Một và Không, không có cái này thì cũng không có cái kia luôn.

Đợi Thủy Diệu chà bồn rửa mặt xong, họ mới về lại Chánh Điện ẩn trong thạch động.

Những hiền đệ còn lại của Châu Lợi đã tề tựu đủ cả.
– Sợ thí chủ đây đói bụng nên tôi đem theo xôi gà mà nhóm “Nhạn – Vàng – Bình – Công” mua ở chợ dưới chân núi Ông Két.

– Trì Thương vừa nói vừa trao gói xôi gà và ly nước thốt nốt tươi cỡ lớn có cả phần cái.
– Trời, Thầy hay quá, cái bụng tôi réo còn hơn ấm nước sôi trên bếp.

– Ăn bắp hầm và bột nui không đủ no sao?
– Sao Thầy biết hay vậy?
Châu Lợi nói trớt qua:
– Leo núi không quen dễ đói bụng lắm.
Thủy Diệu và Châu Lợi cũng có phần.

Nhưng là nước uống chứ không phải xôi gà.
– Giờ tới lượt tôi và những người còn lại tiếp chuyện với thí chủ, huynh trưởng hết giờ mở miệng rồi.

– Trì Thương chắp tay trình bày.
– Ờ, vậy càng tốt, tôi muốn nói chuyện với mấy Thầy nãy giờ.
Nhóm Tăng sĩ chọn một con đường khác.

Con đường này bông mười giờ trải dài hai bên, bây giờ nó chỉ là một thảm cỏ xanh rì đơn điệu.

Đây cũng là một trong những cách để họ quán chiếu lẽ Vô Thường và Bất Định ở đời.
Trì Thương kể:
– Có một truyện ngụ ngôn như vầy: Một người đàn ông hết sức lương thiện mắc chứng hối lỗi, tức là làm cái gì sai với người khác một chút sẽ ân hận khôn nguôi, dù lỗi lầm đó nhỏ xíu hoặc không phải do anh ta cố ý gây ra.

Cảm thương cho người trai đôn hậu thái quá đó, một vị thần bèn tặng cho anh ta một cái đồng hồ cát để quay ngược thời gian hòng khắc phục và ngăn ngừa lỗi lầm trong quá khứ.

Anh ta đảo tới đâu, liền thấy lỗi lầm của mình đầy rẫy tới đó.

Anh ta tức mình bèn đảo thật mạnh.

Đảo hoài, đảo hoài, đảo hoài…!Cho tới khi anh ta thấy mình về lại bụng mẹ; nơi mà anh ta không gây ra lỗi lầm và tổn thương cho người khác.
Tôi kể theo ý văn của tôi thôi, chứ nguyên tác là của một tác giả ngoại quốc và nội dung cùng tính cách nhân vật sẽ khác so với câu chuyện mà tôi vừa trình bày ở trên.
– Trưởng lão Như Phong là người như thế nào vậy Thầy Thương?
– Là người đã tỉnh thức.

– Dạ.
Rồi Ba Hói hỏi cơ:
– Tỉnh thức sao hổng viết sách chỉ đường cho người ta đi Thầy?
– Bản đồ đã nằm hết trong kinh điển – tạng luật, viết ra rất phí giấy và thừa thãi.

– Tôi tưởng Thầy sẽ bị bí chớ?
Trì Thương chắp tay mà nói, “Sadhu.”
Ba Hói chợt xụ mặt:
– Hổng biết thằng khùng đó có hút thuốc hôn nữa?
Trì Thương đưa gói thuốc rê cho Ba Hói:
– Tôi cũng chưa muốn cẩu đốt rừng đâu.

Nên đã “tịch thu” trước rồi.
Vừa bỏ gói thuốc vô túi quần, Ba Hói vừa chép miệng nói:
– Trời ơi, bộ Thầy đọc được ý tôi hay sao hả Thầy?
– Sadhu.
Ai nấy đều có mặt ở trong gian Chánh Điện.

Mỗi người đều chọn cho mình một góc ngồi phù hợp.

Ước chừng mười lăm phút sau, Châu Lợi phá vỡ sự im lặng bằng cách nói về sự “Trung Lập”:
– Tỷ dụ như, anh A và anh B đang gây lộn, anh C tình cờ đi ngang qua bị họ kéo vô “bắt bồ”.

Anh C không theo dõi diễn biến sự việc ngay từ đầu nên không theo phe ai, ấy vậy mà họ trách anh C “chàng hảng”, “ba phải”,…!Vậy theo quý vị họ có đúng không?
Phần đông đều lắc đầu.
– Rất nhiều người cái xác thì lớn nhưng cái đầu vẫn mang tánh kiến của một đứa con nít.

Họ không suy xét lý do tại sao người ta không theo mình lẫn phe kia, mà lại chụp mũ người ta như vậy như thể để thỏa cái nư của mình.

Nếu như mình biết chắc họ biết rõ ai đúng – ai sai mà vẫn cứ đánh đu giữa hai phe, khi đó trách cũng chưa có trễ.
Rồi ông quay qua nhìn Tín mà nói:
– Có nhiều lúc người ta chẳng hề nói đụng chạm tới mình, song vì bản thân mình sống giống y chang vậy nên đâm ra hoang tưởng người ta nói xấu mình.
Anh Ba Hói cười vang, rồi nêu thí dụ:
– Giống như gia đình A có đứa con gái trắc nết, họ tức quá mới chửi cổ xối xả.

Dè đâu gia đình D sống gần đó cũng có đứa con gái tánh nết hệt khuôn, nên nghe người ta chửi con gái người ta lại tự tưởng tượng là đang nói xiên nói xỏ con gái mình.
– Rất đúng.

– Rồi Châu Lợi quay sang nhìn Tín đầy thương cảm.

– Tín rất giỏi Công nghệ – Thông tín, nhưng không lấy tài năng đó đi xây dựng đời mà lại sử dụng nó vào mục đích giết người không dao.

Tín cắn môi khóc tức tưởi.

Rồi chắp tay và cúi đầu xá Châu Lợi.
– Bữa nay tôi phá lệ nói thêm một tiếng.

Giờ thì sẽ do Trì Thương diễn thuyết.

Trì Thương nhìn Tín mà nở nụ cười từ bi.

Chú nói:
– Rất nhiều lớp học tình thương cần tài năng của Tín.

Các thầy – cô không biết cách lên máy thảo trình chương trình giảng dạy hay biên soạn, chỉnh sửa phim – ảnh để các trò dễ hiểu bài hơn.

Thay vì đi hại người ta để kiếm tiền, sao mình không lấy tài năng thiên bẩm ra cứu đời?
Tín bật khóc còn lớn hơn ban nãy.

Hồi còn nhỏ, anh từng ước mơ giỏi kỹ xảo Công Nghệ để làm phim hoạt họa cho người bạn vẽ tranh rất đẹp, rồi còn giúp trẻ em cù bất cù bơ biết chữ và đổi đời bằng con đường tri thức.

Giờ thì anh hủy hoại ước mơ và trái tim của mình chỉ vì mãnh lực đồng tiền.
– Ở đây ai cũng có cái Nghiệp của riêng mình hết.

Chẳng ai cứu ai được đâu.

Có quyết tâm buông bỏ hay không là ở tại chúng ta.

Anh Ba Hói thắc mắc:
– Ủa Thầy gieo Nghiệp gì?
Trì Thương mỉm cười rất hiền:
– Tôi gieo Nghiệp hoang tưởng cho một người nữ, người nữ này si mê tôi tới nỗi lú lẫn đầu óc và từ đây gieo đau khổ về đường tình duyên cho anh Hai tôi.

“Ý dẫn đầu các Pháp…” mà.
– À…!Mình tốt với người ta mà người ta tưởng bở mình có tình ý gì với người ta…
Rồi Trì Thương lại nói với Tín rằng:
– Tín đang trải qua Địa Ngục Vô Gián.

Song thời gian chịu đựng cực hình không quá lâu đâu.

Chỉ cần Tín quay đầu là bờ và thừa nhận lỗi lầm mình đã gây ra…
Đức Hoàng trợn mắt:
– Đơn giản vậy sao?
– Không, đây mới chỉ là bước đầu thôi.

Gieo Nghiệp Ác giống như xây một bức tường cẩu thả, nếu phát hiện kịp thời và xây lại từ đầu hoặc trám – bít chỗ hư thì còn có đường sống, còn nếu ỷ y và coi thường điểm bất hảo thì trước hay sau – sớm hay muộn gì nó cũng sẽ sập xuống và rất có thể sẽ đè chết mình.


Qua hôm sau, trời hãy còn tờ mờ sương, Phá Vân và nhóm “Nhạn – Vàng – Bình – Công” đã có mặt trên một triền đồi thoai thoải để giúp Đức Hoàng và Chí Công học lái xe.

Do lần trước đã thấy cảnh mém lủi xuống “vực” của hai người nên Phá Vân đề nghị đổi chỗ học.

Và đúng như những gì mà Tống Ngạn đã nói, hai người này hết thuốc chữa rồi.

Chiếc xe bảy chỗ đáng thương cứ bị hù lật mấy lần.

Không có Phá Vân nhanh tay xoay – trở bánh lái, có lẽ đã xảy ra chuyện đáng tiếc.
– Tôi nghĩ hai người nên mướn một bãi đất trống đặng tập lái xe cho an toàn.

Tốt nhứt nên mướn cái xe con cóc, cái xe thuộc đời “ông tằng – bà tổ” đó, để dễ bề học cách de xe và quẹo.
– Dạ.
– Cái xe Chevrolet thì quá mắc tiền và dận ga rất nhanh, hai cậu không trở tay kịp và bồi thường nổi đâu.

Còn cái xe này thì…!Người có bằng lái còn mệt, huống hồ chi là hai cậu.
Trên đường về núi, nhóm bạn thấy ven đường có mấy cây gáo trắng, liền hú nhau lại hái ăn cho thỏa cơn thèm.

Tiếc rằng họ không có bịch để đựng đặng mang về cho mấy người kia ăn, lấy y bát của Phá Vân thì coi kỳ quá nên đành thôi.
– Thầy, khoan đi đã!
Phá Vân mỉm cười mà nhìn người trai răng khểnh.
– Thầy dạy con sửa xe hơi được không?
– Ừm…!Sửa xe hơi không dễ học đâu, thưa thí chủ.
Đức Hoàng vỗ vai thằng bạn xứ bưởi:
– Mốt mày học nghề xong rồi á, nhớ nói rõ tên và địa chỉ của tiệm nghen?
– Chi vậy?
– Để tao kêu dòng họ tao đừng có tới sửa á.
Khán Bình bồi thêm:
– Mẹ cái thằng học Toán – Lý – Hóa dở như hạch mà đòi làm thợ sửa xe hơi.

Cân bằng phương trình còn hổng xong thì biết trí nhớ của mày tốt cỡ nào rồi, đấu dây tầm bậy tầm bạ nó nổ cái đùng là ở tù mọt xương nghen?
– Công nhận tui có mấy thằng bạn đáng đích thiệt chớ.

Tui làm cái quần què gì tụi nó cũng xía mỏ vô đâm thọt được hết trơn hết trọi.
Đức Hoàng mỉa:
– Tao sợ mày sát sanh vô độ nên phải cứu mày đó con.
Tống Ngạn cũng xen vô châm chọc:
– Mốt nó ra nghề, thể nào tổ chức khủng bố cũng phải mời nó về dạy.
– Ê, nói bậy mày!
– Đấu lộn dây là giết người đó thí chủ…!Hồi còn tham gia đua xe, tôi đã từng chứng kiến không biết bao nhiêu trường hợp chết banh xác vì sự cẩu thả hoặc tay nghề yếu của thợ sửa xe.
– Dạ, vậy thì thôi.

Tôi cũng hổng có nhớ dai mấy, lại yếu bóng vía nữa.

Mắc công lính quýnh lại gây ra hại người.

Đức Hoàng thương tình hỏi thăm can cớ nào đã khiến nó muốn học sửa xe.

Và y trả lời rằng:
– Viết báo đâu có giàu.

Muốn có tiền thì phải đi bợ đ*t mấy đứa giàu và chưa chắc đẹp thiệt.

Từ cách đó không xa, ở bờ ruộng bên kia, Trì Thương đang ôm y bát đi khất thực.

Nhác thấy, sư đệ và những người ký giả, chú thong thả bước lại gần.

Tới nơi, Trì Thương nói liền một hơi:
– Lò bánh “Út Tiếp” đang cần người giao hàng trong phạm vi từ Cà Mau tới Huế.

Sẵn đường đi làm, các thí chủ bỏ mối giùm cho ổng được không? Tuy không được bao nhiêu nhưng lương tâm thanh thản.
– Vậy thì hay quá…!- Chí Công mừng rỡ vỗ tay.

– Chắc quán ăn mà các thí chủ muốn ghé sắp đóng cửa rồi đó…
– Ờ há! Đi lẹ lên tụi bây! Chỗ này bán bún cá Long Xuyên ngon dữ lắm!
Vừa qua khỏi thửa ruộng thứ ba, Đức Hoàng chưng hửng hỏi mấy thằng bạn:
– Sao tao để ý thấy hễ ai thắc mắc tại sao Thầy Thương lại đoán trúng tâm tư của mình thì ổng đá giò lái sang hướng khác vậy?
– Thôi kệ ổng đi…!- Khán Bình xua tay.
Còn lại hai huynh đệ, hai người bước đi về phía Tây để vào xóm nhà sàn.

Mặt trời đã lên khá cao, ánh nắng tỏa xuống mảnh đất Thất Sơn hiền hòa mà đầy huyền tích mầu nhiệm.

Mùa lúa mới vẫn chưa bắt đầu, mặt đất buồn vì thiếu tiếng cười đùa của loài cây đã nuôi sống dân ta từ bao đời nay.
– Hồi đó, đệ ưa ca bài “Mưa trong hồn anh đó” do nhạc sĩ Hoàng Linh Duy phổ từ thơ của thi sĩ Hà Huyền Chi.

Ông cũng là tác giả của bài hát “Chiều trên phố Bolsa” và “Bài di ca cho em”.

Biết ý hiền đệ muốn tìm hiểu cơ duyên nào đã đưa mình gặp cô gái kia nên Trì Thương nói luôn:
– Bữa đó ba tôi trúng được mấy tờ vé số, má bèn cho tôi ít tiền để đi mua đồ ăn.

Má tôi dặn, “Mày mà ăn ít quá đổ bịnh khổ tao với ông già mày nữa.” Má tôi la như vậy để tôi không tiếc tiền mà mua tô nhỏ.

Tôi đang đứng xớ rớ xếp hàng đợi mua nui, thì chợt thấy nhỏ ngồi co ro dưới cây cột đèn.

Tôi hỏi nhỏ có muốn ăn nui không, ăn thì hai đứa chia đôi, nhỏ gật đầu liền.

Tôi mới xin thím Ba thêm cái tô nữa.

Chắc có lẽ thấy hai đứa nhỏ tội nghiệp nên thím cho thêm nui và đồ bổi.

Nhỏ húp hết nước hết cái, chừng như đói dữ lắm.

Hỏi ra mới hay đi lạc từ hồi chiều tới giờ nên hổng có gì bỏ bụng.

Nghe vậy, thím Ba mới biểu con trai của thím đi lấy Coca đá cho nhỏ uống, rồi trách nhỏ sao nãy giờ con hổng cho thím biết.
– À…
Trì Thương nói lảng sang chuyện khác:
– Con đường theo Phật của tụi mình khác với những hệ phái kia nên tôi không muốn can dự vô cách đối nhân xử thế và tu hành của họ.
– Dạ?
– Đã ngay từ đầu, Đạo Phật chủ trương đời là Vô Thường và Bể Khổ, nên mới hướng chúng sanh đi vào con đường Niết Bàn để diệt trừ Luân Hồi.

Bây giờ mượn cớ cứu thế, viết nhăng viết cuội vài câu, rồi đẩy chúng sanh vô con đường chết, há có phải là làm trái lời dạy của Phật Tổ không?
– Nhưng các Thầy lại bình thản đón nhận quan điểm và Kinh – Kệ của các hệ phái kia, chỗ này đệ thực sự không hiểu…
– Không phải các Thầy đón nhận, mà là các Thầy không còn Chấp nữa nên không tranh hơn thua hay ngồi diễn giải dông dài để bài bác cách tu tập của người khác.

Ai muốn làm sao thì làm, miễn đừng làm hại tới chúng sanh là được.
Rồi Trì Thương đọc nguyên văn bài “Kinh Chuyển Pháp Luân (Dharmacakcrapravartana Sutta)” cho hiền đệ nghe.

Sau đó nói:
– Nếu muốn hiểu Pháp của Phật Tổ nguyên thủy là gì, hãy tìm hiểu bài Kinh này.

– Nhưng nếu người ta chỉ muốn phán đoán dựa trên cảm xúc Ngã Mạn thì sao?
– Thì đó là Nghiệp của họ, không phải của tụi mình.

– Theo Thủy Diệu thì năm người đi theo Đức Phật buổi đầu là quan cận thần và tùy tùng của vua Tịnh Phạn, nhưng đệ tìm hiểu thì nhóm Đại Trưởng lão lại có xuất thân hoàn toàn khác, huynh thấy đệ nói đúng hay Thủy Diệu nói đúng?
– Là ai cũng được hết…!- Trì Thương cười xòa.

– Nhưng thuyết của đệ tìm hiểu thì người ta đồng ý nhiều hơn.

Đệ có biết điểm chung giữa hai thuyết này là gì không?
– Dạ không.
– Là chữ Duyên.

Có Duyên nên mới gặp lại nhau và thành thầy – trò.
Phú Lâm bật cười, rồi cúi đầu và chắp tay nói, “Sadhu, “Sadhu.”
– Có lần Phật Tổ mời Tăng đoàn nhóm họp lại, và giơ một bông sen lên.

Chỉ duy có tôn giả Đại Ca-Diếp là thấu suốt nên đã nở nụ cười Giác Giả với Ngài…
Đệ thấy đó, Pháp của Phật chỉ có thể lĩnh ngộ trong sự tĩnh lặng và đơn độc.

Nếu như tụi mình đi hoằng pháp hay viết sách để lại cho đời sau, chúng sanh sẽ bị phân tâm do sự Vô Minh của ngôn từ và chữ nghĩa.

Đệ ghi con bò, họ hiểu con trâu, nhóm khác lại cho là đệ muốn nói tới con ngựa, rồi nguyên một vườn sở thú bị đem ra tranh luận luôn.
Phú Lâm che miệng cười nắc nẻ.

Rồi hỏi:
– Nếu hành động và cách tu tập của tụi mình tỷ lệ nghịch với sự giảng Đạo và viết sách truyền Pháp thì người đời sẽ nghĩ sao?
– Sau khi chết, sẽ bị người đời đàm tiếu hoặc tiếc nuối.

Vế đầu sẽ diễn ra khi huynh răn dạy người ta làm lành – lánh ác, song bản thân huynh sống tréo ngoe và gieo Nghiệp Ác nhiều hơn Nghiệp Thiện.

Vế sau sẽ diễn ra khi huynh là một bậc chân tu thứ thiệt, nhưng không để lại một vết tích nào cho thế gian.
– Có nhiều tác giả không theo phe nào, nhưng hễ nói trái ý một cái là bị quy chụp theo phe này, phái kia, hay suy tôn ông/bà nọ.

Cái đầu có hai bán cầu não mà, sao cứ phải suy nghĩ một bên hoài vậy?
– Thì đệ đọc lại bài “Kinh Chuyển Pháp Luân” đi.

Có ích hơn là ngồi đó thắc mắc hay can gián thế gian.

Tôi nói hoài, đó là Nghiệp của họ, không phải của tụi mình.
– Tại vì đệ thấy nhiều người mới nói có hai chữ “Tội nghiệp” một ai đó là bị đám ở đâu không biết chạy tới trói gô và chụp cho tấm bảng, “Thì ra mày theo phe của thằng khứa đó”, “Thấy không? Nó nằm vùng bị lộ rồi kìa”, “Mày có dấu hiệu như vầy thì mày đáng bị liệt vô danh sách này”,…!
– Tại vì họ Vô Minh nên tự bản thân họ sanh ra ảo tưởng rằng mình nắm được thóp mọi hạng người trên đời.

Cái người hùa theo họ nhiều nhứt chưa chắc gì thật lòng thật dạ với họ, hay là đang đi coi họ diễn trò hề ra sao để mà đứng sau lưng cười nhạo thôi.

– Huynh trưởng đi khất thực ở đâu vậy huynh?
– Xuống núi Sam rồi.
– Đi chi xa dữ vậy?
Trì Thương nhìn Phá Vân mà cười biểu:
– Có chuyện thì phải đi thôi.

– Ờ há…!Đệ khó lòng khôn ra lắm huynh ơi…
– Tại vì đệ bị cảm xúc chi phối trước, lý trí lướt thướt theo sau, thành thử ra hay bị dư lời.
Thể theo lời khuyên của Trí Thương, hai huynh đệ tới ngọn núi kế bên khất thực.

Hai người sóng vai nhau mà đi.

Trời nắng chang chang, hình dạng của núi – đồi hiển lộng rõ nét, những cánh đồng xanh uốn lượn theo địa thế của sở đất và con dốc.

Đi tới đâu cũng thấy bóng cây và hoa cỏ; đặc biệt hơn là ở đây có luôn những cây thuốc rất quý hiếm, nói không ngoa gần như có thể hái được một giỏ đầy chỉ trong vòng nửa ngày ngắn ngủi.
oOo
Giọng ca Duy Khánh và dàn ca sĩ phụ họa trong bản “Từ tiếng hát tiếp nối” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng vang lên nơi quán cà-phê thưa khách “Sóng Nhạc”.

Bữa nay Hai mươi Ba Tết nên chắc ai nấy thích ở nhà sửa soạn nhà cửa và cúng Ông Táo hơn là la cà hàng nước.
Một người điều dưỡng viên cao gầy lại quầy thu ngân mà đặt một ly nước sơ-ri nấu khóm và một ly xi-rô sâm dứa sữa.

Đi cùng anh ta là hai cha con có gương mặt giống nhau như khuôn đúc, có lẽ thằng nhỏ vừa tan trường về nên cha nó mới kiếm chỗ cho nó ngồi ăn uống.
– Ăn gà chiên không Năm?
Võ Kiến Tường lắc đầu:
– Dạ thôi, mấy món dầu mỡ em ăn không hạp nên hay bị đau bụng lắm.
Hai Nghĩa thôi không mời nữa, anh cầm nĩa cuộn mỳ Ý lên ăn.

Bé Hải đã lâu không được cha mẹ cho ăn những món có nhiều dầu mỡ, nên khẩu hình nhai – nuốt hết sức ngon miệng.
– Bây ơi…
– Gì đây ông chủ? – Một người nhân viên lên tiếng hỏi trong khi đang lau sàn nhà.
– Chắc lát tôi mua gà chiên về ăn quá, nhìn thằng nhỏ ăn mà phát thèm…
Em họ của anh ghẹo:
– Trời ơi, anh họ tui lớn đầu mà còn chơi dòm miệng nữa.
– Mày muốn ăn miễn phí không?
– Dạ ăn.
Thấy đứa nhỏ dễ thương quá nên Thừa Tân mua tặng nó một phần gà chiên.

Anh đặt mua ở Popeyes, còn phần mà nó đang ăn là Jollibee.

Để tránh tặng quà hụt, anh thông báo cho họ hay một tiếng đặng đợi lấy.

Cha của thằng bé kêu, “Chúa ơi…” một tiếng, rồi khổ sở nói cho anh hay rằng con của anh ta đã bị thừa cân rồi…
– Có sao đâu.

Lớn lên nó thấy mắc cỡ là tự khắc giảm cân hà.

– À…!Dạ…
Nhác thấy người khách trăm tuổi còn mạnh giỏi để mà ghé chơi với mình, Thừa Tân mừng lắm.

Anh mời bác trai và ông lão uống cà-phê miễn phí, còn lì-xì cho ông cụ một phong bao đỏ thắm chúc thọ.
– Tôi muốn nghe một bài hát thật hiếm ai biết và ít ai đăng.
– Dạ, có liền, thưa cụ.
Ông lão càu nhàu:
– Gọi “Ông” được rồi, kêu “Cụ” già quá.
Thừa Tân bèn chọn bản “Hoa chiều” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, trong bài này bác ký tên là Anh Chương.

Bản thâu âm trước năm 75 của bác hay hơn bản bác thu thanh ở nước ngoài rất nhiều, nhưng đáng tiếc không còn ai phát trên mạng nữa.

Cũng may anh còn giữ một bản sao lại từ cái dĩa gốc.
Bác trai khoái chí biểu kiếm thêm một bản hiếm hơn bản hồi nãy nữa.
– “Khi tôi đi vào đời” của nhạc sĩ Nguyễn Tiến Thịnh, do cô Hà Thanh ca.

Rồi anh bồi thêm:
– Con còn ít nhứt hai trăm bản nữa.

– Thôi, thôi, thôi…!Nghe vài bài chơi thôi…!- Ông lão vừa cười vừa khoát, khoát tay.
– Thêm một bài cuối đi cậu, rồi hai cha con tôi sẽ không làm phiền cậu nữa.
– Dạ.
Sau hơn mười phút tìm kiếm và tuyển lựa nhạc phẩm, rốt cuộc anh chủ quán cũng tìm được bài hát rất hiếm người biết.
“Làm sao giết được nắng hồng
Làm sao câu được cả dòng nhớ thương…”
Đó là bài “Bắc cầu tương tư” của nhạc sĩ Hà Châu, qua phần trình bày của Đức Minh.
– Ca sĩ Đức Minh còn có bài “Chiều Chủ Nhật” của nhạc sĩ Anh Bằng, nhưng giờ đã bị thất truyền rồi.
Hai cha con vừa mới rời đi được mười phút thì anh lại bị làm phiền.
Một đôi nam nữ bước lại quầy và nhờ anh phát một vài nhạc phẩm mà anh ưng ý nhất.

Anh cười tươi và nói:
– Mỗi bận giới thiệu nhạc của Trần Thiện Thanh, Lê Minh Bằng, Vinh Sử,…!là tôi rầu.
Người khách nam cười với ánh mắt tràn đầy vẻ ngạc nhiên.

Anh ta hỏi:
– Sao vậy?
– Họ có sở thích đặt nhiều bút danh nên thế hệ hậu bối như tôi không biết đường đâu mà lần.

Như sợ đôi nam nữ không hiểu, Thừa Tân giải thích thêm:
– Như nhóm nhạc sĩ Lê Minh Bằng có những bút hiệu sau: Mai Bích Dung, Mai Phong Lĩnh, Hoa Linh Bảo, Tây Phố, Hoàng Liên, Điệp Phong Linh, Dạ Cầm, Tôn Nữ Thụy Khương, Huy Cường,…!Nhiều lần tôi tưởng nhạc sĩ khác, sau kiếm được tờ nhạc mới biết là họ.

Còn nhạc sĩ Trần Thiện Thanh thì ưa lấy tên tác giả của một tác phẩm nào đó đã đem lại ý tưởng sáng tác cho ông, mà đính kèm với bút hiệu của ông.
Nói xong, Thừa Tân mở bản “Hoa tím người xưa” do Kim Loan ca, một sáng tác của nhạc sĩ Thanh Sơn.
Người khách nam lại hỏi:
– Có người nói không nên gọi là nhạc Vàng vì nghĩa này ở bên Tàu không tốt…
– Mình là người Việt hay người Tàu hả anh?
Trước lúc quay vô trong lau chùi cái máy xay cà-phê, Thừa Tân bổ sung:
– Gọi là Tân nhạc thì hơi chung chung, kêu Bolero lại khá quy chụp, nên để tiện bề phân biệt tôi mới lấy cái tên nhạc Vàng.

Còn sau này ai có chuyên môn giỏi về Âm Nhạc nghĩ ra danh xưng nào phù hợp và thật hay thì tôi sẽ nghe theo họ.
– Anh có thấy mình hoài cổ như vầy thì hơi bất công đối với nhạc Trẻ không?
– Không.

Trên Facebook có một trang tin nước ngoài, tạm dịch là “Chúng tôi yêu nhạc xưa”, có gần một triệu tư người theo dõi, là anh đủ hiểu xu hướng hoài cổ đang thịnh hành ra sao.

Người khách nữ cười hỏi:
– “Tribute Nguyễn Tất Oanh – Chủ nhân hãng dĩa hát “Sóng Nhạc”, có ý nghĩa gì vậy anh?
– Tôi lấy tên quán theo tên hãng dĩa hát của cụ nên phải tri ân người nghĩ ra cái tên này.

Chỉ vậy thôi.

– Anh có biết câu chuyện gì là lạ xoay quanh của cuộc đời của Nguyễn Tất Oanh không?
– Nguyễn Tất Oanh là cha của bà Nguyễn Thị Hồng.

Cụ không đồng ý để con gái lấy chàng nhạc sĩ nghèo mà còn lớn hơn con gái mình quá nhiều tuổi tên Hoàng Trang nguyên quán xứ dừa, nên đã ra sức ngăn cản.

Sau bao nhiêu năm tháng trắc trở, ông – bà mới được Loan – Phụng sum vầy.

Thành thử ra, cũng không có gì lạ khi nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng sáng tác cho cụ bài “Về với cát bụi (Trở về cát bụi)”, với lời nhắn nhủ, “…!Mai kia chết rồi trở về cát bụi giàu – khó như nhau…”; ấy vậy mà hồi đầu cụ không biết bị chửi xéo, còn hỉ hả khen hay và cho đây là một bài hát mang đậm tư tưởng Phật Giáo.

Người khách nam vẫn chưa chịu buông tha cho chủ quán, anh ta tiếp tục đặt câu hỏi:
– Tôi muốn nghe một bài hát mà giới nhạc sĩ trẻ ngày nay không dám sáng tác.
– Được, tôi cho anh nghe hai bài luôn, đều của nhạc sĩ Phạm Duy và do chính cụ trình bày, một bản tên là “Dạ hành” và bản kia là “Kể chuyện đi xa”.

Bài sau cụ hát cùng ban nhạc thiếu nhi “Bốn Phương”.
Nghe đâu được non nửa bài, Năm Tường than:
– Cuối năm mà anh cho tôi nghe cái chi mà đau rứa.
– Tôi cho anh nghe Sự Thật nên anh mới đau.
Chu Trường Hải ngửng mặt lên nhìn cha:
– Cha ơi…!Cha kể cho con nghe như cái ông vừa ca bản “Kể chuyện đi xa” được không?
Chu Vịnh Nghĩa xoa đầu con trai:
– …!Được…!Nhưng không phải bây giờ, bởi cha muốn con được sống hạnh phúc trong thế giới thần tiên, không phải là thế giới của cha và những người lớn khác.
Ngồi đợi khoảng một tiếng nữa, người giao hàng mới tới.

Mình mẩy anh ta nhễ nhại mồ hôi, mặt mày phờ phạc còn hơn xông pha trận mạc.

Cảm thương cho chàng trai cần mẫn, Thừa Tân hỏi anh ta muốn uống gì, và anh ta đáp liền, “Nước dừa có đá”, rồi lủi vô nhà vệ sinh mất dạng.

Đếm thấy có sáu miếng gà trong hộp, Hai Nghĩa cho con trai ăn ba miếng nhỏ, phần còn lại anh để dành cho vợ.

Nghe anh nói với con như vậy, anh chủ quán bèn đưa thêm một gói khoai tây chiên và mấy bịch nước sốt; mặc cho anh từ chối thế nào, anh ta vẫn ép anh nhận lấy.
– Quán mình tới mười nhân viên, cũng hơi nặng đầu anh há? – Năm Tường hỏi.
– Dạ, cũng may có mấy sào ruộng dưới quê và huê lợi vườn tược gánh giùm nên tôi cũng bớt mệt đầu.

Ủa mà anh là điều dưỡng viên ở đâu?
– Dạ, tôi làm ở một viện dưỡng lão tại Quận Nhứt.
– Chà, việc đó lương bổng không bao nhiêu, mà còn phải chịu đựng bệnh nhân nữa.
– Dạ, tuy vậy tôi không buồn mà còn lại vui vì giúp được những người cao niên…!Coi như thỏa được phần nào nguyện vọng phụng dưỡng ôn mệ, cha mạ của mình.
– Hình như anh là người Huế?
– Dạ phải.
Thừa Tân bèn phát bản “Xuân nhớ Huế” do nhạc sĩ Phạm Vinh phổ theo lời của tác giả Nguyễn Mạnh Hoàng Chương, qua phần trình bày của Duy Khánh để làm món quà tặng người trai Cố Đô:
“Mỗi năm khi đào mai nở
Thần Kinh vui đón Xuân về
Bên dòng sông Hương, núi Ngự
Một thời Xuân trước yên bình…”
– Bữa nào quởn, tôi nấu món Huế đem ra cho anh ăn thử nghen?
Thừa Tân cười lớn:
– Vậy thì quý quá rồi!
Vì tối nay phải về nhà nội cúng kiếng nên Hai Nghĩa cáo lỗi với em Năm, rồi trả tiền nước trước khi cùng con trai lên đường.

Vợ anh đã ở bên từ hồi sáng để phụ nhà nội bày biện và chưng dọn nhà cửa, giờ chắc ẻm đang ca cẩm do đói meo râu.
Nán lại chơi với chủ quán thêm nửa tiếng nữa, Năm Tường mới ghé xóm Đạo St.

Pio.

Ông Sáu Giàu đang ngồi ăn bánh mì với con cháu mình và cháu rể nghèo có “bí danh” Út Nhót.

Nguyên nhà quây quần đêm Hai mươi Ba Tết trông thật vui và ấm cúng.

Sợ anh buồn nên ông mời anh qua chơi cho khuây khỏa.
– Tường, ông mua cho con ổ bánh mì nè.

Không bỏ ngò rí, để nhiều ớt và thêm giò thủ.

Cái chân của Út Nhót đã được bó nẹp thẳng thớm.

Tám Khiêm biểu tuy hơi trễ nhưng cũng còn cứu vãn kịp, nội trong năm nay sẽ đi đứng bình thường.
– Ngoài chức danh Mục sư và điều dưỡng viên ra, con còn nghề nào khác không Tường?
– Dạ, còn là tài xế Uber và kỹ sư điện tử.
– Vậy chắc con là freelancer?
– Dạ, ai cần bản vẽ thì liên lạc với con.

Và thường thì con nhận chở xe vào ngày Thứ Bảy, hành khách là tín hữu và bà con của họ.
Út Nhót ngẫm phận mình thì tủi thân nên mặt mày buồn hiu.

Anh học tới Chín rồi nghỉ ngang vì ba lâm bịnh nặng rồi qua đời, anh phải đi bán đồ ăn ở chợ đêm với mẹ từ lúc hãy còn thiếu niên.
Chắc sợ cháu rể mặc cảm nên ông Sáu Giàu nói trớ qua chuyện này:
– Bài này tên “Huế” do nhạc sĩ Xuân Vinh phổ từ thơ của thi sĩ Kiều Mộng Thu, người trình bày là ca sĩ Thanh Thúy.

Có hò Huế luôn.

Con nghe chưa Tường?
Năm Tường gật đầu, rồi hỏi:
– Tối nay mình cúng Ông Táo hả ông?
– Phải…!
Tiếng hát của Như Mai trong bài “Kinh nguyện đầu năm” của Linh mục Khuất Duy Linh vang lên trong phòng khách thơm thơm hương nhang trầm và rực rỡ ánh đèn điện.

Sau bếp, con dâu – con gái – cháu gái và má của Út Nhót đang cùng nhau chế biến đồ ăn – thức uống, tiếng nói cười rôm rả hơn pháo đỏ ngày Tết.

Cánh đàn ông thì kéo nhau đi giăng đèn kết hoa cổng rào và sắp đặt lại mấy chậu kiểng; vạn thọ và cúc thì đợi Hai mươi lăm mới mua về trưng.
– Có cần con phụ gì không ông?
– Không, ngồi đây chơi với ông.
Ngập ngừng một đỗi, ông Sáu Giàu mới ướm hỏi:
– Cái chỗ con mướn coi bộ không tốt, tiền nhà lại cao, chủ nhà thì tăng hăng tó hó, hay là con dọn qua ở với gia đình ông đi.

Ông mới cất cái nhà nhỏ ở sau hè nè, cầu tiêu – nhà tắm riêng biệt hết, mạng mẽo mạnh dữ lắm.
– Nhưng mà…!con là Mục sư…
Ông Sáu Giàu bật cười, rồi cầm tay của người điều dưỡng viên mà ông coi đứa cháu trong nhà mà phân giải cho nó hiểu:
– Tin Lành hay Công Giáo gì đều là con của Chúa hết, chia cắt nhau làm chi.
Rồi không đợi Năm Tường trả lời trả vốn chi, ông Sáu Giàu dắt anh xuống coi cái nhà nhỏ mới xây.

Căn nhà nhỏ đó nằm khuất sau lũy tre vừa dày vừa cao vút.

Diện tích được ba mươi sáu mét vuông, có gác lửng khá cao, lợp ngói Âm – Dương màu xanh xám, hàng ba có xây bồn gạch trồng bông chạy dọc theo hành lang.

Bước vô cửa là thấy liền gian bếp, trang bị đầy đủ các thiết bị – dụng cụ tân tiến.

Nhìn sang phía đối diện thì thấy phòng khách nho nhỏ và rất ít đồ đạc; cầu thang xếp để mé tay phải phòng khách, phòng ngủ ở trên gác.
– Sao? Thấy được hôn con? Phòng ngủ có gắn máy lạnh luôn.

Chưa kể biết con thích đọc sách nên ông đã bố trí thư viện ở hướng Nam để lấy đủ ánh sáng.

Phía Tây chiều về rất nóng nên ông đã trồng dây thằn lằn cho nó hấp thụ nhiệt bớt.

Về đây ở với gia đình ông nghen con? Kìa con, sao lại khóc? Ngày tư ngày Tết mà mày khóc kỳ quá thằng này…
Năm Tường mím môi để kiềm cơn xúc động.

Nước mắt của anh vẫn không ngừng tuôn xuống như mưa.
– Hổng phải con muốn ôn mệ, cha mạ sao? Thì ông sẽ là ôn của con, còn mấy đứa kia sẽ là thân bằng quyến thuộc của con.

Tiếc con ghệ của ông mất sớm qua nên bả không được làm mệ của con.
Năm Tường ôm chầm lấy ông Sáu Giàu, rồi nức nở cảm ơn.

– Rồi, nín hen?
– Dạ.
Bác Hai trai mời hai ông cháu vô bếp ăn cơm.

Tuy hơi phật lòng vì ba đưa người lạ về đây ở, song chú không biểu hiện ra ngoài.

Thể theo ý của ba, chú nhờ vợ làm bánh ép Huế để ăn bữa khuya.
Năm Tường hãy còn ngại ngần nên cứ đứng dụ dự hoài mà không dám ngồi xuống, ông Sáu Giàu mới biểu anh ngồi xuống cạnh mình.

Mâm cơm tối gồm có canh giò heo nấu măng, bắp cải luộc, vả trộn, tôm rim, cá nâu chiên giòn, đậu hũ kho chay, ba-rọi bò cuộn nấm kim châm nướng với mỡ hành và gà quay chảo.
Má của Út Nhót nhìn Năm Tường mà hỏi nhỏ:
– Con đây là gì…
– Nó là cháu nuôi của ông.

Không phải rể riếc gì hết.
Nghe vậy má của Út Nhót mới hết lo, bà thở phào nhẹ nhõm rồi quay sang bỏ cái cánh gà cho đứa con trai cà-thọt.

Cô Ba Thoa cũng bỏ vô chén của người chồng sắp cưới một cái đùi gà, rồi mới bưng chén cơm và cầm đũa lên ăn.

– Ăn tự nhiên nghen Tường.
– Dạ…
Bác Hai gái nhìn sắc diện sáng láng, giọng nói rất hiền và nhỏ nhẹ thì đem lòng cảm mến, rồi ngậm ngùi nghĩ về đứa con trai đi làm xa xứ.

Con trai bà tới bữa Hai mươi Tám Tết mới về; miễn sao nó về lành lặn và mạnh giỏi là được rồi, gia đình bà chẳng ai cần hay trông đợi nó tặng quà cáp và tiền bạc hết.
Ông Sáu Giàu gắp cho cháu nuôi cái đùi gà và một cục thịt gà có dính da.

Sợ ăn không đủ nên cánh đàn bà đã quay chảo tám con gà mái tơ và thêm vô hai chục bộ đồ lòng gà, thành thử ra ai cũng có phần hết.
– Vẫn chưa tìm thấy người nào đã phi tang xác chết hả mình? – Bác Hai gái hỏi.
– Chưa.

Tôi tưởng thằng khứa giả mạo kia đi rồi thì Giáo xứ bình yên.

Ai dè cũng hoàn như cũ…
Năm Tường dè dặt hỏi:
– Hiện giờ ai là Cha Sở vậy thưa bác?
– Là Ignacio Cường.
Ông Sáu giải thích thêm:
– Đáng ra Cha Cường chuyển đi từ trước Giáng Sinh.

Nhưng không hiểu sao Tổng Giám Mục lại biểu ở lại đây.

Và giao chức Cha Phó cho Cha Mỹ.

Riêng Cha Vũ thì xin trở về trường Dòng dạy học.
– Thôi, vậy coi như êm xuôi rồi há ba? – Cô Ba cất giọng an ủi.
– Êm xuôi khỉ mốc.

Giờ không biết ai thay thế cố Toàn làm chủ tịch Hội đồng Mục vụ.

Bác Hai trai nói giọng rầu rầu:
– Cố Toàn gần trăm tuổi rồi.

Bắt ổng gánh cái Giáo xứ này thấy tội lút đầu lút cổ.

Mà giao cho mấy người trẻ tuổi lại không an tâm.
Chú Năm nêu ý kiến:
– Hay là để cho Cha Thành làm đi.
Cô Tư cũng góp ý:
– Hoặc là ông Dự cũng được.
– Chúa ơi, mấy bây toàn lựa “Mùa Thu Đông Kinh” với “Thương về mùa Đông biên giới” không hà.

Lựa mùa Hè cho tao coi.
Bác Hai trai nhăn nhó:
– Nhìn mặt “mùa Hè” nào cũng điếm thúi hết ba ơi.
– Chớ mặt cha Dự thiệt lắm hả? – Ông Sáu Giàu cự.

– Thiệt cái cù lôi tao nè.
Mấy đứa con của ông Sáu Giàu nín khe.

– Thôi, lo ăn cơm đi…!Ai có chuyện gì vui kể ra cho mọi người nghe coi có vui không nè.

Ông mời con trước nghen Chín?
– Dạ.

– Thím Chín cúi đầu đáp nhỏ.

Rồi kể chuyện mình mới gặp ở chợ bông hồi chiều cho đàng gái cùng con trai và cậu Năm nghe.

Ai nấy cũng cười rần.
Sau giờ cơm, ông Sáu Giàu dắt Năm Tường lại nhà thờ chơi.

Trong đó có treo ảnh Thánh Pio Năm Dấu của Ý Đại Lợi.

– Có lẽ đó là cái huôn, bởi Giuse – Blanc Cao Nhật Thành đã sống trọn một đời Thánh Tử Đạo.

Cha đã gánh hết mọi nhục nhã và oan khiên để bảo vệ các con Chiên của Chúa.

Thiếu nhi trong xóm đang quây quần ngoài sân sau nhà thờ coi bộ phim “The blue bird” phát hành năm 1940, phụ đề do đích thân Cha Thành phụ trách dịch.

Nữ chính trong bộ phim này là Shirley Temple – Một tài nữ của màn bạc thế giới.

– Bố, đừng có ăn bánh tét nữa, đã thận yếu còn ăn linh tinh…
– Thế Tết này con đừng có ăn bánh chưng nhé?
– Con có bệnh hoạn gì đâu mà phải cử? Miếng cuối thôi đấy.
Ông Sáu Giàu chỉ hai cha con mà cười nói với Năm Tường rằng:
– Vậy mà cũng sống chung với nhau được ngần ấy năm.
– Dạ…!Còn người Linh mục lớn tuổi kia là ai?
– À, Matthias Hoàn, bạn thiết của Cha Thành.

Cha Hoàn dễ thương lắm.

Mấy đòn bánh tét này là của con gái Cha gởi cho.

– “Con gái”?
– Con gái nuôi.
Một người Linh mục trẻ, nhưng có gương mặt khó coi tới nỗi ai nhìn thấy đều sẽ giao vai phản diện cho anh ta, đang bước lên bục để dọn dẹp máy chiếu.

Ánh mắt hiền từ của anh ta không đủ để làm người gặp mặt cảm thấy anh ta bớt xấu và dễ mến hơn.
Năm Tường cũng phụ anh ta dọn dẹp một tay.

Bên dưới, sắp nhỏ lục tục ra về; đứa có người thân đón, đứa thì không.
– Mỹ ca hay lắm đó con.

– Cha Thành vừa rửa tay keo xịt sát khuẩn, vừa niềm nở giới thiệu.
Năm Tường muốn làm quen nên ngỏ lời mời anh ta hát.
Stephen Đoàn bèn hát vu vơ mấy câu trong bài “Bản đàn Xuân” của nhạc sĩ Lê Thương.
– Oa, răng mà ca hay a rứa thê!
Stephen Đoàn thấy người ta có chút chút hảo cảm với mình nên tự nhiên trong lòng cũng thấy mến mến.
– Anh ca thêm một bản đi.
– Ờ, con ca một bản nữa đi Mỹ.
Vậy là Stephen Mỹ chọn bài “Gác chuông Giáo đường” của nhạc sĩ Hồng Vân – Trần Quý, đây là một trong những bản nhạc không còn ai nhớ tới và biểu diễn lại.
– Tôi hát rồi, anh cũng ca lại đi.
– Được, tôi sẽ ca bài “Còn đâu Huế đẹp và thơ” của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết và bài “Chiều Cố Đô” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.
Tiếng hát của Năm Tường mang nặng âm hưởng Thần Kinh, nhưng cách nhả chữ không giống nghệ sĩ tài danh Duy Khánh mà lại có lối trình bày rất độc đáo.

Anh ca tới đâu, khung cảnh trong từng câu hát như hiện ra trước mắt những người đang ở đó.

Ai nấy đều cảm nhận được một nỗi niềm chua chát và hoài mong một điều gì đó nơi tiếng ca của anh.
Khi màn biểu diễn của anh chấm dứt, những tiếng vỗ tay rôm rả như pháo bông đêm Giao Thừa.

Người nào người nấy đều tấm tắc khen hay và nói anh nên đi làm ca sĩ.
Năm Tường ngượng ngùng cảm ơn, rồi nhận lấy dĩa bánh tét nhưn chuối của cụ bà lưng còng bằng hai tay.
– Con biết không Mỹ.
Stephen Đoàn quay qua nhìn Cha Thành:
– Dạ?
– Con ca hay hơn cái anh này nhiều, nhưng vì con không đặt trái tim nơi tiếng hát nên chẳng ai coi trọng.

Cũng vậy, tuy bề ngoài con xấu xí, nhưng vì con đối xử thật tâm với bà con chòm xóm nên ai cũng quyến luyến và thương yêu.

Làm cái gì cũng phải có tâm hết con à.
Stephen Đoàn cúi mặt nghĩ ngợi rất lung.

Anh đã hiểu mình sai ở đâu rồi…
oOo
Còn một tuần nữa là tới Tết ta, ấy vậy mà mợ Hai và Vệ Thu không ở nhà sửa soạn, họ lại dắt cháu – con lên đường “tòng chinh”.

Lần này là xứ dừa Kiến Hòa.

Chiếc xe nguyên đoàn sử dụng vẫn y như cũ, chỗ ngồi của từng người cũng giống hệt vậy.
Song ca Hương Lan – Quang Bình đang trình bày ca khúc “Lý Cái Mơn”, bài hát này nằm trong băng nhạc “Em bỏ dòng sông”.

Vệ Thu hỏi bà ghệ:
– Ca sĩ Quang Bình là con trai nghệ sĩ Hùng Cường phải không?
– Phải.

– Giọng nghe hiền giống Duy Quang quá.

Không biết rõ thân thế chắc chẳng tin nổi là hai cha con đâu.
Kế, mợ Hai mở nhạc phẩm “Mùa sầu riêng” của nhạc sĩ Hoàng Trang với phần biểu diễn của Thanh Tuyền.
– Chưa vô mùa sầu riêng đâu bậu ơi.
– Tui xuống mua sầu riêng nên phải bật bài này cho có không khí.
Xuống Cái Mơn mua sầu riêng xong, nguyên đoàn vòng về thành phố Bến Tre ăn uống.

Nơi đây xe chưa kịp nóng máy là đã đi hết trơn mọi nẻo đường.

Cái tỉnh lỵ nhỏ xíu đó không có mấy địa điểm đặc sắc để thăm viếng, nhưng bù lại hễ ai cần một chỗ ngồi mát mẻ để uống cà-phê và lặng nghe tiếng sóng nước Tiền Giang hay đi mua trái cây tại vườn thì ở đây nhóc.

Cho nên sau một hồi chồn chân mỏi gối vì ngồi trong xe, nguyên đoàn ghé một quán cà-phê vườn; hai chàng tài-xế thầm than bởi đường vườn hết sức khó đi và chật chội, huống hồ chi xe của họ thuộc dạng chín chỗ.
Sau một hồi mướt mồ hôi hột lái xe, rốt cuộc hai chàng tài-xế cũng tìm thấy một quán cà-phê vườn theo ý ông chủ.

Từ sau hè của quán nhìn thấy rõ một đoạn cầu Rạch Miễu và thấp thoáng bóng của những cồn cát xanh ngắt màu dừa.

Bông lục bình trôi nổi theo sóng nước dập dìu.

Tiếng máy nổ của những chiếc tác-ráng, sà-lan, xuồng nhỏ và tàu khuấy động không gian thanh bình, êm ả.

Vệ Thu “bao” nguyên gian nhà mát ở mé bên tay phải.

Ông không thích người lạ nghe thấy gia đình mình nói chuyện.

Đương nhiên với món tiền hậu hĩ, yêu cầu ấy của ông được vợ chồng chủ quán chấp nhận liền.
Ông chủ quán trở vô trong nhà, rồi mở bài “Trong đám xuân xanh ấy” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, do tác giả và Thanh Lan trình bày.

Một tình khúc lãng mạn mà ít ai còn nhớ tới.
Con trai của hai người lại bàn ghi “toa”.

Anh ta dong dỏng cao, đeo mắt kiếng và có lẽ do mắt yếu nên hay châu chân mày lại để chú tâm nhìn cho rõ hơn.

Ai nấy đều kêu nước dừa bỏ đá và dặn nhớ đừng nặn chanh vô.
Trong lúc chờ đồ uống bưng ra, nguyên đoàn xin phép gia chủ cho mượn cảnh chụp hình.

Vợ chồng ông lại vui vẻ đồng ý.

Mợ Hai chọn gốc mai chiếu thủy làm phông nền, còn Vệ Thu thì lựa bụp dừa nước và lũy tre xanh.

Những câu chữ ngọt ngào của bài hát “Lời tự tình trong Xuân” do nhạc sĩ Trần Thiện Thanh sáng tác và kiêm luôn biểu diễn làm tâm hồn hai con người mới chớm yêu lại khấp khởi hy vọng một ngày mai hạnh phúc.

Vệ Thương biểu họ đứng cạnh nhau, rồi giơ máy ảnh lên chụp vài bức; cậu không bận lòng với chuyện cha yêu hay thậm chí là tới với ai, miễn sao cha vui là được rồi.
Tới hơn mười một giờ trưa, nguyên đoàn mới rời quán nước mà ghé một nhà hàng ở “đường Lộ Mới” ăn uống.

Họ sẽ ăn vú dê nướng, lẩu cháo cua đồng – hột vịt lộn và vài món ăn địa phương khác như tôm hấp trái dừa, gỏi củ hũ dừa, bánh xèo ốc gạo, bì cuốn,…!Còn đuông dừa thì thôi xin kiếu.
Đáng ra dùng bữa xong, họ sẽ về Hậu Giang, song mợ Hai nói muốn ở chơi mấy bữa nên nguyên đoàn mướn khách sạn ở.

Vì đã đem theo sẵn quần áo, đồ lót và các vật dụng riêng khác nên không ai bị khó xử hay phải chạy đi mua sắm.

Khách sạn mà họ chọn nằm đối diện bờ sông Ba Lai, lại gần chợ và cầu, ăn uống – bổ đồ cũng dễ mà tản bộ ngắm cảnh cũng khá thuận tiện.
Đôi bạn già hẹn nhau ra công viên ngồi nói chuyện phiếm vào lúc mười giờ rưỡi tối.

Còn giờ thì phải tắm gội cho mát mẻ và ngủ lấy sức.
Hai cha con Vệ Thu ở chung một phòng nhưng ngủ ở giường riêng.

Việc đầu tiên mà con Út ông làm khi bước vô phòng là đi sạc điện thoại, máy tính bảng và Laptop, cùng một số thiết bị điện tử khác.

Cái tánh cẩn thận của nó ông rất vừa bụng, hễ mỗi lần có nó đi chung là ông khỏi phải lo hành lý.
– Thương.
– Dạ?
– Sao con dễ dàng chấp nhận chuyện hẹn hò của ba và bả vậy?
Vệ Thương bật cười, rồi trả lời:
– Mẹ con bỏ ba đi theo tình nhân trẻ, nên con muốn thay mặt mẹ bù đắp lỗi lầm bằng cách này.
Vệ Thu hết sức ngạc nhiên.

Ông đứng sựng mà nhìn con trai, cho tới khi nó gãi đầu hỏi, “Bộ con nói sai hay sao ba?”
– Cho ba xin lỗi con vì đã ép con học Đại học.
Vệ Thương phì cười, rồi khụt khịt mũi.

Và hỏi một câu khiến ông bất ngờ:
– Mợ Hai làm ba đổi ý phải hôn?
– Ừm…
Hai cha con nói chuyện thêm mấy câu nữa thì ai đi đường nấy.

Khoảng chín giờ rưỡi, Vệ Thu thức dậy sửa soạn rồi xuống đại sảnh ngồi chờ mợ Hai.

Xuống tới nơi mới hay mợ Hai đã ngồi chờ sẵn ở đó.

Bà mặc đầm lụa suông màu trắng và mang đôi giày sandals đen.
– Đi ăn bánh canh gà không bậu?
Bà cười e thẹn làm duyên:
– Ở đâu?
– Đó.

Ở nhà lồng chợ kìa.

Chớ ra công viên ngồi nhìn giống hai đứa già không nên nết lắm.
– Dô dziên!
Hồi xưa bà chê chồng bà y như thầy tu, cái mặt suốt ngày cứ nghiêm nghiểm, nói gì cũng xổ Nho và đạo mầu, giờ Trời trả Quả cho bà thằng con làm Tăng sĩ và cha ghệ thì không khác chi con lân.


Vẫn như thường lệ, Châu Lợi ôm y bát đi khất thực vào lúc trời còn tờ mờ hơi sương.

Bữa nay Phú Lâm bị cảm sốt nên không thể đi cùng các huynh đệ, nên ông phải lấy cái y bát lớn hơn để dành phần cho đệ ấy.
Một đôi vợ chồng thí chủ người Miên đã đứng đợi ông dưới gốc cây trâm già.

Tuy thấy cái y bát của ông bự hơn mọi hôm song không ai nêu lên thắc mắc.
Sau vài chặng đường vòng quanh các khu xóm, ông giấu y bát sau lớp áo cà-sa để thể hiện mình không nhận cúng dường vật thực nữa.

Trên đường trở về, ông được một người cho quá giang về Cô Tô bằng xe ba-gác máy.

Người đó hỏi ông về những sai lầm đã xảy ra trong cuộc đời của ông, và ông mỉm cười thuật rằng:
– Thầy chỉ cho tôi coi con nhện đang giăng tơ trên giàn mướp sau hè, và cười mà nói rằng, “Con là con nhện đó.

Tự con giăng lấy vướng mắc cho mình.

Và chuốc no bế tắc mà lại tưởng bở mình được mồi ngon.”
– Sao Thầy Thương lại xăm mình vậy Thầy Lợi?
– Bài Kinh Lăng Nghiêm trên cánh tay trái của Trì Thương là một trong những phá Chấp của đệ ấy.

Đệ rất thích bài Kinh này nhưng lại hoài nghi nguồn gốc của nó nên cứ phân vân suốt.

Thầy bèn biểu đệ xăm bài Kinh đó lên cánh tay trái, để buông bỏ Kiến Chấp xuống.

– À…
– Thầy tôi không giảng nhiều, nhưng lại dạy chúng tôi rất nhiều.

– Nên học Phật ra sao Thầy Lợi?
– “Phật Pháp là tự mình khai ngộ, chớ không phải đợi người ta khai ra cho mình ngộ.”
– Thí chủ có nghe hàng trăm bậc chân tu thuyết Pháp, thí chủ cũng chẳng thể chứng đắc được đâu.
– Tại sao?
– “Đa thư loạn tâm”.
– Và tại sao nữa?
– Mỗi vị chân tu thành Đạo theo cách của họ, lời họ thốt ra cũng khác.
Lấy thí dụ: Tôi nói, “Chiên cá với mỡ ăn rất ngon.” Và sư đệ tôi thì, “Cá phải chiên trong chảo mỡ mới ngon.

À, tôi còn bỏ tỏi vô nữa.” Thí chủ làm theo cách của sư đệ và thấy ăn ngon hơn cách tôi chỉ, trong lòng sanh ra ác ý rằng tôi cố tình giếm bí quyết nấu ăn ngon, đó là sự Vô Minh của Ngã Mạn.
– Tôi hiểu rồi.

Thầy không thích ăn tỏi nên không bỏ vô, còn sư đệ của Thầy có nết ăn hạp ý tôi.

Điều đó không hề nói lên Thầy giếm nghề mà chỉ là sự khác biệt của khẩu vị.

– Học Phật cũng vậy.

Mỗi người có cách thành Đạo và thấu Pháp khác nhau, điều đó lại càng thể hiện rõ khi họ thuyết giảng và trình bày cho đại chúng; chúng sanh rất ưa vạch lỗi và bắt bẻ từng câu, từng chữ mà họ nói chỉ để khẳng định cái khôn của mình.

– Thầy cho thí dụ được không Thầy?
– Tôi nhờ té xuống sông sâu mà biết bơi lội, vậy thí chủ có nên bắt chước cách biết bơi của tôi không?
– Không, chết như chơi.
– Thấy người ta ngồi thiền suốt mấy tiếng liền mà thành Đạo cũng nai lưng ra ngồi.

Chứng đắc đâu chưa thấy mà đã thấy cụp xương sống rồi.

Người đàn ông đó chép miệng:
– Riết rồi diễn đàn Phật Giáo hệt khuôn sàn đấu của các thầy cãi.

Châu Lợi bật cười, rồi nói:
– Tôi thường hay đính chính những nhận định về Phật Giáo, mà tôi và các Thầy tôi cho là, chưa đúng của chúng sanh.

Còn Pháp tôi không ưa đề cập, vì càng nói thì càng rời xa Bát Chánh Đạo và sa đà vào bẫy của Vô Minh.

– Thầy cho tôi thí dụ nữa được không Thầy?
– Được.

Có ba người bạn ở chung một phòng, họ thay phiên nhau làm việc nhà.

Hôm đó tới lượt anh A đi nấu cơm, do vo gạo ẩu nên anh ta không phát hiện có đinh rớt vô nồi cơm, thành thử ra cứ ghim điện nấu.

Tới giờ ăn, anh C múc cơm ăn, và tìm thấy cây đinh bị bao bọc trong một cục cơm, anh mới cười hiền mà biểu, “May quá, tôi vốn ăn chậm nên thấy sớm, chứ gặp hai người ăn nhanh là nuốt chết rồi.” Một câu nói vô hại như vậy nhưng lọt vô tai anh B và anh A thành ra nghĩa khác, họ mới trách, “Ăn thì phải nhìn chứ?”, “Đâu phải tôi cố tình hại anh đâu mà nói móc họng vậy?”,…
Thí dụ trên không liên quan tới thuyết giảng.

Tôi chỉ muốn cho anh thấy sự Vô Minh của con người tai hại ra sao thôi.

Anh ta đập bánh-lái một cái thật mạnh, rồi bình phẩm:
– Họ đánh mất một người bạn tốt chỉ vì sự suy diễn ngu dại của mình.

– Cứ hễ muốn thuyết giảng, tôi lại nhớ tới bốn thành tố Đất – Nước – Gió – Lửa, vậy là Tịnh Khẩu.
Châu Lợi dẫn người đàn ông đang phiền muộn đi xuyên qua một rừng cây thốt nốt vô chủ, để tới một mỏm núi cheo leo và rậm rạp cỏ hoang.

Chiếc xe ba-gác nằm lại nơi bìa rừng.
– Học Phật rất cần thí dụ, thí dụ càng bình dân thì tỷ lệ hiểu Pháp càng cao.

Ý là tôn giả Ananda hầu cận bên Như Lai suốt mà lại không hiểu thí dụ của Ngài.
– Nghĩa là sao?
– Tức là thí chủ chỉ thuộc công thức làm toán, nhưng không biết áp dụng vô để giải bài tập.
– Cho thêm thí dụ đi Thầy ơi…
– Thí chủ được tôi nhờ giặt đồ hằng ngày.

Vậy bữa nay có cần hỏi tôi cách giặt đồ nữa không?
– Không, biết rồi, hỏi chi.
– Cách nhìn nhận Pháp của tôn giả Xá Lợi Phất cũng vậy.

Ông không sanh tâm bất an, sợ hãi hay tưởng tượng ra lý do tại sao Đấng Thế Tôn lại đặt ra câu hỏi hay yêu cầu mình như vậy như tôn giả Ananda.

Cho nên, ông mới được xưng tụng là “Trí huệ đệ nhất”, còn tôn giả Ananda là “Đa văn đệ nhất”.

Một người “Hiểu” và một người “Thuộc”.
– À…!- Anh ta tủm tỉm cười.
– Đức Phật nói con bò, họ giảng thành con trâu, rồi một số người nghe không chịu đi kiểm chứng hay tra cứu lại kinh điển – tạng luật mà đã lên tiếng nói Đạo Phật toàn truyền bá mê tín dị đoan hay như thế này, thế nọ, thế kia.
Anh ta gật đầu trước khi hỏi tiếp:
– Có người nói Đức Phật đi tu yên ổn là nhờ xuất thân con trai của vua Tịnh Phạn phải không?
– Đức Phật hồi chưa thành Đạo cùng bạn bè đồng tu thường lánh nơi rừng sâu núi thẳm thì có đụng chạm tới ai đâu mà sống không yên ổn.

Sau này Ngài thành Đạo thì nhờ vào…!Tôi nên nói thế nào cho thí chủ hiểu đây?
– Dạ, tôi sẽ ráng hiểu được.
– Một phần nhờ Chư Thiên, Thánh Thần, Đế Thích và Phạm Thiên bảo hộ.

Một phần nhờ vào chính bản thân Ngài đã làm cho phần đông chúng sanh yêu thương và bảo vệ.
Một đứa trẻ sẽ hiểu được điều này hơn là một người lớn.

Vì chúng có thể cảm nhận được thái độ của người đối diện là thật hay giả, tốt hay xấu, xạo hay ngay.

Tâm từ của Phật rộng lớn tới nỗi làm cho người lớn phải dẹp bỏ sự đề phòng và nghi kỵ.
– Phải, càng lớn tôi càng đề phòng và nghi kỵ mọi người.

– Đức Phật làm cho người gặp Ngài cảm thấy yên lòng và thanh thản.

Giống hệt như thí chủ ở cạnh một hiền mẫu, chắc chắn thí chủ chẳng cần phải hồi hộp hay vò đầu bứt tai nghĩ cách đối phó.
Châu Lợi nói tới đó thì ngưng.

Ông chắp tay mà nói lời tạ từ với người thí chủ đã cho mình quá giang về Cô Tô.

Đáng ra bữa nay ông không đi khất thực, nhưng vì sợ thí chủ này nghĩ quẩn nên phải tới đây can ngăn thông qua hình thức “đánh trống lảng”.
Vừa cuốc bộ lên đỉnh núi, Châu Lợi vừa ngẫm lại những lời dặn dò trước khi mất của Trưởng lão Như Phong và Đại Trưởng lão Vô Sắc.

Ông hãy còn nhớ như in rằng, Thầy Vô Sắc biểu chừng nào con được bảy mươi hai tuổi, hãy xuống núi Cấm tìm Sa-di.

Vì mãi bận tâm, không biết tự bao giờ bước chân của ông đã đi phăng phăng lên mặt đá gồ ghề, lởm chởm và sắc nhọn.

– Trời đất ơi, Thầy Lợi, Thầy đi kiểu gì mà đi lên trên dốc núi hay vậy?
Châu Lợi không quay lại nhìn, mà bật cười và đáp:
– Quen rồi, thưa mợ Hai.

Chiếc xe chín chỗ đang từ từ trườn lên con đường dốc núi.

Mợ Hai sợ té nên rụt đầu vô trong xe và ngồi nghiêm chỉnh trên ghế.

Người Tăng sĩ đã cứu mạng con trai bà vẫn thản nhiên bước đi như bên dưới là thảm nhung êm ái và mịn màng.
Sau hơn nửa tiếng hồi hộp đến đau tim, hai chàng tài-xế đã tới được tịnh thất vô danh.

Họ chắp tay cảm tạ Trời – Phật cùng Chư Vị khuất mặt khuất mày ở đây đã thương tình che chở cho nguyên đoàn bình an vô sự.

Những hành khách thấy vậy cũng chắp tay và lầm rầm vái van như họ.
Trì Thương biết người thân đã tới song không ra tiếp đón vì bận tay lau rửa mình mẩy cho Phú Lâm để đệ ấy đỡ sốt và bứt rứt.

Hồi nhỏ, lúc nó còn bị sốt rét rừng, chú và huynh trưởng thay phiên nhau dỗ dành, cho uống thuốc, tắm rửa, đút cháo – sữa và giặt quần áo dính đầy nước ói của nó.

Đã lâu lắm rồi mới thấy nó ốm yếu như vầy, nhưng trong tâm của chú chỉ còn lòng bi mẫn chứ không pha tạp thêm cảm xúc nào khác nữa.
– Má của tôi có đem theo trái xá-lị và lê Đại Hàn, lát tôi gọt cho mà ăn, bịnh như vầy ăn uống gì nổi.
– Dạ, tự nhiên em thèm ăn trái cây quá anh Ba.
Những giọt nước mắt của Trì Thương rơi xuống ngực đứa em Út bất đắc dĩ.

– Ráng khỏe lại, tu hành tinh tấn, thoát khỏi vòng Luân Hồi, tiến nhập Niết Bàn, sẽ không còn phải chịu cảnh như vầy nữa.
– Sadhu.

– Phú Lâm chắp tay mà nói.
Thủy Diệu giúp nhị sư huynh lau khô mình mẩy và đắp cà-sa cho Phú Lâm.

Nhìn bộ dạng người bạn đồng tu đã chỉnh tề và sạch sẽ rồi, hai người mới yên tâm đi rửa tay xà-bông rồi ra thưa hỏi mọi người.
Châu Lợi kể lại chuyện con Parot, và nhận về một ánh nhìn khó hiểu của chú Thương.

Thấy vậy, ông bèn nói rõ hơn:
– Phải, con “Parrot” của đệ ấy tên là “Parot”.

Cái tên này đến từ chuyện nói lộn “Parrot” thành “Parot” của ông nội đệ ấy.
Mợ Hai ngó dáo dác vô bên trong, chừng thấy con trai gầy hơn lúc trước thì xót ruột nói:
– Thảo.

Má với anh Hai và bác Ba lên thăm con nè.
Trì Thương xin phép má cho mình lấy mấy trái xá-lị và tuyết lê.

Mợ Hai tuy rất buồn vì cách nói chuyện giữ lễ của con trai Út, song hiểu nó đang ở đâu nên không thể hiện ra mặt.

Chú biết má chú buồn, nhưng chỉ biết ngậm tăm.
Mợ Hai giả lả:
– Salad Hy Lạp và thịt heo quay kiểu Ý.

Sợ salad bị hư nên mợ lên đây mới làm.
Thủy Diệu nghẹn ngào chắp tay nói lời cảm ơn má của nhị sư huynh.
Rồi bà quay sang nhìn người Tăng sĩ đen như cột nhà cháy mà nói:
– Còn đây là cơm Jollop và súp Egusi.

Mợ không biết con ở vùng nào của Châu Phi nên làm đại món này.
Hoàng Kỳ dụi dụi đôi mắt đã đỏ hoe của mình.

Rồi cúi đầu cảm ơn mợ Hai.
– Mai tôi sẽ nấu đồ ăn Việt cho các Thầy.

Bữa nay ăn thử ẩm thực xứ khác nghen?
– Sadhu.
Châu Lợi sớt đồ ăn trong y bát của mình cho các hiền đệ.

Chú Thương ngỏ ý nếm thử một miếng, mợ Hai cũng muốn kiểm tra coi con mình thường ngày có ăn ngon miệng không.
Dù đã cố gắng hết sức, nhưng hai má con nuốt không trôi.

Nấu cái gì mà dở như hạch, khó ăn muốn chết.
– Mợ thấy trớ trêu hả mợ Hai? – Châu Lợi cười hỏi.
– Dạ phải, những người giả tu thì ăn sung mặc sướng, kẻ đón người đưa, ở trong cái chùa còn nguy nga, tráng lệ hơn lâu đài.

Còn mấy Thầy đây…
Những người Tăng sĩ ấy lắc đầu cười hiền.
Mợ Hai nói lảng sang chuyện khác:
– Thầy Lợi lớn tuổi hơn tôi mà tôi cứ tưởng bằng tuổi xấp nhỏ.
Châu Lợi chắp tay nói, “Sadhu.”
Thủy Diệu hỏi:
– Hình như những món ăn này không mợ nấu?
– Tôi mướn hai đầu bếp ngoại quốc về nấu đó chớ.

Tôi mà nấu chắc…
Đôi mắt mợ Hai sáng rực lên khi thấy con Út trở ra.

Bà hấp tấp đưa cái hộp đựng gà chiên, khoai tây chiên và mỳ Ý cho con trai.

Rồi giục nó mau mở ra ăn kẻo hết giờ thọ thực thì khốn.

Trì Thương không chắp tay cảm ơn nữa, mà nhận lấy bằng một tay, bởi chú hiểu má muốn chú hành xử như một người con, chứ không phải là một người Tăng sĩ.

Bà hạnh phúc xoa cái đầu trọc lóc của con, cái đầu đó đã từng được bà gội cho không biết bao nhiêu lần nay chẳng còn sợi tóc nào.
Trong mắt Vệ Thu, hình ảnh mợ Hai trong lúc này chẳng khác nào đang minh họa cho bài hát “Tiếng ru ngàn đời” của nhạc sĩ Huỳnh Anh mà ông đã từng nghe Chế Linh ca.
– Sẵn đây, con muốn nói cho má cùng anh Hai biết về những gì đã xảy ra vào cái hôm đó…
Hóa ra sự việc không hề đơn giản như mợ Hai vẫn nghĩ.

Con trai của bà bị một băng chuyên buôn lậu nội tạng để mắt tới.

Để bắt cóc nó thành công, chúng đã lân la hỏi chuyện nó đủ điều.

Khi nghe tin nó muốn bỏ nhà đi tu, chúng đã dụ dỗ nó rằng hãy đi quá giang xe của chúng.

Và nó đã làm theo.

Thời may Châu Lợi phát hiện kịp thời nên đã giải cứu được nó.
– …!Kẻ chủ mưu trong vụ việc này có đứa cháu gái bị hư thận sắp chết nên rất cần một trái thận lành lặn để sống sót.

Trùng hợp con là con nít, lại là nam, nên họ muốn giết con để cướp luôn hai trái thận.
Vệ Thu tò mò:
– Hổng biết con nhỏ đó còn sống hay đã chết hén?
Trì Thương kể tiếp:
– Trong lúc nguy cấp, để cứu lấy mạng cháu gái, kẻ chủ mưu đã mướn người thuyết phục một người Linh mục già hiến thận.

Sau khi ghép thận được vài năm, trái thận bị lỗi nên kẻ chủ mưu lại phải tìm một trái thận mới.

Người bị nhắm tới lần này là một người cha đơn thân có hai mặt con: Đứa lớn bị bịnh như anh Hai con nhưng còn tệ hơn nữa, đứa sau khỏe mạnh cùi cụi.

Chú này đồng ý hiến thận với điều kiện phải bảo lãnh ba cha con chú sang Mỹ, vì con gái chú cần hưởng các quyền lợi bảo hiểm y tế miễn phí suốt đời bên đó.

Kẻ chủ mưu đồng ý cái rụp.

Sau ba năm chờ đợi, gia đình chú sang Hoa Kỳ sanh sống.

Cháu gái của kẻ chủ mưu nhờ ổng cưu mang giùm ân nhân đã cứu mạng cổ, nên ổng lo cho gia đình này từ A tới Z và hằng tháng chu cấp năm ngàn đồng Mỹ Kim…
Ngừng một lát để uống nước cho bớt đau cổ họng, Trì Thương mới nói nữa:
– Cho nên, không dễ dầu gì để bắt các nhân chứng này tố giác đường dây buôn lậu nội tạng của khứa chủ mưu, do họ đã coi nhau như người một nhà.
Trần Kim Thương vỡ lẽ:
– Rất có thể người bị cướp thận chính là Linh mục Giuse – Blanc Cao Nhật Thành.

Thành thử ra ổng mới đổi tánh phải hôn?
Trì Thương lắc đầu, nói:
– Trật lất vế sau, trúng phóc vế đầu.
Chỉ còn hai mươi phút nữa là hết giờ thọ thực, mợ Hai quýnh quáng hối con trai Út lo ăn cơm nước.

Về phần mình, bà ngồi gọt sẵn lê và xá-lị cho hai đứa, không còn thiết tha dùng bữa.

Mấy lần bà xém gọt vô tay, may nhờ Trời thương hay sao mà bà khựng lại kịp…
oOo
Sáng nay có mưa rào.

Mảnh vườn con sau lưng ký túc xá nhờ vậy mà hồi sinh.

Mấy bữa rày bận việc Giáo xứ và chuyện ở sở cảnh sát nên Stephen Mỹ không còn thời giờ để chăm sóc nó.

Vừa ngồi trên giường ngắm mưa rơi ngoài song, anh vừa hồi tưởng lại những năm niên thiếu của mình.

Anh thường chọn những tình khúc lãng mạn khi thổi harmonica, cũng bởi lẽ đó mà vô vàn sự hiểu lầm đáng tiếc bị sinh ra.
Chuông nhà thờ ngân nga sáu tiếng trầm bổng.

Chắc giờ này người bạn của anh đã vô nhà thờ để chuẩn bị công việc cho một ngày mới.

Mức độ tín nhiệm mà bà con dành cho anh ta đã tăng lên khá cao, gần đây anh ta nhận được những lời mời tới chơi và thực hiện Bí Tích…
– Chúa ơi, chút xíu là con quên rồi!
Sực nhớ cuộc hẹn với người Giáo dân, Stephen Đoàn nhảy xuống giường, rồi chân nọ xỏ dép chân kia mà lọ mọ vô nhà vệ sinh sửa soạn.

Anh tính dậy sớm để cạo râu đàng hoàng trước lúc ghé nhà Giáo dân mà mải mê ngắm mưa nên quên béng mất.

Nghĩ về việc mình tới nhà người ta trong bộ dạng Santa Claus, anh che mặt cười ngặt nghẽo.
Tuy đã nghe thấy tiếng “Lục cục” ngoài cửa, nhưng anh vẫn không để tâm đến, do đó sự có mặt của Matthias Hoàn đã khiến chàng Linh mục khó coi giựt nảy mình.

Không biết tự bao giờ mà Thầy anh đã đứng ở ngoài cửa phòng đợi.
– Thầy? Thầy tới đây chi vậy?
– Rủ con đi ăn sáng nè.
– Rồi ai lên lớp dạy?
– Antonio Cao Nhật Vũ.
Stephen Đoàn giải thích rằng mình mắc bận tới nhà Giáo dân theo lời hẹn, song Matthias Hoàn cười xòa và biểu, “Con yên tâm đi.

Thầy đợi được.”
Vậy là chàng Linh mục cùng với Thầy mình tới đó bằng taxi Uber.

Tài xế là một người mẹ trẻ có ba mặt con, mới vừa sanh xong được nửa năm mà đã phải đi làm kiếm tiền nuôi con.

Thông cảm với hoàn cảnh của cô nên hai người đồng ý để cô chở con đi học rồi mới đi theo lộ trình của họ.
Tiếng hát u sầu muôn thuở của Thanh Thúy đã làm lời ca trong nhạc phẩm “Ngày về có tin Xuân” của nhạc sĩ Anh Bằng thêm phần sâu lắng và đẹp đẽ.

Cô tài xế đang dặn dò mẹ nhớ cho hai đứa nhỏ bú sữa, có vẻ như trưa nay gia đình của cô ăn canh giò heo hầm măng, sườn khìa và cải thìa luộc.
– Vũ vẫn còn nhớ tới con nên mới nhắc tới cái tên “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”…!Con còn nhớ người sinh viên nhờ con biểu diễn bài “Anywhere the heart goes” không?
Sau một thoáng bối rối, Stephen Đoàn hồi thần mà lúng túng trả lời:
– Dạ còn.

Đây là nhạc chủ đề của bộ phim trên.

Anh ta cho con tiền ăn hủ tíu ba ngày, chỉ cần con đứng thổi harmonica suốt một tiếng đồng hồ.

Matthias Hoàn gác tay lên thành cửa sổ để chống cằm:
– Hai đứa đều lập dị như nhau.
Cô tài xế liếc mắt nhìn kiếng chiếu hậu.

Rồi chú tâm lái xe tiếp:
– Vậy là con đã trách lầm Vũ…
Và anh bổ sung:
– Đáng ra Vũ nên nói thẳng, hơn là cứ giấu giếm con như vậy.

Tới đầu con hẻm không tên hẹp té, do xe hơi không thể chạy vô được nên hai người trả tiền cước rồi đi bộ đến đó.

Những sạp hàng bày bán đủ món ăn chơi trải dài hai bên đường; đông nhứt là chỗ bán điểm tâm như hủ tíu, cơm tấm, bánh canh, xôi, bún,…!Hiềm nỗi “cha chung không ai khóc” nên con lộ khá dơ và nhếch nhác.
Nhìn người thầy già bước đi xôi xổi mà trong lòng Stephen Đoàn cảm thấy vui vui, thật mừng vì Thầy anh hãy còn mạnh giỏi và minh mẫn.

Bên hàng cà-phê, giọng hát của Anh Khoa trong bài “Hương thừa” của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang đã làm Stephen Đoàn buồn buồn.

Tự nhiên cô Xuân buồn tình bỏ nhà lên chùa ở, khiến anh cảm thấy rất có lỗi và khó xử.

– Thầy ơi.
– Chuyện gì vậy Mỹ?
– Con nên tặng cái gì cho vợ chồng thím Năm đây?
– Một cặp rượu Tây là đủ thành ý rồi.

Chứ dưới quê lạp xưởng, bánh – mứt, giò – chả, củ kiệu,…!bán đầy, con mua lầm chỗ dở còn báo hại nữa.
Stephen Đoàn mím môi nghĩ ngợi.

Anh đã ca bản “I who have nothing” suốt một tháng liền, giờ lấy tiền đâu ra mà mua rượu Tây.
– Ở nhà Thầy nhóc luôn, mỗi dịp lễ lạc là Giáo dân và phụ huynh cho cả đống, con tha hồ mà lựa.
Stephen Đoàn chắp tay và cúi đầu cảm ơn người Thầy nhìn đời qua cặp kính viễn thị.

Nhà của người Giáo dân đó nằm khuất sau ngã ba của “rừng hẻm”.

Do đã đụng xe và va quẹt quá nhiều lần nên bà con lắp gương cầu lồi ở những chỗ thường xảy ra tai nạn.

Hai thầy trò ngồi xuống sắp lại dĩa trái cây bị đổ trong cái miễu dưới gốc cây me tây, rồi chắp tay thưa một tiếng trước lúc tiếp tục chặng đường còn lại.
Đi một hồi bị lạc đường luôn, Matthias Hoàn bèn ghé vô quầy chạp-phô hỏi thăm.

Bà lão bằng tuổi cụ vừa phe phẩy quạt mo vừa chỉ:
– Nè, hai Thầy quẹo trái, thấy cái nhà tường có giàn bông giấy trước cổng rồi đi tiếp ba căn nữa thì quẹo phải, cái nhà đó là căn đầu tiên hết á.
– Xin cảm ơn chị…!Sẵn đây chị bán cho tôi hai cầy đèn cây bự màu trắng và ba lít đậu phộng luộc.
Trên đường đi, Stephen Đoàn mặt ủ mày chau, chừng như trong bụng có điều chi lo lắng lắm.
– Sao con buồn vậy Mỹ?
– Đi từ hồi nãy tới giờ mà không có lấy một sở cứu hỏa hay nhà vệ sinh công cộng.

Con muốn kiến nghị việc này lên chính quyền.

– Phải, lỡ hỏa hoạn không biết đường đâu mà lần.
Gia đình người Giáo dân đó đã đứng đợi sẵn ở cổng nhà.

Ai nấy đều ăn mặc tươm tất và chỉnh tề.

Chưa bước vào nhà mà hương trà mạn thơm ngát đã bay tới mũi hai thầy trò.

Vì chuyện này liên quan tới vấn đề sức khỏe tâm thần nên hai thầy trò xin phép về nhà tính lại.

Gia đình khẩn khoản mời họ ở lại nói chuyện chơi với gia đình và làm Lễ ban phước cho ngôi nhà; từ dạo dọn về đây ở, ngày nào con nhỏ thứ cũng kêu khóc ầm ĩ như bị ai ngắt nhéo hàng giờ liền.
Thấy trời đã vào trưa, gia chủ bèn mời hai thầy trò đi ăn cơm ở một quán trong “rừng hẻm”.
Trước lúc lên đường, Matthias Hoàn xin phép sử dụng nhà vệ sinh, và gia chủ niềm nở đồng ý.

Stephen Đoàn cũng đi theo cụ.

Đến nơi anh mới biết thì ra Thầy anh đang lén uống thuốc nước trị đau bao tử, do sợ chủ nhà áy náy vì đã khiến Thầy bị như vậy…
Sau bữa cơm không ngon miệng mấy, Matthias Hoàn dẫn con trai về nhà chọn rượu.

Gia đình con nuôi của cụ hùn vốn mở một siêu thị với một thương gia gốc Hoa và mấy đứa bạn thân của nó, nên đời sống rất mực sung túc và dư dả.

Cụ lượm nó về nuôi vào năm 75.

Thấy nó ngồi khóc oa oa trước một ngôi nhà đang bị lửa thiêu rụi nên hớt hải bồng nó đi trước; sau lại hỏi thăm mới hay cha mẹ nó không còn nữa, còn thân quyến thì tản lạc do chạy nạn, cụ bèn nhận nó làm con luôn.
Căn biệt thự ba tầng có sân thượng và tầng hầm ấy nằm trong một khu dân cư hạng sang.

Con gái của cụ phải đi rước hai người, họ mới vô được, vì ở đây muốn qua cổng phải có thẻ bảo an.

Dưới sự giới thiệu và chỉ dẫn của mợ Tư Oanh, Stephen Đoàn lấy hai chai rượu Hennessy XO.

Bà giúp người Linh mục đóng gói cặp rượu và một hộp kẹo chocolate đủ mùi vị cỡ lớn; chỉ cần giấy bóng kiếng, cái giỏ mây có quai xách và cái nơ lụa xanh biển, bà đã làm nên một hộp quà rất trang nhã.
– Valentine sắp tới con có muốn tặng sô-cô-la cho ai không Vũ?
– Cho một cô gái, là bạn tri kỷ của con.
– À…!Vậy thì để mợ chọn hộp có đường diềm hình bông hoa hoặc chiếc lá để cổ khỏi hiểu lầm.
Matthias Hoàn ngó thùng giấy bìa cứng đựng rất nhiều hộp chocolate ngoại nhập mà cất giọng hỏi con gái:
– Valentine đợt trước bán có khá hôn con?
– Dạ, cũng lai rai.

Độ rày người nghèo đông hơn người giàu nên hiếm người dám bỏ tiền ra mua món quà tặng xa xỉ này.
– Chúa ơi, sô-cô-la rẻ rề mà vô tới Nước này lại thành xa xỉ phẩm.
Mợ Tư Oanh cười trừ, rồi soạn ra một hộp chocolate hình chiếc lá ánh kim và đưa nó cho Stephen Đoàn.

Người trai đó cúi đầu cảm ơn bà, rồi cất hộp chocolate vào trong cái cặp da của mình.


Khoảng năm giờ sáng, Stephen Đoàn lên xe đò về Kiến Hòa.

Anh chọn băng chót, ngồi sát cửa sổ mé tay trái.

Hộp quà đã được anh gửi chuyển phát nhanh qua đường bưu điện vào ngày hôm trước.

Đi tay không cho rảnh rang và tiện bề du ngoạn nơi nơi.

Trước tiên anh sẽ xuống Đồng Nai để hỏi thăm tin tức người thanh niên tên Nguyễn Chí Công giùm cho các Thầy, kế sẽ ghé An Giang tìm tung tích của người đàn ông tên Phan Thụy Long, sau rốt là tới Bạc Liêu kiếm pháp y Martin – Matin Trần Cảnh Chiêu.

Chuyến đi này sẽ kéo dài trong vòng một tuần, cố Toàn ứng tiền cơm nước và ăn ở cho anh.
Anh tài xế mở bản “Xuân ca” của nhạc sĩ Phạm Duy qua phần trình bày của Duy Quang và ban “The Dreamers”, ban “Phượng Hoàng” biểu diễn bài này cũng rất hay.

Bằng tuổi của anh mà người ta đã lái xe đường dài giỏi như vầy, còn anh mới ôm vô-lăng có một tiếng hơn đã xây xẩm mặt mày, bởi anh có chứng huyết áp thấp và rất dễ tụt đường.
Đến xế trưa, anh mới bước xuống xe.

Điểm dừng chân là quán cơm “Thiên Địa Hội”, hay nói phứt ra là có “ăn chia” với chủ nhà xe.

Anh khấn thầm xin hãy bán với giá nương tay một chút cho kẻ Mục vụ nghèo của Chúa còn có đường về Giáo xứ.
Người đàn ông xăm trổ đầy mình bước lại bàn của anh mà hỏi:
– Ăn gì cậu?
– Cho tôi xin cái thực đơn.
Anh ta nghiêng đầu nhìn anh mà bật cười ha hả, rồi vỗ vai anh mấy cái, đánh cái nào đáng đích cái nấy:
– Không có bán thách đâu mà sợ.

Hãy tin tưởng tôi như cậu tin tưởng Chúa vậy.
– Dạ…
– Ăn gì đây Cha trẻ? Nói!
– Đ* má mày để khách coi món một lát chết bất đắc kỳ tử hay gì mà hối như giặc vậy?
Người lên tiếng giải vây cho anh bộ dạng cũng bất hảo y chang người kia.

Hình như anh vô lộn quán của vợ chồng Mẫu Dạ Xoa – Tôn Nhị Nương của Thủy Bạc Lương Sơn, không biết hai ông nội này là Tích Lịch Hỏa – Tần Minh hay Xích Phát Quỷ – Lưu Đường đây?
Ở Giáo xứ làm “cha”, giờ vô đây thành “con”.

Đúng là ai hay con Tạo xoay vần.
Người trai có vẻ dễ thương hơn hai người kia tiến lại và mỉm cười trấn an:
– Anh đừng sợ…!
– Tôi đang ráng hết sức để đừng sợ đây.
– Ăn đặc sản Đồng Nai nghen? Hay muốn ăn nói gì để tôi sai tụi nó làm cho…!Mà anh quê quán ở đâu?
– Tôi ở Vĩnh Long.

– A! Vậy thì ăn cá tai tượng chiên xù nghen? Với thử canh chua lá giang của xứ tôi đi.

– Dạ…
Phương Hồng Quế đang ca bản “Người em xứ bưởi” của nhạc sĩ Hoàng Phương.

Xứ bưởi trong bài này có lẽ là Biên Hòa – Đồng Nai.
Người nói mà như nạt anh lại hỏi:
– Uống gì hôn?
– “Cho tôi xin hai chữ “Bình yên”.
– Uống gì?
– Dừa xiêm.
– Có đá hay không đá?
– Dạ có.
– Đừng có dạ với tôi.
– Tôi quen rồi.

Quán cơm không còn bàn nào trống.

Một gia đình năm người thấy Stephen Đoàn ngồi ăn có một mình thì muốn vô ngồi ghép nhưng sợ anh từ chối nên cứ đứng đó hoài.
– Cha!
Không biết ông thần này lại muốn gì nữa đây, mới hỏi anh muốn uống gì cái sột mà, hay là quán hết dừa rồi.
– Dạ?
– Xuống bếp ngồi ăn với tụi tôi.

Nhường bàn đó cho gia đình cô chú kia đi.

– Dạ được.
Người trai du đãng xách phụ anh hành lý xuống nhà sau.

Những người đầu bếp tánh nết cũng không khác anh ta là bao; một người hỏi:
– Mày tới Giáo hạt để kiếm Cha xưng tội hả?
– Bậy…!Đưa ổng ra sau hè ngồi ăn cơm cho mát.

Đứa nào thọc tay vô hành lý của ổng, tao rút móng đứa đó, tao để đây nghen.
Người đầu bếp đang chặt thịt heo ngừng tay mà phán:

– Lục thì phải kiếm thương gia hay con buôn, chứ mấy ông Cha nghèo bỏ xừ có cái giống gì mà trộm.
Stephen Đoàn buột miệng nhận xét:
– Anh quả là người có con mắt tinh đời.
Rồi anh pha lửng:
– Cái “Thủy Bạc Lương Sơn” này ai làm “trụ trì” vậy?
Người trai du đãng quắc mắt nhìn anh:
– Là người khác…!Mà hỏi chi vậy? Lo cơm nước rồi đi làm công chuyện riêng đi.

Sau hè là một vườn cây xanh mát.

Có cả mấy con mương xâm xấp nước nhìn thấy rõ đáy.

Tự nhiên Stephen Đoàn nhớ tới trường mẫu giáo mà mình từng theo học; cũng như bao người khác, cô giáo hết sức ngạc nhiên khi thấy cái tên không ăn khớp với bề ngoài dị hợm của anh.

Hồi anh mới chào đời, nghe mẹ anh đặt tên “Ngọc Mỹ” mà ai nấy cũng dở khóc dở cười, họ không dám bắt mẹ anh đổi tên mà chỉ nhỏ nhẹ khuyên rằng nên đặt tên khác để lấy hên…
– Vô ăn cơm nè Cha.

– Người trai du đãng ban nãy đã sắp mâm cơm hồi nào mà Stephen Đoàn không hay.
– Hồi nhỏ, tôi từng mơ về vườn ở với song thân, lo mồ mả ông bà và làm nông mà sống.
– Rồi sao đổi hướng làm Cha vậy?
– Mẹ tôi mất, ba tôi đi lấy vợ khác, tôi đành vô trường Dòng sống.
– Nè, đũa nè, lấy ra ăn cơm đi.

– Người trai du đãng đưa đôi đũa xài một lần vẫn còn nằm trong bao giấy cho người Linh mục xa lạ.
Không biết có phải muốn an ủi anh không, mà người trai đó mở bài “Hai mươi năm tình đẹp mùa chôm chôm” của nhạc sĩ Giao Tiên và do nữ ca sĩ hải ngoại Hồng Trúc biểu diễn.

Đây là bài hát ca ngợi vùng đất Vĩnh Long:
“20 năm qua tình mùa chôm chôm vẫn đẹp
Cô gái Vĩnh Long vẫn đẹp như màu xanh nước Cửu Long
Đẹp như em ca câu vọng cổ thắm nồng duyên thủy chung
Ngọt ngào như trái chôm chôm…”
– Tôi thích nghe bài “Tiếng hò Cửu Long” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương lắm.
– Vậy hả?
Nói tới đó, người trai du đãng bỏ lên nhà trên chạy bàn và tiếp khách.

Ăn có một mình mà họ lại bưng ra nguyên con cá tai tượng bự chảng, cái tượng canh chua lá giang và một nồi cơm tấm hơi nguội.

Anh nhẩm tính số tiền phải trả, lòng thầm ca bài “Kiếp nghèo” của nhạc sĩ Lam Phương.

Anh xin mạn phép hương hồn cố nhạc sĩ cho anh mượn giai điệu mà sáng tác bài “Kiếp mạt”.
Một người phụ bếp ngồi chồm hổm mà ăn cơm dưới gốc cây trứng cá cất giọng biểu:
– Ăn hổng hết thì cho mấy con chó nó ăn.

Coi tụi nó nằm chờ thấy thương chưa kìa.
Stephen Đoàn cười gượng hỏi:
– Nhiêu tiền hả anh?
Anh ta nhớ lại lời dặn của anh Ba, rồi trả lời rằng:
– Ba chục đồng.
Stephen Đoàn gãi đầu, mím môi.

Đoạn ướm hỏi:
– Sao rẻ dữ vậy?
Ai dè anh ta đổ quạu:
– Hay muốn trả ba trăm?
Stephen Đoàn chắp tay và đáp:
– Xin cảm ơn các anh.
Vừa liệng cục xương cho con chó mực, anh ta vừa tâm tình:
– Tụi tôi “ăn đằng sóng, nói đằng gió” quen rồi.

Không có “gõ đầu trẻ” như anh được.
– Dạ, tôi hiểu mà.

.

ngôn tình ngược
Ăn xong bữa cơm, Stephen Đoàn tính đặt Uber để tới Giáo hạt Hố Nai, nhưng đã bị người trai du đãng cản lại và biểu để anh ta chở đi cho.
Chiếc xe hơi của anh ta hiệu Dodge, có màu đen và năm chỗ ngồi.

Anh ta không đánh tiếng mời Stephen Đoàn lên xe mà để anh ta tùy ý hành xử.

Xe chạy được một đoạn, Stephen Đoàn đánh bạo hỏi:
– Anh có biết chương trình “Chuyến tàu hồi hương” không?
– Biết.

– Tôi có người em trai sống ở đây, răng khểnh ở mé trái hàm trên, tên Nguyễn Chí Công, bị ba mẹ nuôi bỏ lại.
– Tên bố mẹ nuôi là gì?
Nghe Stephen Đoàn trả lời, anh ta cau mày nghĩ ngợi.

Rồi vỗ đùi cái đét.
– Sao anh?
– Trước làm công cho má con bà Nguyệt, sau nghe đồn con bà Nguyệt là bà Tú chửa hoang nên đưa tiền cho đôi vợ chồng đó nuôi giùm đứa nhỏ.

Họ ghiền chơi tổ tôm…
– Khoan, trong này mà có tổ tôm?
– Anh quên lý do rồi hả anh?
– À…
– Thành thử ra, đổ nợ.

Gặp hai má con Trăng – Sao mất hình, không có ai cúng tiền nữa nên họ hết thiết đường nuôi thằng nhỏ.

Sau khi bàn tính với nhau xong xuôi, họ đưa em trai anh tới chỗ Linh mục Matthias Hoàn.

Rồi ghi danh chương trình “Chuyến tàu hồi hương” do chánh phủ tổ chức để dông về Bắc trốn biệt.
– Sao anh rành dữ vậy?
– Tôi là cháu trai của chủ nợ mà.

Trăng – Sao còn sống hay đã chết vậy?
– À…!Chết hết rồi…
– Mẹ, biết kiếm ai đòi nợ đây? Ê, nó là gì của anh?
– Em bên Đạo, cùng một người Thầy dạy dỗ.

– Trời, tưởng đâu em trai ruột là lấy tiền lại được rồi.
– Thiếu bao nhiêu?
Anh ta đưa mắt nhìn cái tướng ốm nhom như cây cột cờ của người Linh mục xa lạ, rồi quay mặt về phía trước mà báo “tin lành”:
– Anh có bán hết nội tạng mới trả nợ đủ.
Stephen Đoàn trợn trừng mắt:
– Đánh tổ tôm hay đánh bài Las Vegas mà thiếu nợ quá trời quá đất vậy?
– Gần ba mươi năm nhe cha…!Lãi mẹ đẻ lãi con, rồi sanh tới lãi hàng cháu – chắt – chút – chít…
– Có nước tôi cầm nguyên cái Giáo xứ của tôi mới trả dứt nợ.
– Thì đó…
Anh ta chán nản đánh lái một cú thật mạnh để quẹo trái.

Thay vì đi vào Giáo hạt Hố Nai, anh ta lại dẫn người Linh mục xấu trai tới ngôi nhà mà đôi vợ chồng Bắc Kỳ bỏ lại.

Ngôi nhà tranh vách đất đổ nát nằm xiêu vẹo dưới bóng cây ô-môi; mảnh vườn đã được anh ta sửa sang lại và biến nó thành nơi trồng rau cải, trái cây và nuôi gà thả vườn.
– Anh lấy nhà – đất của họ cấn nợ à?
– Của họ cái con c**.

Chủ nhà trước vượt biên đi Mỹ hết rồi nên họ tới ở đậu rồi làm giấy tờ đứng tên luôn.

Stephen Đoàn đã thấu bụng dạ anh ta không ác, chỉ hiềm nỗi cái miệng như rắn độc mà thôi, nên bình tâm hỏi:
– Anh không sợ chủ nhà trước tới đòi à?
– Tôi sẽ giao, với điều kiện phải trả tiền huê lợi, làm vườn và công giữ đất của gia đình tôi ba mươi năm qua.
– Ừ, anh tính vậy cũng đúng đó.

– Muốn ăn hột gà hôn? Tôi kêu tụi nó đi lượm cho.
– Thôi khỏi.
Sau khi đi vài vòng ngắm nghía mảnh vườn, Stephen Đoàn đánh tiếng hỏi:
– Cuộc đất này rộng bao nhiêu anh?
– Một mẫu mấy.
Đến một bờ đất, thấy cây lê-ki-ma chỉ toàn lá không, bên dưới lại có cái miễu nhỏ thơm mùi đàn hương, Stephen Đoàn bèn hỏi:
– Thờ ai vậy anh?
– Một ông nhỏ.
– Ông nhỏ?
Người trai du đãng thuật rằng:
– Số là như vầy: Hồi mới lấy đất, ông nội tôi mướn người khai khẩn.

Mấy ổng đang bứng cây lê-ki-ma đi để rộng chỗ trồng mía thì bỗng nghe cái “Cắc”, giống như miệng bình bị quơ trúng tường vậy.

Một ông trong băng mới sanh nghi, bèn kêu mấy ông kia lấy tay cào thử coi cái gì.

Té ra bên dưới là một tiểu cốt nhỏ, chỗ này phải thêm chữ “nhỏ” cho Cha hiểu người nằm ở trỏng là con nít, rễ cây đâm thủng hũ sành rồi mượn nó làm dinh dưỡng nuôi thân.

Ông nội tôi hoảng quá, mới lên Thất Sơn thỉnh thầy về làm Lễ cải táng cho ông nhỏ.

Ông thầy Bảy Núi khuyên ông nội tôi đừng có đốn cây hay dời nó sang chỗ khác và phải lập cái miễu sau khi chôn cái tiểu xong.

– Vậy là cái tiểu được chôn bên dưới cái miễu?
– Phải.
Stephen Đoàn khoanh tay mà nhìn cách bày trí bên trong cái miễu: Một khay đựng ba chung nước đặt trước nhất, kế đến là một cái lư hương chạm trổ tinh xảo, mé trái là một dĩa chưng trái cây thủy tinh có đế và mé phải là bình bông cổ loe, hai bên để chưn đèn bằng đồng, và sau rốt mới tới bài vị đề rất rõ ràng năm sanh – năm mất của ông nhỏ.
– Sao cây lê-ki-ma này không ra trái cũng chẳng trổ bông anh?
– Có lẽ hương hồn ông nhỏ chết oan nên không siêu thoát được.

Hay đang ngóng chờ thân nhân rước dìa nên còn vương vấn thế trần.
Stephen Đoàn xin ba nén nhang để thắp cho ông nhỏ tội nghiệp.

Tuy hết sức ngạc nhiên nhưng người trai du đãng đó vẫn đưa cho anh.

– Tối nay Cha ngủ ở đâu? Vô Giáo hạt hả?
– Không, tôi sẽ kiếm nhà nghỉ nào đó.
– Vậy thì về nhà tôi ngủ đi.

Tôi còn một phòng trọ không ai mướn, nhưng luôn được dọn dẹp sạch sẽ, giờ chỉ cần vô là ở liền hà.
– Sao không ai mướn hả anh?
– Con nhỏ nào thất tình cắt tay tự tử, may phước mẹ – con nó bình an vô sự.

Nhưng người ta sợ có huôn nên hổng ai dám mướn…!Dám ở hôn?
– Dám…!
– Có gì làm Lễ trừ tà giùm tôi luôn…!Tôi cám ơn…
Stephen Đoàn hết hiền nổi:
– Bớt coi phim ma – kinh dị lại đi cha!
Anh ta bật cười ha hả, điệu bộ không khác chi “Hắc Toàn Phong” Lý Quỳ:
– Tôi quên trong phim mấy ông đạo diễn toàn để cho Cha hay Mục sư thua toàn tập.
– Không thua thì sao kéo thời lượng phim ra dài được?
Dãy nhà trọ của anh ta nằm ven thửa ruộng chưa cấy, gồm mười hai phòng, căn phòng xảy ra chuyện đáng buồn ấy là căn chót ở cánh bên tay trái.

Vừa bước vào cửa, một mùi hôi hám tựa tử khí xộc vô mũi hai người.

Rất quái lạ là ở đây sạch sẽ như vầy thì mùi hôi đó ở đâu ra?
– Tôi nghi con nhỏ này đã từng sẩy thai quá…
Rồi anh ta day qua hỏi người Linh mục trung niên:
– Ở được hôn? Hôi quá thì lên nhà tôi ở.
– Cho tôi xin…
– Xin cái con khỉ mốc.

Ở đâu?
– Nhà anh.
– Đó.

Đàn ông, đàn ang là phải dứt khoát như vậy.

– Anh lấy tiền bao nhiêu một tháng?
– Ba trăm rưỡi.

Điện, nước, gas, cáp, rác,…!tự lo.
– Chà, cũng dễ chịu quá.

Tiếc…
Nhìn thấy anh ta bẻ tay răng rắc, Stephen Đoàn ngưng diễn văn mà nhận xét ngắn gọn rằng:
– Bị vậy hổng có ai ở thiệt là uổng.
– Người ta nói chuyện có đầu có đuôi, thưa trình đàng hoàng, vậy mới dễ thương.

Ăn nói cộc lốc, dữ dằn suốt ngày nên nhỏ nào thấy mày cũng xách dép bỏ chạy.

Nhờ mày coi chừng quán cơm riết khách khứa tưởng đâu cái ổ Lương Sơn Bạc hay cái Ngõa Cương trại.
– Ông nội!
Một ông lão râu tóc bạc phơ chống gậy bước ra dòm hai người.

Stephen Đoàn nhận thấy hai ông – cháu có cặp mắt giống hệt nhau.
– Vô nhà ăn cơm nè con.

Con dâu ông nấu ăn ngon lắm.
Stephen Đoàn theo chân hai ông – cháu vào nhà.

Cửa hậu của ngôi nhà có lắp một khung sắt trồng bông giấy Cẩm Thạch, bóng mát của giàn hoa làm dịu bớt cái nóng ban trưa và xế chiều của gian bếp nằm trúng hướng chính Tây.

Chân tường ốp gạch đá phiến, phần còn lại là gạch thẻ; có lẽ gia đình bị cái nóng ảnh hưởng trầm trọng nên mới phải ốp gạch nhiều như vậy.
Nhà bếp mang nhiều chi tiết hoài cổ của xứ Việt, với cái gạc-măng-rê, khạp đựng gạo và bộ bàn ghế Louis mười chỗ ngồi.

Quầy bếp hình chữ L đóng bằng ván nhựa giả vân gỗ, gạch dán tường là gạch men màu vàng nhạt chấm bông ánh bạc; phía trên hãy còn dư một khúc vì hai người quản bếp chánh không mấy cao nên tủ treo phải thấp một chút.

Trên nóc tủ treo có đặt mấy chậu trầu bà, trầu ông và cây không khí.
– Ngồi xuống đi, đứng đó hoài vậy Cha?
– Cảm ơn anh.
Stephen Đoàn vẫn chưa hồi thần lại vì tâm trí đang miên man nghĩ tới một thuở ấm êm của gia đình mình.

Gian bếp ở nhà luôn hôi mùi khói ám, dầu mỡ văng đầy vách tường, lọ nồi bám riết mặt bếp dầu hôi, trần nhà đóng mấy lớp bụi than; bữa cơm có khi ngon khi dở, nhưng không bao giờ bị bỏ mứa hay thiếu vắng tiếng cười và những câu chuyện phiếm mọi người biết được.

Giờ đây đứng trong gian bếp của người dưng, nỗi buồn mà anh chôn chặt trong tim hằng bao năm qua cứ thế ùa về.
Ông cụ vỗ vai hỏi:
– Hình như con không được vui?
Stephen Đoàn nhìn cụ bằng đôi mắt hoe đỏ mà trả lời:
– Đã lâu lắm rồi con mới được ngửi mùi này…
– Hửi mùi gì con?
– Mùi nhà, mùi tổ ấm, mùi sum vầy, mùi đoàn viên, mùi hạnh phúc…
Ông lão cảm thương vuốt lưng anh và dặn:
– Vậy khi nào con muốn cảm nhận lại, ghé nhà ông chơi nghen?
– Dạ.
Rồi Stephen Đoàn kéo ghế ngồi xuống.

Ông lão ngồi kế bên cạnh anh ở phía bên tay phải.
Thím Hai sắp các món lên bàn và nhứt định không cho Stephen Đoàn và con trai bưng phụ.

Tối nay cả nhà ăn ếch xáo lá cách, trứng cá thu chiên, dưa giá, rau lang luộc, canh bún, sườn xào chua cay và gà kho sả.
– Cái nhà này nết ăn không có hòa hợp nên thím phải nấu nhiều như vậy cho ai cũng có phần…!Con ăn củ kiệu hôn? Thím với nhỏ dâu tự làm ngon lắm.
– Dạ, cho con xin một miếng.
– Xin hoài…!- Người trai du đãng càm ràm.

-…!Muốn làm người một nhà mà nói chuyện khách sáo như người dưng nước lã vậy…
– Cái thằng này…!- Ông lão quay qua nhéo lỗ tai đứa cháu thứ hai.

Stephen Đoàn tự cảm thấy mình kỳ, nên nhỏ nhẹ thưa:
– Dạ, là lỗi của con, thưa ông.

Sau giờ cơm, ông lão dẫn Stephen Đoàn lên nhà trên ngồi chơi.

Chỗ ngủ đêm nay của anh là cái bộ ngựa đóng bằng cây gỗ gụ rất bóng, được kê sát vách tường bên phải, trên có bắt bóng đèn nhỏ có dây giựt.

Bàn thờ Cửu Huyền Thất Tổ và Chư Phật đặt giữa nhà, bên dưới chân cầu thang còn bày thêm tủ thờ Thần Tài – Ông Địa.

Vì anh đã ngủ trên bộ ngựa nên ông lão sẽ trải chõng tre phía đối diện mà nằm ngủ.

– Có nực thì bật máy lạnh lên nghen con.
– Dạ.
– Mà, sao ông vẫn thấy con buồn buồn?
– Đâu có đâu ông.
Ông lão vuốt râu cười xòa.

Rồi biểu người khách Sài Gòn ngồi nghỉ cho xuống cơm một chút rồi hẵng soạn đồ đi tắm, sau đó hai ông – cháu sẽ lên đầu lộ uống cà-phê.

Lối chừng chín giờ tối, họ mới ghé quán đó.

Quán lưa thưa vài mống khách, một sân khấu trống vắng sự biểu diễn và những ánh đèn buồn thỉu buồn thiu.

Chủ quán và các nhân viên đang đánh bài tứ sắc cho khuây khỏa, ai thua thì bị búng trán, thua nhứt thì đi dọn nhà vệ sinh một tuần.
Tiếng hát của Phương Tâm trong bài “Thần tượng” của nhạc sĩ Y Vân gợi cho ông lão nỗi nhớ hộp đêm ở Sài Gòn những năm trước 75:
“Nếu em không cùng anh, sống chung trong cuộc đời
Chỉ là người yêu thôi
Em sẽ thành thần tượng
Để anh ôm mộng khi qua núi tuyết, khi vượt trùng dương…”
– Con gái của cô Phương Tâm thiệt có hiếu.

Cổ đã cất công giữ gìn danh tiếng và kỷ niệm một thời ca hát của má mình.

Rồi ông ngậm ngùi:
– Xưa ông cũng là nhạc công đó con.

Mà chơi xoàng quá nên ít ai mời tham gia ban nhạc.
– Hai ông – cháu uống chi để con vô làm? – Chủ quán đon đả cất giọng hỏi.

– Con cho ông một bình trà Tuyết Shan…
– Hổng uống cà-phê hả ông?
– Trời, khuya rồi bây, tao uống sao tao ngủ được?
Chủ quán bật cười:
– Dạ…!Còn cưng đây uống gì?
– Cho con…!Con uống si-rô bạc hà.
Ông lão ngồi xuống ghế mà ôm bụng cười ngất ngơ ngất ngưỡng.

Đợi cho cơn xúc cảm lắng bớt, cụ mới run giọng hỏi:
– Bị nó sửa lưng riết hết nói câu “Cho con xin…” rồi hả?
Stephen Đoàn mắc cỡ nên nín thinh.
– Nho học phải có lúc, và Võ đạo phải đúng thời.

Vừa hay chủ quán trờ tới nên chủ đề được chuyển sang hướng khác.

Chủ quán than rằng không có tiền mướn ban nhạc dìa biểu diễn góp vui, lóng rày ai hơi tanh tanh một chút là làm eo dữ thần, cái miệng thì hô hào yêu âm nhạc chớ chừng gặp mặt mới thấy cái cảnh “đồng tiền đi liền khúc ruột”.

Stephen Đoàn bèn ngỏ ý sẽ lên ca chơi mấy bản, ông nhạc công xoàng biểu sẽ đánh trống phụ họa.

– Gác tôn giáo qua một bên nghen con?
– Dạ…!Con sẽ hát nhạc trữ tình và nhạc lính.
Dù trong quán nhân viên đông hơn khách, Stephen Đoàn vẫn giới thiệu trước khi trình diễn:
– …!Và sau đây tôi sẽ biểu diễn nhạc phẩm “Tình khúc giao duyên” của nhạc sĩ Khánh Băng, không mấy nổi tiếng với giới yêu âm nhạc.
Và anh ca rằng:
“Quê em vốn ở Đồng Nai
Long Thành đất đỏ rồi lên Biên Hòa
Măng cụt, sầu riêng, vườn bưởi năm roi
Cô bán chôm chôm người cũng dễ coi…”
Tiếng hát và tài nghệ chơi guitar của Stephen Đoàn đã giúp quán cóc kiếm được khách.

Họ rủ nhau vô quán nghe anh đờn ca và đương nhiên mua nước ủng hộ chủ quán.

Khi bản nhạc kết thúc, những người khách yêu cầu anh hát nữa.

Anh bèn nói rằng:
– Một nhạc sĩ đất Bắc đã viết một số bài hát ca ngợi xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh, ông có tên là Trịnh Hưng, chắc có lẽ nhiều quý vị không biết tới cái tên này…
Một cô gái nhờ anh giới thiệu tác phẩm tiêu biểu của ông Trịnh Hưng.

Anh cười tươi trả lời:
– “Đất đẹp miền Nam”, “Tiếng ca dân lành”, “Trăng soi duyên lành”, “Lúa mùa duyên thắm” và “Miền Nam mưa nắng hai mùa”…
Một người đàn ông đeo kiếng cận cất giọng xin lỗi vì đã ngắt lời anh, rồi mạn phép yêu cầu anh biểu diễn bài “Trăng thanh bình” của nhạc sĩ Lam Phương.

Anh xin vâng theo.
Trời đã đổ về khuya, trăng Thượng Huyền đã treo trên ngọn cây gạo đại thụ, đường sá im lìm như đã ngủ vùi, gió lạnh từng cơn heo hút, mà khách khứa vẫn chưa chịu về.

Ai nấy đều nán lại để tham gia tiết mục “Hát với nhau”, người phụ trách chơi nhạc cụ vẫn là hai ông – cháu không cùng máu mủ, ruột rà.

– Nội.

Tiếng kêu thảng thốt của người trai du đãng đã làm cuộc vui chựng lại.

Song, khi nhìn thấy khuôn mặt xanh lét của anh ta, chẳng ai nỡ trách nửa lời.

– Chi mậy?
– Trời ơi, tưởng nội bị bắt cóc rồi chớ.
– Có tao bắt cóc người ta chớ ai bắt được tao bây…!Tao mỏi tay rồi, mày lên đánh giùm tao coi.
– Dạ.
Cuộc vui kéo dài thêm nửa tiếng thì chủ quán cáo lỗi đóng cửa do đã quá buồn ngủ.

Trong lúc khách khứa lục tục ra về, thím Năm tới gần hai ông cháu Tám Sác cùng người đàn ông cao gầy và cất giọng cảm ơn.

Bà không dám mời họ ghé lại vào đêm mai, chỉ nhắn nhủ rằng, “Mơi mốt có quởn thì ông Tám với cậu đây lại quán con chơi cho vui.” Cụ đã gần chín mươi, đồi mồi đã trổ hết trên da thịt, những nếp thời gian đã vắt ngang – dọc trên gương mặt một thời rất bô trai và đắt ghệ, mắt cũng không còn tinh tường cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng, nên khi nghe thấy lời gởi gắm của con Năm cử nhân thất thời thì ham lắm nhưng tuổi già đã ngáng bước chân cụ.

– Bây về nhà trước đi, để hai ông – cháu tao đi kiếm cái gì lót lòng…
Người trai du đãng ca cẩm:
– Trời ơi, con cháu-ruột mà nội hổng thương…
– Mày “Trời” nữa là tao cho mày lên trển ở luôn đó con.

Sửa lưng người ta mà không thấy cái nhọt trên đầu mình.
– Ờ há!
– Rồi có muốn đi chung không?
– Dạ muốn.
Có những đêm thức trắng, một mình ra sau hè ngắm bầu trời sao đêm xoay chuyển hay lang thang trên “Những nẻo đường Quê Hương”, mới ngộ ra được nhiều điều.

Giờ này những người lao công mới ra quét và dọn rác, tiếng chổi tre xào xạo trên mặt đường trải nhựa nghe buồn hơn mọi bài hát sầu tình nào, có đôi lúc mấy chị kể lể cho nhau nghe những mẩu chuyện đời mình hay tặc lưỡi khen cô này, cô kia có phước được chồng cưng, chồng chiều.

– Hầu như ít ai bán phở đêm lắm.

Dân xứ mình ưa ăn hủ tíu bò viên – gân hơn.
Rồi cụ vỗ trán tự trách:
– Cẩu có biết tên bây chưa?
– Hình như chưa…!Nãy toàn nội bắt chuyện với ổng nên con đâu có kịp hơi giới thiệu.
– Sáng giờ cũng hông giới thiệu luôn?
– “Tri ân bất cầu báo” mà nội…
Ông Tám Sác biết thằng cháu đã hết thuốc chữa nên không làm phiền nữa, cụ quay qua nói với Stephen Đoàn:
– Con cứ gọi nó là Ba Beo.
Stephen Đoàn cười mà mặt mày méo xẹo:
– Tên chi ngộ vậy ông?
– Tại nó dữ như con beo nên nguyên cái khu này kêu nó là “Beo”.

Ba Beo đánh trống lảng bằng cách hối ông nội và ông Cha tên Mỹ đi lẹ lên để còn kịp ghé quán mợ Út, chừng một tiếng nữa là mợ nghỉ bán rồi.
– Mày làm như hổng có quán đó thì chết đói vậy.
– Chớ nội tính ăn món gì?
– Bún riêu chỗ thằng Tư Xẽo.

Nó có bán cật với bắp kèn ngon lắm.

– Ờ, nghe hấp dẫn đó ông…!Ui da!
– “Ờ” hả mày? “Ờ” hả mày? Nói chuyện với ông nội mày mà “Ờ” hả? Bộ tao với mày ngang hàng hả?
Đánh thêm mấy cái vô sau gáy thằng cháu nữa, ông Tám Sác mới nguôi giận.
Ba Beo vừa xoa xoa cái ót vừa làu bàu:
– Tính ra nội đâu cần chống gậy, vẫn còn mạnh khỏe quá chèn.
Tiếng hát Nhật Trường trong bài “Mưa chiều phố vắng” của nhạc sĩ Vân Tùng vọng ra từ tiệm sửa xe gắn máy và xe đạp.

Dưới mái hiên, một ông lão đang nằm co ro với cái bụng sôi ọt ọt.

Cửa sắt kéo hờ, ánh sáng trắng của bóng đèn huỳnh quang thước hai dọi ra thềm ba, chắc chủ nhà còn thức đặng sửa xe cho xong để sáng mai trả khách.
– Ê, chiến hữu, đi ăn bún riêu không?
Ông lão trạc tuổi ông Tám Sác ngóc đầu dậy nhìn ba người, rồi cất giọng từ chối thẳng.
Ông Tám Sác vẫn ra sức “chiêu dụ”.
– Thôi, làm phiền anh và xấp nhỏ quá.

Không…
– Không có “un”, “deux” chi sất.

Sửa soạn rồi theo tôi với tụi nó đi ăn uống cho vui.
– Mèn đét ơi, ăn mà cũng ép nữa hả Trời?
– Ờ.
Rồi người thương binh già khập khiễng bước lại gần họ.

Ba Beo và Stephen Đoàn mỗi người dìu một bên.

Bữa ăn lại trễ hơn nửa tiếng.
Tiếng hát Duy Khánh trong bản “Tự tình trong đêm” của nhạc sĩ Trúc Phương vọng ra từ một ô cửa sổ không đóng.

Anh chàng thất tình vừa uống bia Con Cọp vừa nghêu ngao hát theo giọng của người ca sĩ Thần Kinh:
“Tôi lặng lẽ cúi đầu, cúi đầu
Buồn tình nhân, buồn nhân thế thêm sâu
Dấu vết xưa nay chỉ là kỷ niệm
Trong ký ức thuở đôi mươi…”
– Bản này chưa đủ buồn đâu cha ơi…
– Vậy bài gì mới đủ?
Ba Beo giới thiệu bài hát “Ngoại ô đèn vàng” của nhạc sĩ Y Vân do Chế Linh.
Nghe đâu được vài câu, ông Tám Sác và ông thương binh nghe đứt từng đoạn ruột.

Còn người trai kia sắc mặt còn u ám hơn nhạc phẩm “Nhật thực” của nhạc sĩ Viễn Chinh.
– Anh có bài hát nào hay hơn không? – Anh chàng thất tình gợi chuyện với Ba Beo.
– Có.

“Như cánh phù du” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, trong tờ nhạc đề rõ “Riêng tặng cháu Hoàng Kiều trong cơn đau của cuộc tình”.
– Trời ơi, Hoàng Kiều hồi nhỏ cũng bị thất tình như tôi.

Vậy cho tôi nghe đi anh.
Ba Beo bèn chọn phần trình bày của nữ ca sĩ trước năm 75 Sơn Ca:
“Không còn yêu, không còn mê, không còn thương, không còn si thì thôi
Như loài chim sau cuộc vui không khổ đau xa lìa nhau cuối trời…”
Anh chàng lỡ duyên tán dóc với Ba Beo một hồi nguôi ngoai bớt cơn sầu tình đôi phần.

– Đói hôn? Đi ăn bún riêu chung cho vui.
– Ờ, để vô tắm rửa…
– Ngu.

Nhậu xỉn tắm vô cho cảm chết hả? Súc miệng rồi thay đồ mới là được rồi.
– Ba ngày rồi moa hổng có tắm…
– Con vô nhà canh chừng nó tắm nghen nội?
– Ờ, bây ngồi dựa cửa canh, nếu kêu hoài nó hổng lên tiếng thì ập vô kiểm tra.
Cũng may anh chàng không có mệnh hệ gì, chỉ hơi dún người chút thôi, cạo gió một lát là hết mệt.
Tới quán bún riêu – hủ tíu, trong lúc đợi đồ ăn – thức uống bưng lên, Ba Beo cạo gió cho kép Tư Sầu.

Cái biệt danh này đến từ tánh nết ủy mị, thương mây khóc gió, lụy tình của chàng ta.
– Ngày xưa có kép Tư Bền, nay có anh “tiếp bước” làm kép Tư Sầu.
– Kép Tư Bền còn có người ái mộ, tôi có ai thương đâu?
– Ba mẹ, ông bà anh.
– Còn anh thì sao?
Ông lão lắc đầu ngán ngẫm:
– Có ai dám thương thằng beo nhà ông đâu con.

Cái miệng nó hung quá trời quá đất mà.
– Anh nhìn đẹp mã quá chèn…
– Nội, ảnh khen con chớ không phải khen nội đâu mà nội phổng mũi hãnh diện.
– Nó khen như vậy là nó khen gián tiếp đó con.

Nhờ cạo gió mà kép Tư Sầu khỏe khoắn và tỉnh táo lại, anh cảm ơn Ba Beo rồi bôi dầu cù là trên Ấn Đường và hai huyệt của Thái Dương.
– Lễ lạt tới nơi rồi mà bây ủ rũ như vầy năm mới năm me làm sao khá được? – Người thương binh cằn nhằn.
Kép Tư Sầu đưa đôi mắt ướt rượt nhìn ông lão tàn phế:
– Đâu phải con suy sụp vì chuyện tình cảm đâu ông.

Công ty con đang làm sáp nhập với công ty ngoại quốc, nghe đâu sắp đuổi một mớ không đủ năng lực và trình độ thấp.
– Con có đóng góp gì cho công ty không?
– Dạ, nhiều lắm.

Nhưng không ai công nhận vì con học Cao đẳng Cộng Đồng.
Người thương binh già khuyên nhủ:
– Nếu chỗ đó chỉ trọng tờ giấy và hồ sơ học tập, thì thôi con nên đổi sang công ty khác mà làm.

Trong thời gian thất nghiệp, con ráng làm công việc tay chân để độ nhật.

Ông mà còn lành lặn hai chân thì ông đã mở tiệm sửa xe riêng rồi…
Ông Tám Sác hỏi:
– Í, vậy là anh đây làm việc cho tiệm sửa xe ban nãy hả?
– Đâu có.

Tôi là thầy của thằng chủ tiệm, hễ “ca” nào khó là tôi ra sửa giùm và sẵn chỉ nghề cho nó luôn.

Thấy trời nóng quá nên tôi mới ra đằng trước ngủ, dè đâu bị anh với hai đứa nhỏ hiểu lầm là ông già ăn mày ngủ đầu đường xó chợ.
Và trước ánh mắt ngượng ngùng của ba người kia, ông Ba Quới khẳng khái tuyên bố:
– Thân tôi đã tàn nhưng không bao giờ tôi cho phép mình sống phế.
Bây giờ tới lượt Kép Tư Sầu mắc cỡ.

Anh giả đò tìm trăng sao trên trời để không nhìn thấy khuôn mặt của ông lão tàn tật.
– Sắp gãy cổ rồi đó Kép Tư Sầu.

– Ba Beo nghiến răng nhắc nhở.
Ông Tám Sác khuyên lơn:
– Con thấy hôn.

Anh đây bị cụt một chân mà vẫn sống khỏe mạnh, vui vẻ.

Con lành lặn như vậy mà lại…
Ông Ba Quới ghẹo:
– Ông sẽ cho con một bài hát buồn thiệt buồn để con giải sầu.
– Bài gì ông?
– “Hạnh phúc mang theo” của nhạc sĩ Lam Phương qua phần trình bày của Bạch Yến.
Kép Tư Sầu tâm tình:
– Con thì thích nghe bài “Mùa Xuân không còn nữa” của ông Phùng, mà phải để “Tiếng hát sầu bi” Anh Khoa ca mới ưng.
Ba Beo la bài hãi:
– Trời ơi, lời bài hát buồn thúi ruột, mà còn để ông Khoa ca nữa thì nó thê lương cỡ nào.
Kép Tư Sầu cự:
– Chứ để ông Duy Khánh ca là “tan hàng”.
Stephen Đoàn đã ăn xong tô bún riêu, hiện đang ngồi che miệng xỉa răng.

Anh chưa từng yêu ai nên không thể hiểu nổi cảm giác lụy tình và “Thương – Hận”.
Trần Văn Trạch đang trình diễn tác phẩm của mình “Đọc báo ngày Xuân”, trong băng nhạc “Xuân chọn lọc – Đĩa nhựa 84”; báo hại thực khách bị sặc vì mắc cười quá trời.
– Ai diễu hài duyên quá vậy Tư Xẽo?
– Nghệ sĩ Trần Văn Trạch.

Muốn nghe nữa hôn mày? – Tư Xẽo hỏi thằng bạn tới ăn ủng hộ.
– Mày còn muốn bán không?
Tư Xẽo nháy mắt:
– Kệ, ế thì tao ăn hết, khỏi hao tiền nấu cơm.
Vừa dứt lời, Tư Xẽo mở tuồng “Đám cưới nhà quê” trong băng vọng cổ “Đại hội Vua Hề” do bộ tứ nghệ sĩ hài Nam Kỳ Trần Văn Trạch, Văn Hường, Ba Vân và Hề Minh trình diễn.
– Ủa sao hổng khóc nữa đi Kép Tư Sầu? – Ba Beo hỏi mà như chọc quê.
– Khóc sao được mà khóc…!Mới há cái miệng tính mếu, nghe tiếng mấy ổng là phì cười rồi.
Bà Tám vừa lấy cái khăn rằn lau nước mắt vừa chửi:
– Tổ bà mày Tư! Sao tụi tao ăn hủ tíu được hả?
– Tết rồi, phải cười chớ bà Tám.

Xế chiều ngày hôm sau, Stephen Đoàn khăn gói lên đường.

Trước lúc từ tạ gia đình ông Tám Sác dễ thương, anh biếu họ một con vịt nướng lu.

Ba Beo đưa anh ra tận bến xe, đợi anh yên vị xong xuôi mới an tâm quay về, không quên nhắn nhủ chú tài xế và lơ xe rằng, “Hai người mà giở trò với ổng, tôi mà biết được thì mềm xương đó nghen!”
Stephen Đoàn lên – xuống khoảng bốn bến xe mới tới được An Giang.

Ở mỗi bến, anh sẽ ghé vô đi vệ sinh và mua nước uống, sẵn mua đặc sản ở vùng đó luôn.

– Cha.
Người lơ xe lại gần anh và không khách khí mà ngồi xuống ở cái ghế kế bên.

Xe đang đi ngang Long An, sắp tới Mỹ Tho rồi mà sao người lơ xe này lại tới bắt chuyện vậy cà?
– Thưa anh, có chuyện chi?
– Sao anh quen với ổng vậy?
– Dạ, tình cờ thôi anh, ảnh và gia đình rất hiếu khách và đáng mến.
– Vậy hả? Thấy dữ quá nên hổng dám ghé ăn cơm.

Để bữa nào quởn hai anh em tôi tới ăn “kết nghĩa” coi.
Xe bất thần thắng gấp để đón hai má con đứng chờ ở ven bờ ruộng, khiến nhiều hành khách mắc chứng say xe khó chịu nên la oai oái.

Lơ xe giả điếc mà đi một hơi xuống xe, đặng xách đồ phụ hai má con.
– Anh ơi…!Anh bật bài nào mà con tôi dễ ngủ được hôn?
Bài hát “Bên dòng sông Trẹm” của nhạc sĩ Phan Ni Tấn với phần trình bày của Hương Lan đã đáp ứng được yêu cầu của người mẹ trẻ.

Đứa nhỏ xổ sữa ngoẹo đầu ngủ bất biết.
– Cha đói chưa? Nãy sao hổng xuống ăn cái gì hết vậy?
Stephen Đoàn gấp cuốn Kinh Thánh, rồi mới nói:
– Thưa anh, tôi có mua bánh ít lá gai ăn lót dạ rồi.
– Chút nữa xe ghé Mỹ Tho, đi ăn hủ tíu sa-tế với tôi.

Cha phải nghỉ một đêm ở đây mới có sức về năm non bảy núi.

– Dạ.
– Có tiền mướn khách sạn hay nhà trọ không? Không thì ghé nhà anh em tôi ngủ đậu một đêm.
– Dạ.

Được vậy thì mừng quá.

Xin chân thành cảm ơn hai anh đã cứu tôi một mạng.
– Trời, khách sáo quá đi mất.
Nhà của cha mẹ hai anh em nằm gần khúc bến phà cũ.

Một ngôi nhà ba tầng khang trang có sân thượng và bán tầng hầm; nguyên cái tầng trệt dành để làm chỗ đậu xe, quán cà-phê kiêm “văn phòng” bán vé xe và giải quyết khiếu nại của hành khách.

Hai anh em không chạy vắt tối vì muốn có nhiều thời gian quây quần bên gia đình, nhứt là phụng dưỡng song thân.
Chỗ ngủ mà gia quyến sắp đặt cho anh nằm ở tầng Một.

Cửa phòng nằm mé bên tay phải cầu thang.

Trong phòng bày trí hết sức đơn giản, gồm có một cái giường tre trải nệm, một tủ đựng TV và cái truyền hình LCD khá lớn, một tủ âm tường không có cửa dùng để treo đồ và cất hành lý, ngoài ra còn có một cái máy lạnh loại thường và một cây quạt đứng.
– Cha, đi thẳng, quẹo phải, là thấy cầu tiêu – nhà tắm.

– Hai Hùng chỉ.
– Rất cảm ơn anh.
Ba Dũng nhìn đôi mắt thâm quầng của người Linh mục xấu trai thì biết liền anh ta cần ngủ, nên cất giọng khuyên anh ta nên đi tắm rửa rồi vô nghỉ lưng cho khỏe.

Lại một lần nữa, Stephen Đoàn mở miệng cảm ơn.

Mới ba giờ sáng mà Stephen Đoàn đã thức dậy sửa soạn và chuẩn bị hành lý để lên đường.

Anh sẽ ở nhờ nhà của nhóm cư sĩ Hòa Hảo mấy ngày.
Lúc bấy giờ gia chủ đều đã say giấc nồng, không có việc gì để làm nữa nên anh bật truyền hình lên coi cho đỡ chán.

Trên TV, đâu đâu cũng là những chương trình mừng Xuân – đón Tết, anh vốn không ưa cái nết lấy hình thể ra chọc cười khán giả nên nhìn không vô, thành thử ra sau vài lượt rà đài, anh bấm nút “Tắt”.

Chán vẫn hoàn chán, anh đành thất lễ với chủ nhà, rồi lẻn xuống nhà dưới và tra chìa khóa mở cửa hông để ra ngoài rảo bước giết thời gian.

Vì sợ nửa đêm xảy ra hỏa hoạn nên chủ nhà cho anh giữ cái chìa khóa này, để lỡ có cháy còn thoát thân kịp.

Đèn đường đương nhiên vẫn còn sáng.

Sương bay bay đầy trời và gió mang mùa Xuân tới cứ vậy thổi hơi lạnh vào người anh.

Anh không cố “Tìm một ánh sao” hay có dự định “Nhặt cánh sao rơi” nên đôi mắt chú mục ở khoảng từ tán cây thâm thấp xuống tới vỉa hè.

Lề đường đôi chỗ khấp khểnh như hàm răng bị mẻ hết mấy chiếc, khiến anh bị vấp không biết bao nhiêu lần, may nhờ còn có cây cao bóng cả làm điểm tựa.
Có lẽ buồn chuyện gia đình, anh ca lên vài câu trong bản “Chuyện ngày cuối năm” của nhạc sĩ Hàn Sinh:
“Cuối năm tính lại sổ đời
Ba trăm ngày hơn đã qua mất rồi, ̣đời mình lại tay trắng tay…”
Nhạc sĩ này có nhạc phẩm “Nghĩ chuyện ngày Xuân” cũng hay…
Đi một hồi, anh đi lạc xuống khu chợ địa phương.

Lạ nước lạ cái, không biết hàng nào bán đồ ăn ngon, anh đứng lơ ngơ một hồi rồi lắc đầu quày quả quay về.

Lúc này xe cộ đã đông hơn một chút và sắc trời coi cũng sáng sủa đôi phần.
Phước thầy may chủ là cái nhà đó dễ nhận ra nhất ở đây, nên anh không cần mất công hỏi đường.

Trước lúc băng qua lộ, ngó đồng hồ trên tay thì thấy đã gần bốn giờ rưỡi; không biết gia chủ đã thức hay chưa?
Hai Hùng, Ba Dũng đang đứng ngoài cửa hông đợi anh, sắc diện đỏ hơn pháo đang nổ ì đùng.
– Trời ơi, Cha ơi là Cha…!- Ba Dũng giậm chân tức tối.
– Cho tôi xin lỗi, tôi chán quá nên muốn đi dạo cho khuây khỏa.
Hai Hùng châm điếu thuốc lá, rồi rít một hơi thật dài trước khi mở miệng nói:
– Thôi, cũng lỡ rồi.

Cha đói chưa, đi ăn sáng với gia đình tôi?
– Lại làm phiền gia đình anh vậy.

– Stephen Đoàn chắp tay xá.

Sau bữa ăn sáng với gia đình hiếu khách, Stephen Đoàn lên xe ngồi đợi.

Ước chừng chín giờ rưỡi sáng, hai anh em thông báo xe sắp khởi hành và biểu ai có muốn đi vệ sinh thì đi liền kẻo trễ.

Một vài hành khách nghe vậy lục tục xuống xe “giải sầu”.

Để đỡ cực trong việc dọn nhà vệ sinh công cộng, gia đình họ đã mướn sáu nhân công vô lau chùi và tẩy rửa mỗi ngày, với mức lương cao tới khó tin.

Anh đã đi tiểu trước khi họ nhắc nên đã yên vị, giờ đang đọc Thánh Kinh và nghe nhạc.
Giáng Thu đang ca bản “Tình bậu muốn thôi” của nhạc sĩ Viễn Chinh:
“…!Ngày nay anh đã lánh xa em rồi
Thì xin anh hãy cho em được yên
Xin đừng mang chuyện của nhau
Kể lại cho người bên ngoài
Gây khổ thêm thân này người ơi…”
Nghe đâu mấy cô đang tá túc ở trại tế bần của nhóm cư sĩ Hòa Hảo có hoàn cảnh y hệt nội dung ca khúc.

Không biết vì can cớ gì mà loài người tụi con lại cứ rắp tâm hại nhau hoài Chúa ơi?
oOo
Trần Cảnh Chiêu mời Manuel Ngô, Ignacio Cường và Antonio Vũ ra quán kem gần Lăng Ông – Bà Chiểu ngồi ăn uống và nói chuyện chơi.
Lúc đôi bạn thân vừa tới thì bản nhạc “Người tình Jimmy” do Ngọc Lan ca hãy cất lên; bản gốc mang tên “Jimmy voyage” của nhóm nhạc sĩ Vincent-Marie Bouvot – Georges Lunghini – Elisabeth Anais – Didier Golemanas, không rõ ai là người đặt lời Việt.
– Judas đâu rồi?
Câu hỏi trên là của Trần Cảnh Chiêu.
Mười Anh cười mà sắc mặt coi bộ không mấy tốt:
– Ảnh qua Nhật dự tiệc mừng thượng thọ của một Yakuza nào rồi.

Nghe đâu ổng họ Triều, tên Kiến Đức.

Tôi chỉ nhớ được tên Hán – Việt của ổng, còn tên tiếng Nhật thì không rành.
– À…
Trần Cảnh Chiêu đưa tờ thực đơn cho hai người Linh mục và anh chàng Mục sư.

Đây là nơi đầu tiên anh hẹn hò với người bạn gái cũ tên Như, lâu lắm rồi anh mới ghé lại.
Ngọc Lan đang hát tình khúc “Ta đã gặp mùa Xuân” của hai tác giả Trầm Tử Thiêng – Nhật Ngân, thời gian sáng tác đoán chừng vào khoảng từ giữa năm 74 đến đầu năm 75 nên chẳng còn mấy ai biết tới.

Người đầu tiên trình bày nhạc phẩm này là Sơn Ca.
Trong lúc đợi đồ ăn – thức uống dọn lên, Trần Cảnh Chiêu đưa sợi dây chuyền cho hai Cha quản xứ coi.

Ignacio Cường nhận ra liền.

Anh thảng thốt nói một lèo:
– Sợi dây chuyền đó là của Mỹ…!Mỹ tặng một ông lão cùng Đạo nhưng khác Giáo xứ từ mấy năm trước mà, sao giờ nó lại ở trên tay các người?
– Sau đó thì sao hả Cha Cường?
– Tôi thấy có điều chi uẩn khúc nên cản Mỹ lại.

Nhưng Mỹ nói không nên từ chối lời ngỏ của một ông lão cao tuổi, thành thử đã nó đưa cho ông ta.

Sau đó tôi với Mỹ ghé một nhà sách Công Giáo để mua lại sợi dây chuyền khác cho ảnh.

Trần Cảnh Chiêu thở hắt ra:
– Ông Mỹ này cũng thày lay và bao đồng ngang ngửa Cha Thành.

Ignacio Cường lắc đầu:
– Nhờ ảnh thày lay mà nguyên cái Giáo xứ này không bị rã đám.

Anh đã vực dậy niềm tin của rất nhiều Giáo dân, cũng như uy tín cho xóm Đạo.
Trần Cảnh Chiêu quay qua hỏi Antonio Vũ.

Anh nghe người này và Cha Mỹ kia bằng mặt không bằng lòng nên muốn thử coi thái độ anh ta ra sao.
Nhưng Antonio Vũ không nói tốt mà cũng chẳng nói xấu.

Anh ta chỉ nói những gì mình biết, chứ không hé răng nói một lời nào về cảm nhận riêng của mình về Stephen Đoàn.

Trái ngược hẳn với Antonio Vũ, Manuel Ngô lại hết lời khen ngợi Stephen Đoàn, còn kể cho anh nghe về chuyện “Cây kèn harmonica” để khẳng định sự thiện lương và đức hy sinh của người bạn học cùng trường năm xưa.

Mỗi người phát biểu một ý, nhưng có hai ý thiên về quan điểm Stephen Đoàn là người tâm đức đủ đầy tuy vẻ bề ngoài dị hợm và có hơi gian ác.
oOo
Bữa nay Cấp Trên đến thăm Hác Đăng Khánh.

Biết chú rất thích ăn sandwich kẹp gà phi-lê chiên nên gã đã ghé một nhà hàng Tây Phương nổi tiếng mua vài phần đồ ăn đem lại.
Quả đúng như gã dự đoán, người này tỏ ra rất thích thú với món quà nho nhỏ của gã.
Vừa lột giấy gói của cái bánh sandwich, Hác Đăng Khánh vừa tiết lộ kế hoạch của mình:
– Tôi muốn điều tra lai lịch của ký giả Côn Lôn – Nguyễn Chí Công.
Cấp Trên làm cử chỉ mời nói tiếp.
– Trước khi bị đuổi, tôi quyết phải điều tra cho bằng được lai lịch của người này.

– Tôi không phải người của cái quốc gia này, vậy cưng nói cho tôi biết suy đoán của cưng đi.
– Người này có liên hệ huyết thống với một trong hai nạn nhân của thảm án Hai Mươi.

– Con ruột sao?
– Rất có thể hai vợ chồng Bắc Kỳ ấy là người làm công cho gia đình cậu ta.

Có lẽ là được ai đó hứa hẹn trả công hậu hĩ nên đã đem cậu ta về nuôi.

Sau này muốn hồi hương dễ nên đã gởi cậu ta cho Giáo hạt Hố Nai, nói cụ thể hơn là giao cho Cha Matthias Hoàn nuôi.
Chùi tay sơ sài với giấy ăn xong, Hác Đăng Khánh rút từ đáy hồ sơ ra hai tấm hình, và nói:
– Đây là bức hình chụp hai mẹ con đó.

Còn đây là tấm ảnh của Nguyễn Chí Công.

Cấp Trên vừa nhai khoai tây chiên vừa nghiêng đầu xem xét.

Một lúc sau mới đưa ra kết luận:
– Cũng có vài nét tương đồng đó.
Hác Đăng Khánh nhếch miệng cười mà nói:
– Tôi đã nhờ một bác sĩ thẩm mỹ đã về hưu kiểm tra thì ổng nói tỷ lệ giống nhau tới hơn bảy mươi phần trăm.

Tức ở chỗ không có ADN để thử huyết thống.

Cho nên chỉ có thể kết luận người giống người mà thôi.

oOo
– Hai anh là Mục sư họ Đỗ đúng không? – Tống Ngạn hỏi với vẻ mặt hơi nghi ngại.
– Vâng, tôi là Đỗ Duy Phú, còn nó là Đỗ Duy Cường.
– Anh Công muốn ra Hà Nội để tìm người thân à? Tôi e rằng khó lắm.

Hay là để anh em tôi tìm hộ cho?
– Được không?
Đỗ Duy Cường bật cười:
– Được mà.
Nguyên đoàn ghé vô một quán bánh ướt ở đường Tự Đức ăn lót lòng.

Nơi đây nằm cách Hạ viện khoảng sáu trăm mét, ngồi ăn mà có cảm giác bị vô khu thẩm vấn đặc biệt vì mật vụ và cảnh sát mặc thường phục dập dìu như ong bay bướm lượn ngày Tết.
– Lần trước chỗ này bị dọa đánh bom vì cha nội Khánh.

– Thím Bảy kể lể.

– Muốn ăn thì ra gốc cây kia ngồi, mắc giống gì phải sà vô đây, dây họa cho gia đình tui.
Chí Công nói nhỏ:
– Thím, thím, “Cánh bướm vườn Xuân” nhe thím?
– Ổng tổng thống chớ có phải ông sơ – bà sờ của tui đâu mà phải kiêng dè? Tụi nó có là “Đường chiều lá rụng” tui cũng hổng sợ.
Đức Hoàng vỗ đùi cái đét:
– Tánh thím giống con.

Mình có phải là phường chó săn rình mò thay chủ hay dòng giống bán nước hại dân đâu mà phải kiêng dè hay sợ bị tổ trác.
Thím Bảy vỗ vai đứa trai mà mình coi như là con ruột, rồi hỏi nó và bạn bè muốn ăn gì.
– Đâu, thím giới thiệu cái “me-nu” cho con biết đi.
– Độ rày gu ăn uống của thực khách ngộ quá nên thím phải bổ sung lòng, dồi trường và trứng gà non.

Với lại da gà chiên và thịt gà hấp hành.
– Ôi chu choa mạ ơi! Mần răng mà bánh ướt biến thành hổ lốn như ri.
– Ờ, vậy đó.

Thím cũng phải chạy theo thời để sống chứ mấy đứa.

Mốt bây thấy bánh ướt xứ Huế có thêm hầm bà lằng xá bấu là hiểu rồi há?
Sau một hồi “nghiên cứu”, rốt cuộc ai cũng chọn cho mình một dĩa bánh ướt như ý.
– Tau trả tiền, bây bưa sức mà eng.
Chí Công phì cười:
– Nam nói “Mắc cười”, Trung nói “Tức cười”, Bắc nói “Buồn cười”.
Kể từ sau giây phút đó, không ai nói với ai lời nào.

Chừng thức ăn dọn lên xong, Đức Hoàng tức quá mới nói:
– Tao có cảm giác giống cái Asean quá.

Ăn uống tự nhiên giùm con cái mấy cha.

Nhìn nhau trâng trối như vầy là có ý gì?
Đỗ Duy Phú cười trừ:
– Vâng, có ý gì nhỉ?
Tống Ngạn ân cần hỏi:
– Chừng nào hai anh mới ra phi trường?
Đỗ Duy Cường trả lời:
– Tuần tới bọn tôi khởi hành.

Buổi tối.

– Tiếc quá, không tiễn chân được vì chủ biên bắt ở lại tòa soạn làm thêm giờ.
Bộ tứ đưa hai người bạn mới quen về nhà của bác trai vào lúc bảy giờ rưỡi tối.

Vì khu này không có chỗ đậu xe nên Tống Ngạn để đỡ trong bãi giữ xe của một thương xá sầm uất gần đó, với giá vé là năm đồng bạc; rồi cả nhóm cuốc bộ tới đây.
Bác trai của hai anh em song sinh xởi lởi thái quá làm bộ tứ vô cùng bối rối, nhưng rồi họ cũng bắt nhịp được với ông và lấy được một số tin tức hữu ích.

Trước lúc chia tay nhau, bộ tứ gởi biếu cho ông một gói trà mạn thượng hạng.

Không có gì để tặng lại, ông đành quay vô nhà viết bốn chữ Nho “Vạn Sự Cát Tường” cho họ.

Có lẽ tòa soạn “Nếp Sống Mới” sẽ là nơi treo bức thư pháp này.
Vừa bước xuống tầng hầm của thương xá, Khán Bình vừa hỏi:
– Bây để cái xe ở mô hè?
Tống Ngạn xoay người thằng bạn Cố Đô, đặng chỉ cho nó thấy vị trí của chiếc xe:
– Tao để cái xe ở chộ tê tề.

– Gì mà xa dữ rứa?
– Đi xa cho bớt mỡ bụng.
– Bụng bự sang mà.
– Sang mụ nội tao chứ sang.

Tiểu đường chết mẹ ở đó.
Đức Hoàng đăm chiêu hỏi mấy đứa bạn:
– Tụi mày nghĩ rằng ai là nội gián trong chiến dịch điều tra năm xưa vậy?
oOo
Hồ mỗ có điều muốn nói:
Tân Xuân kính chúc bạn hiền
An vui trên mọi nẻo đường Quê Hương
Gặp rủi, rủi bỗng hóa may
Gặp may, may lại tăng lên vạn lần
Trọn năm vạn sự cát tường
Tới đâu cũng gặp người thương yêu mình.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.