Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 175: Hồi Ba Mươi Ba Về Bến Yêu Thương B
Stephen Đoàn được Trần Bảo Sơn đón ở một bến xe “lục bình”.
Người Linh mục xấu trai ngồi uống cà-phê chừng hơn nửa tiếng thì chàng cư sĩ mày tằm mắt phụng mới tới.
Đáng ra anh đã xuống Kiến Hòa, nhưng vì cần gặp người này gấp nên phải vòng lên An Giang.
Nghe hết bản “Thương Mẹ” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này ba ông ký tên là Minh Kỳ – Dạ Cầm, qua phần trình bày của Trung Chỉnh, Stephen Đoàn mới đứng dậy đi trả tiền nước và đủng đỉnh bước ra xe của Trần Bảo Sơn.
Chiếc xe Lexus chín chỗ rất rộng rãi và thơm phức, lại có tính năng xoa bóp – đấm lưng cho người ngồi.
Chưa kể tới là màn hình LCD cảm ứng thời thượng có rất nhiều mục giải trí thật tuyệt.
Trần Bảo Sơn thấy dáng đi hơi khòm của người bạn đường thì biết chắc anh ta đang rêm mình nên điều chỉnh cái ghế hơi ngả ra sau và ấn nút “Đấm bóp”, rồi mời anh ta leo lên ngồi.
Đối với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ thì “Không còn gì sung sướng khi trở về thăm lại Quê Hương”, còn với Stephen Đoàn thì “Không còn gì sung sướng như đang nhức mỏi mà được ngồi lên ghế xoa bóp”.
Anh nằm ngửa đầu, để mặc cho chiếc ghế đáng yêu xua tan cơn rêm mình và bải hoải.
– Đỡ đau lưng chưa bạn hiền?
Stephen Đoàn cười giòn:
– Rất cảm ơn anh.
Trần Bảo Sơn vừa sửa kiếng chiếu hậu vừa hỏi:
– Mà, cao danh quý tánh anh là chi?
– Tôi tên là Đoàn Ngọc Mỹ, tên Thánh là “Stephen”.
– Tôi tên Trần Bảo Sơn, Pháp Danh “Bửu Sơn”.
Chiếc xe từ từ lăn bánh, rời khỏi khu chợ nhộn nhịp gần ngọn núi Cấm.
Stephen Đoàn ngoáy đầu nhìn cảnh rừng núi hùng vĩ lần nữa trước khi để tâm vào chuyện hệ trọng trước mắt.
Qua những nẻo đường nhỏ hẹp quanh co và lộ cái thênh thang, Stephen Đoàn đã tới một xóm vắng um sùm tiếng chim kêu trên bầu trời xanh ngắt không một gợn và đâu đó nơi tàng cây dày lá.
Chiếc xe vừa tới cuối xóm, mà người Linh mục đã nghe lại tình quê.
Trên đồng đã rôm rả tiếng gieo mạ và nhịp chân đi của những người nông dân một nắng hai sương chất phác, xuề xòa.
– Tôi nhớ ca sĩ Tuấn Vũ có ca bài “Về dưới mái nhà” của hai nhạc sĩ Xuân Tiên và Y Vân.
Lời của Y Vân và nhạc của Xuân Tiên, người hát đầu tiên là ca sĩ Minh Trang.
Trần Bảo Sơn nêu quan điểm:
– Riêng tôi lại ưng giọng của nghệ sĩ Duy Khánh hơn.
Băng qua một cây cầu xi-măng bề ngang chừng năm mét, Stephen Đoàn đã tới một xóm khác.
Ở đây cũng im ắng không kém xóm kia, đi gần hết xóm vẫn không tìm đâu bóng hình của ai đó hay chiếc xe đạp cọc cạch qua.
Hai bên đường thoảng vương hương thốt nốt và sứ trắng tinh khôi.
Lại qua một cây cầu nữa, Stephen Đoàn vẫn chưa nghe Bảo Sơn nói gì về tịnh thất của anh ta và các bạn đồng tu.
Một hàng rào lưới B40 kéo dài gần một cây số, đằng sau nó là vườn cây ăn trái sum sê, những luống bông – kiểng rực rỡ và liếp rau – cải tươi tốt.
Nhân công chắc không dưới trăm người.
Dễ chừng được mười mấy công đất vì Stephen Đoàn chưa thấy điểm dừng của lưới sắt kiên cố.
– Đất của ai mà dữ vậy anh Sơn?
– Đất của tôi.
– Chúa ơi!
– Cỡ đó mới nuôi nổi hai trăm người.
Và hàng rào lưới B40 đã kết thúc, giờ là hàng rào sắt sơn trắng và trồng cặp hai bên hàng rào là bông bụp đỏ thắm rất duyên.
Đinh Mạnh Hùng đã đứng đợi sẵn ở cổng tịnh thất.
Anh ta đen nhẻm, mập mạp, dáng vẻ nhìn giống diễn viên hài hơn là một người cư sĩ Phật Giáo.
Tiếng nói thì sang sảng, chưa tới gần mà đã nghe lồng lộng.
Những cư sĩ khác không có đặc điểm gì nổi bật, ngay cả bộ đồ bà ba trắng và đôi guốc mộc cũng không làm họ khác lạ được.
– Đi, theo tôi vô nhà vệ sinh rửa tay, rửa mặt rồi vô vườn nhập tiệc.
– Đinh Mạnh Hùng vỗ vai người bạn đường xa một cái mạnh tay.
– Nhè nhẹ tay thôi cha…!- Một người cư sĩ bực mình trách.
– Tướng như con trâu vật mà nhè ai cũng vỗ vai.
Stephen Đoàn phì cười.
Nhà mát trong vườn thanh long nằm đâu mặt với mương nước rất đầy, cơ hồ muốn tràn luôn lên bờ.
Hỏi ra mới hay đây là mương nước dự trữ cho việc tưới cây, phòng khi gặp trời hạn hay mùa mưa chậm tới.
Chưa bước lại gần mà Stephen Đoàn đã ngửi thấy mùi đồ ăn thơm nức mũi.
Thịnh tình mà nhóm cư sĩ Hòa Hảo dành cho anh đã làm Cha Phó trẻ cảm động, tiếc rằng anh không có gì để tặng họ.
– “Vô đây em, dù đường xa anh vẫn đưa em dìa…”
Lối hát giỡn của Mạnh Hùng đã làm mọi người cười sặc sụa.
Stephen Đoàn biết Mạnh Hùng hát chế từ bài “Gạo trắng trăng thanh” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, lòng rất muốn chế ra vài câu vui vui để pha lửng lại nhưng cơn đói cào ruột đã làm tắt ý tưởng.
Bữa xế chiều có món gà đốt Ô Thum, lía Tân Châu, xôi phồng và gỏi đu đủ Tri Tôn; tráng miệng thì đãi bánh Chăm và chè thốt nốt.
Đinh Mạnh Hùng biết anh người Vĩnh Long nên đã đổ bánh xèo hến Cù lao Dài.
– Mấy anh có được phép uống rượu không?
Trần Bảo Sơn lắc đầu:
– Không, nhưng tụi tôi tự du di cho mình uống vài chung góp vui mỗi dịp lễ lạt và gặp mặt bằng hữu, chớ không được để bản thân say xỉn.
Nói đoạn, Trần Bảo Sơn đưa lon “White Claw – Ruby Grapefruit” cho chàng Linh mục.
Đây là đồ uống có cồn; bia thì rất ít và thường được pha loãng với nước ngọt/nước trà/nước trái cây hay thậm chí là cà-phê.
Đinh Mạnh Hùng cất giọng mời:
– Ăn gì thì tự chọn nghen Thầy?
– À…!Dạ…
Trước lúc “nhập cuộc”, bên Chúa làm lễ theo Chúa, bên Phật làm lễ theo Phật.
Xong xuôi đâu đó, Trần Bảo Sơn còn đại diện anh em cư sĩ mà chế bia xuống nền gạch tàu nhằm cúng đất đai.
Sau bữa chính, nguyên nhóm thưởng thức món tráng miệng và uống trà đá giải khát.
Một người cư sĩ có Pháp Danh Vân Châu giới thiệu đặc sản xứ mình:
– Đường thốt nốt ngon lắm.
Ăn cặp với xôi thì còn gì bằng.
Stephen Đoàn “Dạ” một tiếng, rồi ướm hỏi về Ông Hai Đạo Dừa.
Uống vài ngụm trà đá thanh mát, kế Bảo Sơn mới giải đáp:
– Nếu như anh có duyên được gặp hàng chút của Ông Hai, có lẽ anh sẽ được nghe người này kể chuyện dòng họ Ông Hai.
Nhưng rất hiếm khi, hàng chắt – chút – chít chịu mở miệng nói vì không muốn bị “gài”.
Cả đệ tử của Ông Hai cũng vậy, một số vẫn còn lưu lại trên An Giang, và không được mấy vị muốn tiết lộ cho anh biết điều đó.
Đinh Mạnh Hùng kể:
– Vào năm 72, vài đệ tử của Ông Hai rời cồn Phụng sang cồn Tân Vinh chơi với mấy ông già trong xóm cù lao.
Họ nhìn thấy ở phía Bắc có một vệt sao chổi dài quét qua, thì nhìn nhau lắc đầu mà nói gần như cùng lúc, “Miền Bắc năm nay tiêu.” Và quả nhiên, năm đó tự nhiên miền Bắc nổi lên bịnh lạ, chết chóc không ngưng và người dân ở ngoải thì mất mùa đói kém nặng nề.
Tôi biết anh theo Công Giáo nên cũng chẳng cổ xúy anh đi tìm các đệ tử của Ông Hai.
Bởi vì nếu hữu duyên, họ sẽ tặng cho anh một quẻ “tri thiên mệnh”, mà điều đó sẽ khiến anh phạm điều răn bên đức tin của anh.
Stephen Đoàn gật đầu.
Lại hỏi:
– Nghe đâu Ông Hai bị bắt gần mười mấy năm?
Bảo Sơn phì cười mà mặ̣t mày buồn hiu:
– Ông Hai không có bị bắt đi “cải tạo” tới năm 99 đâu, mà là bị giết luôn vào thời điểm từ năm 79 đổ về mốc 76, bằng cách bị xô lầu té chết.
– Vậy Ông Hai có tranh cử tổng thống không?
– Có, Ông Hai có ra tranh cử tổng thống vào năm 72, trên con thuyền Bát Nhã chở đầy tiền xu xỏ xâu.
Nhưng tấm hình hay đăng trên mạng không phải là tấm hình đúng với bối cảnh đó.
Hiểu chưa? Họ lấy tấm hình chuyện khác ghép vô chuyện này.
– Trên mạng tam sao thất bổn nhiều quá.
Cư SĨ Vân Châu tiếp:
– Ông Hai từng học chung trường với hai ông tổng thống thời đó và đậu cử nhân bên Pháp.
Vậy theo Thầy, trình độ Ông Hai ra sao?
Stephen Đoàn ngần ngừ rồi quyết định không trả lời.
– Ngoài ra, Ông Hai còn là bạn rất thân của ông tổng thống thứ hai, nên hay gọi người này là “Nó”.
Vì vậy nhiều người thời đó lẫn thời nay đã “suy bụng ta ra bụng người” mà xuyên tạc thành Ông Hai ghét người này.
– Mấy anh có thờ Ông Hai không?
Các cư sĩ gật đầu gần như một lượt.
Stephen Đoàn ngỏ ý muốn xem.
Trần Bảo Sơn bèn dẫn chàng Linh mục vô coi.
Bàn thờ Ông Hai Đạo Dừa nằm phía sau lưng Chánh Điện, ở mé bên tay trái, chỉ là một cái hương án nhỏ nhưng nhờ cách bày trí nên vô cùng trang trọng và đẹp đẽ.
Theo như lời của Bảo Sơn, hương án của Ông Hai đã dời tới đổi lui mấy lần, nay mới nằm chết ở đây luôn.
Stephen Đoàn thắp cho Ông ba nén nhang thơm, rồi theo đoàn cư sĩ Hòa Hảo ra vườn.
Bảo Sơn trầm giọng mà nói:
– Đôi lúc tôi thấy cái tinh thần “Hòa đồng tôn giáo” của Ông Hai Đạo Dừa rất đúng.
Cái nào hay thì mình học theo, cái nào dở thì mình phải bài trừ.
Từ nơi chòi canh vọng ra bài “Em về trong chiêm bao” do Chế Linh ca, bài hát do ông tự sáng tác với bút hiệu “Tú Nhi” quen thuộc.
Ông cậu giữ vườn chắc đang nằm nghỉ trưa trong đó.
Nhìn những thửa đất cây trái trĩu cành mà chưa thể hái xuống vì thương lái ít ỏi, Bảo Sơn buồn bực nói:
– Chúng ta phải tự thoát khỏi sự lệ thuộc vô chuyện xuất cảng trái cây qua Tàu.
Cư sĩ Vân Châu biểu:
– Lỗi đó một phần do thương lái Nước mình ham rẻ tuồng hàng Tàu qua nữa.
– Phải.
Một bó rau mua tại gốc chưa tới một đồng bạc, bên Tàu nó bán hàng dỏm mười bó một đồng, chỉ vì ham lời nhiều mà các thương lái tiếp tay giết chết nhà vườn trong này.
Rồi Bảo Sơn quay qua nói với Stephen Đoàn:
– Tôi đang nghiên cứu cách làm ra bánh – mứt từ những thứ trái cây đang trồng, rồi tìm đường xuất cảng qua phương Tây.
– Được chưa?
– À, được mứt mãng cầu, sa-kê, khoai mì, củ từ và khoai môn sấy khô, bánh bông lan thanh long, nhãn ngâm đóng hộp, kẹo ổi, kẹo gừng, khoai lang ngào đường…!Tụi tôi đã được bên Tây phương chấp nhận và kết nối làm ăn.
– Vậy là tốt quá rồi!
– Phải làm sao bảo đảm được vị ngon và hạn chế được rủi ro hư hao trong lúc vận chuyển, đó là một mệnh đề nan giải với chúng tôi.
– Việc này Bộ Công Thương và Bộ Nông – Lâm – Ngư nghiệp phải lo cho các anh.
Bảo Sơn nhếch miệng cười:
– “Mấy đời bánh đúc có xương.
Mấy đời đám đó biết thương dân quèn.”
Đi tới thửa nào có trái cây chín, Stephen Đoàn cũng được mời nếm thử trái cây.
Bây giờ chưa vào Hè nên vài bờ chưa có trái cây chín và bông nở, thành ra những bờ này rặt sắc xanh của lá.
Chưa tới thửa đất cuối cùng mà ai nấy đã mỏi rã hai chân nên đành phải vòng về.
Thấy sắc mặt tái mét của Stephen Đoàn, Bảo Sơn bèn mời anh ta ghé nhà xưởng nghỉ mệt.
Stephen Đoàn đồng ý ngay tắp lự.
Nhà xưởng nằm ở sau lưng vườn trái cây, xây dựng coi bộ bề thế và hết sức mát mẻ, diện tích ước khoảng ba ngàn mét vuông.
Ở đây cũng chia thành nhiều khâu như những sở làm khác: Ngoại trừ trẻ vị thành niên và thai phụ, ai cũng có việc làm phù hợp với khả năng và sức khỏe của bản thân.
Sau khi trở ra từ nhà vệ sinh, Stephen Đoàn được mời uống một ly nước rau má – đậu xanh để giải nhiệt.
Sợ phí thời gian, anh ngỏ ý được đi thăm viếng những nơi khác, và đoàn cư sĩ chấp thuận.
Ở đâu cũng thấy cảnh máy móc hoạt động hết công suất và những người công nhân lành lặn có, khuyết tật có không mặc đồng phục thoăn thoắt tay làm.
Tuy là nhà xưởng “miệt vườn” nhưng Bảo Sơn vẫn trang bị rô-bốt tối tân để đỡ đần công việc cho mọi người.
Tới một khâu nọ, Stephen Đoàn ngạc nhiên hỏi:
– Những người kia làm việc cho anh?
Bảo Sơn đáp:
– Ờ, được trả lương đàng hoàng, khỏi cần phải trông cậy nguồn tiền của Mạnh Thường Quân nào hết.
Stephen Đoàn đếm sơ thì thấy nhân công được đâu ba mươi người; ngay cả người mù cũng có việc làm, họ được giao sắp các gói mứt vô thùng, rồi người câm – điếc sẽ lo phần kiểm tra, dán nhãn mác và đóng thùng.
Hỏi ra mới hay, ở đây ai cũng biết thủ ngữ và chữ nổi, để tiện bề giao tiếp với những người bị khiếm khuyết.
Trần Bảo Sơn tủm tỉm cười giới thiệu:
– Trước khi vô làm, họ đều được dẫn đi rửa tay sạch sẽ và hong khô tay dưới máy sấy khử trùng.
– À…
Đợi ra khỏi nhà xưởng, Stephen Đoàn mới hỏi nhỏ:
– Mà mấy anh ơi…
– Chi Thầy?
– Mấy anh có đề, “Sản phẩm do người…!người…!khuyết tật làm ra” không?
– Không.
Chúng tôi không lấy sự khiếm khuyết của họ để ăn mày lòng thương của thiên hạ mà làm giàu cho mình.
Ai ăn – uống cảm thấy vừa miệng thì mua ủng hộ tiếp, còn không thì thôi.
Qua khỏi nhà xưởng là tới mấy liếp rau xanh um, rau này ngày nào cũng đem ra chợ đầu mối bán.
Stephen Đoàn ngắm nghía luống cải ngồng tươi tốt, trong bụng thầm tưởng lại vị ngon của món bánh xèo ban nãy, rồi bùi ngùi nhớ tới quán bánh xèo nhỏ nằm ở một góc léo hánh của Giáo xứ.
– Nghe nói Thầy xuống đây tìm người? – Trần Bảo Sơn vừa hỏi vừa ngó con sâu lông đang nằm trên cái bắp cải nham nhở.
– Dạ, tôi cần tìm ông Phan Thụy Long.
– Phan…!Thụy…!Long…!- Đinh Mạnh Hùng gãi đầu.
Một người cư sĩ xen vô nói:
– Hình như tụi mình có quen người này…
– Trời ơi, là Thầy Phá Vân chứ ai! – Trần Bảo Sơn vỗ tay cái chát.
Stephen Đoàn toét miệng cười:
– Có thể dẫn tôi đi gặp người đó được không?
Trần Bảo Sơn lắc đầu:
– Thẩy ở tuốt trên đỉnh Cô Tô.
Để sáng mai đi nghen? Ban đêm lái…
– Tôi đi bộ được.
Xin hãy bỏ tôi ở dưới chân núi, tôi sẽ tự tìm đường đi lên.
– …!Cũng được.
Có lẽ Thầy Trì Thương sẽ biết sự hiện diện của Thầy mà đứng sẵn chờ rước.
Để phòng việc sẽ nghỉ lại một đêm ở tịnh thất, Stephen Đoàn đem theo một ba-lô cỡ lớn đựng tư trang và thuốc men.
Từ đây tới Phụng Hoàng Sơn không xa như chàng Cha Phó tưởng, có thể là do đi bằng xe hơi và chạy với tốc độ cao nên quãng đường được rút ngắn lại.
Hai bên đường quán xá bày bán thật đông vui, ở đâu cũng thấy những điểm mời nhận đồ ăn – thức uống miễn phí, nhìn coi quang cảnh mà thấy yêu đời lạ kỳ.
Anh chạnh nhớ những bản tin gần đây bên Công Giáo, nhất là những trăn trở của Đức Giáo Hoàng và các Đức Hồng Y, nỗi buồn tự nhiên tràn ngập trong tim.
Anh mượn ống tay áo làm khăn lau nước mắt, rồi cúi đầu lần chuỗi Mân Côi.
– Kẻ phá Đạo nhanh nhứt là kẻ khoác áo nhà tu, phải không Thầy? – Trần Bảo Sơn nhếch miệng hỏi.
– Dạ phải, thưa cư sĩ.
Chúng ta biết rõ chúng, nhưng chống không lại chúng vì đám hậu thuẫn chúng quá mạnh.
– Ngoài đám hậu thuẫn chúng ra, còn băng tín đồ thần tượng kẻ đó nữa.
– Dạ phải…
Sợ Stephen Đoàn bị khát nước, nên cư sĩ Bửu Sơn mua cho anh một lít nước thốt nốt và kèm theo một phần xôi phồng Chợ Mới.
Ngoài ra, còn tặng cho chàng ta một ve rượu thuốc xức phòng rắn, rít, muỗi – mòng và bò cạp và một vỉ thuốc Tây trị nọc độc rắn.
Hãy còn cách chân núi Cô Tô chừng hai trăm mét, Đinh Mạnh Hùng đánh tiếng xin đi theo vì sợ Stephen Đoàn bị lạc đường, chàng Linh mục mừng rỡ mà cảm ơn rối rít.
Sau khi bôi rượu thuốc lên tay, chân, cổ, gáy, sau ót và hai bên vai, hai người khác Đạo mới khăn gói lên đường.
Đường rừng sẩm tối trông vô cùng đáng sợ và ma mị, vũ khí mà hai người nắm chắc trong tay là lòng tin vào Chúa và Phật.
Đi chẳng được bao lâu mà đế giày của hai người đã dính bết sình lầy và lèn cứng đá dăm, họ đành phải ngừng bước để khượi mấy cục đá ra cho bớt nặng chân.
Tịnh thất đó nằm ở đâu sau những cánh rừng thâm u kia vậy? Lúc này sao Hôm đã mọc, mảnh trăng khuyết chênh vênh như thuyền con giữa thinh không mờ mờ sương giăng và gió thổi, đâu đó tiếng kêu của chim rừng gọi nhau về tổ, thảng hoặc tiếng dế kêu rinh rích sau những lùm cây, bụi cỏ cao quá đầu người.
– Ai ở đây nổi hả cư sĩ Hùng?
– Tăng sĩ Theravada ở nổi.
Nói đoạn, Đinh Mạnh Hùng đưa khúc cây lượm được cho Stephen Đoàn để làm gậy chống.
Về phần mình, anh không xài tới vì chưa kiếm được khúc cây ưng ý giống vầy.
Tới một ngã rẽ, hai người tìm một gốc cây đặng ngồi nghỉ mệt.
Có thể do bị ra mồ hôi quá nhiều nên không ai bị mắc tiểu, thành ra cũng đỡ ngại ngùng và khó xử.
– Họ sống bằng cách nào hả anh?
– Xuống núi khất thực.
– Chúa ơi, ngày nào cũng vậy chịu sao thấu?
– Nếu đã tu tập thì không nên kêu khổ, các Thầy quan niệm như vậy đó.
Trong lúc ngồi ăn uống lấy sức, Stephen Đoàn mời người bạn cư sĩ nghe vài bản nhạc yêu thích của anh.
“Chiều nay sương gió, lữ khách dừng bên quán xưa
mơ màng nghe tiếng chuông chiều, vương về bên quán tiêu điều
Vầng trăng hoen úa, như lá vàng rơi cuối Thu
lững lờ soi mấy hàng cây, u sầu đang ngắm trời mây…”
Tiếng hát sang trọng của Kiều Nga đã làm bài hát “Dừng bước giang hồ” do nhạc sĩ Hoàng Trọng phổ từ lời của tác giả Quang Khải càng hay thêm bội phần.
Đinh Mạnh Hùng nhận xét:
– Cô Thái Thanh và cô Khánh Ly ca bản này cũng hay.
Đây là lần đầu tiên tôi nghe “thế hệ tiếp nối” của hai cô hát bài này, rất hợp đó chứ.
Đợi cho ca khúc kết thúc, Stephen Đoàn thổi kèn harmonica giai điệu bài “Cao cung lên” của hai Linh mục Hoài Đức và Nguyễn Khắc Xuyên, mà anh đã từng nghe qua màn tam ca của Thái Thanh – Anh Khoa – Sĩ Phú.
Tiếng đàn người Linh mục trẻ thanh thoát tới nỗi chàng cư sĩ Hòa Hảo có cảm tưởng đây là khúc Nghê Thường trên cung Quảng Hằng.
Chừng thanh âm lắng rồi mà Đinh Mạnh Hùng vẫn chưa hồi thần lại được, mất một lúc sau anh mới cất giọng ngợi khen:
– Cha, Thầy thổi hay quá! Tôi có học tới chết chắc cũng hổng được bằng cái móng chưn Thầy.
– Anh…!anh khen hơi quá lời rồi.
Đinh Mạnh Hùng xua xua tay:
– Có quá lời đâu chớ…!Xuất sắc thì phải tán thưởng nhiệt liệt mới xứng.
Ngồi nói chuyện chơi thêm chục phút nữa, hai người đi tiếp.
Đường càng ngày càng gập ghình, cheo leo, khúc khuỷu và có vô vàn hiểm trở tiềm ẩn.
Đã mấy lần bước chân của họ giẫm phải rắn, rít hay đi ngang qua một ổ bò cạp hoặc kiến lửa, thời may có xức thuốc nên đuổi được chúng.
– Bài thuốc này ai bày mà hay dữ vậy anh?
– À, một ông Thầy bên Bửu Sơn Kỳ Hương Phái chỉ cho tụi tôi cách bào chế.
Trời đã tối mịt.
Sao đêm giăng đầy trên thinh không đen kịt như sương sáo.
Lác đác vài tiếng cú kêu hời nghe buồn thảm não.
Bấy giờ loài lưỡng cư mới hợp sức cùng nhà dế ca ran inh ỏi, đâu đâu cũng nghe tiếng chúng.
Những vệt sáng lập lòe của bầy đom đóm tạo thành những hình thù kỳ dị và mang hơi hướm Liêu Trai Chí Dị; vài ánh lửa ma trơi bập bùng ở phía dưới chân núi, trông như thể chúng đang ập tới đuổi bắt hai người.
Stephen Đoàn lần chuỗi Mân Côi một đỗi, rồi lầm rầm đọc luôn bài “Kinh Mân Côi” để trấn an bản thân.
Bên cạnh anh, cư sĩ Mạnh Hùng cũng đang niệm “Chú Lăng Nghiêm”.
Hai người sóng vai nhau mà đi; đằng sau lưng họ, số lượng ma trơi đã tăng lên mười “con”, màu xanh lét của chúng soi rọi một khoảnh đất cây mọc rậm rạp.
– Sadhu.
Từ đằng sau cây gừa trăm năm, Trì Thương khoan thai bước ra.
Bữa nay chú đắp cà-sa kín cả hai vai cho đỡ lạnh và ít bị muỗi chích.
– Thầy Thương.
– Xin lỗi vì đã tới trễ.
Tôi ngồi thiền nhập tâm quá nên không thể dứt ra sớm được.
– Dạ, hổng sao, miễn Thầy tới đón là mừng rồi.
Stephen Đoàn đưa tay ra bắt với người Tăng sĩ có khuôn mặt hết sức khả ái.
Anh rùng mình rụt tay lại vì cảm giác như bị điện giựt khi nắm lấy những ngón tay của anh ta.
Rồi rất ngạc nhiên với bài Kinh xăm trên cánh tay trái của anh ta.
– Chuyện đâu có đáng gấp mà Thầy và cư sĩ đây phải lặn lội cuốc bộ lên đây vào giờ này…
Stephen Đoàn lúng túng hỏi:
– Còn bao xa nữa hả Thầy?
– Rất gần với tôi, nhưng rất xa với hai người…!Thôi chúng ta đi đường tắt cho lẹ nghen?
– Dạ.
– Stephen Đoàn chắp tay mà nói.
Trì Thương dẫn hai người đi vô một cái hang động tối om, trong đó đã để sẵn đuốc mồi.
Chú đưa cho mỗi người một cây đuốc, rồi tự tay bật hộp quẹt mồi lửa.
Ánh sáng phựt lên chói mắt, soi rõ cảnh vật trong hang động khá cao và rộng.
Khi thấy họ đã vững tâm rồi, chú mới mời họ đi tiếp.
Ở đây toàn dơi quạ đen đúa và hôi hám, màu áo của chúng vừa hay tiệp với sắc áo dòng mà Stephen Đoàn đang mặc, đâm ra có con bám trên vạt áo anh hồi nào mà chàng ta không biết, tới chừng nó nhe răng cắn anh mới nhận ra.
Nhìn con dơi quạ vừa bay vừa kêu la thất thanh vì nuốt phải rượu thuốc Stephen Đoàn xức nơi da, Trì Thương mỉm miệng cười mà nói:
– Hại người, ắt hẳn sẽ chuốc Quả Báo.
Người ta đau một, mình lãnh về trăm.
Stephen Đoàn cười cái khì.
Anh đang cố mường tượng khuôn mặt nếu có tóc sẽ còn đẹp trai cỡ nào của Tăng sĩ Trì Thương.
Tiếng nói của người này tuy hiền mà nghiêm, coi bộ tâm tánh không dễ chịu chút nào.
Dáng đi bình thản và ơ hờ như thể không bận tâm đến người đi sau.
Hết quẹo lối này lại tẻ ngả kia, tới lúc hai người hết còn bước nổi Trì Thương mới buông xuống một câu, “Ghé đây đi vệ sinh đi.”
Stephen Đoàn ngại ngùng hỏi ở trỏng có buồng riêng không, và người Tăng sĩ lớn hơn anh vài tuổi nói gọn lỏn, “Có.” Vì kiểu áo nhà tu khá bất tiện nên Thủy Diệu đề nghị xây buồng, thành ra nhà vệ sinh có ba buồng nhỏ và một buồng lớn, và không có bồn tiểu cho phái nam.
Cũng như bên Phật Giáo, Stephen Đoàn chọn buồng lớn.
Trong đây sạch sẽ và thơm tho hơn anh mong đợi, lại có quạt thông gió nên mùi hôi không bị lưu lại nhiều, ngoài ra mỗi buồng còn lắp riêng một bóng đèn điện nên rất sáng sủa.
Vừa vắt cái áo dòng lên móc treo gắn ở tấm vách phía đối diện bồn cầu, anh vừa âm thầm đánh giá nhà vệ sinh công cộng như vậy.
Chợt thấy dưới cái móc treo có cái máy nho nhỏ, đề rằng, “Máy phát tiếng mưa gió”, anh tò mò bấm thử, rồi cười phá lên sau vài phút lắng tai nghe “màn mưa nhân tạo”; công nhận những người Tăng sĩ này chu đáo thật, bởi có vài người không thể đi vệ sinh ở nơi công cộng nên phải cần đến chiếc máy này.
Trì Thương đang lui cui tưới nước cho khóm hoa thược dược, thứ cây thuốc cầm máu rất hữu hiệu; rồi day sang lặt bớt nhánh héo của cây Bạch Hoa Xà, công dụng của nó là chữa nọc độc rắn.
Kể từ ngày Tây Y lên ngôi, Đông Y bị coi thường, đó là một điều rất đáng tiếc vì nếu học được Đông Y sẽ có ngày cứu lấy mạng mình hoặc mạng người.
Nghe tiếng rửa tay trong nhà vọng ra, Trì Thương biết họ đã xong chuyện nên máng cái bình lên cọng kẽm trên xà nhà.
Rồi phủi phủi tấm áo trước khi đi gặp họ.
Dù trong người đang mệt mỏi, Stephen Đoàn vẫn ráng nhoẻn miệng cười và hỏi:
– Còn bao xa hả Thầy?
– Gần lắm.
Và cái gần ấy gần thật, chứ không phải là một lời khuyến khích sáo rỗng.
Trì Thương đưa hai người tới Chánh Điện nằm ẩn trong một thạch động.
Nơi đó các Tăng sĩ đã tề tựu và đang đọc bài Kinh Rải Tâm Từ.
Đợi cho giờ đọc Kinh chấm dứt, Trì Thương mới gọi Phá Vân lại.
Không còn là tay đua xe chuyên nghiệp, chắc có lẽ vì vậy mà sắc diện của Phan Thụy Long trở nên hiền hòa và không còn vẻ phong lưu, bay bướm như ngày xưa nữa.
Chú hơi ngại ngần khi tiếp chuyện với Stephen Đoàn, và chàng Linh mục cũng vậy.
Châu Lợi vừa bưng khay trà mạn vừa cất giọng mời sư đệ và người Cha Phó theo mình ra ngoài sân ngồi thưởng trà và ngắm sao.
Ra ngoải mới hay ở đây có một bộ bàn ghế đẽo bằng đá nguyên khối, tuổi đời của nó chắc đã gần năm mươi năm.
Theo như lời giới thiệu của Châu Lợi thì nguyên thủy nó là tảng đá lở, thấy không ai nhận nên các Đại Trưởng lão xin về rồi mướn thợ giỏi đẽo thành bàn ghế.
Stephen Đoàn được đãi bánh pía sầu riêng và trà thơm.
Má của Trì Thương đem lên từ hôm bữa hổm mà tới nay mới lấy ra ăn, đương nhiên nhóm Tăng sĩ không dự phần thọ thực.
Đinh Mạnh Hùng vốn hảo ngọt nên không khách sáo ăn hết veo hai cái; còn Stephen Đoàn thì chỉ mới ăn được nửa cái, các Sơ trong trường Dòng đã dạy anh rằng ăn uống phải từ tốn, nhai chậm – nuốt kỹ và không được tỏ thái độ phàm thực.
– Má tôi đem lên bánh trái nhiều lắm, lát nữa Hùng lục tủ lạnh lấy nghen?
– OK.
Rồi Trì Thương quay sang nói với Stephen Đoàn:
– Còn Thầy, nếu thích hãy ăn mạnh miệng vô, kẻo dây dưa qua mười một giờ đêm dễ bị khó tiêu và bị hành ác mộng lắm.
– Dạ…!
– Thầy muốn đi tắm phải không? Lát nữa theo tụi tôi về tịnh thất tắm rửa, gội đầu.
– Dạ, công nhận Thầy tinh ý quá.
Hoàng Kỳ mạn phép quải ba-lô giùm Stephen Đoàn, chàng Linh mục mừng húm cảm ơn rối rít.
Người nay cao lớn như bóng cây đa đầu làng, sắc da nâu bóng rắn rỏi, lại thêm đôi mắt sâu và sáng ngời tựa đáy giếng giữa ngày Rằm, nên trông có cái vẻ uy nghi chi lạ.
– Thầy đây cao nhiêu?
Hoàng Kỳ bấm đốt ngón tay nhẩm tính, rồi xoa đầu cười:
– Hai mét mốt.
– Là…!”Hai thước lẻ một phân”?
Châu Lợi hướt lời:
– Đúng vậy.
Chứ không tới hai mét mười đâu.
Lại thêm một lần cuốc bộ tưởng chừng xa thăm thẳm, Stephen Đoàn thầm hồi tưởng những chuyến đi của Chúa Jesus và các Thánh Tông Đồ, rồi tự chê trách bản thân chưa gì đã than cực.
Dải Ngân Hà đã hiện rõ mồn một, không khó để anh tìm thấy chòm sao Sư Tử ở hướng Đông – Bắc, anh chia sẻ điều mình biết với cư sĩ Hùng và nhóm Tăng sĩ Theravada.
Nguyên đoàn ngừng bước nhìn về phương ấy.
Tình cờ có vài ánh sao xẹt qua, rồi mất hút dưới ngọn Liên Hoa Sơn.
– Một kiếp nhân sinh tựa ánh sao
Gặp đây, tan đó như chiêm bao
Giựt mình thoát khỏi cơn phù mộng
Hốt nhiên Niết Bàn vào đêm nao
Châu Lợi ngâm xong, sải đôi chân trần bước lên tảng đá nằm cheo leo trên đỉnh núi.
Đinh Mạnh Hùng sợ ông sẩy chân té chết nên đưa hai tay ra canh chừng.
Sau vài phút định tâm, Châu Lợi từ tốn bước xuống, rồi cất giọng cáo lỗi vì đã làm phí thời gian của mọi người.
Dọc đường đi, nguyên đoàn bắt gặp vô số đàn đom đóm, mỗi đàn tạo thành mỗi hình thù khác nhau.
Stephen Đoàn tính vươn tay ra chạm chơi, nhưng đã bị Trì Thương cản lại, người Tăng sĩ ấy cười biểu:
– Không nên đụng vô.
Không lành.
Không nên.
Stephen Đoàn cười trừ:
– Dạ, rất cảm ơn Thầy đã khuyên.
Lối đi mà nhóm Tăng sĩ chọn khá bằng phẳng và phân làn rõ ràng, có lẽ đây là con lộ mà người dân đã dày công làm ra.
Hai bên đường cỏ dại mọc cao nghệu; ở trỏng có nhiều đống c*t bò, ắt hẳn ngày nào cũng có đàn bò hoặc con bò nào ham ăn đi lạc lên trên này, chứ làm gì có ai dư hơi tới mức đưa chúng lên đây chăn – thả.
Đem ý nghĩ này nói với Tăng Đoàn, Stephen Đoàn nhận về câu trả lời như vầy từ Châu Lợi, “Khi nào ở dưới hết cỏ, họ sẽ đưa đàn bò tới đây.”
Mất chừng hai mươi phút nữa, nguyên đoàn mới tới tịnh thất.
Giữa bốn bề cây cỏ um tùm, một ngôi cổ tự mái ngói Âm – Dương và lớp sơn màu vàng đã lộ cái ruột vôi gần hết nằm im lìm như đang kiết già.
Gạch lót sân là loại gạch bông xưa, nền gạch còn khá nguyên vẹn và họa tiết ở mỗi viên còn lưu lại cũng nhiều.
Hàng ba có xây bồn bông chạy dọc theo hành lang, ở đó trồng rặt một thứ hoa dừa nhưng không gây nhàm chán vì màu sắc của nó rất đa dạng.
Nghe tiếng thở dài khe khẽ của người trai tu sĩ Công Giáo, Trì Thương dịu dàng hỏi nguyên cớ, và chàng ta đáp rằng không biết anh bạn quản xứ chung có nhớ tưới nước mấy chò lan giùm chàng không.
Trì Thương an ủi đôi lời, chàng ta nguôi ngoai được một chút.
– Vậy đây Thầy đây thích lan? – Phú Lâm cười hỏi.
Stephen Đoàn cười mà đôi mắt buồn rượi:
– Dạ, hồi còn sống với mẹ, ngày nào tôi cũng cùng mẹ ra hàng ba tưới nước và chăm sóc chúng.
Từ ngày mẹ tôi về với Chúa, chúng…!tôi đã làm chúng chết hết vì sự vụng về của mình.
– Sadhu.
Thủy Diệu nghe vậy mới đánh tiếng mời Stephen Đoàn sáng mơi theo mình đi lấy chò lan ở trong thạch động ban nãy.
Nó không chỉ đẹp mà còn có mùi hương rất quyến rũ.
– Các vị đây không uống rượu, cũng không ăn quà bánh, tôi biết lấy gì để cảm tạ đây?
Châu Lợi cười hiền:
– Chăm lo Giáo xứ của Thầy thật tốt, đó là cách cảm tạ chúng tôi.
Bước vào trong mới hay tịnh thất này được xây theo kiểu chữ Đinh, một lối cất nhà rặt Nam Kỳ, hiện Stephen Đoàn và nhóm Phật Giáo đang đứng ở khu nhà dưới.
Theo như sự hiểu biết của anh thì khu nhà trên thường làm nơi “chánh sự”, như chỗ thờ tự – cúng kiếng, phòng khách, phòng làm việc,…!; còn khu nhà dưới là nơi ngủ nghê, chứa đồ đạc – lúa thóc, bếp núc, chỗ của gia nhân, tắm gội – tiểu tiêu,…!
– Hồi trước gia đình tôi cũng từng ở trong một căn nhà chữ Đinh.
“Chữ Đinh nhà nghèo” nên không cao sang và kiểu cách gì.
Nhưng đó là chốn hoàng cung trong tim tôi, bởi ngày nào tôi cũng thấy mặt mẹ và nụ cười của ba.
Châu Lợi tỏ lòng thương cảm với Stephen Đoàn:
– Má tôi cũng mất rất sớm như mẹ Thầy.
Ba tôi đi bước nữa rồi phú thác mạng tôi cho dòng đời.
Tới lúc tôi bị người ta phục đánh bể đầu nằm mê man hằng tháng liền, ông cũng không màng ghé thăm.
– Tôi cũng vậy.
Hồi tôi lên cơn điên bỏ nhà đi bụi, ba tôi cũng không thèm đi kiếm, còn nói vống lên với chòm xóm rằng, “Chết bờ chết bụi khỏi tốn tiền tao chôn.” Không có Cha Giuse – Blanc Cao Nhật Thành, ắt hẳn tôi đã chết bờ chết bụi thật rồi.
Sợ Stephen Đoàn sẽ bị trúng gió do tắm đêm, nên Đinh Mạnh Hùng đành thất lễ cắt ngang dòng hồi tưởng của chàng Linh mục và Thầy Châu Lợi mà nhắc họ trời đã khuya rồi.
Hiểu nỗi lòng của cư sĩ Hùng, Châu Lợi bèn mời Stephen Đoàn đi tắm gội cho mát.
Ông không quên nói thêm ở đây có máy nước nóng và máy sưởi ấm nên chàng ta có thể tùy nghi tắm gội bao lâu cũng được.
Anh lo mình bấm tầm bậy sẽ làm hư máy móc nên ngỏ ý nhờ ông Tăng sĩ chỉnh giùm.
Thủy Diệu bèn nhậm lời thay huynh trưởng.
Trong lúc chờ tới lượt mình vô tắm gội, Đinh Mạnh Hùng ăn bánh pía và thưởng trà tiếp.
Anh sẽ đem mấy lô bánh – kẹo của má Thầy Thương về cho đại gia đình.
Chừng một tiếng sau, Stephen Đoàn mới trở ra.
Anh thay sang đồ mát và đi dép quai ngang cho rãn chân.
Thủy Diệu thấy đầu tóc anh ướt nhẹp thì phì cười, rồi biểu anh ngồi xuống để chú lấy khăn lau khô cho.
Phá Vân cười hỏi:
– Cần bông ngoáy tai không?
– Dạ cần.
Phá Vân bèn vô phòng ngủ để lấy một hộp bông ngoái tai mới cắt chỉ mà đưa cho người Linh mục mang khuôn mặt “bất cân xứng” với tâm.
Trì Thương giục:
– Thôi, vô tắm lẹ đi cư sĩ Hùng.
Khuya quá rồi.
Nhóm Tăng sĩ dặn ở nhà trên có Sa-di đang dưỡng bịnh nên xin Stephen Đoàn đừng dời gót lên đó.
Anh vui lòng chấp thuận liền, bởi anh cũng tởn cái tánh thày lay và lo bao đồng của mình quá rồi.
Thủy Diệu trao cho Stephen Đoàn hai cái lồng đèn xài dầu hôi, không chỉ để sưởi ấm mà còn để xông muỗi.
Stephen Đoàn nói lời cảm ơn, rồi đứng đợi Thủy Diệu chỉ đường.
Phòng ngủ của anh và cư sĩ Hùng nằm ở cuối hành lang, kế bên cửa hậu dẫn ra sân sau.
Bên trong trải sẵn hai cái chiếu cói và mắc sẵn hai cái mùng rũ.
Dưới chân chiếu có để một cái quạt không cánh khá lớn, và trên trần lắp bóng đèn thước hai đời cổ lỗ sĩ.
Chỉ có bấy nhiêu thôi, không còn cái gì nữa hết.
Stephen Đoàn lúng túng hỏi:
– Có thể cho tôi mượn gối và mền không?
– Được.
Rồi Thủy Diệu ra hiệu cho người bạn mới quen theo mình vô thư phòng.
Thư phòng nằm giữa nhà trên và nhà dưới, có cửa sổ trổ ra ngoài mảnh vườn con trồng rất nhiều thảo dược, kệ nào kệ nấy đều đầy ắp sách.
Vốn là “con mọt sách” nên Stephen Đoàn không bỏ qua cơ hội tìm kiếm sách chưa đọc.
Anh bốc trúng được một cuốn khá lạ, mang tên “Vì em, tôi đã làm Sa-di” của nhà thơ Du Tử Lê.
– Tình yêu mà Phú Lâm dành cho người vợ hiện tại cô đọng trong bài thơ “Vì em, tôi đã làm Sa-di”.
Stephen Đoàn trố mắt nhìn Châu Lợi.
– Ban đầu đệ ấy tính tu tập một thời gian để hồi hướng công đức cho gia đình và sám hối với họ, sau rốt cẩu chứng ngộ nên đã đoạn Duyên mà lên đây ẩn tu với chúng tôi.
Stephen Đoàn bình phẩm:
– Nếu như Nguyễn Tất Nhiên mượn hình ảnh Chúa để nói về Tình Yêu, thì Du Tử Lê lại mượn hình ảnh Phật để nói về đề tài này.
Châu Lợi mỉm miệng cười:
– Du Tử Lê là người đã đặt bút hiệu “Tất Nhiên” cho chàng trai xứ bưởi Nguyễn Hoàng Hải.
Hồi chưa xuất gia, tôi thường hay lấy thơ của hai vị để tặng cho mấy cô bạn gái.
Và rồi, Stephen Đoàn nhìn thấy cuốn “Siddhartha” của văn hào Hermann Hesse, một tác phẩm đã đạt được giải Nobel Văn Học.
Tên tiếng Việt của nó là “Câu chuyện dòng sông” do Phùng Khánh dịch.
Thủy Diệu giới thiệu:
– Đây là tác phẩm phóng tác về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Có nhiều chỗ không đúng với tư tưởng Phật Giáo hoặc suy diễn hơi quá lố dựa trên quan điểm cá nhân của tác giả, nhưng tựu trung đây là một cuốn sách cũng khá đáng đọc.
– Cha…
Châu Lợi vừa sắp lại những cuốn sách mất trật tự, vừa cười nói:
– “Nhặt sạn” trong cuốn sách này là một trong những cách học Phật của chúng tôi.
– Có thể chỉ cho tôi biết những điểm vô lý không hai Thầy?
Châu Lợi chắp tay mà bạch:
– Thứ nhứt: Đức Phật mồ côi mẹ.
Có thuyết cho rằng nguồn gốc câu “Đức Phật bước ra từ hông mẹ” là từ chuyện Hoàng Hậu Maya bị mang thai ngoài tử cung, nên dựa vào nền Y Học thời đó thì y sĩ chỉ có thể cứu một trong hai người, thành ra Hoàng Hậu đã chấp nhận chịu chết để giữ mạng cho con bằng cách để thái y rạch hông mình bắt con; người thì nói Bà đã chết sau đó vài canh giờ vì mất máu, kẻ lại biểu Bà cầm cự được một tuần mới lìa đời.
Thứ nhì: Người bạn đồng hành với Đức Phật là một nhân vật do tác giả hư cấu.
Và còn nhiều chi tiết nữa mà tôi không thể nhớ hết.
Sau một lúc cân nhắc, Stephen Đoàn quyết định chọn cuốn sách mỏng mỏng có nhan đề “Chúa đã khước từ” của nhà văn Richard E.
Kim và do Lê Khắc Cầm dịch.
Thủy Diệu và Châu Lợi ôm mỗi phần mền – gối thay hai người bạn đường xa.
Đinh Mạnh Hùng đang kê tay làm gối đỡ đầu, chân thì vắt chữ Ngũ, miệng ê a ca cải lương.
Anh là người bị đám Youtuber đưa lên thớt đầu tiên vì cái tật tâm hơ tâm hớt và ăn nói quởn xo của mình, và cũng là người duy nhứt kệ cha đám đó.
– Oa, có gối – mền rồi.
Tôi còn sợ tối nay phải ngủ thiền.
Stephen Đoàn bật cười hỏi:
– Là sao cư sĩ?
– Là nằm thiền trên mặt đất mà không có cái gối kê đầu.
Nhiều người nằm thiền một hồi ngủ quên luôn, thành ra chuyển sang thế ngủ thiền.
Bấy giờ Stephen Đoàn mới có dịp nhìn kỹ khuôn mặt của Thủy Diệu.
Anh đã từng có dịp sang ngoại quốc làm việc, học tập và truyền giáo, nên đã thấy rất nhiều người đẹp trai ở đây, nhưng chưa bao giờ anh lại được gặp một người đẹp kinh diễm giống vầy.
Từng đường nét trên khuôn mặt như được đồ họa trên máy vi tính, không thể tin nổi rằng đây là một khuôn mặt chưa từng trải qua thẩm mỹ.
– Cái đầu của John “Tẩy Giả”.
Xin Thầy hãy ghi nhớ cho.
– Thủy Diệu nghiêm mặt nói.
Stephen Đoàn sực tỉnh.
Anh chắp tay mà thưa:
– Phải, sắc đẹp là một trong những nguyên nhân đẩy con người rời khỏi vòng tay Chúa…!Ô, tôi xin lỗi!
Trì Thương vỗ vai Thủy Diệu.
Thủy Diệu “À” lên một tiếng, rồi tươi cười hỏi:
– Có phải người Cha Sở hiện thời mang tên Thánh Y-Nhã?
– Dạ phải.
Ignacio de Loyola.
– Nhị sư huynh biểu rất hợp với Thẩy.
Đinh Mạnh Hùng uể oải thông báo đã qua mười hai giờ đêm.
Nhóm Tăng sĩ bèn cáo lui để hai người bạn đi ngủ.
Ngay khi cánh cửa vừa đóng lại, Đinh Mạnh Hùng liền ngoẹo đầu ngủ ngáy rần trời.
Không thể đọc sách ở một nơi vừa thiếu ánh sáng và đầy tiếng ồn như vậy, Stephen Đoàn bèn lên thư phòng ngồi.
Cửa hông dẫn lên nhà trên đã bị khóa trái.
Nếu muốn đi lên nhà trên chỉ còn có nước bước qua gian Chánh Điện, nhưng cũng chưa chắc được vì có thể cửa hông ở trển cũng đã bị khóa.
Vừa đẩy cửa thư phòng, Stephen Đoàn vừa chơi trò chơi tìm lối lên nhà trên trong trí tưởng tượng.
Ban nãy có mấy vị Tăng sĩ nên Stephen Đoàn không để tâm quan sát thư phòng kỹ càng.
Giờ đây anh mới thấy chỗ này chật hơn anh tưởng, có lẽ do quá nhiều kệ sách và bộ bàn – ghế mây kềnh càng áng ngữ.
Anh với tay kéo sợi dây để bật đèn trần.
Ánh sáng trắng ấm phủ bóng lên gian phòng, soi rõ từng ngóc ngách một; hình như độ chiếu sáng bị dư một xíu, nên giảm bớt thì ít hại mắt hơn.
Anh ngồi xuống bệ cửa sổ, rồi dựa lưng vào tường và duỗi thẳng hai chân cho đỡ mỏi.
Nội dung tác phẩm đã khiến Stephen Đoàn bàng hoàng.
Anh gấp sách lại để tâm bình lặng trước khi đọc nốt nửa cuốn sau.
Cuốn sách này được viết dựa trên góc nhìn của tác giả về tầm ảnh hưởng của Kitô Giáo lên cuộc chiến Nam Hàn – Bắc Hàn và công luận thế giới đối với Đại Hàn thời đó.
– Sadhu.
– À…!Thầy…
– Tên thật của tôi là Thảo.
Gọi tôi là Thảo được rồi, anh Mỹ.
– Dạ…
Trì Thương kéo dây tắt đèn.
Ánh sáng leo lét của mảnh trăng gần Rằm soi tỏ một góc phòng.
– Anh đã từng rung động với cô gái tên Xuân…!Nhưng thật may, anh đã định Tâm kịp…
Stephen Đoàn cúi đầu.
– Tôi chưa từng yêu ai nên chẳng hiểu nổi tại sao con người lại khổ sở khi phải lòng một ai đó.
Người có khiếu sáng tác thì mượn Nghệ Thuật làm nền để nói lên nội tâm dằn xé.
Người không có miếng nào thì mượn Nghệ Thuật của kẻ khác để giãi bày sầu tương tư của mình.
Trì Thương ngồi xuống cái băng ghế mây, rồi đan hai tay vào nhau và đặt lên đùi.
– Anh Hai tôi yêu cô gái đó tới nỗi đã bỏ công đi học Giáo lý để làm vui lòng người yêu.
Rồi bẽ bàng nhận ra người mà ảnh yêu lại chưa từng yêu ảnh, mà lại yêu tôi.
– Tôi không hiểu…
– Tôi và cô gái đó có quen biết hồi nhỏ.
Nói cụ thể hơn là tôi đã cứu mạng cổ, không có gì trả ơn nên cổ cho tôi sợi dây chuyền Thánh Giá mà bà Sơ trong xứ từng cho cổ.
Ai ngờ kể từ hôm đó, cổ yêu tôi luôn.
Về phần mình, tôi xuất gia, sợi dây chuyền cổ tặng tôi để lại.
Anh Hai tôi nghĩ đây là kỷ vật của em trai nên đeo nó, đâm ra sau này cổ hiểu lầm ảnh là tôi.
Bây giờ ảnh giận tôi, đau khổ vì cổ, một cách lãng giang.
– Tôi ít được ai mến hay thích kết giao vì khuôn mặt xấu xí của mình.
Ngay cả Cha Thành là người đã cưu mang tôi, cũng không thể khen tôi dễ thương được một lần.
Cứ hễ đóng nhạc kịch là tôi bị giao vai Judas, Caesar hay quân lính vây bắt Chúa Jesus; chẳng ai biết việc đó khiến một đứa con nít bị tổn thương cỡ nào, họ chỉ nghĩ đơn thuần là khuôn mặt tôi rất hợp vai thôi.
Cho tới năm đó, tôi gặp một đứa nhỏ mang tên Thánh Emmanuel, nó là đứa duy nhứt chia bánh kẹo và mỗi sáng gọi tôi đi ăn chung.
Rồi tia sáng nhỏ nhoi đó cũng tắt lịm, vì hiềm khích của cha nó mà nó đã bị người ta mưu sát vào năm mười bốn tuổi, để rồi nó cải sang Tin Lành và lớn lên trở thành Mục sư.
– Khuôn mặt của Đề Bà Đạt Đa rất đẹp, vì ông là anh em với tôn giả Ananda và A-Na-Luật.
Nhưng sau những năm tháng ăn ở thất đức và tính kế hại người, bao nhiêu quý tướng trên khuôn mặt ông đều bị biến cải và mất đi.
Xin nói rõ hơn, tôn giả Ananda là một người tuyệt sắc, đẹp thanh khiết như một đóa sen, thành ra về mặt “di truyền học” thì ít nhiều gì Đề Bà Đạt Đa cũng sẽ na ná em trai mình.
– Tôi còn nhớ một câu chuyện ngụ ngôn như vầy: Có một ông họa sĩ được giao nhiệm vụ vẽ Chúa Jesus cho nhà thờ, ông bèn đi khắp nơi để tìm một hình mẫu đặng nương vô họa hình Chúa.
May mắn thay, chỉ trong vòng mấy tháng, ông đã kiếm được một người thanh niên có dung mạo hết sức thánh thiện và đẹp tinh khôi.
Bức tranh đó đã giúp cả ông và chàng trai thành nhân vật nổi tiếng trên thế giới.
Bẵng đi một thời gian, chừng khoảng vài năm sau, nhà thờ cần một bức tranh vẽ Quỷ Satan, ông nghĩ nên ghé nhà tù để tìm hình mẫu ước lượng.
Chưa quá một ngày mà ác ma đã đầy rẫy mắt ông, ai nấy đều mang khuôn mặt như hiện thân của loài ác linh nơi Hỏa Ngục, nhưng ông vẫn chưa hài lòng nên đã xin cai tù cho mình tới nơi biệt giam để kiếm mẫu ảnh.
Sau vài lượt ghé mắt vô khe hở của các cánh cửa tù, ông đã chọn được một người.
Bức tranh đó đã giúp tên tuổi của ông vụt sáng lần nữa; người ta tò mò không biết tù nhân đó là ai mà lại giống với Quỷ Satan đến vậy nên đã kéo nhau điều tra.
Và kết quả, cái người giống với Quỷ Satan đó hóa ra lại chính là người giống với Chúa Jesus năm xưa; sau khi trở thành nhân vật nổi tiếng, người đó đã không chống cự được cám dỗ của bạc tiền và danh sắc nên đã sa đọa và tự đẩy mình vào thảm cảnh như hiện nay.
– Sadhu…
Cơn buồn ngủ từ đâu kéo tới mà hai mắt của Stephen Đoàn díp lại, có ráng nhướng mấy cũng không mở to nổi.
Trước lúc dìu người Linh mục về phòng nghỉ lưng, Trì Thương xuống bếp rót cho anh ta một ly nước dâu tằm, mà má của chú mua tuốt trên Đà Lạt, cho anh ta giải khát.
…
Lối khoảng mười giờ rưỡi sáng, Stephen Đoàn mới thức dậy nổi.
Mình mẩy anh nhức từng đoạn, cơ hồ muốn gãy ra thành từng khúc nhỏ.
Anh vừa nuỗng vừa xây xẩm mặt mày, có lẽ là đã trúng gió do tắm đêm rồi.
– Sadhu.
Thủy Diệu bưng khay thức ăn và chén thuốc sắc lại gần Stephen Đoàn.
– Đi súc miệng đi Thầy, rồi hẵng lên đây ăn trưa và uống thuốc.
Stephen Đoàn che miệng, gật đầu.
Bên ngoài quang cảnh bừng sáng tới chói mắt.
Ánh nắng mặt trời trải dài trên mọi triền núi của vùng Thất Sơn.
Mây trời lơ thơ vài cụm.
Chim rừng thi nhau hót véo von.
Gió nhè nhẹ lay cây cành và vườn thuốc tươi tốt.
Chừng khoảng nửa tiếng sau, Stephen Đoàn hội ngộ với nhóm Tăng sĩ và Đinh Mạnh Hùng ở ngoài sau hè.
Dưới bóng mát của cây Sala, mọi người bắt đầu ăn cơm trưa; biết chàng Cha Phó không thể ăn nổi đồ ăn của mình nên nhóm Tăng sĩ đã cậy cư sĩ Đinh Mạnh Hùng mua giùm đồ ăn ngoài chợ, vậy là người cư sĩ bèn mua cho mình và anh bạn khác Đạo mỗi người một hộp cơm tấm Long Xuyên và một ly cà-phê đá hơi ngọt.
Trước lúc ăn, ai Đạo nào thì làm “Lễ” theo đạo nấy.
Thường thì hai bên sẽ đọc lớn lên, song trong hoàn cảnh này thì hai bên đều chọn cách đọc thầm trong đầu.
– Lạp xưởng này làm từ con gì vậy anh?
– Con bò.
Hay còn gọi là “Tung lò mò”.
Sợ Thầy ăn không đủ no nên tôi mua thêm một cây, hai cái trứng cút chiên và một phần cơm không.
Stephen Đoàn bật cười:
– Rất cảm ơn anh.
Thủy Diệu nhắc:
– Nhớ uống thuốc nghen Thầy.
– Dạ.
Hoàng Kỳ rùng mình nhìn chén thuốc.
Hồi đó chú cũng đã từng bị uống một chén, đắng không thể tả, mà phải chi nó đắng ngon như cà-phê không nói, đằng này nó đắng ngằng như sình lầy vậy.
– Lớn xác vậy mà đệ còn sợ uống thuốc sắc.
– Châu Lợi lắc đầu nhìn Hoàng Kỳ.
– Đắng dữ lắm hả Thầy?
– Dạ.
– Vậy để tôi uống luôn cho rồi…
Nói đoạn, Stephen Đoàn bưng chén thuốc lên và ngửa cổ uống ực.
Anh chưa kịp há miệng phun ra, đã bị Thủy Diệu bóp mũi ép nuốt xuống.
Sau mấy tiếng ho sặc sụa, anh đã có thể nói lại được.
– Thuở trước, còn làm trong ngành Tình Báo, hễ ai bị thương không nuốt thuốc nổi chúng tôi đều phải viện đến cách này.
Một là bị sặc chết, còn hơn là chết từ từ trong đau đớn do vết thương mang lại.
– Quá khứ của Thầy…!nghe bất hảo thật!
– Phải.
Châu Lợi liếc mắt nhìn Thủy Diệu, rồi cúi mặt xuống ăn cơm tiếp.
– Tôi có một người bạn cũng bất hảo giống tôi, tên là William Junior Sanchez, hiện là một Đan sĩ bên Ý Đại Lợi.
Stephen Đoàn “À” lên một tiếng.
Rồi kể những mẩu chuyện vui ở Đan viện trên Đà Lạt.
Nghe xong, ai nấy cũng cười ồ.
Chưa đầy nửa tiếng mà chén thuốc đó đã có hiệu nghiệm.
Anh hết còn lâu lư, hoa mắt – chóng mặt và bợn dạ, đầu cũng bớt nằng nặng như đeo bị đá.
Duy chỉ hiềm một nỗi, miệng anh hơi nhân nhẩn đắng.
Qua giờ thọ thực, Phá Vân mời Stephen Đoàn tới thạch động để nói chuyện riêng.
Nhân tiện, để lấy chò lan của Thủy Diệu mà tặng chàng ta luôn.
Bên trong thạch động có tiếng nói ồn ào, chừng hai người lại gần thì âm thanh đó tắt lịm như cái truyền hình bị tắt tiếng.
Phá Vân chắp tay, “Bạch Thầy” một cách trỏng không, rồi đợi khoảng mươi, mười lăm phút sau, mới cất giọng mời Stephen Đoàn vô thạch động.
– Thưa Thầy, Thầy tìm tôi có chuyện chi không?
Stephen Đoàn trình bày vắn tắt rằng có một nữ diễn viên từng đóng cặp với Phá Vân trong một bộ phim hành động đã bị mất tích bí ẩn, thành ra anh tới đây để hỏi lần cuối mà Thầy gặp cổ là ở đâu và ra sao.
– Lần cuối à? Tôi không nhớ…!Nếu tôi ráng nhớ là tôi đang cố tình bịa đặt chi tiết và khai khống đó…
– Thầy ơi, làm ơn giúp tôi đi mà.
Phá Vân mượn điện thoại của Stephen Đoàn đặng mở Facebook cũ của mình cho chàng Linh mục tự kiểm tra.
Chú đã chặn hết bạn bè trước khi khóa nó một thời gian, rồi đổi tên và ảnh đại diện liền sau đó.
Stephen Đoàn ngồi xuống ghế nơi bàn đá coi xét.
Anh mở dòng thời gian 2016 để lấy mốc tra cứu dữ kiện.
Vừa làm anh vừa phì cười vì sự khác biệt giữa người Tăng sĩ trong quá khứ và ở thời điểm hiện tại quá lớn.
– A, có tin này được nè.
Stephen Đoàn mời Phá Vân lại đọc chung bảng tin ấy.
Cô diễn viên trẻ đẹp đó đã đính kèm tên chú và rất nhiều người bạn đồng nghiệp trong bài viết, “Quay xong rồi, he he.
Được anh yêu hứa chở đi xem nhà ở Quận Tư.” Anh bèn chia sẻ về Facebook của mình dưới dạng “Chỉ mình tôi”, rồi hỏi:
– Thầy có ăn tân gia không?
– À, cổ thì mua nhà được nhà rồi, nhưng tôi không được mời tham dự vì tin đồn tôi bị nhiễm HIV/S.
Lúc đó tôi đang ở dưới gầm cầu Chữ Y.
Stephen Đoàn ngỡ ngàng.
Tình đời đốn mạt xiết bao.
Lúc thấy Thụy Long là người nổi tiếng thì nhào vô làm bạn, tới chừng sa cơ thất thế lại coi như con hủi.
– Cảm ơn Thầy.
Xin phép Thầy cho tôi được “Đăng xuất” Facebook của Thầy.
Phá Vân chắp tay đáp:
– Ừm, xin Thầy cứ tự nhiên.
Kế, Châu Lợi có mặt.
Người huynh trưởng này mang theo giấy, bút để viết giấy ký gởi bưu điện chuyển phát nhanh chò lan tới Giáo xứ St.
Pio.
Nét chữ của ông rất đẹp, trông chẳng khác gì in ra trên máy tính; hỏi ra mới hay hồi còn sống, má ông đã rèn luyện cho các con viết chữ thật rõ ràng, ngay ngắn và sắc sảo, đây là cách luyện “Thư Pháp” và “Huấn Tâm” của ông và hai người em trai.
Trước lúc rời khỏi “Thất Sơn huyền bí”, Stephen Đoàn được nhóm cư sĩ chiêu đãi món bò nảy món núi Sam và gỏi sầu đâu.
Về phần mình, nguyên đoàn ăn chay để bù lại bữa tiệc mặn hôm qua.
…
Người chở anh ra bến xe vẫn là Trần Bảo Sơn.
Và “Gạc-đờ-co” mũm mĩm Đinh Mạnh Hùng.
Hai anh em đồng Đạo biếu Stephen Đoàn ba thùng bánh Kà-Tum và ba thùng đường thốt nốt, họ sẽ gởi qua đường bưu điện theo diện chuyển phát nhanh tới Giáo xứ Saint Pio giùm anh.
Stephen Đoàn run giọng hỏi:
– Nghe đâu bánh này Lễ – Tết mới có mà?
Trần Bảo Sơn cười hiền:
– À, đại gia đình của tôi đã làm riêng cho Thầy đó.
Chớ hổng phải mua hay đặt ngoài chợ đâu.
Stephen Đoàn chắp tay xá nhóm cư sĩ một cái, thay lời cảm tạ chân thành mà hiện giờ anh không thể nói ra vì quá đỗi xúc động.
Loại bánh này có vị trí rất thiêng liêng và trang trọng trong văn hóa người Cao Miên.
Đôi mắt Đinh Mạnh Hùng đã đỏ hoe.
Nhưng anh vẫn ráng hát ghẹo người bạn mới quen một câu:
– “…!Gặp mặt nhau đây, chốn này thề hẹn thủy chung sắt son…!Nam-Mô-Di-Bố-Phạ…”
– “Năm sau em gặp anh…!Xin anh hãy giữ bụng…” – Stephen Đoàn pha lửng lại.
Vài người nghe họ hát chế bài Dân ca Nam Bộ “Hữu duyên thiên lý ngộ (Ra Giêng anh cưới em)” thì ôm bụng cười.
Có lẽ không ưng hát chế, nên bác tài-xế bật bài “Ra Giêng anh cưới em” với phần song ca tuyệt hảo và ngọt ngào của Mạnh Đình và Như Quỳnh.
Sau lần vẫy tay cuối cùng, hai anh em cư sĩ lên xe về nhà.
Stephen Đoàn đứng ngóng theo cho tới khi chiếc xe ấy chỉ còn là một chấm màu nhỏ xíu, lúc này anh đã có mặt ở băng chót.
– Ngồi xuống đi áo đen ơi!
– Dạ.
Không biết ai là người đã nhắc nhở anh dễ thương như vậy nên anh cảm thấy tiếc nuối vì không được biết mặt.
Bác tài-xế đang ca nho nhỏ theo bài “Kỷ niệm nào buồn” của song ca Hà Thanh – Duy Khánh, một sáng tác của nhạc sĩ trước năm 75 Hoài An.
Theo như vài nguồn tin mà Stephen Đoàn từng nghe phong thanh, vì chức vụ Quận Công của cụ Nguyễn Văn Tường nên gia đình ông đã được dọn vô Cố Đô sống, nhưng do biến động thời cuộc nên ở chưa được bao lâu thì phải “quy cố hương”, tức trở về mảnh đất Quảng Trị; đây cũng là nơi sanh ra và lớn lên của người nghệ sĩ đa tài – đa nghệ của xứ Trung Kỳ.
Thành ra, trong mắt nhiều người, ông Duy Khánh cũng là một người con của “Huế thương”, dù rằng tổ tiên và tới đời ông đều sống ở Quảng Trị.
Chiếc xe đã đã vượt qua kinh Vĩnh Tế.
Núi Sam sắp ở lại trong miền ký ức.
Năm non bảy núi diễm tuyệt như vậy mà Stephen Đoàn chỉ có thể ở lại ba ngày, không kịp ở lại Châu Đốc chơi hay ghé những vùng núi khác của Thất Sơn hùng vĩ, uy nghi và thâm u đáng kính.
Mong rằng sẽ có dịp anh được ở lại nửa tháng để du ngoạn cho thỏa chí tang bồng.
Ngồi một hồi, gió thổi hiu hiu ru Stephen Đoàn vào cơn mộng mị.
Chừng giựt mình tỉnh lại bởi bàn tay lay lấy lay để của chú lơ-xe người Chàm, Stephen Đoàn mới hay mình đã tới bến xe gần Đồng Tháp.
– Áo đen ngủ dzậy không sợ bị mất đồ sao?
A, cái giọng dễ thương hồi nãy đây mà.
Stephen Đoàn được chú lơ-xe có nước da màu bánh mật kéo giùm một cái va-li để xuống xe cho mau.
– Đi vệ sinh hôn? Đặng tui biết mà giữ hành lý giùm cho?
– Dạ, rất cảm ơn anh, anh…
– Đi lẹ đi cha!
Sau khi đi tiểu xong, Stephen Đoàn hấp tấp trở ra, anh không quên mua biếu chú lơ-xe có giọng nói dễ thương và bác tài-xế mê âm nhạc mỗi người một ly nước.
Ban nãy, thím chủ quán tiết lộ cái thằng Chăm đó ghiền cà-phê sữa đá dữ lắm, con mua cà-phê đen nó buồn đó; vậy là anh lấy mấy đồng tiền còm cỏi của mình mua luôn một ly cỡ nửa lít.
– Trời đất ơi, mua ly gì bự chà bá lửa vậy? – Bác tài-xế làm bộ càm ràm mà cái miệng cười vinh râu.
Người lơ-xe tủm tỉm cười, rồi nói lời cảm ơn bằng tiếng Chăm rồi thuật lại bằng tiếng Việt.
– À, thím hồi nãy…
– Bả hả? Má vợ tui đó.
– Thiệt hôn?
Người lơ-xe giơ ngón trỏ đeo cái nhẫn vàng mỏng vánh còn hơn thợ phết nhũ vàng lên chữ của bức hoành phi.
– Chiếc mắc bỏ ở nhà ồi…!Đeo nó chặt tay sao.
Stephen Đoàn bật cười.
Rồi nói lời chúc tốt lành trước khi lên bến xe về miền “Sen thơm” Đồng Tháp.
Nhưng anh chưa kịp đi thì đã bị hai cậu – cháu níu lại.
Hỏi ra mới hay họ muốn giúp anh tìm chiếc xe đò “sạch”.
Chiếc xe mà hai cậu – cháu xe đò khuyên đi nằm cách đây khoảng một trăm mét.
Người lơ-xe hết đời độc thân lại kéo giùm anh cái va-li ban nãy, vừa đi vừa hỏi han tôn giáo của anh là gì.
Đương nhiên anh ta theo Đạo Hồi, nhưng vợ anh ta theo Đạo Phật, hai bên thương nhau hết lòng hết dạ nên về vấn đề đức tin bên nào cũng tôn trọng đối phương hết.
Anh cử ăn thịt heo nên trong mâm cơm không bao giờ vợ nấu món này, nếu thèm ăn thịt heo thì cổ sẽ ra ngoài ăn một mình hoặc về nhà má nấu nướng.
Tháng nào là tháng Ramadan trong Đạo Hồi, vợ anh cũng sẽ ráng kiêng khem theo; và ngược lại, tới đầu tháng, ngày Rằm và cuối tháng, anh sẽ ăn chay giữ giới cùng vợ.
Người lái-xe cũng là một người Chăm, nhưng nước da trắng như bông bưởi và mái tóc đen nhánh xoăn tít, trên người xức dầu thơm tỏa mùi hương rất dễ chịu.
Đặc biệt, đôi mắt và cặp lông mày anh ta sắc sảo như vẽ.
Trông anh ta giống Ấn hơn là Chăm.
– Thằng này đắt ghệ lắm nghen Thầy.
– Dạ, bô trai quá chèn mà.
Người lái-xe nghe khen cười tít mắt, để lộ hàm răng trắng ởn đều như hột lựu.
Mà Trời thường “ghen ghét hồng nhan” nên đi được nửa chừng xe bất thần chết máy.
Cũng may trên xe lúc này đang ế nên hai người chạy xe đò bớt bị chửi.
Họ đã liên lạc với mấy thằng bạn đồng nghiệp chạy tới đây rước, được một thằng biểu thuận đường nên sẽ tới “hốt” giùm.
Người lái-xe cười gượng hỏi:
– Thầy có lên xe mới không?
– Dạ, sao tự nhiên tôi chóng mặt quá, nên chắc sẽ kiếm nhà trọ nào đó ngủ lại qua một đêm cho khỏe.
Người lơ-xe nhìn chốn đồng không mông quạnh một đỗi, rồi ngó xuống đống hành lý của người Linh mục trẻ:
– Thôi, để tui đi chung cho chắc ăn, xách đống đồ nó tưởng nó của nó giết thấy mẹ luôn.
Stephen Đoàn chắp tay thưa:
– Dạ, rất cảm ơn anh.
Người lái-xe bực bội hỏi thằng bạn:
– Sáng mày cúng chưa mà sao nay…!đ* má…!nó xui?
Người lơ-xe trả lời mà như quát vô mặt:
– Tao cúng rồi đó chớ?
Một bà già nhát gan vội vàng nói đỡ:
– Nhiều khi nó khiến mình dừng lại để thoát nạn thì sao hai cậu?
Biết bà cụ sợ họ ẩu đả nên cả hai ráng dằn cơn nóng xuống bụng.
Stephen Đoàn cũng cất lời can ngăn.
Người lơ-xe nhảy xuống xe cái đùng.
Rồi giựt lấy va-li kéo đi xềnh xệch.
Đằng sau lưng anh, Stephen Đoàn đang bán sống bán chết đuổi theo.
Đi đâu cũng thấy “đèn đỏ”, “đèn mờ”, cùng những tiếng mời mọc nhục tình.
Người lơ-xe thấy ái ngại thay cho chàng Linh mục.
Stephen Đoàn cúi gằm mặt mà đi, không ngẩng lên hay quay đầu nhìn xung quanh; anh đã quen với nến thơm, rượu Lễ, dáng hình bác ái, mỹ lệ của Nữ Vương Hòa Bình và những hồi chuông thanh thoát nơi Giáo đường, nên cảm thấy lợm giọng với mùi son phấn, dầu thơm, bia bọt trần thế và những lời tự tình trái cấm kia.
Một cô gái điếm thấy hình hài mực thước, đạo mạo của Stephen Đoàn thì phát sinh lòng ái mộ và kính mến mà lại gần chỉ chỗ trọ đàng hoàng.
Ban đầu, anh không định bắt chuyện, nhưng thấy cô đã khoác thêm áo lạnh che thân và nói năng đoan trang nên chấp thuận mở lòng đón nhận thành ý của cô.
Cũng may chỗ đó không quá xa, chủ nhà vừa hay là Giáo dân nên anh có thể ở nhờ một đêm mà không mất tiền.
Trước khi đi, anh gởi cho cô một trăm đồng, và dịu dàng khuyên, “Xin cô hãy nghe lời tôi mà đêm nay đừng đi khách.
Hãy để trái tim cô được trinh bạch đêm nay.” Cô gái điếm đó phá lên cười, rồi cầm tiền của anh mà đi một hơi vô nhà nghỉ.
Đôi bờ vai cô rung rung, chẳng biết cổ đang khóc hay đang cười, hay là đang vừa khóc vừa cười?
Rời khỏi đó được đâu ba, bốn chục mét, người lơ-xe mới nói nhỏ vào tai Stephen Đoàn rằng:
– Con nhỏ đó “bạo” lắm mà sao gặp anh tự nhiên hiền như học trò vậy?
Stephen Đoàn không biết đối đáp sao, chỉ nhếch môi cười, một điệu cười buồn rượi hơn cuộc đời bán phấn buôn hương của cô gái điếm giỏi chiều khách.
Rồi anh khe khẽ hát bài “Ai nói yêu em đêm nay?” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh:
“Ai nói yêu em đêm nay?
Ai nói yêu em đêm mai?
Ai nói yêu em sau này?
Son phấn nào giết ngây thơ?
Ánh đèn nào màu đơn côi?
Lệ sao nhiều hơn mưa lũ…”
Rồi ông Cha trẻ nói như đang đánh trống lảng:
– Tôi thích nghe song ca Tuấn Vũ – Ngọc Lan, Nhật Trường – Thanh Lan, Nhật Trường – Ngọc Lan hay hát đơn như Nhật Trường, Duy Quang, Ngọc Lan lắm.
Người lơ-xe mời Stephen Đoàn hát tiếp.
Tiếng ca của anh đưa người lơ-xe về miền thơ ấu mà anh muốn quên, nơi có bà má làm gái và những đòn roi của mấy ông cha dượng, rồi những ngày ngồi trước cổng trường dòm tụi con nít học hành trong trỏng mà ứa nước mắt tủi phận.
– Xin lỗi…!Tự nhiên tôi khóc…!Công nhận Thầy ca hay thiệt…
Tới đầu hẻm dẫn vô nhà Giáo dân miệt Đồng Tháp, cơn xúc động của người lơ-xe vẫn chưa ngưng, anh ta hãy còn rưng rưng và sụt sùi.
Chừng tới ngôi nhà khang trang mà cô gái điếm đã chỉ, người lơ-xe mới nín.
Sau vài phút ngần ngừ, Stephen Đoàn bấm chuông cửa.
Có tiếng loảng xoảng như vòng kim loại va vô nhau.
Một người đàn bà son phấn sực nức, tay đeo vàng cả chống đứng trong nhà ngó ra ngoài cổng, rồi hỏi lớn:
– Ai ở đó vậy?
– Dạ, con là một Linh mục ở Giáo xứ St.
Pio, vì xe đò bị hư nên xin tá túc một đêm.
Bà ta sai con ở ra lấy thẻ của Stephen Đoàn.
Nó chạy như bay ra ngoài cổng rồi sang sảng hỏi thẻ mà anh được cấp.
Anh đưa liền cho nó.
Nó lại ba chân bốn cẳng chạy về trình chủ.
Người Giáo dân đó đứng ở trong nhà nói vọng ra:
– Cậu chờ tụi tui một chút.
Sau một hồi tra cứu tài liệu của Giáo xứ Saint Pio và đọc xong bức thơ mà Đức Cha Gabriel Đinh Thái gởi xuống để nói rõ việc sắc phong Linh mục quản xứ, người Giáo dân đó hớt hải mở cửa.
Rồi phân bua:
– Mong Cha thông cảm cho gia đình con.
Lóng rày trộm cướp dữ thần.
Rồi bà giựt mình khi thấy khuôn mặt phản diện của Stephen Đoàn.
Công nhận ở ngoài đời hay trong hình đều xấu như nhau, không khác một chút xíu nào.
Và bà thêm một lần ngần ngại khi nhìn dáng vẻ lôi thôi cùng cái sẹo nơi cổ của người lơ-xe.
Bà mím miệng hỏi:
– Cậu này ở nhờ…
– Không, tôi đưa Thầy đi để phòng trộm cướp thôi, xong việc tôi về liền.
Bà thở phào nhẹ nhõm.
Stephen Đoàn viện cớ muốn tới thăm Cha xứ nên không thể nán lại qua đêm.
Chỉ chờ có vậy, người Giáo dân đó rối rít xin lỗi và kêu con ở đóng sầm cửa lại.
Stephen Đoàn sóng vai người lơ-xe ra đầu hẻm đợi taxi mà anh đã đặt qua Uber để tới khách sạn gần đây.
– Mặt tôi xấu quá nên không mấy ai thiện cảm…!Anh cười chi anh?
– Con nhỏ kia nhìn lầm người nên đời nó mới khổ như vầy.
Vừa hay người lái-xe thông báo xe đã sửa xong, nên sẽ quành tới đón hai người.
Người lơ-xe khuyên Stephen Đoàn nên lên xe đò ngồi đợi taxi cho an toàn, chàng ta bèn gật đầu ưng thuận.
Nhưng ý định chưa thành mà chiếc xe Toyota Corolla đã có mặt.
Người tài-xế taxi kiếm cơm ban đêm cũng run lắm, chừng thấy là Linh mục thì đỡ lo mấy phần.
Anh nhanh nhẹn cùng người lơ-xe đò đặt hành lý vô cốp.
– Khoan chạy đã.
– Sao Cha?
– Bật đồng hồ tính giờ đi.
Chừng nào anh này có người đón thì hãy cho xe chạy.
Trời nổi gió chuyển mưa rồi.
– Trời, Cha chịu nổi hôn Cha? Lỡ đâu phải chờ mấy tiếng thì sao?
– Tôi trả phụ ảnh.
– Người lơ-xe vung tay quả quyết.
Người tài-xế trở về ghế của mình:
– Ờ, chịu nổi thì chơi hà.
Nhưng người tài-xế taxi không bật đồng hồ liền, mà đợi chừng nửa tiếng sau mới bấm.
Quả nhiên, trời sa mưa dông, gió giựt đùng đùng như muốn cuốn phăng nóc nhà và bứng hết cột đèn, hàng cây ven đường.
Rác rưởi vương lại nơi cống rãnh cũng thi nhau bay tán loạn.
Người lái-xe báo sẽ tới rước trễ hơn một tiếng vì sợ bị lật xe.
Lơ-xe và người khách lỡ đường nhìn nhau cười mà như mếu.
– Cha và anh đây lạnh không? Tôi bật máy sưởi.
Coi kìa, coi kìa, môi hai người tái xanh y chang bò tái chanh…!Nhắc tới thèm quá, chắc mai ra quán ăn mới được.
Rồi, người tài-xế hỏi người lơ-xe về chuyện chạy xe đường dài.
Anh ta than độ rày xăng tăng giá cao ngất ngưỡng, giá nước giải nhiệt và nhớt cũng leo thang, khách thì thà rã giò chớ hổng chịu ngồi xe máy lạnh mát rượi vì ngán tiền.
Hai người bàn luận sôi nổi về đời “đưa người đi muôn phương” của mình.
Ngoài trời mưa càng lúc càng nặng hạt, gia đình của anh tài-xế liên tục gọi điện và nhắn tin hỏi thăm coi anh có sao không; những lúc đó người lơ-xe nhìn anh ta đầy thèm thuồng và ganh-tị, bởi chẳng có ai là người thân để anh được nhận những lời dịu ngọt và êm ấm giống vầy.
Stephen Đoàn ngồi lặng thinh nghe nhạc.
Tiếng ca của Ngọc Lan trong bài “Tình đến rồi đi”, do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ bài hát “Il pleut sur Bruxeller” của đôi nhạc sĩ Jeft Barnel – Michel Jouveaux, gợi cho anh nhớ những năm tháng đi biểu diễn harmonica kiếm sống.
Ngồi đợi gần hơn hai tiếng, mưa mới bớt dữ dội, chỉ còn lắc rắc một chút.
Gió cũng ̣đã xuôi xị cơn thịnh nộ vài phần.
Qua cơn dông, rác rến và lá rụng nằm khắp mặt đường; thậm chí còn bay tắp vào nhà dân.
Từ đàng xa, ánh đèn pha sáng lóa mắt của chiếc xe đò phả thẳng vô đuôi xe taxi.
Hai người bạn thân làm hòa rất mau.
Người lái-xe cũng trả bớt phần tiền cho Stephen Đoàn, coi như là tiền bồi thường thiệt hại vì đã làm tổn thất thời gian của anh.
Qua cung cách nói chuyện của Stephen Đoàn, anh tài-xế yên tâm mời ông Cha về nhà mình ngủ.
Sẵn, ăn cơm khuya chung cho vui.
Stephen Đoàn nhìn lên hình Ông Phật Di-Lặc bằng cẩm thạch treo tòn ten nơi kiếng chiếu hậu, miệng nở nụ cười suy tư.
Ngôi nhà của anh tài-xế nằm đối diện con rạch xâm xấp nước và đầy cá – tôm.
Con lộ miệt vườn thật khó đi, lại vào ban đêm nên càng khó đi tợn, nhưng coi mòi anh ta lái xe ngon ơ.
Sau vài lần bóp kèn “Tin”, “Tin”, cổng rào màu nhũ vàng chạm hình Lưỡng Long Tranh Châu mới mở ra.
– Mồ tổ cha bây! Sao giờ này mới dìa hả? Í, Thầy – Bà nào đây?
– Ngoại, đây là Thầy Stephen Đoàn Ngọc Mỹ, một Linh mục Công Giáo.
– Mèn đét ơi, bây ăn bận ngộ ghê hôn…!Thôi, xuống đây ăn cơm với ngoại với gia đình ngoại.
Vẫn là cái nhà bếp xưa cũ, nhưng máy móc tân thời đã thay thế máy móc cổ lỗ sĩ để làm nhẹ bớt công việc cho các bà nội trợ.
Một bộ bàn ăn bằng tre mười hai chỗ ngồi được kê ở góc cây cột cái bên trái, trên trần gắn đèn lồng có chụp đan bằng lục bình, sẽ là nơi ăn uống sắp tới của Stephen Đoàn và anh tài-xế.
Thấy đồ ăn còn ít quá nên ngoại chép miệng thở dài, rồi lịnh cho hai thằng cháu đi tắm bởi ngoại còn phải nấu vài món cho họ ăn.
– Má tính nấu gì má?
Ngoại nhìn con gái cười hiền:
– Con bỏ con gà vô nồi áp suất đặng nấu canh cho hai đứa nó.
– Dạ.
– Cái thằng này…!Có khách tới chơi mà hổng báo một tiếng…!Tao cho tụi bây đói meo râu luôn…
Con gái của ngoại nhìn má của bà mà lắc đầu cười xòa.
Cũng vì lần hiếu khách đó mà thằng con bà không dám đưa người lỡ đường về nhà ngủ nhờ, không biết ông Cha này đã làm gì mà vực dậy lòng tin tha nhân nơi con bà vậy cà?
Ước khoảng một tiếng sau, cơm – canh đã sửa soạn xong.
Hai con người vừa lạnh vừa đói run nên ăn như hùm như hổ, đương nhiên dẫu có đói cỡ nào Stephen Đoàn cũng không quên làm Lễ trước khi dùng bữa.
Ngoại ngồi trên bộ ngựa mà vừa coi cải lương vừa lâu lâu quay qua nhìn hai thằng cháu, nụ cười móm mém phúc hậu vô ngần.
Cũng trên bộ ngựa, con gái bà đang dỗ cháu ngoại mới lọt lòng được vài tháng, nó là con của anh Hai của thằng Ba ta-xi, hiện thời vợ chồng nó đã lên phòng rồi.
Chừng mười hai giờ khuya, bữa cơm mới xong.
Ngồi coi truyền hình và tán dóc với gia đình anh tài-xế khoảng đâu nửa tiếng nữa, Stephen xin phép về phòng ngủ.
Ngoại chắp tay sau lưng đi theo anh lên lầu, căn phòng đó của con Tư nhưng nó đã đi du học bên Mỹ nên đâm ra bỏ trống, anh nghe phòng của phái nữ thì tính xuống đất nằm ngủ.
Chắc hiểu được nỗi lòng anh, vả lại cũng sợ cháu mình “mất Duyên” nên ngoại đưa khách của thằng Ba vô phòng của đứa chắt mới sanh nghỉ lưng.
– Con chịu khó trải nệm ra ngủ nghen con?
Stephen Đoàn chắp tay trước bụng mà cúi đầu thưa:
– Dạ, con cảm ơn ngoại.
Trước lúc đi ngủ, Stephen Đoàn lần chuỗi Mân Côi và hát bài Thánh Ca “Cảm ơn Mẹ – Cảm tạ Chúa” của Linh mục Vũ Hùng Tôn, mà anh từng nghe qua giọng ca của ca sĩ hải ngoại Như Mai:
“…!Xin vâng lời con hứa từ đây
Tuân theo lời Chúa dạy
Đi rao truyền lời chân lý
Con đây nguyện dâng hiến xác thân
Cho dù con bất tài
Vẫn quyết mình theo Cha…”
…
Thay vì để cho anh tài-xế chở ra bến xe, Stephen Đoàn mạo hiểm đi đường sông một chuyến.
Dọc theo con rạch đầy rẫy bần, Stephen Đoàn nhìn thấy vô số ghe, xuồng, tác-ráng và đò máy, nhưng tự nhiên anh không ưng ai cả.
Rồi hốt nhiên, anh trông thấy một người y hệt Tăng sĩ Trì Thương đang đứng ở bụi bần trổ bông đặc rật nhất trong đám.
Anh bèn theo chân anh ta.
Tiếng ca của Hương Lan trong bài “Chuyện tình mùa nước nổi” của nhạc sĩ Thành Huỳnh phát ra từ chiếc tác-ráng chở khóm.
Thấy vỏ lãi còn trống, Stephen Đoàn bèn bắc tay làm loa mà ngỏ ý xin quá giang.
Chú Chín Cảo bắc tay làm loa lại:
– Cho đi thì được.
Chỉ hiềm Thầy đây có biết bơi không?
– Dạ biết.
– Biết thì nhảy xuống đây.
Chú Thương sợ ông Cha nhào đầu xuống sông nên bước ra dìu xuống vỏ lãi.
Ông Chín Cảo thấy tác-ráng đảo qua đảo lại như sàng gạo thì la um trời, rồi bò từ từ ra mạn mà sắp lại khóm cho cân bằng và rộng chỗ.
– Còn hành lý hả Thầy?
Stephen Đoàn ngại ngần chỉ vào hai cái va-li trên bờ.
– Mày ngồi im, để tao lên lấy cho.
Cái thân như bồ tượng mà cứ đi tới đi lui, mấy trái khóm chưa rớt mà trái tim tao rớt ra rồi.
Ông Chín Cảo biểu thằng cháu để cái va-li bự ở tuốt sau vỏ lãi, rồi hẵng để cái va-li nhỏ hơn xuống.
Thấy tác-ráng đã bớt chòng chành, ông mới dò dẫm trở về đơn vị cũ.
Bấy giờ Stephen Đoàn mới bắt đầu run.
Chiếc vỏ lãi lao như tên bắn trên mặt sông đùng đục bởi màu phù sa và rác thải.
Ra tới sông cái, bốn bề minh mông sóng nước, đã vậy chung quanh chẳng có lấy một bóng phà – xuồng – ghe – thuyền – đò – vỏ lãi – bo-bo nên trông càng bơ vơ và trơ trọi.
– Sao tới sông cái mà vắng hoe vậy ông? – Stephen Đoàn ôm chật cái ba-lô nặng trĩu vào lòng cho bớt sợ.
Ông Chín Cảo ngó bóng mây xám xịt đằng Đông, rồi tặc lưỡi than:
– Trời sắp nổi dông nên bà con kiếm chỗ đậu hết rồi.
Có ông ỷ y nên mới đi vào vắt này.
Chú Thương trề môi phán:
– Thêm con bị khùng nên mới bang bang theo ông.
– Con cũng giống anh này nữa.
Ông Chín Cảo vừa ký đầu thằng cháu vừa trừng mắt hỏi:
– Hai đứa bây là tri âm – tri kỷ nhưng giấu tao phải hôn? “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” quá ha?
Gió chướng từ đâu thổi lên vù vù như muốn xô lật chiếc tác-ráng.
Ông Chín Cảo buông xuống một câu chửi thề, rồi điều khiển bánh lái để giúp vỏ lãi cân bằng trở lại.
Stephen Đoàn thầm nghĩ nếu anh sinh ra trong thời chiến chắc sẽ “cáo biệt” binh chủng Hải Quân.
– Mày mà bị gì chắc mợ Hai chửi tao điếc lỗ tai luôn.
Bả cưng mày với thằng Út còn hơn trứng mỏng.
Nhớ có lần mày đêm hôm bị sốt phát ban, bả dám bơi xuồng qua nhà kêu cậu Tư lại nhà gấp.
Mưa bắt đầu nhỏ hột.
Mặt sông y hệt cái khuôn bánh đang sôi bị xăm lỗ chỗ.
Sóng nước cứ chực xô đẩy cái vỏ lãi vô mấy bụi bần trổ bông trắng ngần.
Đằng Đông sét rạch nát một mảng trời đen kịt, những cái rễ điện đó chĩa những vằn xanh, lằn trắng xuống cánh đồng chưa gieo mạ.
Lác đác bóng dáng mấy đứa con nít quỷ đứng chờ mưa lớn để dầm mưa cho thỏa; có tiếng nạt biểu “Đi dzô” của một bà má tuổi đời mới chớm ba mươi, mới qua hàng ba mà đã có hai mặt con, một đứa đi phá làng phá xóm và đứa kia hãy còn nương nhờ bầu sữa mẹ.
Ông Chín Cảo vui miệng kể cho thằng cháu và ông Cha trẻ nghe một câu chuyện có thật xảy ra ở đất Long An, số là như vầy: Có hai má con kia sống bằng nghề mần ruộng, cuộc sống tuy không giàu sang song cũng không tới nỗi đói, nhưng ngặt nỗi đứa con của bả rất mê đá gà.
Một hôm nọ, đứa con đi vắng, bả mới thay nó trông con gà đá.
Dè đâu, con gà trở chứng, nó nhảy lên mâm cơm mà đập cánh ầm ĩ.
Sợ nó làm dơ mâm cơm, bả mới lấy dép phang hù cho nó sợ.
Thiệt không may, chiếc dép phang gãy cổ nó.
Không biết làm sao, bả đành để đại xác nó dưới chưn bàn, rồi sắp lại mâm cơm và ngồi chờ con trai dìa.
Chừng xế trưa, con trai bả về, thấy con gà cưng nằm chết ngắt thì phừng phừng lửa giận hỏi nguyên do.
Bả mới thiệt thà kể nguyên cớ, rồi biểu chuyện đã lỡ rồi, thôi để mốt má đền cho con khác.
Thằng cha đó nghe xong, liền xông tới đánh bả túi bụi.
Bả sợ quá, mới ù té chạy.
Thằng cha đó chụp cây rựa rượt theo.
Hai má con chạy hết mấy bờ đất.
Một hồi chồn chân mỏi gối, bả mất đà quỵ té bên bờ ruộng nhà người ta.
Thằng cha đó liền vung rựa lên…!Và rồi, trời đang quang, mây đang tạnh, mà hốt nhiên một tia sét nã xuống người đứa con bất hiếu, khiến hắn bị trời trồng tại chỗ và giúp người má thoát chết trong gang tấc.
Nhưng hắn không chết liền mà nằm quằn quại trên giường bịnh gần một tuần mới tắt thở.
Kỳ lạ thay, hễ chôn cất hắn như người bình thường là gặp chuyện cản trở, nên gia đình đành phải chôn đứng.
Mộ của hắn xây cao như cái tháp nhỏ, dân địa phương thuở xưa hay gọi nó là “Mộ bất hiếu”.
Trải qua bao cuộc bể dâu, cái mộ của hắn giờ nằm ven khúc đường chạy lên Sài Gòn.
Đã lâu ông không lên thăm nên không biết nó còn hay là không.
Chỉ còn cách thị xã Cao Lãnh khoảng đâu hai cây số, nên ông Chín Cảo bấm bụng chạy tiếp.
Ba người đội mưa mà đi.
Hồi trời quang – nắng ráo, sông cái trông dễ thương vô ngần; bây giờ nhìn nó chẳng khác chi Thái Bình Dương trùng trùng nguy hiểm.
– Chết mẹ lục bình bây ơi! Đ* má còn ngồi đực mặt ra nữa, cầm lấy cây dầm khua nó đi chỗ khác đi mày!
Đám lục bình mà mắc vô động cơ có nước Trời cứu.
Gặp lúc mưa bão nên dễ sơ sẩy lật vỏ lãi hơn ngày thường.
Tự nhiên Stephen Đoàn nhớ lại hình ảnh người chết trôi mà anh đã cùng mấy đứa bạn miệt vườn lén đi coi, rồi lại nhớ tiếng quở trách của người mẹ quá cố mỗi bận bị bà phát hiện.
Đám lục bình bị cây dầm của chú Thương hất dạt ra xa.
Nó lê tấm thân xanh lè đi kiếm nạn nhân khác.
Dáng hình của nó trông mắt họ giờ đây hệt như ma-da.
Chú Thương mở “Liên khúc Tình Yêu 2” do tam ca Ngọc Lan – Kiều Nga – Ngọc Hương biểu diễn lên nghe cho đỡ sầu đời.
– Ai viết lời Việt cho bài “Đêm vui” vậy mày?
– Dạ, là nhạc sĩ Anh Bằng, bài này soạn lời dựa trên nội dung bài “Sway” của nhạc sĩ Norman Gimbel.
Giai điệu gốc của hai bản trên thuộc về bài “Quién séra” của đôi tác giả Mễ Tây Cơ Luis Demetrio – Pablo Beltrán Ruiz.
Stephen Đoàn bổ sung:
– Còn hai lời Việt khác nữa.
Một của nhạc sĩ Vũ Xuân Hùng, mang tên “Ai sẽ là em?”, có ca sĩ kiêm vũ sư Nguyễn Hưng trình bày khá hay; và hai là “Bài Tango tình nhân” của nhạc sĩ Lê Đức Long, nam ca sĩ hải ngoại Đinh Ngọc hát cũng được.
Cầu vồng hé lộ ở đằng Tây, sẽ chẳng mấy chốc mà ở đó sẽ có nguyên cái thật lớn và rực rỡ.
Trời đã quang dần.
Nắng trưa xuyên qua màn mây dày đen xám, làm nét mặt con sông cái trở nên hiền hòa như xưa.
Có tiếng chim hiền líu lo trên không trung, bình yên đã về với họ rồi.
– Thầy đây đi xe gì về Kiến Hòa? – Chú Chín Cảo vừa nói vừa quấn thuốc rê.
– Dạ, con đi xe đò về Kiến Hòa.
– Đi ăn cái gì lót lòng với tụi tôi cái đã rồi hẵng dìa xứ dừa.
Ông Chín Cảo đưa thằng cháu và ông Cha trẻ tới một quán hủ tíu Sa Đéc nằm ở thị xã Cao Lãnh.
Chiếc tác-ráng được ông neo vào một bãi quen, đương nhiên phải gởi chút đỉnh tiền cà-phê cho người trông coi.
Ba người cuốc bộ chừng hơn nửa tiếng mới tới được quán đó.
Cái quán nhỏ xíu, lưa thưa khách, mái tole đôi chỗ đã lủng lỗ, cứ thế đưa thêm ánh sáng và tăng thêm sức nóng cho nơi này.
Ông bạn già của ông Chín Cảo đang ngồi nghe Duy Khánh ca bản “Những bàn chân” của nhạc sĩ Phạm Duy.
– Có kiếm được bản nào lạ tai không mày?
– Có.
“Tạ ơn người” do nhạc sĩ Anh Việt Thu sáng tác, cô Thanh Tuyền và chú Duy Khánh ca bản này mùi lắm.
Ông Chín Cảo lựa bàn có gắn cây quạt trên vách cho bớt nóng.
Vì là cái bàn vuông dựa sát tường nên ba người chia nhau một góc.
Trên bàn đã để sẵn dĩa ớt – chanh, một chai nước tương, một ve nước mắm và một hũ tiêu sọ xay, cùng đồ cắm ống đũa, muỗng và nĩa.
– Cho tao khăn giấy với tăm xỉa đi mậy.
Vừa đặt hộp khăn giấy và hũ tăm tre xuống bàn, Bảy Son vừa ghi “toa”:
– Bữa nay ăn gì đây vợ chồng tao làm?
– Y như cũ.
Nhớ làm ơn đừng bỏ cần tàu, tao ăn hổng được.
Thằng cháu và ông Cha trẻ dặn làm tô lớn và bỏ đủ.
Về phần đồ uống, Stephen Đoàn không kêu cà-phê như hai cậu – cháu, mà chọn trà sen lạnh; đã tới Đồng Tháp thì phải nếm thử vị sen nơi đây.
– Nhạc sĩ Thương Hận kỳ này vô đậm há? – Bảy Son vừa trụng hủ tíu vừa ngoáy đầu hỏi thằng bạn thiết.
– Ui, lấy được mớ tiền mà nhức cái đầu, rồi còn bị thiên hạ vô đơm đặt đời tư – gia phả đủ điều.
Gặp tao, tao hổng ham miếng nào.
Bà vợ Bảy Son chợt chen ngang:
– Thằng con của cha Tám Đề hình như bị đụng xe ở An Giang.
Nghe đâu bị bể đầu nặng lắm.
Bảy Son trề môi dài cả thước:
– Cái thằng đó là “cẩu nô tài” của đám quan lại thời nay.
Ai cho tiền là binh vực tới tấp.
Binh riết cái mặt chai còn hơn cục đá mài dao.
Nó bị vậy là còn nhẹ lắm, con nhỏ bị nó vu không mém thắt cổ tự vẫn kìa.
Stephen Đoàn ngừng đọc Thánh Kinh mà ngẩng lên nhìn ông chủ quán hủ tíu.
Anh chợt nhớ tiếng lầm rầm niệm Kinh Phật vọng từ gian Chánh Điện xuống hành lang vắng vẻ, nỗi thống hối nào đã thúc đẩy một con người tới mức khuya lơ khuya lắc phải ngồi sám hối khẩn thiết như vậy cà?
– Đây, ưu tiên ông Cha ăn trước.
– Bảy Son niềm nở mời.
Ông trụng thêm hai vắt bánh để cho người Linh mục trẻ ăn no hơn.
– Dạ, con xin cảm ơn bác.
– Nói đoạn, Stephen Đoàn bắt đầu lầm rầm đọc Kinh.
Chín Cảo hỏi thằng bạn thiết:
– Cô Tám lại cạo đầu nữa hả?
– Ờ, không biết bị cái gì mà cổ không lên An Giang thăm con được nên đã đau khổ tới mức xuống tóc luôn.
Ngày nào tao cũng thấy vợ chồng cổ đi phát cơm – nước ở quán cà-phê “lục bình” nhà thằng Năm Vẹo, chắc để hồi hướng công đức cho thằng Tín.
Bà vợ Bảy Son đập cái nùi giẻ xuống bàn nấu:
– Trời ơi, con nằm một đống ở xứ người không lên thăm, mà lại bỏ thời gian đi làm việc thiện, gia đình gì mà kỳ cục vậy cà?
– Thì bởi lên không được nên vợ chồng Tám Đề mới bám víu vô cách này để trấn an tinh thần mà sống tiếp.
Bà hổng thấy cô Tám bữa nay ốm nhom ốm nhách, da dẻ đen thui, còn hai con mắt thì y như hai con ốc bươu sao?
– Ê, gì mà ông để ý bả dữ vậy?
– Dữ đâu? Cái bà này thiệt tình…!Mặt mày của cổ “đặc sắc” quá nên tui mới nhớ dai chớ bộ!
Chín Cảo tủi phận than:
– Phải chi con ghệ của tao cũng ghen bóng ghen gió như vợ mày thì hay quá…!Tao đi mà nó còn mừng nữa chớ…
– Có đốt pháo bông hôn?
Hai ông bạn già chưa kịp cự nhau nảy lửa, thì một đoàn khách vô quán nên đôi bên tạm thời “đình chiến”.
Trước lúc ghé bàn của đoàn khách ghi “toa”, bà vợ Bảy Son bưng súp xí-quách ra bàn của ông bạn già của chồng mình.
– Ăn đại vô anh, vô mấy cậu.
Hết thì kêu tui, tui múc cho.
– Dạ, phiền anh – chị quá.
Sau bữa ăn, Stephen Đoàn được ông Bảy Son chở ra quán cà-phê “lục bình”.
Hai cái va-li của anh được ràng chặt bằng mấy sợi dây ràng cứng cáp, còn cái ba-lô thì đeo trên lưng.
Tuy đã già nhưng ông Bảy lái xe rất giỏi, thắng xe êm ái vô cùng.
Quán cà-phê “lục bình” nằm gần một cây cầu hai làn trải nhựa.
Bề ngang của quán chừng khoảng năm chục mét vuông, chiều dài không rõ được bao nhiêu; mé tay trái đậu hai chiếc xe đò, còn mé tay phải là nơi bán nước và văn phòng mua bán – đổi trả vé xe và giải quyết khiếu nại của hành khách.
Không may cho Stephen Đoàn, phải hơn một tiếng nữa xe mới khởi hành, anh dự tính gởi hai cái hành lý cho nhà xe rồi tản bộ ra chợ ngắm cảnh giết thời gian.
Nhà xe bắt anh phải mua vé trước mới chừa chỗ cho, nên anh bèn móc bóp ra trả luôn.
– Rồi, ở đây có máy ghi hình giám sát, có mất mát gì thì tụi mình dễ bề lo liệu và thương lượng ̣được.
– Bà chủ “bến xe” chỉ cho Stephen Đoàn coi màn hình phát trực tiếp từ máy ghi hình gắn trong nhà kho.
– Va-li của Thầy kiểu gì? Tên chi? Ghi rõ ràng vô để hai bên không bị mích lòng.
– Dạ.
Sau khi đối chiếu hình dạng, màu sắc, trọng lượng, kích thước và tên của hai cái va-li thật kỹ càng, bà chủ đưa phiếu giữ đồ cho Stephen Đoàn và biểu anh hãy kiểm tra lại nội dung trước khi đặt bút ký xác nhận.
Rời khỏi “bến xe”, Stephen Đoàn rảo bước thăm viếng khu chợ cóc gần đó.
Trong bóp anh chỉ còn lại mấy trăm đồng, không biết xuống Kiến Hòa có còn đủ xài hay là không, thành thử ra anh không dám mua sắm gì.
Giờ nhìn nem Lai Vung, bánh phồng Sa Giang, mứt chuối phồng hay trái cây ê hề ngoài sạp mà trong bụng tiếc nuối hùi hụi, bởi anh chẳng mua nổi để về biếu cố Toàn, gia đình Thầy Phó Tế, Cha Thành, vợ chồng dượng Bảy và anh bạn Y-Nhã.
Từ sạp quýt hồng Lai Vung, song ca Duy Khánh – Hương Lan đang biểu diễn nhạc phẩm “Khúc ca Đồng Tháp” của đôi tác giả Thu Hồ – Trọng Danh.
Stephen Đoàn vui miệng hát theo người nghệ sĩ Trung Kỳ, giọng ca anh đồng điệu với âm sắc của ông nên càng làm bài hát hay bội phần.
Loanh quanh chợ nhỏ một hồi đâm mỏi chân nên Stephen Đoàn trở về “bến xe” ngồi đợi.
Hãy còn nửa tiếng nữa chiếc xe đò mà anh chọn mới khởi hành.
Stephen Đoàn gọi một ly sinh-tố mãng cầu, rồi với tay lấy tờ báo mà ai đó để quên trên bàn kế bên.
“Roạt.”
Tờ báo bị giằng lại thật mạnh, xém chút nữa là bị xé làm hai.
– Nó là của tôi.
– Ơ, xin lỗi…
Chủ nhân của tờ báo đó là một người mà Stephen Đoàn không muốn hát khúc tương phùng.
Vẫn cái nón cao bồi Mỹ, bộ âu phục trắng, đôi giày da đánh xi bóng lộn và dáng điệu “Don Quichotte”.
Thấy thái độ hung tợn của người khách cao sang, bà chủ trẻ bất bình lại can ngăn và đưa cho Stephen Đoàn mấy tờ nhật trình.
Ngồi đọc báo và uống sinh-tố được một chút, kế chiếc xe đò “cập bến”.
Stephen Đoàn giắt ly sinh-tố uống dở vào cái túi lưới của ba-lô rồi ba chân bốn cẳng vô nhà vệ sinh đi tiểu.
Khi anh bước lên xe và an tọa trên ấy, đồng hồ đã chỉ bốn giờ hơn; về tới Kiến Hòa chắc sẽ gần bảy giờ đêm, còn nếu nửa đường kẹt xe thì chừng chín giờ, anh tính trọ lại một đêm rồi sáng mơi mới ghé nhà tía má cô Xuân.
Người lơ xe chột mắt đang ngâm ư ử theo giai điệu bài hát “Đất bằng nổi sóng” do Thanh Tuyền ca, đây là nhạc phẩm của nhạc sĩ Hồng Vân – Trần Quý.
Hành khách trước khi kiếm chỗ ngồi sẽ đưa vé cho ổng kiểm ra, những tấm vé soát xong sẽ được bỏ vô một cái hòm phiếu bằng nhựa trong để sau này tiện bề tính sổ sách.
Stephen Đoàn ngồi ở băng ghế chót, vị trí sát cửa sổ trái.
Một cái va-li anh để dưới đ*t ghế, một cái thì để gác chân, còn cái ba-lô anh ôm vào lòng thay gối.
Vì thiếu ngủ và trong người thấm mệt nên anh ngoẹo cổ sang trái ngủ gà gật ngay tức thì.
– Ê cô ơi!
– Chi chú?
Lơ xe chột mắt trả lời:
– Mấy chỗ đó người ta đặt qua mạng rồi, cảm phiền cô kiếm chỗ khác nhe?
Cô sinh viên trẻ tính ngồi gần ông Cha cho an tâm, nghe vậy thì buồn xo mà vòng lên băng ghế ở trên băng chót.
Cô ngồi sát cửa sổ, để phía sau có ông Cha “chống lưng”.
Một bà lão sà xuống ngồi cạnh cô, dáng vẻ hệt khuôn bà ngoại dưới quê, cũng bộ đồ bà ba với cái khăn rằn và đôi dép nhựa cũ mèm, luôn xách theo cái giỏ đệm đan bằng lục bình – ở trỏng bỏ đủ món “ăn chơi”.
Stephen Đoàn bị mất giấc ngủ.
Anh sửa tướng vài cái trước khi lấy ly sinh-tố mãng cầu ra uống tiếp.
Mới uống được đâu vài hớp, Nón Cao Bồi và một người nữa ngồi xuống băng ghế của anh, anh ta cách anh một cái ghế và ở trên cái ghế trống đó anh ta để một cái giỏ xách cùng một cái cặp da – cả hai đều là đồ hiệu.
– Cha.
Nghe có người kêu “Cha” nhưng Stephen Đoàn không dám “Ơi”, vì lỡ người ta gọi cha ruột thì anh không biết chỗ đâu mà trốn.
Cô sinh viên nhoẻn miệng cười với ông Cha hiền queo:
– Cha ăn hôn? Con cho Cha miếng bánh chuối phồng sầu riêng.
– Ờ…!Ờ…!cảm ơn…!cô…
Vừa trao bịch bánh chuối phồng sầu riêng cho ông Cha trẻ, cô sinh viên vừa tươi cười hỏi:
– Cha quản xứ nào?
– Dạ, tôi quản Giáo xứ Saint Pio ở Quận Nhứt.
– Pio nào Cha?
– À, Thánh Pio Năm Dấu.
– Ồ, vậy mà con tưởng Pio kia.
– Cô đây ở đâu?
– Dạ, con ở Mỹ Tho…!Còn Cha về đâu?
– Tôi xuống Kiến Hòa thăm gia đình bằng hữu.
– “Hai ta cách một con sông Tiền.
Đường đi tưởng ngắn nhưng thiệt tình xa ghê.”
Ngâm nga xong, cô sinh viên lại nói:
– Í, Cha cho con danh thiếp được hôn? Chừng nào con trở lên Sài Gòn sẽ ghé qua thăm xóm Đạo.
Stephen Đoàn mở bóp lấy tấm danh thiếp của Giáo xứ.
Anh không có danh thiếp riêng vì cảm thấy điều đó quá phô trương.
– Cha sao trong xứ?
– À, tôi là Cha Phó, thường gọi Stephen Mỹ.
Còn Cha Sở là anh Ignacio Cường.
Và Cha Lớn là Thầy Giuse – Blanc Thành.
Nghe tới cái tên sau rốt, cô sinh viên thoáng không vui vì nhiều bằng hữu Công Giáo của cô thuật rằng người Linh mục già này sống bê bối và bậy bạ lắm.
Cô bấm bụng hỏi Cha Mỹ:
– Dạ, Cha thấy ô…!À, Cha Thành sao?
– Người thật thì rất tốt.
Còn người giả thì rất ác.
Người giả đã khiến người thật bị ô danh và vu khống nặng nề.
Biết nội tình rối rắm, cô sinh viên thôi không đả động tới nữa.
Cô nói lảng sang chuyện khác:
– Cha hát Thánh Ca hay không Cha? Hay là Cha ca cho con nghe một khúc thôi.
– Được.
Stephen Đoàn bèn trình bày tình khúc “Giáo đường chiều Chúa nhật” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này các ông ký tên là Lê Dinh – Mạc Phong Linh; Trang Mỹ Dung là người biểu diễn nhạc phẩm này đầu tiên.
Hát xong, anh tâm tình:
– Không biết ai sau năm 75 đã sửa tựa “Giáo đường chiều Chúa nhật” thành “Giáo đường chiều Chủ nhật”…
Nghe người Cha Phó kể vậy, cô sinh viên cười gượng, rồi cất lời ngợi khen Stephen Mỹ hát hay hết sức.
Đôi bên trò chuyện thêm nửa tiếng nữa thì ngưng, vì gia đình cô sinh viên gọi điện thoại hỏi thăm cô đi đường tới đâu rồi.
Về phần Stephen Đoàn, anh mở sách “Trăng trên thung lũng Jerusalem” của văn hào Do Thái Shmuel Yosef Agnon ra đọc.
Không biết chò lan chừng nào mới tới Giáo xứ…
Nón Cao Bồi và người bạn đồng hành của anh ta đang thì thầm to nhỏ với nhau.
Cả hai đều mang dáng dấp hào hoa, phong nhã và có chút gì đó bất cần đời.
Dù muốn dù không, Stephen Đoàn vẫn hoài nghi họ đang bám theo mình.
Chừng một tiếng sau, chiếc xe dừng lại ở một bến xe của thành phố Mỹ Tho.
Trước lúc chia tay người Linh mục mới quen, cô sinh viên biếu anh chút đỉnh tiền.
Stephen Đoàn khước từ, song cô bạn Công Giáo nài nỉ hết lời nên anh đành phải nhận lấy.
Ngồi ngắm cảnh gần hai tiếng nữa, Stephen Đoàn đã tới Cầu Bắc.
Anh sẽ đi phà về Bến Tre.
Thật may vì “tuyến đường” này được giữ lại sau bao nhiêu năm trời bị bỏ phế.
Đứng ở đây anh sẽ được ngắm Cồn Phụng và vài bãi bồi, cồn cát xanh mát bóng dừa và bần chua.
Một điều mà anh quý nhất ở bến phà là người đi bộ được miễn tiền vé, một việc làm rất nhỏ nhưng thể hiện được sự nhân bản đáng trân trọng.
Vừa thong thả bước đi trên cây cầu dẫn ra con phà quê mùa, hề hà, Stephen Đoàn vừa hồi tưởng ca khúc “Phải lòng con gái Bến Tre” do nhạc sĩ Phan Ni Tấn phổ từ thơ của thi sĩ Luân Hoán; anh như cảm nhận được “Mùi tình Lục Vân Tiên” trong thơ-truyện của cụ Đồ Chiểu đang phảng phất đâu đây.
– Xách giùm hôn cậu ơi!
Một người đàn ông, trông có vẻ là phu khuân vác, ngỏ ý giúp Stephen Đoàn.
Stephen Đoàn phó thác niềm tin, như niềm tin anh đã đặt nơi Thiên Chúa, vào tay người đàn ông đen nhẻm chỉ mặc độc cái quần bạc phếch.
Vì dòng người đông nghẹt nên họ không thể sóng vai nhau mà đi, anh để mặc cho người trai miền Tây đó bỏ mình một quãng khá xa.
Tới bến, Ba Hiển đứng đợi người trạc tuổi mình.
Không biết cha này trong đoàn cải lương nào xuống mà bận nguyên bộ đồ đen, vẫn chưa tới ngày cúng Đình mà?
– Lẹ lên cậu…!Hông thôi lát nữa đứng rã giò bây giờ…
Sau một hồi nhường tới nhường lui cho những người khác, rốt cuộc hai người ra mỏ phà đứng.
Người đàn ông kia bực mình chửi thề một tiếng, rồi mồi thuốc lá hút; anh ta có mời Stephen Đoàn một điếu nhưng anh giơ tay xin kiếu.
Một người phụ nữ dắt theo đứa con chừng năm tuổi lại gần hai người mà mời họ mua trứng cút luộc, nem chua và đậu phộng nấu.
Người bạn mới quen không mua nhưng cho hai má con hai chục đồng, còn Stephen Đoàn thì mua giùm hai bịch trứng cút luộc.
Mỗi người vừa ăn hết bịch trứng cút luộc, Stephen Đoàn đã biết đủ tính danh của người trai lạnh giọng chớ không lạnh lòng: Anh ta ở Tân Thạch, ngụ trong xóm Đình, qua Mỹ Tho làm công cho một người anh bên nhà chị dâu.
Hai người cho nhau số điện thoại và hẹn ngày mốt sẽ gặp lại ở công viên bên bờ sông Ba Lai, chỗ mà ngày Tết hay bán bông – kiểng.
Chừng một tiếng sau, Stephen Đoàn đã có mặt ở Cầu Bắc – Tân Thạch.
Ba Hiển giúp anh kéo va-li lớn, ảnh nói về nhà cũng hổng có gì làm nên đi theo nói chuyện lai rai cho vui.
Vừa bước qua cổng chào, Stephen Đoàn đã tìm được một chiếc xe taxi ưng ý trong số hàng chục chiếc đậu dọc bên đường.
Người này nhìn anh đầy hy vọng tới nỗi anh không nỡ chọn chiếc khác.
Ba Hiển cũng đơm vô vài lời, nên anh càng chắc chắc quyết định của mình.
– Thôi tôi về nghen Thầy.
Stephen Đoàn vừa phụ anh tài-xế bỏ hai cái va-li vô cốp xe vừa cười tươi biểu:
– Dạ, anh đi mạnh giỏi…!Ủa? Ổng sống sát đây mà mình chúc gì kỳ vậy Trời?
Anh tài-xế bật cười ngặt nghẽo.
Rồi lắc đầu tỏ vẻ thông cảm với chứng đãng trí của ông Cha trẻ.
“Ầm.”
Sau khi đóng cánh cửa xe, Stephen Đoàn ngỏ ý muốn nghe một ca khúc.
Người tài-xế bèn bật bài Dân ca Nam Bộ “Lý chia tay” do song ca Tuấn Vũ – Phượng Mai trình bày
Trong khi chờ taxi chở tới nhà trọ, Stephen Đoàn đăng tin trên Facebook rằng mình đang ở Bến Tre.
Không đầy mười phút, Thầy Augustino Dương biểu anh ghé địa chỉ này để đỡ tốn tiền mướn phòng.
Anh bèn đưa nó cho người tài-xế coi; anh ta cau mày đọc đi đọc lại rồi lầm bầm, “Chỗ này có người ở hồi nào mà mình hổng biết vậy cà?”
Chỗ mà Thầy anh giới thiệu nằm cách trung tâm thành phố chừng bảy cây số rưỡi, bốn bề toàn là dừa và chuối cùng vài loài cây tranh sống với hai loại thực vật trên, lơ thơ những mái nhà tranh đơn sơ và khoảng khoát, bầy vịt chạy đồng tung tăng bơi trên mương nước được khơi thông phòng mùa nước nổi, mấy con bò đang nằm sải lai trên bãi cỏ xanh mướt.
– Anh ơi…!Nhắm ở được hôn hay để tui chở anh đi tìm nhà trọ?
– Sao…!Sao Thầy tôi nói ở đây có cái Giáo xứ thuộc dòng Thánh Pio Năm Dấu mà?
– Dạ, Giáo xứ phải có Thánh Giá hay cờ hiệu chớ, đằng này…!trụi lủi.
Rồi người tài-xế bỗng reo lên:
– Ê, ở đó có người kìa…!Để tui xuống hỏi giùm cho.
– Dạ, làm phiền anh quá.
Một người thanh niên hãy còn rất trẻ đang đứng chắp tay sau lưng mà ngó trời mây hiu quạnh.
Dáng vẻ rất giống lúc thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên “phát bịnh”.
Người tài-xế cẩn thận chạy trên bờ đất dẫn tới chỗ người đó đứng.
Gần rồi, anh gọi khẽ:
– Anh ơi…
– Dạ?
– Anh ở trển đang kiếm Giáo xứ Saint Pio Kiến Hòa…
– Thì ở đây nè.
– Dạ? – Người tài-xế cười méo xẹo.
– Bớt giỡn cha, cái ruộng này là Giáo xứ đó hả?
– Thì tui là Cha nè.
– Ông đừng có cù nhầy nghen? Sáng giờ ế gần chết mới vớt được cuốc xe…
Người thanh niên đó nắm tay kéo chàng tài-xế đi phăng phăng trên bờ đất phân ranh hai thửa ruộng để vô ngôi nhà tranh vách đất.
Trong ngôi nhà tranh vách đất, người Linh mục trẻ cho chàng tài-xế coi thẻ, mấy cuốn Kinh Thánh và bộ “đồ nghề” của mình.
– Đúng…!Đúng rồi…
Rồi người tài-xế đứng ngay ngạch cửa mà la lên thông báo.
Stephen Đoàn vội vàng chạy vô nhà.
Sau hơn nửa tiếng “tham dự bàn đàm phán”, người tài-xế mới an tâm lấy tiền ra về.
Cha này thuộc dạng ở trển xuống, hy vọng không lây bịnh cho người khách hiền lành kia.
Thấy người tài-xế đã “biến hình”, ông Cha Kiến Hòa mới mời anh bạn đồng tu bắc ghế nhựa có lưng dựa ngồi:
– Giáo xứ đang chờ lòng hảo tâm của con chiên và Mạnh Thường Quân, nên tạm thời làm Lễ ở đây.
– Anh là Cha Sở?
– Không, Phó thôi.
– À, anh tên chi?
– Henrico Thạnh, tên đầy đủ là Nguyễn Phước Thạnh, con của dân thường chớ hổng phải vua chúa gì.
Tại nguyên quán ở xã Phước Thạnh – Bến Tre nên thân sanh ban cho cái tên này.
– Stephen Đoàn Ngọc Mỹ.
– Đi ăn bún riêu đi.
– Sáng giờ, tôi uống sinh-tố mãng cầu, ăn hủ tíu, bánh phồng chuối – sầu riêng rồi lại trứng cút luộc, giờ ăn mắm vô nữa…
– Thì xổ ruột chớ sao? Kệ, coi như đỡ tốn tiền mua thuốc nhuận trường.
Rời khỏi quán bún riêu đông nghẹt khách với cái bụng no căng, Stephen Đoàn hỏi tên của Giáo xứ.
Và Henrico Thạnh trả lời rằng:
– Giáo xứ Thủy Liễu.
– Gì kỳ vậy cha?
Henrico Thạnh thủng thẳng trình bày:
– Sau khi bị quân Tây Sơn đánh bại, vua Gia Long cùng quân binh tháo chạy.
Thời may cách đó không xa có một bụi bần hết sức um tùm, vua – quan bèn chun xuống dưới đó núp; không quên lấy lá vụn đắp thêm và còn lấy thuyền úp lại cho chắc ăn.
Không hiểu Trời xui Đất khiến sao mà quân Tây Sơn không ai phát hiện.
Sau khi quân Tây Sơn rút khỏi, vua và quân binh vào xóm nhỏ xin tá túc.
Tại đây vua hỏi dân địa phương giống cây vừa che chở mình và quần thần là gì, thì một cụ ông bước ra và đáp, “Dạ, bẩm vua, cây này có tên là “Bần.” Vua chê cái tên xấu quá, không xứng với vẻ đẹp của nó, nên đã ban cho nó cái danh mới là “Thủy Liễu”.
Stephen Đoàn cười mà mặt mày méo xẹo.
– Giờ muốn gọi theo kiểu vua ban hay gọi theo kiểu thứ dân?
– Giáo xứ Cây Bần nghe cũng kỳ, mà Giáo xứ Thủy Liễu nghe cũng quái.
Rồi Henrico Thạnh than thở:
– Chúa ơi, con xuống đây làm Cha chớ đâu phải làm “thợ đụng”.
– Là sao?
– Là “Đụng đâu làm đó” đó.
Quả đúng như trong dự đoán của Stephen Đoàn, tối đó anh bị Tào Tháo rượt hết thảy ba lần.
Anh tự nhiên nhớ tới bữa cơm sạch sẽ và bổ dưỡng mà vợ chồng dì Bảy đã cung cấp cho mình ở Giáo xứ, chưa lần nào dì – dượng để anh rơi vào “thảm cảnh” như hôm nay, vậy mà anh chẳng có tiền để mua quà đáp lễ.
Ở trong nhà vệ sinh, Stephen Đoàn nghe rõ mồn một cuộc hội thoại của Henrico Thạnh với ai đó.
– Cha à, con nghe có người đồn thổi Cha với Sơ Hiền.
– Ôi, đám đó ganh tị với nhan sắc của Cha nên đồn thổi bậy bạ thôi con.
Mấy người đẹp trai hơn đời như Cha khổ lắm con.
Henrico Thạnh trề môi dài cả thước.
– Tao thừa biết mày đang trề môi đó con…!Thương nó vậy mà nó không khen hùa được một câu…
– Chúa dạy con không nên nói láo Cha à…
– Vậy hen? Vậy khỏi ăn sườn bò Đại Hàn nướng hen? Tính gởi…
Henrico Thạnh nũng nịu:
– Cha đẹp…
– Mày nói tao nổi óc rồi nè con.
– Con cũng thu hết can đảm mới nói nổi đó Cha.
– Hứ, người ta có con thì được nhờ.
Còn tôi có con đứa nào đứa nấy cũng đòi ăn bào ngư – vi cá, sâm nhung – lộc hươu,…!vậy mà biểu nó khen một tiếng nó cũng nói phải thu hết can đảm.
Henrico Thạnh đánh trống lảng:
– Có anh Stephen Đoàn Ngọc Mỹ ghé thăm đó Cha.
– Thằng Mỹ hả? Nó giỏi lắm.
Có gì không hiểu thì nhờ nó giải đáp.
– Mang tiếng Cha mà con phải đi dự Thánh Lễ “chui”.
Vậy con có bị phạm Thánh không Cha?
– Cha nghĩ là không.
Giáo xứ chưa có gì cả, con có xưng Cha cũng chẳng ai tin đâu.
– Chừng nào Cha Sở xuống hả Cha? Hay ổng “bỏ giò lái” rồi? Giáo xứ y khuôn tựa bài “Một ngày tan chiến tranh” của nhạc sĩ Song Ngọc.
– Không, thằng này đàng hoàng lắm, chỉ ngặt nó còn phải ở lại hầu việc Đức Cha Gabriel Đinh Thái thêm một tháng nữa.
– “Chờ ổng, chờ đến bao giờ…”
– Thôi đừng có làm Lam Phương nữa con.
– Thì con là Lam Hướng mà.
Trước lúc chia tay con trai, Augustino Dượng pha lửng:
– Con nè…
– Dạ?
– Đừng có “Phải lòng con gái Bến Tre” nha?
– Thôi có mẹ ruột là con sợ rồi, ở đó đèo thêm bà má khác dòng.
Hổng những phạm trọng tội mà còn bị đọa Địa Ngục suốt đời.
– Bây nhát quá bây ơi.
– Cha cũng đâu có mảnh tình vắt vai nào đâu.
Mấy Thầy kia xúm lại kể cho tụi con nghe hết rồi.
Hồi chưa dự định thành Linh mục, cô nào ngỏ ý là Cha cắm mặt vô cuốn Kinh Thánh giả điếc…!Cha, sao tắt máy bất thần vậy Cha? Con chưa kể hết mà? Rồi, ổng mắc cỡ ổng trốn rồi…
Trước lúc ra ngoài, Stephen Đoàn chế thuốc tẩy có chứa chất diệt khuẩn vô trong lòng bồn cầu.
Các Sơ đã dặn anh nếu như bị tả thì phải chế thuốc tẩy xuống bồn cầu và đợi khoảng nửa tiếng mới giội nước, để người sau ít bị lây vi khuẩn.
– Êm bụng chưa? Nếu còn thì tôi lấy thuốc cho anh.
– Làm ơn đừng lấy thuốc sắc.
Henrico Thạnh nhún vai và phì cười:
– Tôi đâu phải Hoa Đà mà xài thảo dược.
Hai người ra ngoài sân ngắm sao.
Chỗ ngồi của họ là cái chõng tre kê sát bồn cây mai vàng đang trổ bông rực rỡ và thơm ngát; ở trên nhánh cây vừa tầm với, Henrico Thạnh bắt một cái bóng đèn tròn dành để chiếu sáng đêm Ba Mươi.
– Ghé Đồng Tháp mà không mua được trà sen cũng tiếc hén?
– Dạ, thú thật với anh, tôi chỉ còn có hơn ba trăm đồng bạc.
– Chúa ơi, vậy lấy gì sống? Dìa liền hay ở chơi để làm đầy “Hành trang kỷ niệm”?
– Dạ, ở chơi ba ngày.
Tới bữa tổ chức Thánh Lễ Tất Niên sẽ về…!Anh về cùng tôi nghe?
– Dạ?
– Chịu không?
– Chịu chớ.
…
Sáng hôm sau, Henrico Thạnh chở Stephen Đoàn tới nhà của tía má cô Xuân.
Chiếc xe gắn máy phân khối lớn đã được tân trang và thay màu sơn mới này Phước Thạnh mua trả góp của một người bạn chuyên mua – bán xe trên đô thành; với đồng lương eo hẹp của một người Linh mục, không biết tới bao giờ anh mới trả dứt nợ đây?
Căn nhà đó có thế đất khá hiếm gặp: Hai bên nhà đều giáp với sông, nhưng hông trái là nhánh nhỏ, hay còn gọi là rạch, và hông phải là sông cái.
Chú – thím chia ngôi nhà thành hai phần: Bên trái làm nơi sinh hoạt và buôn bán, còn bên phải là vườn tược và kho chứa nông sản.
Sau hè còn dư đất nên đôi vợ chồng đem mồ mả ông bà – tổ tiên về an táng, gần đó còn chỗ nên làm nơi nuôi gà – vịt – cút; để tránh đám gia cầm làm loạn khu mồ mả, chú Năm kéo lưới sắt B40 cao chừng mét rưỡi quây lấy địa bàn của chúng, bây giờ rau má và rau mồng tơi đã bò kín bức hàng rào không mấy cao, thím Năm phải thường xuyên hái bớt để có đường dòm vô bên trong.
Chắc có lẽ nghe hai người anh của cô Xuân ra riêng được cho sở đất làm của nên tên Sở Khanh kia mới mon men làm quen.
– À…!- Henrico Thạnh khe khẽ xuýt xoa.
Stephen Đoàn vừa cởi nón bảo hộ vừa đợi anh bạn đồng tu nói tiếp.
– Nãy quên đổ thêm xăng, không biết có còn lết được ra đầu lộ không…
Rồi, không đợi Stephen Đoàn góp ý, Henrico Thạnh giao khoáng chiếc xe gắn máy cho chàng ta và chạy một hơi ra đầu lộ mua can xăng.
Stephen Đoàn bèn dắt xe vô sân trước, rồi gõ nhẹ lên cửa sắt ba tiếng.
Trong lúc chờ chú – thím Năm mở cửa, anh ngắm hai chậu bông vạn thọ cam rực đặt ở mỗi bên cạnh cửa cái.
Không đợi cho anh viết xong bài văn miêu tả chậu bông trong đầu, chú Năm kéo hi hí cửa sắt và ghé mắt dòm qua coi ai.
– Mèn đét ơi! Xuống hồi nào vậy con?
– Cảm ơn con nhiều nghe?
Biết Stephen Đoàn vẫn còn ngại ngùng vì chuyện của con Xuân nên vợ chồng chú Năm không mời anh nán lại chơi.
Họ tính ngày mơi mới mời anh ghé nhà ăn cơm trưa.
Đang nghe giáp vòng hát karaoke như “chiến tranh tâm lý”, Henrico Thạnh thấy Stephen Đoàn lững thững bước ra, anh hết hồn hỏi:
– Ủa sao về lẹ vậy?
– Thì, hỏi thăm thôi, chứ Tết nhứt tới nơi làm phiền người ta coi kỳ lắm đa.
Henrico Thạnh tuy nghi ngờ có uẩn tình chi trong chuyện này song không gạn hỏi.
Anh đưa nón bảo hộ cho bạn rồi giục bạn leo lên xe mình ngồi.
Trên đường trở về xóm Đạo tương lai, Henrico Thạnh tâm tình:
– Thú thiệt với anh, hồi mới về lại cố hương, tôi không chịu nổi độ ngọt của món ăn.
Hầu như món gì cũng có cơm dừa, nước dừa và nước cốt dừa…
– Còn giờ sao?
– Giờ thì tôi thấy mình ngu, bởi trà sữa bỏ bột béo thì hút lấy hút để, còn đồ ăn ngọt từ cây trái thiên nhiên thì chê lên chê xuống.
– Tôi ghiền món tôm kho tàu của bà bếp lắm.
Bả chế nguyên trái dừa xiêm vô cái ơ.
Vị ngọt của nước dừa mới chặt ngoài vườn cái sột hòa với vị tươi roi rói của mớ tôm càng xanh bắt từ con đìa gần Giáo xứ, lại còn sả – ớt cay cay cặp vô, ta nói nó đã gì đâu! Ăn hao cơm gần chết.
Trước lúc dạo chợ bông, Henrico Thạnh dẫn Stephe Đoàn đi ăn bánh canh bột xắt ăn với vịt xiêm luộc và huyết nếp, đương nhiên nguyên liệu không thể thiếu nước cốt dừa.
Quán nhỏ gần ngã tư Phú Khương, lèo tèo vài mống khách, ghế nhựa có lưng màu đỏ và bàn nhựa thì màu xanh da trời.
Hai người ngồi ăn ở vị trí vỉa hè, vì bên trong khá thấp và tù túng.
Hai người kêu lấy phao câu và dĩa lòng, đầu ăn kèm.
Về đồ uống, họ đều gọi nước mía – hạnh.
Ăn uống và dạo chờ hơn mười giờ rưỡi, hai người mới có mặt ở xóm Đạo hoang sơ.
Một bầy con nít từ nhà sau ùa lên la:
– Tía!
– Gì “Tía” vậy Thạnh?
Vừa lấy tay cào tóc cho bớt bù xù, Henrico Thạnh vừa cười đáp:
– Dưới miền Tây hay kêu “Cha” là “Tía”.
Rồi Henrico Thạnh la lớn:
– Tía mua cho mấy bây bánh canh bột xắt nè!
Xấp nhỏ cảm ơn dậy trời dậy đất.
– Tía, Tía kèm con học Toán đi Tía.
Con muốn sau này thành tổng thống Đại Việt Dân Quốc.
– Trước mắt thì bây làm “Tổng vệ sinh cái phòng” của bây đi.
Bị đám bạn chọc quê, thằng nhỏ có cái trán cao sáng láng tiu nghỉu ôm tập lủi vô trong nhà.
Stephen Đoàn sẵn giỏi tiếng Anh nên kèm môn Anh Ngữ cho mấy đứa nhỏ xóm nghèo.
Đám trẻ cũng gọi anh là “Tía” như anh bạn đồng tu.
Trong lúc đợi xấp nhỏ giải bài tập xong, Stephen Đoàn hỏi Henrico Thạnh:
– Sao anh lại chọn tên Thánh Henrico vậy?
– Hồi đó tôi là “Hỗn Thế Ma Vương” của cái xóm nghèo trên Sài Gòn, một lần leo hàng rào vô Giáo xứ trộm ổi, bị ông Cha bắt được…
Nói tới đây, Henrico Thạnh cười cái khì, rồi xoa xoay tay mà nói tiếp:
– Tưởng đâu bị chửi té tát, ai dè Thẩy biểu tôi đứng đó rồi tự thân Thẩy leo lên hái giùm.
– Thẩy là Giuse – Blanc Cao Nhật Thành.
– Phải.
Một đứa nhỏ bị bí chạy lên hỏi hai ông Cha đang ngồi trên thềm ba về cách giải bài toán.
Henrico Thạnh hướng dẫn nó cách giải, chừng nó hiểu ra được thì đã mất hết trơn nửa tiếng.
Stephen Đoàn ngồi nghe mà mắc cười gần chết, nhưng không dám cười lớn vì sợ hai thầy trò tự ái.
– Con hiểu rồi đó Tía…!Công nhận dễ ẹt hà…
– Con hiểu mà Tía mừng rớt nước mắt luôn á.
Nè, nè, coi đôi mắt của Tía ngấn lệ chưa?
Thằng nhỏ nhìn thật kỳ, rồi nghiêm mặt nói:
– Con thấy ghèn không hà.
Khóc chỗ nào đâu Tía?
Stephen Đoàn cười phì một tiếng thật lớn.
Henrico Thạnh khoát tay vời nó về lại chỗ ngồi, rồi kể tiếp:
– Thấy có địa bàn cung cấp trái cây miễn phí, nên tuần nào tôi cũng ghé qua xin.
Giờ biết xin phép đàng hoàng rồi chớ hổng có rình rình lấy nữa.
Rồi từ từ, năm này qua tháng nọ, tôi đem lòng yêu xóm Đạo và thương luôn Thẩy.
Chắc ngó cái nết tôi “hiền” quá nên Thẩy gợi ý tên Thánh Henrico “Hoàng Đế”; vả chăng, Thẩy cũng muốn tôi sửa tánh giống Chân Phước Henrico Suso.
Sau giờ học, mỗi đứa được lãnh một bịch bánh canh bột xắt và một dĩa gỏi thịt, lòng vịt cùng huyết nếp.
Do cha mẹ đi làm hết nên tụi nó mượn cái bếp của Henrico Thạnh làm nơi hâm đồ ăn, rồi rinh luôn mấy cái chiếu cói của anh làm tấm bạt dã ngoại và đem ra trải dưới gốc cây nhãn già.
Sợ tụi nó bị phỏng nên hai ông Cha trẻ đuổi đi lên nhà trên, mặc cho tụi nó năn nỉ ỉ ôi ầm ĩ.
Mất khoảng nửa tiếng, hai chàng mới hâm xong đồ ăn cho nguyên đám.
– Nè, mấy bây…!Khoan, xòe tay ra.
Trời ơi…!Dơ hầy hà!
Đám nhỏ cụp đuôi chạy một hơi ra ngoài hàng ba lấy gáu dừa múc nước rửa tay với xà-bông thơm, rồi lau khô bằng khăn giấy dạng cuộn đứng.
Vừa làm chúng vừa cười nói tíu tít.
Stephen Đoàn phát cho mỗi đứa một ly nước Xá-xị Chương Dương bỏ thật nhiều đá viên.
Anh hạnh phúc nhìn chúng lặp bặp nói theo lời Kinh mà Henrico Thạnh đọc, rồi lóng ngóng làm dấu Thánh.
– Làm dấu Thánh trước khi ăn.
Ngó sang một đứa bé gái, hai ông Cha la lên một lượt:
– Ê, ngược rồi!
Nó quýnh quáng sửa lại cho đúng.
Khuôn miệng trẻ thơ nở nụ cười hàm tiếu thật đẹp.
Hai ông Cha còn xuân xanh phơi phới leo lên chõng tre ngồi nhìn bầy con ăn trưa.
Chừng vài tháng nữa nơi đây sẽ tràn ngập hương nhãn, ổi, điều, mận, xoài và sa-pô-chê; trái nào Stephen Đoàn cũng mê hết.
– Đây là bài hát diễn tả cuộc đời của tôi…
Nói đoạn, Stephen Đoàn mở bài hát “Nghèo” của nhạc sĩ Hồng Vân – Trần Quý và do Chế Linh ca.
Mới nghe được vài câu, Henrico Thạnh nằm rạp trên chõng tre mà cười ha hả.
Rồi anh khẽ khàng tâm tình:
– Làm Cha mà giàu quá, thiên hạ dị nghị.
Mà khổ quá, lại bị phiền này trách nọ.
Bỗng một đứa trong bọn chạy vụt đi.
Chừng mươi, mười phút sau, nó quay lại với rổ hột gà đầy vung; hột nào hột nấy nhỏ xíu và cỡ cỡ nhau.
– Má con biếu Tía.
Henrico Thạnh bật cười:
– Cho Tía gởi lời cảm ơn ba má con nghe…
– Hột gà vữa đó Tía.
Luộc lên ăn với cơm, chấm thêm miếng muối tiêu chanh ớt ngon hết sảy.
Henrico Thạnh chỉ vô rổ hột gà mà biểu:
– Ăn hôn? Mai hai đứa mình ăn trưa.
Stephen Đoàn ngần ngừ gật đầu.
Henrico Thạnh tiếp:
– Chiều nay tôi dẫn anh đi ăn hủ tíu gà.
Stephen Đoàn không lên tiếng.
Anh đưa mắt nhìn xấp nhỏ đang cãi nhau chí chóe như đàn sẻ tranh thóc.
– Sao im ru vậy? Sợ bị tiêu chảy nữa hay gì?
– Đâu có đâu…
Stephen Đoàn thở dài thườn thượt, rồi cho Henrico Thạnh coi tin nhắn: “Sáng mơi mời hai đứa con lại nhà chú thím ăn uống, nói chuyện chơi.”
– Ồ, mời ăn thôi mà, đâu phải mối mai hay tham dự nghi thức ngoại Đạo đâu mà ngại?
– Tại cô Xuân thích tôi…
– Cái gì? Chà, căng à nghen? Nhưng chắc hổng sao đâu, có tôi làm “kỳ đà cản mũi” cho.
Mấy đứa nhỏ ăn xong đều tự giác đi rửa tô, chén, dĩa và ly của mình.
Chừng một giờ trưa, đứa cuối cùng ra về sau khi đã rửa chén; nó tính ở lại cuốn chiếu và quét rác, nhưng Henrico Thạnh khoát tay biểu nó dìa sớm kẻo ba má trông.
Hai người cùng nhau dọn dẹp vùng đất quanh mấy tấm chiếu cói.
Tiếng chổi tre quét sàn sạt trên nền sân lót gạch tàu đã ngả màu bợt bạt vang lên giữa không gian im ắng nghe sao buồn thê lương.
Henrico Thạnh mời anh bạn đồng tu ca chơi một bản.
Không nỡ từ chối người bạn mục vụ, Stephen Đoàn bèn giới thiệu hoàn cảnh sáng tác trước khi trình bày:
– Nhạc sĩ Y Vân sáng tác bài hát “Khi em nhìn anh” cho một người đẹp tên Yến.
Trong tờ nhạc ông đề: “Tặng một người tên là Yến.” Có hai người hát rất hay: Một là Nhật Trường và Hai là Sĩ Phú.
Và Stephen Đoàn bắt đầu ca nho nhỏ.
Tới câu:
“Em là Chim Yến nhỏ, anh khoác áo Vân du…”
Henrico Thạnh vỗ đùi cái đét:
– Cha, ông nhạc sĩ chơi chữ đã quá.
Nhờ người bạn mục vụ cắt ngang mà Stephen Đoàn khỏi tốn hơi hát tiếp.
Đêm qua anh “chạy nạn” những ba lần nên giờ trong người hãy còn oải chè đậu.
Anh “đẩy cây” sang Henrico Thạnh:
– Tôi ca rồi, anh cũng phải hát chứ?
Henrico Thạnh liền giới thiệu:
– “Nếu đời không có em” của nhạc sĩ Hoàng Trang, ở trên đề rằng: “Viết cho chúng mình đó H.
ơi!”
Rồi người Linh mục Kiến Hòa nói thêm:
– Ông Oanh ổng biết rồi mà nhạc sĩ còn bày đặt viết tắt…!Đúng là “Khi đã yêu thì ai mà không mù quáng”.
Stephen Đoàn phụ họa:
– Bài này rất dễ bị lộn với bài “Nếu đời không có anh” cũng của nhạc sĩ Hoàng Trang.
Kể ra chuyện tình của bà Hồng và ông Trang cũng trắc trở không kém mấy phim diễm tình thời nay: Sau khi hai người kết hôn, bà Hồng phải rời khỏi căn nhà sang trọng của ba má mà chuyển tới ở trong một căn gác trọ đơn sơ và tồi tàn với ông Trang.
Trải qua bốn năm trời chịu đựng bao gian khổ, ông Trang trở thành một nhạc sĩ nổi tiếng và giàu có, tới mức dư dả mua luôn một căn nhà khang trang và đẹp đẽ để làm tổ ấm cho gia đình mình.
Thành ra mỗi khi viết nhạc, ông Trang thường hay thủ thỉ trong lời bài ca rằng, “Hai đứa tôi thương nhau nên cùng chung chí hướng.”
Hai người đang đờn ca hát xướng – nói chuyện rôm rả, chợt có người tới giao bánh tét nên cuộc trò chuyện đành ngưng lại.
Bác Út Tiếp sẵn đường ghé Kiến Hòa mua dừa mà giao luôn hai cần-xé bánh tét cho chủ khu đất.
Bác đinh ninh người này rất giàu có, ai dè tới chừng diện kiến lại thấy cậu đó khá hơn “Trần Minh khố chuối” ở chỗ có bộ đồ mặc và đôi dép mang vô chân.
Henrico Thạnh đặt bút ký hóa đơn.
Người trả tiền cho hai cái cần-xé này là thím Hai, thím ăn thử thấy ngon nên Tết này muốn phát cho mỗi người trong Giáo xứ một đòn ăn chơi.
Bác Út Tiếp tính lên xe ra về, chợt trời đổ mưa rào nên đành nán lại đụt mưa.
Thấy vậy, Henrico Thạnh liền quày quả xuống nhà sau pha trà đặng bưng lên khoản đãi khách; Stephen Đoàn cũng phụ một tay.
Nhìn cái bình giữ nhiệt làm bằng trái dừa mà bác Út Tiếp cười buồn, bác ngậm ngùi tâm tình:
– Có những bản sắc văn hóa đến từ việc ăn uống hiện nay đã không còn thịnh hành nữa như cà-phê vợt, khuôn bông mai,…!đã bị thay thế bằng máy móc và khuôn đúc theo kỹ nghệ phương Tây.
Rồi lân la tới Tết, Tết cũng đòi áp lịch theo Tây, và đòi bỏ Tết Âm Lịch.
Sau đó là phong trào “Xiển Tây, bài Nho”.
Chưa kể tới là nhiều bậc phụ huynh muốn cho con học theo kiểu Tây, trong khi không chịu lượng coi con mình phù hợp với phương cách giáo dục nào hay bản tâm nó muốn cái gì.
Hai chàng Linh mục trẻ đưa mắt ngó nhau cười xòa.
– Bây giờ có người đẹp còn đòi bỏ bánh trái Nước này vì lý do bảo vệ môi trường.
Mẻ đòi ăn bánh Tây mới chịu.
Có lẽ đã nói hả hơi, bác Út Tiếp thôi không mở miệng.
Bác trầm ngâm ngắm màn mưa trắng xóa phủ mờ cảnh vật buồn tênh ngoài kia.
Chừng mươi, mười lăm năm nữa, không biết nơi đây có bị biến thành những khối bê-tông sặc sỡ như ở Đà Lạt bây giờ không.
Thiên nhiên rất quý, quý còn hơn bạc – vàng, còn thiên nhiên con cháu mình mới còn đường sống.
– Sau này, chủ khu đất muốn xây cất chỗ này ra sao? Có chừa chỗ cho cây kiểng và vườn tược không?
– Có chớ bác…!Chủ đất tính xây cất lối chừng hai phần ba thôi, khoảng còn lại để hoang sơ.
– Ừ, đừng triệt đường sống của chúng.
Hãy để cho xấp nhỏ còn thấy ánh sáng của đom đóm, những bước nhảy của bọ ngựa, cào cào, châu chấu, bửa củi, cánh cam, bọ hung,…!và nghe được tiếng dế gáy, tiếng ve gọi hè, tiếng ếch – nhái kêu vang những đêm mưa,…
Rồi bác Út Tiếp ngại ngùng hỏi:
– Gần đây có chỗ nào bán đồ ăn ngon ngon không hai cậu?
Henrico Thạnh giới thiệu quán hủ tíu gà dì Mai rất ngon nhưng phải tới năm giờ chiều mới có bán.
Nên anh biểu nếu ông đang đói thì đợi anh ra đầu lộ mua cơm tấm thập cẩm cho.
– Làm phiền cậu quá.
Stephen Đoàn giúp người bạn đồng tu bận áo mưa.
Còn lại hai người, bác Út Tiếp mới lòn tay vào túi áo trong của cái áo gió mà lấy ra một bức thơ.
Cầm phong thư trên tay, Stephen Đoàn bàng hoàng nhận ra nó thuộc về mình.
– Thưa Cha, tôi có đứa con trai là Phó Tế, từng học chung trường dòng với Thầy.
Nó đã mất tích cách đây sáu năm, sau một thời gian dài giúp Lễ cho Giáo xứ Saint Pio.
– Ông còn nhớ lần cuối cùng gặp được Thầy là ở đâu không?
Bác Út Tiếp nhăn trán, díu mày thật chặt, dường như đang ráng hết sức nhớ lại khung cảnh bữa đó.
Ông chỉ chỉ vào khoảng không trước mặt:
– Hình như…!bữa đó ông Thành sai nó lên nhà Đức Cha Gabriel Đinh Thái…!Rồi nó mất tích luôn…!Tôi ở lại nhà dì – dượng Bảy một tuần ngóng tin tức, kế ở dưới xưởng bị mắng vốn chuyện giao bánh hư – bánh mốc gì đó nên phải bỏ dìa ngang xương.
Lúc con tôi mất tích, không thấy Cha Cường đâu trong suốt thời gian một tuần…
– Có cơm rồi nè bác Út!
Bác Út Tiếp sửa giọng:
– Chỗ tôi bán bánh phục linh ngon lắm.
Có gì cậu giới thiệu giùm nghen?
Vốn không ưa nói láo nên Stephen Đoàn nhăn mặt đáp, “Dạ.”
– Cha, bánh phục linh hả bác Út? Má con ghiền dữ thần.
Biết vậy con đặt mua mấy hộp rồi.
– Ờ, biết vậy bác giới thiệu luôn với cô Hai một thể rồi.
– Sau mặt anh nhăn dữ vậy Mỹ? Bị chột bụng nữa hả? Có cần tôi mua thuốc cầm không?
Stephen Đoàn gượng cười:
– Có đâu cha.
Bác Út Tiếp nhân đó lái chủ đề sang hướng khác.
Ông kể lại kỷ niệm hái me – uống nước phông-tên rồi bị Tào Tháo dí hai hôm tưởng chết của mình và mấy đứa bạn ngu như mình.
Mới đó mà thời mực tím đẹp đẽ đã cuốn xô theo sóng biếc thời gian, để lại cái đầu đầy sạn và con tim hoài nghi mọi thứ cho ông và tụi nó.
Rồi vừa mở hộp cơm nóng hổi, thơm phức, bác Út Tiếp vừa nói:
– Cha của cụ Phan Ni Tấn là một trong những nhạc công cổ của đất miền Tây, có lẽ điều đó đã ảnh hưởng tới tiết điệu khi soạn nhạc của cụ.
Tự nhiên ngẫm chuyện cũ mà tôi nhớ về cụ và nền cải lương Nam Kỳ.
Hồi xưa tôi ưa nghe tuồng “Trăng mờ soi mả lạnh” của soạn giả Trọng Hiền do chú Minh Cảnh và cô Thanh Hương ca, rồi tự tưởng tượng lỡ may ba má chết hết thì sẽ giống như hai anh em trong truyện mà khóc mùi hơn kép bi – đào sầu.
Henrico Thạnh vỗ đùi cái đét:
– “Phạm Công – Cúc Hoa”?
– Nó đó.
Stephen Đoàn gợi chuyện để hy vọng nét mặt mình bớt khó coi hơn:
– Bác đây có thích bài nào không?
– Bác rất thích nghe chú Hùng Cường ca bài “Truông mây” của Phượng Linh, tức nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông.
Ngoài ra, bác còn thích cô Thanh Nga ca bài “Cay đắng tình đời” cũng do ông Đông sáng tác, trong bài này ông cũng ký tên là Phượng Linh.
Thôi không nói nữa, hai người để yên cho bác Út Tiếp dùng bữa.
Ngoài kia dông nổi như ri, mưa gieo vào lòng nhân thế muôn vàn nốt nhạc thánh thót.
Từng ánh chớp làm rực sáng nền trời thâm u cùng cực, tiếng sấm rền vang như muốn xé tan bầu trời rộng lớn.
Ở đây có ba người đang ngổn ngang trăm mối ưu tư, Thiện – Ác đang phân tranh nơi tâm hồn họ.
oOo
Đặng Thừa Tân tính sẽ nghỉ Tết tới mùng Tám, mùng Chín khai trương để lấy hên.
Hãy còn ba bữa nữa là anh sẽ có mặt ở Kiến Hòa để ăn Tết cùng ông bà, cha mẹ và họ hàng thân thích.
Anh đã chuẩn bị xong hành lý, quà tặng và phong bao lì-xì, giờ chỉ việc lên xe mà đi thôi.
Đã lâu không nghe những bản nhạc thời Tiền Chiến, Thừa Tân bèn mở “Khúc ca muôn thuở” do bộ tứ Quỳnh Lan – Duy Tường – Quốc Sĩ – Như Mai trình bày, nhạc sĩ Anh Hoa đặt lời Việt từ ca khúc “Granada” của tác giả Mễ Tây Cơ Augustín Lara.
Nơi quán ế, những người khách hiếm hoi đang bàn chuyện năm cũ.
Ít vui hơn buồn.
Đâu cũng nghe những tiếng thở than nặng nề và ca cẩm rằng lạm phát trong Nước cùng thế giới bất ổn ngày một leo thang thì làm sao sống nổi đây?
Tiếng chuông gió vang lên “Lanh…!canh…”, “Lanh..
canh…” thật lảnh lót, báo cho Thừa Tân biết có khách vô.
Anh chàng có dáng dấp dân công sở bước lại quầy và hỏi:
– Bữa hổm tôi nghe cô Ánh Tuyết kia ca giọng sao ngộ quá…
Thừa Tân vừa lắc đầu cười vừa giải thích:
– Cô Ánh Tuyết này là cô Ánh Tuyết khác.
Cổ là “cô Bắc Kỳ nho nhỏ” cùng thời với ca sĩ Minh Trang, mà ca sĩ Minh Trang lại là mẹ ruột của ca sĩ Quỳnh Giao.
– Bà có đẹp không anh?
– Là một mỹ nhân kiều diễm.
Đã trải qua hai lần đò: Lần đầu với ông Tôn Thất Tu, và lần cuối là một người sĩ quan Mỹ điển trai.
Anh chàng yêu cầu một bản nhạc của người ca sĩ gắn bó với thời Tiền Chiến rồi gọi một ly bạc xỉu.
Thừa Tân bèn bật bản “Tôi yêu” của nhạc sĩ Trịnh Hưng và thi sĩ Hồ Đình Phương qua phần song ca của Ánh Tuyết và Thái Hằng.
Một người khác lại quầy trả tiền nước, nhân tiện hỏi anh chủ quán về tính danh nhạc sĩ Tuấn Lê.
Và anh trả lời như vậy:
– Nhạc sĩ Tuấn Lê đã từng du học ở tiểu bang Colorado – Hoa Kỳ, và là một phi công khi tuổi đời hãy còn rất trẻ.
Ông là con trai cả của nhạc sĩ Hoài Linh.
Tiếc thay, tài hoa như vậy mà ông mất quá sớm.
Người khách đó yêu cầu một bản nhạc thật lạ mà hiếm ai thời nay còn biết của cố nhạc sĩ.
Sau vài phút đắn đo, Thừa Tân mở bài “Ngày xưa 2 đứa” do song ca Elvis Phương và Công Kim trình bày.
Bảo đảm ai kiếm được bản nhạc trên mạng sẽ có số trúng độc đắc.
“Ngày xưa anh vốn là Tiên sống trên Thượng Giới
Còn em cũng là Ngọc Nữ ở chốn Thiên Thai…”
Người khách hỏi về tính danh của ca sĩ Ánh Tuyết lại cất tiếng hỏi, lần này là lai lịch của ca sĩ Mỹ Thể.
– Mỹ Thể tên đầy đủ là Công Huyền Tôn Nữ Mỹ Thể, cũng thuộc dòng dõi hoàng tộc như Minh Kỳ, Quỳnh Giao, Bảo Tố, Minh Trang,…!và thế hệ đời sau như Billy Shane và Thủy Tiên.
Và, không đợi người ta tốn hơi, anh bật bài “Bóng mát” của Phạm Thế Mỹ do nữ ca sĩ này ca.
“Họa mi xứ Huế” Hà Thanh và nghệ sĩ Duy Khánh đã trình bày bản này rất hay và tràn đầy xúc cảm, “Đóa hoa Thần Kinh” Mỹ Thể biểu diễn cũng không kém cạnh hai người bạn đồng hương của mình.
Ngoài ra, còn có Chế Linh, Miên Đức Thắng và Hương Lan hát cũng khá hợp giọng.
Sau cuộc trò chuyện với người khách, quán nhỏ lại chìm vào sóng nhạc xưa.
Bây giờ Duy Khánh và Sơn Ca đang song ca bản “Mẹ trong lòng người đi” của nhạc sĩ Phạm Duy.
Đã đến giờ lên xe về quê, cậu nhân viên mập mạp hớt hải chạy lại quầy mà thưa Thừa Tân một tiếng.
Anh trao phong bao lì-xì cho cẩu, rồi chúc cẩu thượng lộ bình an.
Cậu mập cũng biếu anh một cặp giò thủ và chả lụa do đích thân mẹ cậu làm.
Trong lúc nói chuyện với người nhân viên khờ ịch, Thừa Tân để ý thấy hai người khách ngồi trong góc cứ ngó mình lom lom, điệu bộ trong không khác chi đám cảnh sát mặc thường phục đang theo dõi ai đó.
– Em đi nghen anh.
– Ờ, lo giữ đồ cho kỹ đó.
Xê qua xích lại còn có cái mình trơn thì coi kỳ lắm đó.
Vừa trở ra từ nhà vệ sinh, vị khách ban nãy lại tới bắt chuyện với anh.
Hai kẻ khả nghi kia vẫn nhìn anh “đắm đuối” như bị “hồn lỡ sa vào đôi mắt em”.
– Anh đố tôi một câu được không?
Thừa Tân bèn mở bản “Giấc mộng viễn du” do hợp ca Ngọc Lan – Duy Quang – Quốc Sĩ – Duy Tường – Như Mai (The Magic) trình diễn lên, và hỏi:
– Tôi đố anh, đây là nhạc ngoại lời Việt hay nhạc Việt rặt?
– Nhạc ngoại.
– Sai bét.
Đây là bài hát của cụ Văn Phụng, được soạn theo giai điệu Fox Modérato.
– Gì? Sao giống nhạc Ấn Độ quá vậy?
– Rất nhiều nhạc sĩ thuộc giai đoạn nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến đã đi trước thời đại rồi.
– Sáng tác nhạc có cần cảm xúc chân thật không anh?
– Anh về nghe thử bản “Dư âm” và “Người giỏi chăn nuôi” của nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý là tự khắc biết lý do.
Bài đầu thuộc thể loại Tiền Chiến, bài sau là nhạc Đỏ.
Sau một hồi nghe nhạc, vị khách “bà tám” cười ngặt nghẽo, rồi hỏi lại xác nhận:
– Có thiệt là cùng một tác giả không anh?
– Một bài đến từ trái tim, còn một bài ra đời vì lý do hết gạo ăn thì sao không khác biệt dữ dội cho được.
Một trong hai người nhìn Thừa Tân đăm đăm tới quầy mà xen ngang vô cuộc tán gẫu của anh và vị khách kia.
Anh ta hỏi:
– Cho tôi hỏi bài hát “An Phú Đông” là do ai sáng tác?
– Trên tờ nhạc của nhà xuất bản “Sông-Vệ Việt-Nam” thì đề “Lê Bình”, nên tôi nghĩ bài này là của ông Bình.
– Kiếm được tờ nhạc gốc thì chuyện xác minh tác giả bài hát dễ như bỡn anh há?
– Chưa chắc.
Hiện tình khúc “Tôi đưa em sang sông” vẫn còn đang cù cưa bản quyền, tới giờ tôi cũng không biết nhạc sĩ Nhật Ngân hay nhạc sĩ Y Vũ trong hai người ai mới là “cha ruột” của tác phẩm.
Ngừng một lát để quan sát thái độ của người còn lại trong băng, Thừa Tân mới trình bày tiếp:
– Ngoài ra, thêm nhạc sĩ Vinh Sử nữa, đã mấy lần bị “khẻ tay” vì tự ý đứng tên chung hoặc nhận mình là chủ nhân của ca khúc do đồng nghiệp trước năm 75 sáng tác.
Những nạn nhân tiêu biểu có Nguyên Thảo, Giao Tiên, Mặc Thế Nhân, Thanh Phương,…!Thành ra, ông Sử không xứng đáng nhận danh hiệu “Vua Bolero”; lời xưng tụng đó phải thuộc về nhạc sĩ Trúc Phương mới phải.
“Lanh canh…!Lanh canh…”
Hai viên cảnh sát đẩy cửa bước vào quán cà-phê đông khách.
Một trong hai người đánh tiếng mời Đặng Thừa Tân lên đồn.
Anh nói sẽ liên lạc luật sư trước rồi mới chịu đi theo họ.
Thật không ngờ, cả hai đồng ý cái rụp, chẳng ai giở giọng hăm he hay quở trách.
Đợi chừng khoảng một tiếng sau, luật sư của Thừa Tân mới có mặt ở quán với khuôn mặt nghiêm nghị và thoáng nét đăm chiêu.
Anh ta không mang theo Laptop, mà xài Ipad cho thuận tiện.
Hai viên cảnh sát khoát tay mời Thừa Tân đi theo mình.
Anh bèn gật đầu đồng ý, viên luật sư cũng bước nhanh theo thân chủ.
– Mày trông quán giùm tao nghen Út?
– Dạ…
Út Nhỏ vái Ông Địa phù hộ mình đừng vọc hư bất kỳ cái máy phát nhạc nào của anh họ.
Ổng giữ của kỹ còn hơn Thạch Sùng.
Trước mắt, Út Nhỏ mở thử cái máy phát nhạc dĩa than.
Cái này dễ nhứt, qua máy Akai mới khó.
Tiếng hát của Thanh Lan “Đời không như là mơ” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng vang lên khá rõ.
Có lẽ Út Nhỏ đã đặt cần quay đúng chỗ.
Cậu tự trấn an rằng nghe chưa êm tai là do dĩa cũ chớ hổng phải cậu ngu, bởi cậu không muốn thay ca – nhạc sĩ Duy Khánh biểu diễn bài “Biệt kinh kỳ” của đôi nhạc sĩ Minh Kỳ – Hoài Linh đâu.
Một ông khách râu tóc bạc phơ bước lại quầy thu ngân, rồi ký đầu Út Nhỏ cái cốc.
Đoạn, với tay sửa lại cần quay.
– Tao muốn nghe nhạc xưa chớ hổng muốn nghe tiếng cào móng tay ken két của ma nữ, thằng dịch vật.
Út Nhỏ khẩn khoản nài:
– Thôi ông lên đây làm “DJ” giùm con…!Mấy cái này con mà làm hư là ảnh chửi con sói trán luôn…
– Chớ tao xài hư nó hổng nhiếc tao tới chết hả?
– Ông ơi, xin ông hãy hát bài “Vâng!” của nhạc sĩ Trần Khánh Nguyên, chớ đừng hát bài “Không” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9.
– Giờ tao muốn ca bản “Đã lỡ duyên rồi” của hai ông Thanh Phong và Nguyễn Đào Nguyễn được hôn?
Người nhân viên chạy bàn có đôi mắt sáng như sao pha lửng:
– Hai ông – cháu đối đáp một hồi nó điên lên nó ca bản “Đường trần còn ai đó không?” của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân là nguyên quán chạy nạn đó.
– Gì? Ở đây có dĩa nhạc đó hả? Sao không nói sớm tao vô phụ liền?
Bài hát “Đường trần còn ai đó không?” của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân chỉ có mỗi ca sĩ Nam Kỳ Trúc Ly trình bày.
Sau này không còn ai biểu diễn hay nhắc tới.
Thành ra rất nhiều vị khách cảm thấy tiếc nuối khi một ca khúc về kiếp nhân sinh hay như vầy đã bị quên lãng.
– Còn bản nào hiếm lạ nữa không bây?
Út Nhỏ reo lên:
– Còn, còn bản “Ngỏ ý” của Hoài Phương, tức bút hiệu của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông, cũng do cô này hát.
– Xoàng quá!
– Rồi, “Sinh trong thời chiến” của đôi nhạc sĩ Hoài Nam – Thanh Ngọc, người trình bày là nữ ca sĩ Phương Ngọc.
Có người tới giao cam sành nên cậu Út đành cắt ngang cuộc nói chuyện mà đứng đó la vống lên với thằng bạn đang quét nhà.
Nó càm ràm một tiếng, rồi cắm đầu cắm cổ lại nhận cam sành; trước khi ký hóa đơn xác nhận, nó săm soi từng trái để mai mốt không bị ông chủ quán nhằn điếc lỗ tai.
Người giao hàng chỉ còn có nước than trời, rồi kiếm ghế ngồi đợi thằng cha khó chịu kiểm tra cam xong.
– Bài này tuy quen mà lạ, bởi màn song ca của Giang Tử và Trang Mỹ Dung, nhạc phẩm đó có tên “Không phải tại chúng mình” của hai tác giả Ngọc Văn – Thương Linh.
Ông nghe chưa…
Hai người khách kỳ khôi kia vẫn ngồi cố lì ở đó, và ngồi nhìn chăm chăm về phía quầy thu ngân…
oOo
Mai vàng đã nở rộ khắp Giáo xứ St.
Pio.
Trăm loài hoa cũng đã khoe sắc ở mọi nơi.
Trên những cành cây thâm thấp treo đầy những phong bao lì-xì mang màu vàng hoặc đỏ.
Ở đâu cũng thấy bà con xóm Đạo chụm củi – nhóm lửa nấu bánh tét và thịt kho tàu – do sợ nấu riêng ăn không hết nên mọi người bèn xúm lại nấu chung.
Tiếng ca Thái Thảo và ban “The Magic” trong bài “Tình yêu” phát ra từ quán cà-phê nương bóng dưới tán cây sanh.
Không rõ ai là người đã đặt lời Việt từ ca khúc “Con el Chacha”.
Bài này Lưu Bích ca cũng hay.
Không biết vì lý do gì mà mấy đứa con gái cứ đứng ở lan-can quán ngó ra mà e lệ cười khúc khích.
Cha Thành sẵn tánh nhiều chuyện nên cũng bương ra coi thử, rồi sửng sốt kêu lên:
– Ở đâu ra cái tượng thần Hy Lạp vậy?
Ngoài Cha Trung, từ hồi đó tới giờ Cha Thành chưa từng gặp ai đẹp tuyệt trần như vậy.
Người đàn ông đó đang đứng trò chuyện với Cưỡng – thằng nhiều chuyện trên cụ một bậc, hình như anh ta đã nhờ nó chỉ đường.
Kế, Như Mai ca lời Việt thứ hai của tình khúc trên, mang tên “Niềm vui của lứa đôi”, dường như đang dự đoán số phận của ai không may rơi vào lưới tình của người này.
Lời Việt này của nhạc sĩ Phạm Duy.
Từ tiếng nói tới điệu cười, cho tới cử chỉ đều hết sức thanh nhã và quyến rũ, lại thêm lối bắt chuyện rất hay nên càng làm mấy đứa gái xứ Đạo mê mẩn.
Cha Thành đánh tiếng hỏi:
– Con là ai vậy?
Người đàn ông đó quay lại nhìn cụ và cúi đầu chào một cái trước khi bắt đầu giới thiệu bản thân:
– Dạ, con là Trương Vĩnh Đức, Mục sư của Hội Thánh Tin Lành Lutheran.
Bữa nay con tới đây để kiếm nhà người em trai đồng Đạo, tên đầy đủ Võ Kiến Tường.
– Con đẹp quá chèn.
Ông mà còn “mê” huống hồ chi mấy cô, mấy bà.
Nhờ sự sốt sắng của Cha Thành và Cưỡng mà Ba Đức kiếm được nhà của em Năm.
Trước khi chia tay, anh lì-xì cho mỗi ân nhân hai phong bao đỏ thắm.
Năm Tường đang giúp Út Nhót tập vật lý trị liệu ở sân trước.
Út Nhót đã đi được hai mươi mét thẳng thớm mà không cần cậy tới cây nạng hay người dìu.
Thấy Ba Đức đứng xớ rớ ngoài cổng, Út Nhót giựt thót tim vì vẻ ngoài quá ư đẹp trai của chàng ta, nhưng chợt nhớ con ghệ của mình chắc không với tới người này nổi đâu nên hết còn sợ.
– Út Nhót, tôi xuống nhà nói chuyện riêng với anh Ba Đức nha?
– Ờ, anh cứ đi đi.
Năm Tường đi trước dẫn đường, Ba Đức lẽo đẽo theo sau.
Qua khỏi lũy tre xanh rì rào, đã tới ngôi nhà nhỏ của chàng Mục sư Cố Đô.
Trước nhà chưng một cặp bông cúc vàng và một chậu hoa giấy hồng rực; sau nhà có để hàng lu hứng nước mưa từ máng xối để phòng những hôm cúp nước.
Nhà này ở một người thì quá rộng, nhưng rất chật với gia đình có số người từ ba trở lên.
– Sao Năm không ở chung với tôi cho vui?
– Mần răng mà yêm ở chung với cha của iên Ba đặng.
– Năm Tường vẫn còn sợ tánh tình cổ quái của ông Trương Hạc Đức.
Ác không ra ác, tốt không ra tốt, chẳng biết đường đâu mà lần.
Biết cha mình “đánh Trời không mời Thiên Lôi”, Ba Đức chỉ biết xoa đầu cười gượng.
Năm Tường tra chìa vào ổ khóa cửa cái, rồi vặn tay nắm cửa để mở cửa vô.
Gian phòng khách của Năm Tường có một cặp lục bình khá lớn, nghe đâu đây là quà tặng của một Cơ Đốc Nhân mở xưởng làm đồ gốm nhân dịp sinh nhật của anh.
Trên hai chiếc bình vẽ phong cảnh Cố Đô Huế, với sông Hương, núi Ngự, chùa Thiên Mụ, đồi Vọng Cảnh, chợ Đông Ba, cầu Trường Tiền, thôn Vỹ Dạ và một góc hoàng thành.
Tuy nhiều chi tiết lắt nhắt nhưng nhờ họa sĩ lành nghề nên hình vẽ không bị rối mắt và “tạp nham”.
– Đây có phải là lục bình phong thủy không Tường?
– Trời, đâu có…!- Năm Tường phì cười.
– Ảnh nói khách hàng thích và muốn vẽ cảnh gì thì ảnh sẽ chiều theo ý người đó.
Đương nhiên những biểu tượng phản Chúa, xúc phạm tôn giáo khác và đồi trụy – khiêu dâm – cổ xúy cho cái Ác ảnh sẽ nhứt quyết không nhận làm.
Ngoan Đạo là tốt, nhưng đừng có cuồng Đạo thái quá như nhìn đâu cũng ra kẻ lạc Giáo, chống Chúa và phỉ báng Kitô thông qua đồ vật mà người đó sở hữu.
Ba Đức nhớ tới một bài viết đăng trên Facebook, rồi lắc đầu cười một mình.
Biết anh Ba thích ăn mứt chùm ruột nên Năm Tường nhờ má con cô Ba Thoa đi mua giùm.
Dẫu thừa biết cách lựa keo mứt ngon, song anh vẫn không thể tự đi mua vì đầu tắt mặt tối với công việc hằng ngày.
Hai anh em đang ăn mứt – uống trà và trò chuyện rôm rả, chợt nghe ngoài cửa có người gọi thì ngừng cuộc phiếm luận.
– Ông Sáu?
Ông Sáu Giàu hết bóp tay này rồi lại đến tay kia:
– Con chở ông tới nhà thương được hôn? Tự nhiên sáng nay cái chân của ông sưng tù vù, đi trên đất bằng mà tưởng đi trên bàn chông – đá sỏi.
Năm Tường quỳ một gối dưới chân ông Sáu Giàu.
Sau một lúc thăm khám, anh đứng bật dậy mà nói:
– Dạ được…!Đi liền đi ông.
Ba Đức và Năm Tường dìu ông Sáu Giàu ra ngoài chỗ đậu xe.
Nhác thấy Út Nhót đang vịn tay vô hàng rào trà để tập đi, Năm Tường biểu anh ta theo mình tới bệnh viện tái khám.
Sẵn đang rảnh rang, Út Nhót gật đầu cái rụp.
Họ đến đó bằng chiếc xe Rolls-Royce của Ba Đức, và người cầm lái đương nhiên là vị Mục sư này.
Ông Sáu Giàu muốn thử coi dàn loa của chiếc xe sang trọng ra sao nên đánh tiếng muốn nghe những bài về quê hương của Năm Tường.
Anh bèn bật bản nhạc “Về quê ngoại” do Duy Khánh ca, một sáng tác của nhạc sĩ Hàn Châu:
“Anh xin mời em, xuôi về miền Trung xa lắc lơ
Nơi quê hương anh, có hàng dừa xanh, có ngàn câu hò thắm tình dân tộc…”
Trước lúc tới nhà thương, Ba Đức ghé nhà thờ để chỉ huy ca đoàn Hội Thánh.
Nhà thờ của Hội Thánh có lối kiến trúc theo kiểu Gothic kết hợp với Roman.
Nếu không có Ba Đức và Năm Tường khẳng định đây là đâu, chắc hai ông cháu đã quả quyết chỗ này là cung điện hoàng gia.
– Ai là người đã biến một miếng đất nhỏ xíu, xéo xẹo thành hoàng cung vậy hai đứa?
Năm Tường bật cười:
– Là Thầy Trịnh, một trong bốn người Thầy của tụi con.
Thầy là cử nhân ngành Kiến Trúc, đã từng du học bên Pháp.
– Chắc tốn bộn tiền hén?
– Nói chắc ông Sáu không tin, chứ vật liệu xây cất toàn là lựa từ đồ phế thải hoặc mua mão từ những ngôi nhà cũ.
– Đúng là phép màu của Chúa!
Bên trong đang cử hành Thánh Lễ, diễn giả là Chu Vịnh Nghĩa và Lưu Thanh Tân, người tới nghe giảng được đâu hàng trăm.
Trong lúc đợi buổi Lễ kết thúc, Năm Tường và Ba Đức mời hai ông cháu vô sân ngồi ăn hủ tíu gà do Ngô Kỳ Anh và Dương Thoại Khanh nấu.
Chiều nay đại gia đình Sáu Giàu mới đi Lễ bên mình.
– Chắc má Thầy Khanh khoái coi tuồng cải lương “Thoại Khanh – Châu Tuấn” lắm há?
Năm Tường cười vang:
– Trời, ông Sáu đoán trúng phóc.
Bác trai cự dữ lắm nhưng bác gái năn nỉ hung quá nên đành chiều theo.
Tại vì bác gái sợ sanh hết được, dè đâu mới có một năm sau “tòi” ra nhỏ gái, bác trai lại đòi đổi tên, bác gái lại đổ thừa “đó là ý Chúa” muốn nên thằng Bảy giữ luôn cái tên này.
Ba Đức bổ sung:
– Năm nào mà có đứa tên Tuấn, nó cũng bị mấy đứa bạn đem ra ghép cặp hết.
Tô hủ tíu có thịt gà xé, ba miếng pa-tê, hai cái trứng cút, một cục sườn non có gân giòn giòn và ba con tôm luộc, cùng giá, hẹ, tần ô và hành phi với mỡ hành.
Nước lèo nấu từ xương ống và rau cải – trái cây vốn đã ngon ngọt, lại còn bỏ thêm khô mực nướng và tôm khô nên càng đậm đà.
Trước lúc lên phòng giảng, Ba Đức nhắn:
– Ăn hết thì lấy nữa nghen ông với anh Nhót.
Ông Sáu Giàu ghẹo:
– Ờ, tụi bây lo mà rửa tô trước đi.
Ba Đức bật cười khanh khách, rồi chúc hai ông cháu ăn ngon miệng.
Trước khi cầm đũa lên ăn, hai ông cháu đọc lời tạ ơn Thiên Chúa, chắp tay cầu nguyện và làm dấu Thánh.
Tan Lễ, Năm Tường trở ra trước để coi sóc hai vị “Độc cước đại hiệp”.
Ba Đức cũng đã dặn dò xong ca đoàn nên theo chân em trai ra ngoài đây.
– Túi ni iêng yêm nào dạy?
Ba Đức trả lời:
– Có iêng Hai cầm tay thước.
Bảy Khanh vừa từ nhà vệ sinh trở ra, chưa kịp lên Cung Thánh phụ việc anh em thì đã bị Năm Tường gọi giật lại:
– Túi qua mi đi kéo ghế ở quán o Tư hẻ?
– Dạ?
– Cậm bề mi đân chộ nớ nỏ ngán hỉ?
Biết anh Năm đã thấy mình ghé quán hủ tíu gõ của hai má con thím Tư, Bảy Khanh tủm tỉm cười:
– Mần răng mà ngán.
– Ni mô tau thấy mi đân ở tề suốt.
Ông Sáu Giàu chưng hửng hỏi:
– Nãy giờ hai đứa nói tiếng Pháp hả?
Năm Tường cười đáp:
– Dạ, tụi con nói tiếng Huế với nhau cho vui.
Rồi người Mục sư Thần Kinh đó lại hỏi “kép Thoại Khanh”:
– Mười Anh ở mô hè?
Nhưng Ba Đức giành trả lời:
– Hấn ở ngoài cươi.
– Hấn đân chưa?
– Đân rồi.
Út Nhót vừa cầm khăn giấy lau miệng vừa đưa mắt nhìn Ba Đức tỏ vẻ không hiểu mô tê chi sất.
Bảy Khanh và Năm Tường đã nói sang chủ đề khác, về chuyện phát quà cuối năm cho những em nhỏ trong Hội Thánh.
Người đài thọ cho chương trình này dĩ nhiên là Ba Đức và Chín Tân.
– Con “phiên dịch” cho ông Sáu hiểu đi con…
– Dạ, Tường hỏi con ai dạy học lớp dự tòng tối nay, ẻm nói có anh Hai lo rồi.
Kế, em hỏi thằng Bảy ăn hoài một quán không ngán sao, thì thằng Bảy nó trả lời, “Không”.
Tiếp, nó hỏi thằng Mười đang ở đâu, con trả lời là ở ngoài sân; sau đó ẻm hỏi thằng “áp Út” có gì bỏ bụng chưa, con mới đáp nó ăn rồi.
Ước khoảng mười lăm phút sau, Năm Tường và Ba Đức mới đưa hai ông – cháu tới bệnh viện.
Vừa cài dây đai an toàn, ông Sáu Giàu vừa thông báo:
– Cho ông rút lại ý định làm mai mối giùm con nghen Tường.
Năm Tường mủm mỉm cười.
Rồi cất giọng mời ông Sáu nghe một bài hát mà anh yêu thích.
Tiếng ca của Chế Linh trong bài “Giọt buồn xứ Huế” do nhạc sĩ Thái Ngọc Sơn sáng tác đã làm cuộc trò chuyện của nguyên đoàn đình lại.
Tết Mậu Thân 68 đã khiến rất nhiều nhạc sĩ ở miền Nam, kể cả những người rất ít tham gia văn nghệ, phải đặt bút sáng tác một bài tưởng niệm cho miền Cố Đô này.
– Nhạc chi kim sanh rứa.
Út Nhót hỏi ý nghĩa của hai chữ đó.
Và Năm Tường giải đáp như sau:
– Hai chữ “Kim sanh” bắt nguồn từ người kỹ sư Canh Nông từng du học Pháp tên Võ Điền Sanh có tài chơi đàn vĩ cầm rất giỏi.
Sau khi về Nước, ổng mở quán cà-phê “Kim Sanh” và biểu diễn thanh nhạc ở đó.
“Kim sanh” từ đó có nghĩa là “ướt át”, “ủy mị”, “hơi sến”, “lãng mạn”, “lâm ly bi đát”,…
Tại bệnh viện, bác sĩ chẩn đoán ông Sáu Giàu bị giãn tĩnh mạch.
Cái tin sét đánh đó làm ông buồn thỉu buồn thiu.
Bởi lẽ ông đã bị cao huyết áp, mỡ máu cao và gan nhiễm mỡ, giờ còn gánh thêm căn bịnh quái ác này nữa thì sống thọ để làm chi? Ông quạu quọ nói nhỏ, “Mẹ, lại thêm một nùi thuốc nữa.”
Người bác sĩ trẻ nói trong khi vẫn dán mắt vô bản phim tia-X:
– Bịnh này mới khởi phát nên có thể trị hết.
Xin ông đừng quá lo lắng.
Năm Tường giới thiệu mình là điều dưỡng nên có thể giúp được ông Sáu Giàu.
Nghe vậy, người bác sĩ trẻ bèn ôn tồn trình bày cách chăm sóc và những bài tập trị liệu để giúp ông bịnh nhân phục hồi thật mau chóng.
Về phần Út Nhót, không có vấn đề gì đối với cây nẹp và mấy con ốc vít bắt cố định khung ống xương chân.
Có điều bác sĩ thăm khám cho anh dặn anh đừng tập đi quá sức, mau lành đâu chưa thấy mà thấy đã để lại biến chứng rồi.
Hơn mười một giờ trưa, Ba Đức mới đưa hai ông – cháu về lại xóm Đạo.
Chắc giờ này con cháu của ông đã làm cơm xong.
Quả đúng như trong dự đoán của Ba Đức, ở nhà đã mua vịt về nấu cháo đãi anh và người em trai.
Trong nhà đã bày mâm – sắp chén sẵn sàng, chỉ chờ họ vô là múc cháo thôi.
Nhìn lên bàn thờ gia tiên, Năm Tường khen ngợi:
– Cô Ba Thoa đơm quả phẩm khéo quá.
Ông Sáu ngó sang Ba Đức mà đưa mắt cầu cứu.
– Ý nó là cô Ba Thoa chưng mâm ngũ quả khéo quá.
Dù muốn dù không, ông Sáu vẫn phải “trình báo” lại kết quả khám sức khỏe của mình cho con cháu hay, rồi nói rằng sáng mai sẽ cam kết kiêng cữ đàng hoàng.
Giờ chẳng lẽ lại bắt cha – ông mình nhịn đói bữa trưa, nên con cháu ông Sáu Giàu đành du di cho qua.
Họ không ngờ rằng càng già cha – ông họ lại thêm một căn bịnh mới, dẫu mọi người đã ra sức tẩm bổ và mua thảo dược quý về uống phòng bệnh.
Sau bữa ăn, ông Sáu Giàu nhờ Năm Tường đẩy xe lăn giùm mình để đi nghe pháo nổ đì đùng ở các quán xá trong xóm Đạo.
Ba Đức cũng sánh bước theo.
Nơi đây không có cây chi tới từ những miền đất xa xôi, lạ lẫm.
Bốn bề là cây cỏ, cây ăn trái, cây bông hay cây cho bóng mát quen thuộc của xứ Nam Kỳ.
Mùa này Giáo xứ có bông mai, bông ô-môi, bông bần, bông bụp, bông sơn trà, bông hoàng điệp, bông trang, bông giấy, bông cúc, bông vạn thọ, bông hướng dương, bông sứ,…!và còn gần trăm loại hoa khác mà chẳng ai nhớ tên nổi.
Dưới chân tượng Đức Mẹ Đồng Trinh, các bà – các cô trong xứ đã kết một vòng hoa dâng Bà thật đẹp và trang trọng.
Ở trong Thánh Đường, dưới sự chỉ dẫn thận trọng của Cha Giuse – Blanc Thành, tiểu cảnh và vòng hoa trang trí được sắp xếp vừa phải và không gây ra cảnh áng ngữ tượng/tranh/ảnh/biểu trưng của Chúa Thánh Thần, Đức Mẹ, Thiên Thần và các Thánh Tông Đồ.
Ngặt vì thời buổi khó khăn nên Chúa Nhựt ở đây quán xá vẫn mở cửa.
Nhưng chỉ bán từ lúc mười một giờ trưa cho tới bốn giờ chiều rồi ngưng, để dành thời gian tham dự Thánh Lễ.
Ba Đức ghé vô một xe nước mía và sâm lạnh mua ba bịch nước uống.
Ông chú người Hoa, là dân Lương, nhưng được phép bán hàng ở đây.
Giáo xứ còn rất nhiều đất trống nên cố Toàn khuyên bà con Giáo dân cho dân Lương vô ở và buôn bán chung cho vui; tiền bán đất và mướn chỗ kinh doanh được sung vào công quỹ của Giáo xứ để phục vụ đời sống mọi người, nhưng bây giờ một phần ba món tiền đã bay biến theo Cha Thành giả mạo.
– Ngộ đẹp quá chời quá đất luôn.
Nị thấy mấy cô, mấy bà ở đây cứ ngó nị hoài.
Hay là nị ngồi đây làm người mẫu thương hiệu cho nị bán đắt hàng đi?
Ba Đức vỗ vai ông chủ xe nước chỉ lớn hơn mình có tám tuổi mà cười vang.
Rồi móc bóp lấy ra một phong bao lì-xì vàng rực như sắc mai đang trổ thắm trên cành cây gần đó và đưa nó cho ông chủ quá tứ tuần.
Ông chủ mở cái phong bao lì-xì ra kiểm.
Gương mặt chú còn tươi hơn đóa hướng dương đang nở rộ.
Chú rối rít cảm ơn, rồi chúc Ba Đức rất nhiều lời cát tường và êm tai.
Ba người đưa nhau đi khỏi khu buôn bán sầm uất và hết sức rộn rịp để tới những con lộ tráng xi-măng sơ sịa đặng lắng nghe nhạc thiên nhiên trẩy hội.
Ngang qua bờ mía của nhà ông Tám Què, bộ ba nghe thấy giọng của Tuấn Ngọc và Ngọc Lan, hai người ca sĩ đó có khi song ca, có lúc lại hát đơn.
– Đĩa nhạc này hình như anh Ba có?
– Phải.
CD “Tôi với Người đã quên”, hai ca sĩ biểu diễn xuyên suốt đĩa nhạc là Tuấn Ngọc và Ngọc Lan.
Ông Sáu Giàu nói:
– Tính ra cô Ngọc Lan song ca với gần hết các nam ca sĩ thời đó…!Chỉ trừ Mạnh Đình, Mạnh Quỳnh, Anh Khoa, Thái Châu,…!là chưa thấy hát chung.
Ông Tám Què đang lui cui nơi bờ mía nhà mình, ngó thấy hai người đàn ông tướng tá cao ráo, sáng sủa thì mặt ủ mày chau, bởi ông sợ con Liễu sẽ lên cơn điên nếu gặp họ.
Từ nỗi niềm thương con, ông không tiếc của mà đánh tiếng mời ông Sáu Giàu qua chặt mía.
Biết ông Tám Què đang đuổi khéo mình, ông Sáu Giàu biểu Năm Tường qua chặt mía giùm.
Được đâu chục bó, bộ ba cất giọng cáo từ ông Tám Què.
Ra nhà mát gần quán cơm của dì Năm, Năm Tường ngỏ lời:
– Để con riến mía cho.
Ông Sáu Giàu hất cằm nhìn Ba Đức:
– Phiên dịch.
Ba Đức bật cười:
– “Róc mía” đó ông.
– Trời!
Dì Bảy ngó mấy cây mía ngon quá thì ra xin một cây đem về.
Ông Sáu Giàu bèn cho luôn năm cây; bởi ngoài con Ba Thoa ra, chẳng có ai trong nhà ông hay hai cậu đây thích ăn mía.
Dì Bảy lại nhờ Năm Tường róc mía giùm.
Chàng Mục sư Thần Kinh bèn xắt thành từng khúc nhỏ giùm luôn, mấy năm đi theo xe bán nước mía ở Sài Gòn đã cho anh kinh nghiệm riến mía tuyệt đỉnh.
Bên cạnh Năm Tường, ông Sáu Giàu đang mở bản “Gởi niềm thương về Huế” do đôi nhạc sĩ Tuấn Hải – Cao Lê sáng tác, người hát là ca sĩ trước năm 75 Mộng Tuyền.
Bài này thường được biết đến qua giọng ca của Hoàng Oanh.
Mọi người đang ngồi bàn chuyện rôm rả, chợt cha của Ba Đức nhắn con ra nhà hàng ăn cơm với mình.
Sáng giờ ăn quá trời ăn rồi còn ăn cái gì nữa? Song anh vẫn sửa soạn tới đó để làm vui lòng đấng sinh thành.
Năm Tường dẫn đường cho Ba Đức ra quán cà-phê hồi nãy để lấy xe.
Vừa đi, hai anh em vừa thảo luận về chương trình truyền Đạo sắp tới; cũng may Mười Anh đã lấy lại được uy tín và phục hồi danh dự của bản thân.
Chưa lại gần mà tiếng nhạc sôi động của những giai điệu New Wave, Chachacha, Tango, Bebop, Swing,…!thời thập niên Tám Mươi, Chín Mươi và những năm Hai Ngàn đã vọng tới chỗ hai anh em.
Rất nhiều người trong số họ đã thành người thiên cổ, có người đã ly dị, thậm chí có người còn đi chuyển giới và yêu luyến ái.
Ba Đức cảm thấy ngồ ngộ khi nghe thấy liên khúc “Medley II” do hợp ca Billy Shane – Duy Quang – Thúy Vi – Minh Phúc – Trung Thành biểu diễn.
Màn hòa âm phối khí của toàn bộ liên khúc tự nhiên rất lạ tai với anh.
Trước khi từ giã Ba Đức, Năm Tường tâm sự:
– Phải làm vậy ông Sáu mới bỏ ý tưởng làm mai cho em.
Ba Đức vỗ vai Năm Tường mà cười phán:
– Ông về làm rể nhà ai, sui gia nhà đó điên luôn.
oOo
Bữa nay mùng Hai Tết, Ignacio Cường rảo bước trong vườn mai-rừng để thưởng lãm dư vị xuân thì ấy.
Nơi đây vẫn còn một cái miễu nhỏ, bên dưới là mộ phần của người đã hiến đất cho Giáo xứ, quanh năm hương khói nghi ngút và trái cây, bông viếng đủ đầy.
Người Cha Sở trẻ không ngại dơ mà ngồi bệt xuống đất nhằm phía đối diện cái miễu nhỏ.
Người nằm đây theo Đạo Cao Đài, là một cư sĩ độc thân vui tính, nghe Cha Vincent Trung muốn mua đất nên cho không nguyên vùng này; chỉ xin một điều kiện là được mồ yên mả đẹp ở đây, vì đây là đất hương hỏa của gia đình nên không muốn an nghỉ ở chỗ khác.
Vậy là sau khi Cậu Bảy mất, để tri ân Cậu, Giáo dân bèn lập cho Cậu cái miễu nhỏ.
Tang lễ của Cậu tổ chức ở Tây Ninh, trong một khu xóm gần Thánh Thất Cao Đài, bữa đó Cha Vincent Trung, Cha Phó, Thầy Phó Tế và vợ chồng Chủ tịch Hội Đồng Mục vụ có xuống tham dự; thấy nguyên đoàn là người Công Giáo, gia đình Cậu mới nhỏ nhẹ khuyên rằng hãy dự tang theo cách bên Đạo mình, không cần phải theo nghi thức bên Đạo gia đình Cậu, thành ra “vui vẻ cả làng”.
Mới cặm xong ba cây nhang vô lư hương của Cậu Bảy, Ignacio Cường nghe thấy tiếng chụp ảnh “Tanh…!tách…” Anh quạu đeo quay mặt lại nhìn coi ai vô duyên dữ vậy, thì bắt gặp một người đứng lom khom phía sau cây mai lùn.
– À, xin lỗi Cha nha…!Tại góc nghiêng khuôn mặt Cha đẹp quá nên tôi muốn ghi lại vài pose.
Nói đoạn, thợ nhiếp ảnh đưa máy ảnh cho Ignacio Cường coi hình chụp.
Giữa màn sương mờ bảng lảng của buổi sớm mai, chung quanh trăm hoa đua nở, tấm áo chùng thâm càng làm dáng quỳ cặm nhang của anh trở nên vô cùng nổi bật và gợi một nỗi thâm u cố cựu cho người thấy; hào quang ngày mới rải xuống cội cây già cao nhất trong vườn và nằm cách cái miễu chừng mười mấy mét, vô tình hắt nắng lên người anh, từ đó biến thân hình anh bừng sáng một cách tự nhiên tới nỗi khó tin.
– Rất đẹp phải không? Như một Thiên Thần của Thiên Chúa.
Bây giờ Cha mà ngồi lại chỗ đó để tôi chụp sẽ không còn được giống vầy đâu.
Có những khoảnh khắc trong cuộc đời chỉ xuất hiện một lần thôi.
Ignacio Cường cười gượng.
Anh vốn không ưa đứng trước ống kính nên chẳng bao giờ có được tấm hình dễ coi.
Hồi truyền chức Linh mục, Cha Augustino Dương phải chọc hoài anh mới có được bức ảnh ăn ý; tội nghiệp Thầy Phó Tế, Thẩy biểu, “Cha Dương ơi, cho con xin ghi danh xưng tội, nãy giờ con chửi thằng này trong đầu quá trời quá đất.
Có mỗi tấm hình mà nó đày đọa thân già con.”
– À, miễu này thờ ai vậy Cha?
Ignacio Cường khoát tay:
– Nhiều người hay quan niệm cứ thắp nhang cho ai là đang thờ người đó.
Không, đâu thể quy chụp kỳ cục vậy.
– Dạ, mong quý Cha giải thích rõ hơn.
– Chữ “Cúng” trong con mắt của chúng tôi và các Thầy mang hàm nghĩa “Tưởng niệm”, “Biết ơn” và bày tỏ lòng tiếc thương với những người đã khuất, hay tri ân chiến sĩ trận vong và anh hùng quê cha đất tổ…
– Còn vụ cúng Ông Táo thì sao Cha?
– Mình thực hiện với suy nghĩ đây là phong tục từ hồi xưa tới giờ thì sao gọi là thờ được? Chẳng lẽ ăn Tết Trung Thu là thờ Hằng Nga, Chú Cuội, Cây Đa và Thỏ Ngọc à?
– Cha mang tư tưởng như vậy coi chừng…
– Coi chừng sao? Chỉ có chính anh mới biết anh phản Chúa hay không mà thôi.
Rồi Ignacio Cường trình bày tiếp:
– Thành thử ra, Tết Trung Thu chỗ tôi có thắp nhang trên bàn thờ gia tiên và sắp dĩa bánh, bình bông lên trển, coi như một cách tưởng niệm và kính viếng ông bà.
– Ai là người truyền bá hệ tư tưởng này vậy Cha?
– Là Đức Cha Vincent Cao Nhật Trung.
Cha dặn chúng tôi nếu thấy nấm mồ hoang bên đường thì hãy kính họ ba nén nhang thơm, để họ bớt lạnh lòng.
Và nếu thấy đồ cúng bị đổ vương vãi trên mặt đất, hãy sắp lại ngay ngắn giùm cho họ.
Những gì mà Cha đã từng trải qua ở Huế đã làm nửa đời sau của Cha phải đặc biệt lưu tâm tới chuyện này.
Cha Trung ưa nghe bài “Chuyện một đêm” của nhóm nhạc sĩ Lê – Minh – Bằng, trong bài này các ông ký tên là Anh Bằng – Vũ Chương, nội dung tưởng niệm các oan hồn Tết Mậu Thân.
Cô Hoàng Oanh ca bài này nghe buồn lắm.
Người thợ nhiếp ảnh thắc mắc sao nơi đây ít bà con quá.
Ignacio Cường buồn bã trả lời:
– Từ khi người giả mạo kia vô, Giáo dân bỏ đi gần ba trăm người vì bất mãn và không tùng phục những yêu sách của ông ta.
– Hèn gì mà đất trống nhiều quá.
Mà, ở đây có người Lương không anh?
– Có.
– Họ có bị bắt theo Đạo không?
Ignacio Cường cười lớn, rồi nhìn gã trai khoái hỏi lắt léo mà đáp:
– Độc thần chứ không phải độc tài.
Chừng nào Chúa gọi thì người ta sẽ về với Ngài, ép uổng làm chi.
– Cha Cường!
– Cưỡng?
Bữa nay Cưỡng mặc quần jeans xanh mới cắt chỉ, áo sơ-mi ngắn tay màu trắng hơi mỏng, còn chân mang đôi giày hiệu màu đen rất đẹp.
Đầu tóc cũng được chải chuốt gọn ghẽ, vuốt keo láng coóng, hình như đã qua cắt tỉa ở tiệm rồi.
Còn râu ria thì cạo sạch boong, làm gương mặt anh ta thư sinh thấy rõ.
Ignacio Cường khen người Giáo dân bảnh tỏn, anh ta ngượng nghịu gãi đầu cười duyên rồi thưa:
– Dạ, nhà tôi mời Cha sang ăn cơm chung cho vui.
Anh kia nếu muốn thì đi theo luôn.
Thợ chụp hình cười lớn:
– Gì chứ ăn thì tôi không khách sáo đâu.
Ignacio Cường thay sang áo dài xanh dương và mang guốc mộc.
Dù người ta không nói ra nhưng anh vẫn biết mùng Một Tết mặc đồ đen tới nhà người ta coi không hay chút nào.
– Mặc đồ vầy coi bớt nghiêm nè…!Thường ngày nhìn Cha khó gần quá hà.
Ngôi nhà xây hình chữ Đinh, bên hông trái trồng một cây sa-pô-chê, sau lưng cái cây già ấy là một vườn rau cải xanh tốt coi thiệt đã con ngươi.
Để đáp ứng thú chơi cờ tướng của ông nội, gia đình bèn đặt làm một bộ bàn ghế bằng chất liệu đá hoa cương rồi để bên dưới gốc cây lâu năm; chiều nào mấy ông bạn cờ cũng tắp vô đánh vài ván và ngồi nói dóc tới tối mịt mới chịu tan hàng.
Chiều nay Giáo xứ mới tổ chức Thánh Lễ “Kính nhớ Ông Bà – Tổ Tiên”, vì có một số trục trặc kỹ thuật và tiểu cảnh bày trí chưa đẹp mắt, cũng như Cha Lớn bị trúng gió nên phải dời lịch sang buổi khác.
Thành ra ai nấy đều ráng ăn cơm sớm cho thật no để chiều nay lo chú tâm dự Lễ tới tối.
Mâm cơm ngày Tết đương nhiên không thể thiếu nồi thịt kho tàu, dĩa củ kiệu chua ngọt và tô canh khổ qua; do muốn thay đổi khẩu vị nên gia đình chọn chả cá thác lác cho món canh thanh nhiệt – mát gan này.
Ngoài ra, phái đẹp trong nhà còn nướng sườn heo non, trộn gỏi, phá-lấu bao tử bò, làm tôm chiên bột và chả giò rế, ram bì ăn với bún.
Trước lúc vô bàn ngồi, Ignacio Cường và người khách được gia chủ mời đi rửa tay, rửa mặt.
Không có gì để trả lễ, người khách đành hứa sẽ chụp ảnh miễn phí cho gia chủ.
Gia đình của Cưỡng vui mừng khôn xiết vì đã lâu không có dịp để đi chụp hình chung với nhau, không những vậy còn may mắn gặp được thợ giỏi.
Giữa lúc mọi người đang ăn uống vui vẻ, bác Hai gái hớ miệng thông báo:
– Cô Theresa Thảo về rồi.
Ignacio Cường vuột miệng hỏi:
– Hả?
Bác Hai trai đỡ lời:
– Đích thân cố Toàn đứng ra đại diện cho Giáo dân xin lỗi cổ và Cha Khải.
Ignacio Cường thôi không truy tới cùng, bởi anh sợ mình sẽ làm gia đình ăn uống mất ngon.
…
– Andrew Hồ? – Ignacio Cường mừng rỡ hỏi.
Là cháu của Trưởng Ban Giáo họ, nguyên gia đình đã bỏ xóm Đạo mà đi vì không chịu nổi ách thống trị của Cha Sở giả mạo.
Andrew Hồ cười buồn:
– Tôi ghé qua chơi thôi, chớ chắc không về ở luôn đâu.
– Về làm chủ tịch giùm cố đi Long.
Cố Phêrô Toàn không biết từ đâu xuất hiện, mà hớt hải chống gậy ba-ton lại chỗ hai người.
Andrew Hồ chắp tay xá cố như một lời cáo lỗi vì xin không nhận lời cụ.
Rồi giơ đồng hồ đang đeo nơi tay trái lên để làm cái cớ ra về sớm.
Bóng hình anh khuất dạng sau nhà mát gần quán cơm vợ chồng dượng Bảy.
Cố Phêrô Toàn buồn tình dẫn Ignacio Cường tới một bờ đất cỏ tranh mọc cao ngất, nhà cửa đã đổ nát hết sau hai mươi năm thiếu hơi người sống và cây kiểng um tùm như rừng rậm Amazon.
Hai người phải vẹt cỏ mà đi, thứ cỏ quái ác ấy cào xước ống quần và bàn chân của họ.
– Cảnh cũ còn đây mà cố nhân đã quên mất tình xưa.
Nói đoạn, cố Phêrô Toàn mời Ignacio Cường tới quán bánh canh cua ăn bữa xế.
Chủ quán là một người Lương theo Đạo Phật, tánh tình bải buôi và ưa đùa dai.
Chủ quán đang trụng bánh canh, chợt thấy hai người chức sắc trong xứ bước vô thì đon đả hỏi:
– Rồi, cố với Cha đây ăn gì con tiến?
Cố Phêrô Toàn ngoắc thằng cháu Lương xuống nhà sau, rồi làm cử chỉ mời Cha Sở chọn chỗ trước.
Biết có chuyện hệ trọng, anh bèn nhờ mẹ coi quán giùm, rồi lau vội lau vàng vào cái khăn mềm giắt ở tay nắm cửa tủ đứng mà hối hả theo cố ra sau bếp.
Kiếm được góc nào vắng vắng, ngó thấy không có ai trong nhà vệ sinh lẫn trong đây, cố Phêrô Toàn mới kề tai nói nhỏ:
– Bữa hổm bây làm chả cá kiểu gì mà còn sót cọng xương dài ngoằng, dài còn hơn bản mặt tao, báo hại thằng cháu mém nữa “banh” nướu rồi.
– Đâu, con giúp thực khách luyện cơ miệng và cơ mắt mà.
– Nó chưa thành “Thiên Lý Nhãn” mà tao thấy nó thành “Xuyên Sỉ – Nhãn” rồi.
– Gì xương gì dài đâm từ nướu lên tới mắt nổi cố? Thôi, nay con giảm giá cho, bớt giận con nghen?
– Tao tới nhắc nhở bây thôi, chớ đâu có muốn ăn bớt tiền.
– Dạ.
– Nếu bây tự làm chả thì ráng cẩn thận chút.
Còn nếu nhờ người băm thì coi chừng có đứa phá đó.
– Dạ.
Rồi cố Phêrô Toàn lầm bầm:
– Tao hổng tin nổi là mày để sót cọng xương dài dữ vậy.
Dù đã biết rõ nguyên cớ gây ra chuyện đáng buồn trên, nhưng người trai này không muốn nói rõ vì sẽ khiến cố và Cha Sở lo.
Anh đã đóng đủ tiền mua đất mà mấy năm nay vẫn bị rất nhiều kẻ lạ mặt vu khống anh thiếu tiền chúng.
Rất có thể đây là “tàn cuộc” của kẻ giả mạo Cha Thành đã để lại cho anh và những bà con khác.
Để tránh chả cá bị người gài xương, anh xắt thành từng lát mỏng cho chắc ăn.
Song nhiều người khoái ăn nguyên cây phàn nàn ăn vậy mất ngon, anh đành tự làm chả cá nguyên cây riêng đặng tránh bất trắc.
Vừa mới bước lên nhà trên cái sột, anh chủ quán liền mở bản “Nhịp cầu tri âm” của nhạc sĩ Hoài Linh qua phần trình bày của song ca Trung Chỉnh – Thanh Tuyền.
Mẹ anh tưởng cố Phêrô Toàn lại hỏi mua dĩa hát xưa nên không mảy may hỏi tới, thành ra vẫn chú tâm kiểm từng lát chả cá trước khi bỏ vô tô cho khách.
Cố Phêrô Toàn uống mấy hớp nước trà hạnh rồi mới phát biểu:
– Có rất nhiều bài nhạc Vàng – nhạc Tiền Chiến – Tân nhạc hải ngoại trùng tên với nhau.
Nói cụ thể như “Đêm buồn” của Hoàng Thi Thơ và “Đêm buồn” của Nguyễn Văn Đông và Lam Phương.
Ignacio Cường bổ sung:
– “Mùa hoa phượng”: Hoàng Thi Thơ soạn lời, còn Lam Phương soạn nhạc, cả hai sáng tác hồi năm 1955.
Bài này rất dễ bị lộn với bản “Mùa hoa phượng” của hai nhạc sĩ nhạc Vàng Văn Hạnh và Lê Đô, ca khúc này trước năm 75 chỉ có mỗi nữ ca sĩ Ngọc Minh trình bày.
Cố Phêrô Toàn pha lửng:
– Đáng ra bài “Mùa hoa phượng” nên để cô Thúy Nga ca cho nó “trọn đạo”.
Anh chủ quán vui miệng nói:
– Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh tên Thánh là “Phêrô”.
Cố Phêrô Toàn chép miệng:
– Vợ của cậu Thanh là cô Mỹ Lan thiệt là thương chồng, tới giờ vẫn kiên trì quảng bá – bảo vệ bản quyền tác phẩm và tiếng ca của chồng mình.
Mỗi bận coi vợ chồng cô – cậu song ca mà thấy mùi hết sức.
Cô chỉ mong những ai hát nhạc của chồng cổ làm ơn hát đúng lời và đừng tự chỉnh sửa theo ý mình, chớ theo cố nhớ thì cổ hổng có đòi hỏi tiền nong gì hết.
Ăn uống no nê, Ignacio Cường trở về nhà thờ soạn bài giảng cho buổi Thánh Lễ sắp tới và Mùa Chay.
Ignacio Cường ngồi ở băng ghế đầu mà mở Laptop lên làm việc.
Giờ này Cung Thánh vắng lặng, nắng chiều xiên xiên qua những ô cửa lá-sách sát trần.
Những bức tranh kiếng màu rực sáng bởi vầng dương chiếu tới.
Gió chướng thổi vào mát rượi, làm những cây quạt trần không bật mà tự quay mòng mòng.
Chàng Cha Sở lắng tai nghe bản Thánh Ca “Lời nguyện Thánh Y-Nhã” của nhạc sĩ Toàn Minh do Như Mai ca, rồi thầm hồi tưởng ngày mình được thụ phong Linh mục, đôi mắt ngày nào nay đã hằn mấy vết chân chim nhàn nhạt.
oOo
Bữa nay nhằm mùng Sáu Tết, ba ngày chánh qua cái vèo như bóng câu ngoài cửa sổ, mấy ngày còn lại tuy là phụ nhưng gia đình mợ Hai vẫn tổ chức linh đình y như ba ngày kia.
Trưa nay mợ Hai, dì Ba và mợ Tư chiên khô lưỡi trâu, luộc cải thìa, rau lang và bắp cải nòi, kho cá lóc đồng với mỡ hành, nướng cà tím cũng với mỡ hành, xào sườn chua cay, làm mắm chưng hột vịt và bò lúc-lắc, quay đùi gà, nấu canh rau ngót với tôm khô và cua đồng giã nhuyễn.
Ông ghệ của mợ Hai đang ngồi rung đùi nghe bản “Vó ngựa trên đồi cỏ non” của nhạc sĩ Giao Tiên qua phần trình bày của Hùng Cường.
Lát nữa ổng sẽ ngồi vò viên thịt cá thác lác để chiều nay chế biến món cà-ri cá viên Hồng Kông đãi nguyên nhà.
Từ hàng ba nhìn ra, dượng Ba và cậu Tư đang lau dọn bàn thờ Thiên; cơn gió dữ đêm qua đã làm đồ cúng bị đổ ngổn ngang hết, mấy chậu bông vạn thọ, cúc vàng, giấy hồng và cây mai trổ bông đặc rật cũng không tránh khỏi bị vùi dập.
– Gió chướng gì đâu mà như gió ngoài khơi…!Thổi cái muốn lật nóc nhà.
– Dượng Ba càm ràm.
Cậu Tư cũng nhằn:
– Không biết ông bà có quở gì con cháu hôn mà tự nhiên bàn thờ Thiên gặp cơn gió dữ.
Vệ Thu nín thinh vì không muốn chuyện tình của mình và bà kia bị đem ra phiếm luận không hay.
Anh Hai đã ưng rồi, thì chắc Cửu Huyền Thất Tổ nhà này cũng xuôi theo ha?
– Anh Ba Tiều…!- Cậu Tư thấy vẻ mặt sượng ngắt của người khách cháu mình thì ân cần gọi hỏi thăm.
– Dạ?
– Sao ngồi xụi lơ như cây cơ vậy? Hồi nãy rung đùi khí thế lắm mà.
– Ui, ảnh bị nhột, hễ bị nhột là cứng ngắc hà.
– Cha nói gì mà giống thọc cái móc câu vô cổ họng người ta vậy?
– Ui, tui nói phong long, đứa nào nhột đứa đó ráng chịu.
Mợ Tư nghe hết đầu đuôi câu chuyện, bực mình trách:
– Cha nói cho sướng miệng cha thì cũng phải nghĩ phần cho người khác chớ? Coi dượng Ba và anh Ba đây có vui hôn?
– Giờ bà binh ai?
– Tui hổng binh ai hết.
Tui chỉ muốn mọi người vui vẻ với nhau mà thôi.
Có mấy ngày sum vầy mà cũng kiếm chuyện được hà.
Vệ Thu biết em trai của anh Hai dễ dầu gì chấp nhận mình quen với chị dâu nên dù trong lòng buồn rười rượi song trên mặt vẫn ráng giữ nét bình thản.
Mợ Hai biểu Vệ Thương vô mời ông tía nó xuống bếp phụ bà bưng mâm – sắp chén.
Ngồi đó dằng dai một hồi thế nào cũng có cự lộn.
– Coi mòi cậu Tư hổng ưa tui.
– Ưa sao nổi mà ưa? Giờ đổi lại thì anh cũng vậy thôi.
– Con thấy có gì đâu mà cậu Tư làm quá lên…
Chưa nói hết ý mà cậu Tư đã đứng ngay ngạch cửa hậu nhìn vô trong chái bếp, Vệ Thương câng mặt nhìn cậu Tư và sẵn sàng mở miệng đối đáp.
Nhưng cậu Tư không ừ hử gì, ông mở tủ lạnh lấy ra ca trà đá rồi chế vô ly thủy tinh đặng uống giải khát.
Nguyên nhà trải chiếu ngồi ăn dưới bóng cây hoàng điệp.
Năm tấm chiếu mà mợ Hai mua từ làng nghề Vĩnh Long đem ghép lại mới đủ chỗ cho từng người; tấm chiếu đẹp nhứt được đặt ở giữa, bốn tấm kia xếp vòng xung quanh.
Cậu Tư ngồi dựa lưng vô gốc cây lâu năm, hai tay vòng ôm lấy hai đầu gối, mắt ngước nhìn những tán cây đang đợi mùa hoa.
Hồi hai anh em còn nhỏ, thường mượn những chạc cây lớn làm giường ngủ trưa, mới đó mà ông đã đi qua mười mấy cái đám giỗ của ảnh rồi.
Ông đâu có trách chị dâu có tình mới, chỉ là không thích người kia xẩn quẩn với chỉ trong cái nhà hương hỏa này mà thôi.
Nhỏ con cậu Tư mở bài “Nhớ em Lý bông Mai” do Như Quỳnh ca lên nghe, bài này nhạc sĩ Trương Quang Tuấn phổ từ thơ của thi sĩ Kim Tuấn:
“Bông mai vàng thuở nàng còn trẻ
Trên lối đi về lắm kẻ đợi mong
Bây giờ tình đã sang sông
Anh trèo cây khế, ngó mong đất trời…”
– Cái con nhỏ này, cơm nước tới nơi rồi còn nhạc nhẽo gì? – Mợ Tư vừa nói, vừa tước điện thoại khỏi tay con gái bà.
Mặc kệ nó nhăn nhó, ỉ ôi, bà vẫn kiên quyết không cho xài trong bữa ăn.
Vệ Thương đợi mấy đứa con của bên chồng mợ Hai mời cơm hết mọi người, mới cầm đũa lên gắp đùi gà quay chảo bỏ vô chén của mình; biết cậu ăn không được mấy món thuần Việt nên mợ Hai, dì Ba và mợ Tư chế biến riêng vài món cho cậu, nội trong đây cậu chỉ ăn được cà tím nướng, sườn xào, cải thìa luộc, đùi gà quay chảo và vài thứ rau sống hái ngoài vườn.
Dì Ba còn trổ tài nấu sâm bí đao, uống vào mát lịm tim gan.
Cậu Tư đổi giận làm vui:
– Anh kể chuyện bên Mỹ được hôn anh Ba?
Vệ Thu mừng rỡ gật đầu liền.
Rồi húng hắng giọng kể:
– Tiếng Việt ở ngoại quốc không đồng nhất với tiếng Việt trong Nước.
– Là sao anh?
– Thí dụ như chữ “Vegetable”, người Việt bên này không nói “Rau – Củ – Quả” mà là “Rau cải – Trái cây”.
Ở trong các siêu thị của người Việt tị nạn hoặc có gốc Hoa vượt biên sau năm 75 vẫn còn ghi y hệt vậy.
Từ “Rau – Củ – Quả” có nguồn gốc ở miền Bắc và vô trong này sau năm 75.
Dượng Ba hỏi:
– Còn chữ nào khác với trong Nước không anh?
– “Nhận sửa các loại xe”, ở những tiệm sửa xe của người Việt thường hay ghi câu này.
Rồi Vệ Thu trầm giọng tỏ bày:
– Cho nên không phải họ chảnh khi nói không hiểu tiếng Việt trong Nước, mà là họ đã quen với tiếng Việt ở miền Nam trước năm 75 rồi.
Cũng như rất nhiều người, nhứt là những ai đã từng làm trong ngành Văn chương – Học thuật – Báo chí – Âm nhạc, không ưa ai nổi các chữ “Phượt”, “Trẩu tre”, “Xịn sò”, “Chuẩn vị”, “Sự cố”,…!
– Anh có gặp chuyện gì lạ không?
– Bữa đó tôi ra uống cà-phê với mấy đứa bạn già ở một quán nước Việt Nam ở quận Cam, tình cờ gặp hai đứa con của tụi quan chức.
Mẹ của một trong hai đứa gọi điện qua hỏi thăm nó độ rày ra sao, nó ngọt ngào trả lời bả hết sức; tới chừng cúp máy, nó liền quay qua nói với đứa bạn, “Con quỷ cái này tao dặn nó chuyển tiền qua từ tuần trước mà đến giờ cũng không thấy một cắc.
Kỳ này nó mà gửi chậm thêm một ngày nào nữa là chết với tao.
Tao hành cho nó ra bã luôn.”
Cậu Tư cười giòn:
– Sao anh biết tụi nó là con quan chức?
– Cái bản mặt tụi nó y chang ông bà già nó thì sao hổng nhận ra? Với lại, tụi nó còn lôi tên cúng cơm của ông bà già nó ra chửi lên đầu lên cổ thì ai mà hổng biết.
Dù cái đầu tụi nó đã nhuộm bảy sắc cầu vồng thì cũng không thể che đậy lai lịch của tụi nó được.
Rồi Vệ Thu nhếch miệng cười buồn:
– Qua tới Mỹ ngồi đấu tố cha mẹ giữa thanh thiên bạch nhựt.
Hễ đứa này nói thì đứa kia phì phèo hút thuốc.
Chợt có tiếng chó sủa khan từ bên kia sông vọng sang.
Nguyên nhà quay đầu ngó coi.
Nhưng chẳng ai thấy gì ngoài bóng hình của một con chó lông đã sạm nâu chứ không còn trắng ngà nguyên thủy.
Vệ Thu nói tiếp:
– Thành ra, tôi thấy câu “Của Thiên trả Địa” thiệt là đúng.
Mình kiếm tiền bất nhơn, con mình xài tiền bất chánh mà còn lừa cha dối mẹ để thỏa mãn cái tâm tánh đua đòi của bản thân.
Bữa cơm thật ngon miệng nên nguyên nhà ăn sạch nồi cơm.
Trong lúc chờ nồi cơm-mới chín, dượng Ba và cậu Tư kể lại những kỷ niệm đi đóng đáy hay giăng câu của mình.
Thảng trong lời kể đã thấm đẫm mùi hoài niệm và màu thời gian, bởi những chuyện họ kể đã xảy ra cách đây quá lâu rồi.
Bên cánh đàn bà cũng góp vui bằng những mẩu ký ức làm dâu và năm tháng bưng biền ngoài đồng, ngoài xá của mình; họ như thấy mình hồi xuân, trở lại là nàng dâu mới hãy còn bỡ ngỡ với nếp sống nhà chồng, trong lời họ kể cũng trật vài chỗ song không có ai đính chính giùm.
Mợ Hai lấy cớ vô làm nước đá me uống cho dễ tiêu rồi dông mất vô bếp.
Bà nhớ tới người chồng chưa ngày nào được sống thảnh thơi, sung sướng thì đã an giấc ngàn thu dưới Suối Vàng, nên chạnh lòng xót thương “Người bạn tình xưa”.
Mong hương hồn chồng bà đã được thác sanh nơi tốt đẹp và hiển linh cho bà biết, để bà bớt áy náy trong lòng.
Ở ngoài này, Vệ Thu chợt nhếch miệng cười khì.
Dượng Ba cũng cười theo và hỏi:
– Sao anh tự nhiên cười vậy?
Vệ Thu giựt mình, đánh trống lảng:
– Tại tôi thấy đám “chửi thuê khóc mướn” mới là con ruột, dù cho mấy khứa đó tàn tệ cỡ nào vẫn binh lấy binh để, xông pha bảo vệ tới khi nào cùi hết móng tay mới thôi.
Còn con ruột thì đã phá của mà còn lôi tên cha mẹ ra biêu riếu.
– Vậy đáng ra phải cho tiền bằng với máu mủ ruột rà mới xứng ha?
– Dạ…
Sau bữa cơm lắm chuyện bi – hài kịch, Vệ Thu cùng “Tình cuối” ra ngoài mương nước trải chiếu ngồi nói chuyện chơi.
Nơi đây có mấy cây điều rất sai trái, năm nào hái ăn cũng không hết.
Mỗi bận vô mùa, mợ Hai thường ra đây ngồi chơi cho mát.
– Cái bài bữa hổm ông hát cho tui nghe đâu phải trong băng nhạc kia đâu.
– Vậy chớ băng nào?
– Bài “Lý Chim Quyên” do cô Thanh Tuyền ca nằm trong băng nhạc “Continental 6 – Dân ca Ba Miền”.
Không hiểu nghĩ sao, mợ Hai ngượng ngùng đề nghị:
– Để tui hát cho ông nghe lời thứ Tư của bài “Lý Chim Quyên” mà tui từng nghe cô đào cải lương Phượng Mai ca, nằm trong băng nhạc “Lý qua cầu”.
– Khoan, vậy bài này có tới bốn bản hả?
– Ờ.
Còn mấy bản vọng cổ chưa tính nữa.
– Trời!
Rồi sợ bà ghệ già đổi ý, Vệ Thu hối bả hát.
Sau vài phút hắng giọng, mợ Hai khe khẽ ca:
“…!Bao năm rồi khô héo môi
Lỡ duyên đời, giữ đôi lời
Khóc thân phận người ơi…”
Ngó sang ông ghệ già, thấy cái mỏ thằng chả đang chóp chép như ca bài gì đó làm bà mắc cười hết hứng hát.
Bà hỏi:
– Tính hát cho tui nghe bài gì mà hổng dám mở miệng vậy?
– Tính ca cho bậu nghe bài “Lâu đài tình đài” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh và thi sĩ Mai Trung Tính.
Mợ Hai trợn mắt:
– Thôi đi cha! Sắp xuống lỗ còn bày đặt “Lâu đài tình ái”.
Ở cách đó không xa, chú Thương đang ngồi chồm hổm nơi mé mương mà coi xấp nhỏ móc mồi câu và nghe nhạc xưa.
Tiếng ca của Julie Quang trong bài “Lạy Trời cho tôi quên” của nhạc sĩ Lê Dinh đã nói hết cơn đau tình ái bao năm qua của chú.
Thấy người đàn anh cùng tên đang có tâm sự nên Vệ Thương không sà xuống ngồi chơi, mà dạt qua chỗ của ba và mợ Hai.
– Tới đây chi mậy?
Vệ Thương cười híp mắt:
– Thôi, để con hát bài “Tình Cha” của nhạc sĩ Y Vân cho baba nghe nghen?
Rồi bằng cái giọng không tròn vành rõ chữ của mình, Vệ Thương hát cho người cha đáng tuổi ông nghe bài ca Hiếu Đạo ấy.
Nghe tới đâu, Vệ Thu mát lòng tới đó.
– Coi cái mặt ổng khoái chí kìa, y như con mèo Garfield.
oOo
Sau gần nửa tháng nai lưng ra hầu Tín, bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công”, nhạc sĩ Thương Hận và hai ký giả của tòa soạn “Canh Tân” nhóm lại ở căn homestay mà Đức Hoàng giới thiệu.
Thương Hận hỏi:
– Coi phim gì?
Xương Tuyết trả lời:
– “Dark Spell”, phim ma – kinh dị Mười tám cộng, “The Attic”, “The exorcism of Emily Rose” và “Insidious: The last key”.
– Cha, coi phim nào giờ?
Khán Bình đang đổ bánh khoái, nhìn thấy thằng Hoàng đổ bánh mà ứa gan sôi mật nên “tiễn” nó lên nhà trên.
Rồi kêu Xương Tuyết xuống phụ.mình đổ bánh.
– Nhân mấy vụ gần đây, anh kể về chuyện Kitô Giáo đi.
– Đức Hoàng hỏi.
– Tôi không nhớ rõ tên Cha, chỉ nhớ Cha là Linh mục ở một nhà thờ trong tỉnh, sang Mỹ xin giúp đỡ tu bổ nhà thờ.
Cũng mừng vì tâm nguyện tu bổ nhà thờ của Cha đã được thành sự thật, nay nhà thờ khang trang và đẹp hơn xưa nhiều lắm.
Rồi gã điên vừa lấy sạn lật bánh vừa nói:
– Tôi nhớ hoài hình ảnh một đôi nam nữ nắm tay nhau đứng trước nhà thờ trong một buổi chiều chập choạng hoàng hôn.
Nhà thờ khi ấy xập xệ và cơ hồ muốn sập, nhưng không làm suy suyển đức tin trong họ.
– Hết rồi à?
– Ờ, nhà thờ với nhà chùa tôi không quen ai hết.
– Vậy bên Tin Lành thì sao?
– Mục sư tên thường gọi là “Tư Thông”, nhưng chắc sợ người đọc hiểu lầm nên nhiều tác giả viết tài liệu về Kiến Hòa hay sửa thành “Bốn Thông”.
Thầy đáng được tính là một trong những người đem Tin Lành về xứ dừa.
Chỗ tôi gọi là “Cậu Tư Thông”.
Tống Ngạn hỏi:
– Có gì mới về ngữ vựng mà anh thấy mọi người cần lưu tâm không?
Gã điên nhếch miệng cười:
– Trong Nam không nói “Sườn que” mà nói “Sườn cọng”, không nói “Xiên que” mà xài chữ “Xâu” với đồ ăn như “Xâu kẹo hồ lô”, “Xâu thịt”, “Xâu tôm”,…!không nói “Que kem” mà biểu “Cây kem”, “Cây cà-rem” hoặc “Cà-rem cây”.
Còn nữa, ở ngoải là “Phô-mai que”, còn tôi thường kêu “Cây phô-mai” hoặc “Thanh phô-mai”.
Chí Công xen vô:
– Vậy tính ra ngoài Bắc khoái chữ “Que” hơn trong Nam.
Ngoài dụng cụ y tế như que thử thai, que lấy mẫu xét nghiệm,…!thì chữ “Que” ít được xài cặp với chữ khác và trong những chuyện khác.
Đức Hoàng hướt lời:
– Thì “Ba que xỏ lá” cũng là của ngoài Bắc luôn mà.
Trong này nói gọn lắm, “Ba xạo”, “Dóc tổ”, “Xạo sự”, “Ba lơn”,…!
Khán Bình tranh nói:
– Vậy “Đậu que” là của ai?
Anh Ba Hói trả lời thay:
– Của chung.
Đức Hoàng lại hỏi:
– Anh nghĩ sao về đề tài phim Nam Kỳ?
– Biên kịch làm phim về Nam Kỳ mà xài chữ xứ này quàng xiên khôn cùng.
Trước khi đi làm món tôm rang trứng muối, Xương Tuyết hỏi:
– Các anh có hiểu “Trời ơi!”, “Trời ơi…”, “Trời”, “Trời ơi Trời”, “Trời đất quỷ thần thiên địa ơi”, “Trời đất ơi”, “Mèn đét ơi”,…!khác nhau ra sao không?
Mọi người nhường cho anh nói tiếp.
Gã điên trình bày thiển ý của mình:
– Chỉ khi nào họ phẫn uất, tức tối, đau khổ, hết hồn hết vía và bàng hoàng tột độ mới la lên “Trời ơi!”; đặc biệt khi chữ “Trời ơi” nằm ở cuối câu, nó mang hàm nghĩa nhấn mạnh ý trong câu, ví dụ: “Tao biểu mày đi vô học bài, Trời ơi”, trong ngữ cảnh này chữ này sẽ được phát âm lớn/nhỏ/vừa tùy theo tâm trạng người phát biểu.
Còn những khi chua xót, tức mà không cãi lại hoặc phân trần mà đối phương không tin/nghe/chấp nhận, gặp cảnh mất mát đau thương,…!họ nói “Trời ơi…” thiệt nhỏ và kéo lê chữ “Ơi”.
Chữ “Trời”, thường phát âm theo tiếng gió, để biểu lộ sự ngạc nhiên, thích thú và cảm thán theo nội dung câu chuyện mà họ đang nghe.
Từ “Trời ơi Trời”, cũng có ý nghĩa tương tự với “Trời ơi!”, nhưng thường dùng trong ngữ cảnh chửi mắng; ví dụ: “Tao biểu mày về đi học mà mày còn ngồi đây chơi điện tử hả? Trời ơi Trời!” Từ “Trời đất quỷ thần thiên địa ơi”, “Trời đất ơi” và “Mèn đét ơi” là câu cảm thán nhẹ nhàng, cũng được xài trong ngữ cảnh trách móc nhưng là trách móc vì giận hờn vu vơ, phật ý cỏn con, làm nũng, gặp chuyện xui rủi bất thình lình, pha lửng thâm tình,…!ví dụ như: “Trời đất quỷ thần thiên địa ơi, cái đường bự chảng mà thằng chả lủi xe vô tao được hà.” hay “Mèn đét ơi, sao anh lì dữ vậy? Tui đã nói hổng có thương anh mà cứ đi theo người ta hoài hà.”
Mấy ba, mấy má làm phim không hiểu được sự khác nhau của những câu cảm thán trên thì xin đừng làm phim về đất Nam Kỳ.
Hiếm có người nào ở đây dư hơi tới nỗi tức quá la lên như vầy, “Trời đất quỷ thần thiên địa ơi! Mày đứng lại cho tao!”, người ta nói gọn vầy, “Trời ơi! Mày đứng lại cho tao!” Thường, không ai nói lớn từ “Trời đất quỷ thần thiên địa ơi”.
Cũng vậy, hầu như không có ai ở đây nói chuyện theo kiểu la bài hãi.
Ở dưới miền Tây, tiếng nói của họ rổn rảng, thậm chí có người còn sang sảng như bắc loa phóng thanh, nhưng các anh nghe vẫn thấy sự thân tình và dễ chịu chứ không phải là bị đau lỗ tai và chợ búa như hội thoại trong rất nhiều phim về đề tài Nam Kỳ hiện nay.
Đức Hoàng bông lơn:
– Cái đám đó đâu phải là Nam Kỳ, mà ném về Nam Hải mới đúng.
Tại ở gần biển Đông sóng đánh ầm ĩ không nghe rõ tiếng nên phải la làng la xóm như cháy nhà vậy.
Nguyên đám phì cười.
Vừa chế chút mỡ heo vô chảo không dính, Xương Tuyết vừa nêu cảm nghĩ:
– Ai ủng hộ thứ dòng phim đó chứ tôi không ủng hộ.
Thà không có còn hơn nhìn xứ mình bị đám đó bôi bác thông qua kịch bản và hội thoại phim “loạn xà ngầu”.
Vả chăng, thay vì đi coi ba cái phim đó, tôi đọc sách của cụ Hồ Biểu Chánh, Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Văn Hầu,…!còn hơn.
Tống Ngạn đặt câu hỏi:
– Tại sao anh lại xài “Một từ”?
– Một từ là một câu, một tựa đề.
Cái chữ khác với chữ cái, ví dụ: Chữ “Hiếu” và chữ cái “H”.
Đức Hoàng lên tiếng:
– Tôi hỏi anh một câu nữa được không?
– Câu cuối cùng.
– Dạ.
Anh có nghĩ viết lại bằng giọng Nam Kỳ dễ hay khó?
Nghe xong câu hỏi, Xương Tuyết phá lên cười:
– Không phải học được mớ chữ Nam Kỳ là viết được hồn văn Nam Kỳ đâu.
Tôi đã từng bắt bài mấy ông Bắc 54 thành công.
– Mạn phép cho tôi hỏi câu nữa: Anh muốn chỉ người khác viết giọng Nam Kỳ không?
– Tôi đâu có ngu mà chỉ.
Chỉ cho “tụi nó” biết để cẩn trọng hơn và nhái theo cho giống hả?
Rồi gã điên trình bày một lèo:
– Vả chăng, một người viết văn thuần túy, không phải là gián điệp của bên nào hết, phải tự tìm lấy giọng văn cho riêng mình.
Bây giờ đứa thì nhái kiểu “dân Nam Kỳ” như Hồ Biểu Chánh mà cái hồn truyện lẫn nhân vật rặt ri xứ nào, kẻ thì bày đặt cao siêu – thoát tục như Bùi Giáng mà không chịu hiểu phần lớn là do cụ bị “chập mạch” nên mới viết như vậy được, khứa thì kiểu cách bóng bẩy – vẽ chữ rối rắm để làm Nguyễn Đình Toàn mà không chịu hiểu đó là giọng văn bẩm sinh của cụ thì không thể nào bắt chước được, đám thì ra vẻ châm biếm tình đời và phê phán cợt nhả như Duyên Anh mà không chịu hiểu chính quá khứ liều chết vô Nam và chật vật kiếm sống đã khiến cho văn chương ông bị mang cái giọng đó, bọn thì sắp chữ sao cho viết tác phẩm xã hội đen và gián điệp như Ngọc Thứ Lang và Hoàng Hải Thủy mà không chịu hiểu cái nết, cái tánh của riêng mấy ổng đã cho mấy ổng lối văn “đường phố” giống vầy.
Chưa kể tới là đủ băng ăn theo cách viết của Shakespear, Oscar Wilde, Charles Dickens, Victor Hugo,…!mà nội dung tác phẩm không dám vượt xa khỏi giới hạn đề tài cũ rích, suốt ngày nhai đi nhai lại lâu đài với hoàng tử, công chúa với hiệp sĩ, yêu với chả đương,…
Bữa tiệc diễn ra lúc mười hai giờ trưa, với món tôm rang trứng muối, bánh căn, chân gà nướng sa-tế, gà hấp rượu, bánh bò ăn với heo quay và rau sống.
Nguyên đám dự tính ăn xong sẽ lên núi thăm Tín, đương nhiên sẽ mua chút quà tẩm bổ.
– Tuyết đâu rồi anh Ba? – Đức Hoàng hỏi.
– Chắc nó vô phòng ngủ rồi…!Cái tật của nó, cái bịnh của nó.
– Dạ.
Đức Hoàng quay ra soạn bài cho tòa soạn với mấy thằng bạn thân.
Hắn vẫn đang gờn gợn trong lòng khi nghĩ về Tín? Khóc liền, cười liền, há chăng là một người thực sự đã cải hối?
Khi bóng chiều đã loang loáng nơi vùng Thất Sơn huyền nhiệm, nguyên đám mới khăn gói lên đường.
Vốn lái xe giỏi nên Tống Ngạn không cần nhờ cậy Phá Vân chở giùm.
– Tuyết, mày kể cho tao nghe về nhà thờ Ba Lai được không?
– Dạ được.
Thể theo lời của Xương Tuyết, nhà thờ trước đây có tổng diện tích hơn mấy mẫu; nhưng sau năm 75, dân tứ xứ từ đâu đổ về chiếm đất cất nhà, khiến nhà thờ bây giờ chỉ còn lại một mẩu nhỏ xíu.
Tình trạng chiếm cất đất nhà cũng diễn ra ở đình Tân Thạch y chang vậy, từ một ngôi đình bề thế và trang nghiêm, hiện thời chỉ còn lại một nơi thờ tự Thành Hoàng chật chội và “nát bấy”.
Nhưng thảm thương nhứt phải nhắc tới dòng họ Ông Hai Đạo Dừa, cả tộc là điền chủ nên đã bị cướp trắng vô số tài sản và đất đai, con cháu chạy nạn tản lạc hết.
– …!”Trường Giang cuồn cuộn chảy về Đông/ Sừng sững cơ đồ bỗng tay không.” Mỗi bận nghĩ về dòng họ Ông Hai, tôi lại nhớ tới hai câu thơ trong “Tam Quốc Diễn Nghĩa” của La Quán Trung.
Đã dòng họ tản lạc vì Trịnh – Nguyễn, ai ngờ sau năm 75 lại lặp lại lần nữa, không biết những người lớn thuở đó có còn kịp ghi lại gia phả để về sau con cháu biết nhau mà tìm về không.
Đức Hoàng hỏi:
– Có cách nào để nhận biết ai là dòng họ Ông Hai không anh?
Xương Tuyết nhếch miệng cười và ghẹo:
– Biết tôi cũng chẳng chỉ đâu.
Tính nhận vơ bà con hay gì?
Chí Công biểu:
– Ừ, nhận vơ bà con như mấy đứa vô Sài Gòn sống rồi tự nhận mình là người Sài Gòn.
Gã điên ngước nhìn tháp mây giăng trên ngọn núi Ông Két mà nói:
– Có đi đâu tôi cũng nói tôi là người Kiến Hòa.
Tổ tiên tôi bao đời đã khai khẩn và yên nghỉ trên mảnh đất đó, há vì một chút danh thơm hay sĩ diện hão mà đạp lên nguồn cội của mình sao?
Tới giữa rừng thốt nốt, Tống Ngạn cho xe ngừng lại để châm thêm nước giải nhiệt.
Sẽ rất nguy hiểm nếu mở nắp kết nước châm liền, vì sẽ bị mù mắt do nước sôi trong bình văng lên, nên phải đợi chừng khoảng nửa tiếng hơn mới lấy khăn lông vặn nắp kết nước và chế nước giải nhiệt vô.
– Kệ, cũng không có gấp đâu, để nó nguội thiệt nguội đi rồi hẵng mở.
– Anh Ba Hói khuyên cậu em đồng nghiệp.
Đức Hoàng đề nghị:
– Sẵn trời đẹp nắng trong, tụi mình cuốc bộ tới đó đi.
Ai nấy đều đồng ý với ý kiến của gã trai Bảy Núi.
Đường rừng vốn chẳng bao giờ bằng phẳng hay êm ái.
Lại có nhiều rễ cây nổi cao lên mặt đất như bẫy của thợ săn, chỉ chực ngáng chân cho lữ khách té nhào đầu.
Đôi lúc trong đám lại có đứa la oai oái vì đạp phải hang rắn hay “con công”.
Nhưng bù lại, nguyên đoàn được thưởng thức bản nhạc thiên nhiên hùng tráng, với tiếng gió đệm đàn, tiếng chim ca vang lừng và tiếng lá cây hát bè theo những người bạn hiền lành của chúng.
Thương Hận say sưa kể chuyện học thanh nhạc của mình, rồi khoe rằng tháng tới sẽ phát hành bản nhạc mới, các bạn mới quen của anh hết thảy đều hứa sẽ ủng hộ nhiệt liệt.
Lên đến nơi, nguyên đoàn nghe thấy bài “Lạy Phật con về” của nhạc sĩ Phạm Mạnh Cương, do tam ca Tuyết Mai – Hà Thanh – Tuyết Hằng trình diễn, phát ra từ cửa sổ phòng bệnh của Tín:
“Lạy Phật con xin sám hối
Con đã quay về Đài Sen
Lạy Phật con xin sám hối
Con đã thấm nhuần Ánh Dương
*
Con đã thấy kiếp chúng sinh
Khổ đau trong muôn lỗi lầm
Hòa với nước mắt ưu sầu
Trọn đời sống kiếp thương đau…”
…
Thể theo ý của Tín, Châu Lợi chấp thuận cho anh Quy Y Tam Bảo.
Nhưng người chủ trì buổi Lễ không phải là ông.
Đó là Đại Trưởng lão Đoạn Trần, một trong những người Thầy của nhóm Tăng sĩ Theravada.
Dáng vẻ của cụ hãy còn khá trẻ, dám chừng chỉ mới hơn sáu mươi là cùng, tác phong điềm đạm và luôn giữ nụ cười trên môi.
Lại gần Tín, Đoạn Trần thương cảm nói:
– Tội nghiệp…!Tới chừng bị bạn bè xấu bỏ rơi hết vẫn chưa tỉnh ngộ…
Sau khi thực hiện xong Lễ Quy Y Tam Bảo, Tín có Pháp Danh là “Hỷ Tín”.
Tín “được đằng chân, lân đằng đầu”, giờ lại đòi trở thành Tăng sĩ.
Đoạn Trần bật cười:
– Đừng gọi tôi là “Đại Đức”, tôi đã không còn nằm ở lằn ranh giữa Thiện và Ác nữa.
Cứ gọi tôi là ông Trần là đủ rồi.
Rồi Đoạn Trần kể lại một tích truyện Phật Giáo xa xưa, về “Rahula – La Hầu La”, đứa con duy nhứt của Đức Phật Thích Ca và công chúa Da-Du-Đà-La.
– Kể vắn tắt hén? Đức Phật trở lại thăm cha mình là vua Tịnh Phạn, nhân đó mới gặp lại con trai và đã hỏi tôn giả rằng, “Con có muốn theo cha đi tu không?” Vốn sẵn có căn tu nên dù hãy còn rất nhỏ nhưng tôn giả đã nói lời đồng ý.
Tới chừng công chúa Da-Du-Đà-La hay thì chuyện đã xong rồi.
Bà tức quá mới trách, “Ông bỏ mẹ con tôi đi tu chưa đủ sao mà giờ còn quay về bắt luôn con tôi.” Ngài thấy những gì bà nói rất có lý và thừa nhận mình sai, nên đã đặt ra lệ nếu muốn đi tu phải có được sự đồng ý của cả cha lẫn mẹ.
– Vậy là con phải về xin phép cha mẹ một tiếng…
– Phải, và nếu được sự chấp thuận thì phải trải qua thời hạn ba năm thử thách mới được trở thành Tăng sĩ chính thức.
– Vậy còn giới luật nào nữa không Đại Trưởng lão?
– Người đồng tính luyến ái hay có xu hướng tính dục khác và chuyển giới không được trở thành Tăng – Ni.
– Tại sao?
– Vì họ rất dễ nảy sinh tình cảm yêu đương với bạn bè đồng tu nên Đức Phật mới khuyên nên tu tại gia thì tốt hơn.
Châu Lợi góp lời:
– Nhiều thầy tu cho rằng ý của Phật là phái LGBTQ+ là “dơ bẩn” hay làm “ô uế” Tăng Thống nên không được phép xuất gia, cách diễn này theo thiển ý của tôi rất sai.
Như Lai chưa từng kỳ thị ai, “trai tứ chiếng – gái giang hồ” hay sát nhân giết người hàng loạt đều được Ngài chấp thuận cho xuất gia.
Đoạn Trần gật đầu:
– Vốn tính cẩn thận và muốn giữ gìn Phật Giáo được bền lâu hơn, nên Như Lai phải tính tới mọi trường hợp có thể xảy ra do các hạng người mang lại.
Rồi ngập ngừng một lát, cụ chắp tay tâm tình:
– Đối với người theo Phật Giáo, thuộc hàng Tăng Thống hoặc không, họ thường ưa đọc Kinh nguyện và niệm Pháp chú cho những người bất hạnh, thiện lương hoặc lỡ dại vì gặp chuyện đáng buồn mà qua đời.
Việc làm này dễ khiến một vài người theo Đạo khác cảm thấy khó chịu và bất bình, thậm chí có người còn viết bài chê trách nặng lời.
Xin hãy thông cảm và thứ lỗi cho đức tin của chúng tôi, bởi rải tâm từ bi là một trong những hạnh Ba-La-Mật mà một người theo Đạo nên thực hành theo lời dạy của Đấng Thế Tôn.
Tôi xin thay mặt cho giới Phật Giáo cúi đầu tạ lỗi với chư vị vì đã làm rất nhiều vị phiền lòng vì việc làm trên.
Trước lúc lui về cốc, Đức Thầy dặn dò Tín vài câu.
Nghe xong, Đức Hoàng vuột miệng nói:
– Cái băng chửi thuê khóc mướn của mày không có lấy một đứa gọi điện – nhắn tin thăm mày.
Tín chỉ biết cúi gằm mặt mà không đáp trả một tiếng.
Châu Lợi mời mọi người theo mình lên Chánh Điện ở trong thạch động để đụt mưa.
Ở đó, Châu Lợi cùng các huynh đệ đọc bài “Girimananada Sutta – Kinh Giải Bệnh” cho Tín.
Những ai nghe không nổi thì lui ra sau thạch động ngồi, ở đó có ngách hang khá lớn có thể tùy nghi nằm ngồi theo ý thích.
Hết giờ Kinh, ai nấy đều tề tựu lại.
Trì Thương thuật chuyện mà mình từng nghe cha kể:
– Có một người đi tập kết về trở thành sát thủ chọi lựu đạn.
Mà ổng cũng khôn lắm, toàn canh dân thường và những ai tình nghi nuôi lính mà tấn công.
Rồi tới một hôm, sau năm 75, Trời trả báo, con trai độc nhứt của ổng bị xe đụng, tư thế giãy đành đạch trước lúc chết giống y hệt cái người bị ổng chọi lựu đạn năm xưa; xin nói rõ hơn một chút, người này bị lựu đạn làm mất tay – chân nhưng không chết liền, mà bị nằm trong nhà thương do nhiễm trùng máu và sốc phản vệ hơn ba – bốn ngày mới tử vong, dáng vẻ quằn quại khi bị miểng lựu đạn văng ra cứa đứt tay – chân của người đó đã khiến những nhân chứng may mắn thoát chết bị ám ảnh tới nỗi khắc cốt ghi tâm.
Trời cũng không quên phần ổng, ổng đang làm đồ điện thì bị điện giựt cụt luôn cánh tay; cái tay mà ngày xưa hay đi chọi lựu đạn người ta đặng lập chiến công.
Chắc có lẽ để làm gương cho hậu thế, nên một trong những nhân chứng đã vô tình chứng kiến tận mắt cái chết của con trai ổng đặng mà đem ra so sánh với tư thế lúc bị thương của người đó.
– Tại sao vậy Thầy Thương? – Tín bàng hoàng hỏi.
– Bản thân người ta xúi Tín làm chuyện ác, họ chỉ mới có Ý và Khẩu ác, còn Tín, Tín nghe theo nên Tín bị nặng hơn, vì Tín đủ Thân – Khẩu – Ý.
Thủy Diệu nhìn Tín mà cười biểu:
– Con người chỉ có thể làm chủ thuật toán, nhưng không bao giờ làm chủ được Luật Nhân – Quả.
Tín có thể bôi xóa, sửa đổi và che đậy những tin tức mà chủ thuê không thích, nhưng vĩnh viễn Tín không thể nào làm những điều đó với Báo Ứng.
Trì Thương nghiêng mặt:
– Nếu Tín lên đây nhằm mục đích tìm tài liệu giúp chủ thuê “thoát nạn” thì về sau Tín sẽ không còn đường thoái lui nữa.
Ở trong một ngách hang, có một người Tăng sĩ Theravada đang đốt đuốc đọc sách.
Người này hãy còn khá trẻ, tay chân tròn lẳng và trắng muốt rất đẹp, khuôn mặt trái xoan thanh tú và ánh mắt biết cười.
Đại Trưởng lão Đoạn Trần chậm rãi bước lại gần sư huynh.
– Đệ cho phép người này Quy Y Tam Bảo?
– Dạ.
– Nhưng người này không phải là tôn giả Vô Não.
Một việc bất thiện nhỏ còn không biết hối, há sao có thể nhiếp tâm tu tập được.
– Đây là di nguyện của trò Như Phong.
Xin sư huynh hãy niệm tình chấp thuận.
– Thôi được.
…
Trong phòng bệnh của mình, Tín đang tạo dựng đoạn phim để cứu vớt danh dự của chủ thuê.
Anh không thể mượn Thương Hận làm đề tài công kích đánh lạc hướng dư luận nữa, bởi cha nội tổng thống đã ra mặt bênh vực anh ta.
Còn đụng tới Xương Tuyết thì…!dường như khứa có cố vấn của tổng thống chống lưng.
Quay qua soi mói nhóm Tăng sĩ, chắc anh sẽ bị anh Hai của Trì Thương chém bay đầu.
– Khuya rồi, mau ngủ đi, đừng vắt óc hại người khi vết thương trên đầu hãy còn chưa lành.
Trì Thương đã đứng ở ngạch cửa tự bao giờ.
Dáng vẻ của chú không thị mà uy.
Nửa A-Tu-La và nửa A-La-Hán.
– Anh Hai tôi không phải là hạng giang hồ trong phim xã hội đen đâu.
Trước đây Tín gần gũi người xấu riết nên bây giờ đâm ra coi ai cũng giống đám đó.
Tín bặm môi cân nhắc cách đáp trả lại.
– Chừng nào bị cái đám đó chém bể sọ thì Tín mới tỉnh ngộ nổi.
– Nếu như chú đã biết tôi gạt chú, tại sao chú không báo động cho mọi người?
– Tín là cái thá gì mà phải bận tâm đề phòng?
Tín sửng sốt trố mắt nhìn Trì Thương.
– Tín chỉ là một trong những con cờ của chủ thuê mà thôi.
Như bao con cờ khác trôi nổi trong kiếp Vô Thường.
Trước lúc quay lưng rời đi, Trì Thương bỏ xuống một câu:
– Tôi tới đây là để nói cho Tín biết một điều: Liệu rằng chủ thuê có tha mạng cho thân nhân của Tín sau lần thất bại tiếp theo không?
Nội trong đêm hôm đó, mẹ của Tín gửi lên ca khúc “Con trai của Mẹ” của nhạc sĩ Giao Tiên và do Thanh Tuyền ca.
Anh thừ người ngồi nghe, rồi quay lại hành nghề tiếp.
oOo
Lối chừng chín giờ sáng thứ Năm, Giáo xứ Saint Pio đóng mừng Đức Tổng Giám Mục Giáo Phận Sài Gòn Gabriel Đinh Thái.
Không có gì làm quà mừng Đức Cha, ca đoàn bèn trình diễn bài “Thiên Thần Gabriel” của Linh mục Hoàng Kim để tôn vinh bổn mạng của ông.
Sau đó, các Giáo dân ngại ngùng không dám lên tiếng, ngay cả hai vị Linh mục quản xứ, Thầy Phó Tế và ông Cha Lớn cũng không biết mở miệng sao cho phải phép.
Gabriel Đinh Thái giải vây:
– Đức Jesus Christ đến với chúng ta trong sự giản dị, há chăng tôi lại dám đòi “cung nghinh” như bậc vương giả sao? Nào, mời quý bà con “xúm” lại đây tán dóc với tôi cho vui.
Một đứa bé gái ăn mặc lôi thôi lại tặng Gabriel Đinh Thái một bông mười giờ tim tím ngắt đại bên đường.
Ông cảm động quá chừng, bèn quay sang nhờ cháu trai cho mình viên kẹo để tặng nó.
Con nhỏ vừa về với mẹ, những người Giáo dân khác bèn nối gót nhau lên vấn đáp với Đức Cha.
Chừng khoảng ba tiếng sau, Gabriel Đinh Thái mới có thể đi nói chuyện riêng với Giuse – Blanc Cao Nhật Thành.
Rapheal Đinh Lễ được phép đi theo ông, còn thầy Dự thì bị bắt ở lại.
Hai người chọn khu Nam làm nơi vừa tản bộ vừa tâm tình.
Trời Xuân hanh hanh nắng.
Gió chướng lồng lộng không thể xua tan nổi những áng mây lang thang trên nền trời xanh biếc.
Vài cánh chuồn bay thâm thấp nơi luống hoa hướng dương ủ rũ vì không được nhìn rõ vầng dương.
Có tiếng lá bay xào xạc trên mặt ao đùng đục; từng chiếc, từng chiếc trôi mất xác về đâu không rõ.
– Ignacio Cường luôn cho rằng nhờ Stephen Đoàn mà Giáo xứ mới trụ vững tới giờ.
Thật ra công đầu thuộc về cẩu.
Cẩu là người mạnh mẽ, quyết đoán, nếu việc đó làm lợi cho Giáo hội và đời sống Giáo dân, cẩu sẽ dấn thân tới cùng.
– Dạ? – Cha Thành nghiêng đầu, tỏ vẻ ngạc nhiên hết sức.
Cha Thái cười hiền.
Rồi với tay ngắt bông ô-môi đỏ thắm mà kể:
– Cẩu chưa từng nói cho ai biết là cẩu đã bị chém sau cái ngày JB Khải bị treo chén.
Lúc đó cẩu đang trên đường đến tìm tôi để minh oan cho JB Khải thì bất thần bị chém sau lưng.
Sợ tôi ra khỏi nhà sẽ bị liên lụy nên cẩu cắn răng không kêu la nửa lời.
Tới rạng sáng, tôi mới hay cẩu nằm bất tỉnh trước cổng nhà.
Bao nhiêu tài liệu và bằng chứng giải tội cho JB Khải đều bị lấy sạch.
Nhận thấy sắc mặt không khỏe của Cha Thành nên Cha Thái cùng Linh mục Lễ dìu cụ ngồi xuống băng ghế đá kê dưới gốc cây bằng lăng chưa vô mùa trổ bông.
Cha Thành uống vài hớp nước để dịu bớt cơn đau ở mạn sườn.
Giá như có Dự thì đỡ biết mấy.
Sợ rằng không còn kịp nữa, Cha Thái nói luôn:
– Cho nên, hiếm khi nào cẩu cho người khác xem lưng.
Vết sẹo lồi vẫn còn hằn đó, như một chứng tích cho sự thử thách trong công cuộc rao giảng lời Chúa của một ngôn sứ.
– Bây giờ tôi đã hiểu tại sao Đức Cha lại chọn Cường chứ không chọn Mỹ.
– Dạ.
Cha Thành báo tin cho thầy Dự biết để đưa cụ tới nhà thương liền.
Mất đi một trái thận, cộng thêm ảnh hưởng của cuộc thẩm mỹ bất đắc dĩ kia, nên tuổi già của cụ đã phát sinh rất nhiều biến chứng và bệnh bậy.
Thầy Dự tức tốc đưa bố nuôi vào bệnh viện.
Ông đã chuẩn bị sẵn tinh thần tiễn đưa ông bô về với Chúa, nhưng đôi lúc cũng không kiềm được mà nước mắt ngắn dài.
Người hầu chuyện Cha Thái lúc bấy giờ là Ignacio Cường, Stephen Đoàn và Louis Quế.
Hai người Cha và vị Phó Tế tới đây bằng xe nhà của dượng Bảy.
Dượng Bảy cũng ở lại đây chứ không quay về.
Nhóm người Công Giáo ra ngoài nhà mát gần đó để ngồi nghỉ chân tránh nóng.
Bốn bề hoa bướm, sao nháy và mười giờ nở rộ.
Tàng cây trứng cá ngũ tuần vươn những cánh tay che chở cho chái nhà không vách luôn ngập nắng và bị mưa tạt.
Cha Thái nghe tiếng mưa rớt hột trên ao bèo mà chạnh lòng nói:
– Quỷ dữ lúc nào cũng sợ ánh sáng của Thiên Chúa, nên luôn tìm cách sát hại những người muốn đem ánh sáng của Thiên Chúa trải khắp thế gian.
Rồi ông nhìn các con thân yêu và tâm tình rằng:
– Con còn nhớ Thánh John đã nói gì không, “Chúng phục vụ và tuân lệnh Cha của chúng, tức Quỷ Satan.” Còn chúng ta phục vụ và tuân lệnh Cha của chúng ta, tức Thiên Chúa.
Hai người Linh mục trẻ nhìn nhau.
Không ai muốn góp lời với Cha Thái.
– Các con đã ráng sức giữ gìn danh dự cho John “Tẩy Giả”, tuy không thành công mà còn bị rất nhiều dị nghị nhưng các con vẫn giữ vững lòng tin nơi Thầy, Thầy xin chân thành cảm ơn các con.
Ignacio Cường và Stephen Đoàn cúi đầu dạ nhỏ.
Rồi Cha Thái biểu cháu trai đưa cái cặp xách cho ông.
Ông lấy ra hai phong bao lì-xì đỏ thắm in hình mai vàng mà trao cho hai người Cha Nhỏ:
– Cha lì-xì cho các con lấy hên.
Mua đồ mới mặc đi, Cha gì đâu mà y hệt đệ tử Cái Bang.
Louis Quế và dượng Bảy ngó nhau cười tủm tỉm.
Cố Phêrô Toàn bất thình lình xuất hiện với dì Bảy.
Hai người đem tới đồ ăn – thức uống để phục vụ bữa trưa cho mọi người.
Andrew Hồ chở họ tới đây, rồi lầm lũi lái xe về.
Do không kịp nấu nướng chiêu đãi Đức Cha kính yêu, Giáo dân bèn trích công quỹ của xứ để mua thực phẩm.
Thật may gần đó có một nhà hàng Tây – Tàu – Việt chế biến món nào cũng khá ngon nên toàn xứ đỡ mất công đi kiếm tìm.
Bữa trưa có mười món, nhưng toàn là món chính vì Giáo dân không biết rõ có mấy người đang kề cận Đức Cha, kể chi tiết thì có: Tôm tẩm cốm, cá chẽm chưng tương, hàu nướng bơ tỏi, cà-ri mực kiểu Thái, sò điệp sốt X.O, đậu phụ cay Tứ Xuyên, cánh gà chiên nước mắm, bò cuốn lá lốt và trứng chưng ngải cứu.
Vì đặt quá nhiều món mắc tiền nên nhà hàng tặng thêm một chảo cải thìa luộc và rau xào chay.
Riêng cơm, canh và đồ uống thì quán nhỏ của vợ chồng dì Bảy lo.
– Chúa ơi, ăn sao hết?
Dì Bảy cười xởi lởi:
– Đức Cha yên tâm đi, ở chỗ con có “máy xay lúa”.
Mình đừng có gắp hết vô dĩa một lần, mà chừng nào xong rồi hẵng múc thêm.
Cha Thái chống cằm cười:
– Ừm, cô đây nói rất có lý.
Rồi ông kể trong lúc ngắm các con, chức sắc trong xứ và Giáo dân sắp mâm cỗ cho mình:
– Có một vị Linh mục trẻ rất đẹp trai đã gây tranh cãi khi quay phim về đời sống hằng ngày của mình.
Cha đi xe hơi, ở chỗ cao sang, làm việc trong một Thánh Đường vô cùng tráng lệ và nguy nga.
Nhiều người đã bất bình vì Cha thụ hưởng vật chất thế gian quá nhiều, mà quên phứt đi rằng thế gian hãy còn quá nhiều người túng thiếu.
Người ta dễ dàng chấp nhận Cha nghèo hơn là Cha giàu; dù phần lớn tài vật mà Cha giàu sở hữu là của bố thí đi chăng nữa, người ta vẫn khó lòng chấp nhận.
Louis Quế xin mạn phép góp vui:
– Có một ông Cha già đi phát quà cho bà con nghèo, tới chừng về rồi người ta mới hay ông đó là Cha, vì vẻ ngoài của ông đó vừa đen vừa ốm mà lại còn mặc đồ cũ mèm như người đi làm công, thành ra ai cũng tưởng ông đó là người làm của Cha!
Cha Thái cười lớn, rồi dịu dàng khuyên:
– Cái gì cũng một vừa hai phải thôi các con.
Mình xuề xòa quá người ta không hiểu lại cho rằng mình ăn ở sao mà chẳng ai tiếc công sửa soạn giùm.
Mình chưng diện quá người ta lại chướng mắt cho rằng mình là Mục Tử hay người mẫu thời trang quốc tế mà làm quá như vậy.
Đoạn, Cha Thái biểu cháu trai Rapheal Đinh Lễ lại gần, rồi nói:
– Đầu tóc cắt gọn.
Quần áo thẳng thớm và mặc vô đàng hoàng.
Chân đi giày da đơn giản và không nệ hàng hiệu, mà cũng chẳng ủng hộ hàng nhái.
Xịt xíu dầu thơm là đủ rồi, đừng biến mình thành “vườn hoa di động”.
Stephen Đoàn cúi mặt mân mê bụng áo chùng thâm đã sờn cũ.
Anh đã mặc cái áo này rất lâu rồi, và chưa có ý định bỏ đi và mua cái mới.
– Ngọc Mỹ.
– Dạ?
– Số tiền Cha cho con vừa đủ để mua cái áo dòng mới.
Nếu không đủ, con chạy lên nhà bắt đền Cha nghen?
Stephen Đoàn dụi dụi đôi mắt đỏ hoe.
– Mít ướt hoài, mệt bây quá! Hết anh Thành rồi lại tới bây.
Cố Phêrô Toàn đơm thêm:
– Biểu thằng Mỹ mua hoài mà nó không chịu nghe, cứ nói để tiền đó lo bà con…
– Cố Toàn.
– Dạ?
Cha Thái đưa cái phong bao lì-xì cho cố Phêrô Toàn, rồi cầm tay cụ mà nói:
– Không có cố dạy con ăn học, chắc giờ này con đã chết bờ chết bụi rồi.
Cố và anh Thành đã hướng con nên người, giờ đây về mặt chức sắc thì vai vế con hơn ảnh rất nhiều, nhưng về phụng vụ Chúa thì con không thể sánh bằng ảnh.
Ảnh đã dạy con hát mỗi khi gặp khó khăn rằng:
“…!Ngày nào gặp gian nguy
Ngày nào gặp bão tố
Con nhớ lời khẩn cầu
Đời con bao sóng gió
Đời con bao khốn khó
Xin Đức Mẹ thương con…”
– Nhạc phim “Áo dòng đẫm máu” của nhạc sĩ Võ Đức Thu, bữa coi phim đó có mặt vợ cố nữa.
– Trước mặt mọi người thì con phải giữ đúng vai trò và cách nói chuyện của một Tổng Giám Mục, nhưng bây giờ ở đây toàn là người nhà của con nên con muốn buông thùa xuống.
Giống như hồi Đức Cha Vincent Cao Nhật Trung còn sống vậy.
Không hẹn mà ai nấy đều bật khóc.
Muốn có một cái cây lành thì phải có một bộ rễ khỏe mạnh: Linh mục Vincent Cao Nhật Trung chính là cội rễ đó, nhờ Đức Cha mà thân cây đã vươn lên tận trời và trao cho đời một bóng mát xanh ngời nhờ sự hợp sức của những nhánh cây tươi tốt.
oOo
Bữa nay Hác Đăng Khánh tổ chức bữa tiệc nho nhỏ với những người cùng phe.
Khách mời có Lạc Tương Giang, Claret Sơn và ba người mật vụ trạc tuổi nhau.
Mật vụ Số Một báo cáo:
– Nguyễn Chí Công là người thân của hai nạn nhân trong thảm án “Hai Mươi”.
Mật vụ Số Ba bổ sung:
– Nghe đâu cô ta cặp với một ông chính khách già, rồi bị khứa này đá.
Lạc Tương Giang nhận định:
– Chắc có lẽ sợ hoặc bị má con cổ làm rùm beng lên nên mới sai người trừ khử trước.
– Có phải người này từng ra tranh cử tổng thống vào thời điểm tôi đang làm culi cho đảng Dân Chủ không? Tôi còn nhớ mài mại mấy cái tin chỉ trích khứa không đứng đắn và thứ quỷ già sống lâu báo đời.
Rồi chú húng hắng giọng trước khi đọc:
– Cái vè nó như vầy nè:
“Nghe vẻ nghe ve
Thằng già mất nết
Lết hết nhà này
Lại sang nhà khác
Hại con người ta
Tan hương nát ngọc
Thứ dòng rắn độc
Chết vẫn không yên…”
Lạc Tương Giang hỏi:
– Gia đình ổng giờ sao?
– Mấy đứa con đều thành tài hết, riêng bà vợ thì…
– Thì sao?
– Thì hơi khùng chút.
Suốt ngày lên mạng dạy đời thiên hạ cách nuôi con và giữ chồng.
Claret Sơn ngó vô cái chảo đụng đang phừng phừng lửa theo từng nhịp lắc chảo của ông tổng thống mà hỏi:
– Đang làm món gì vậy Khánh?
– Dạ, bò sốt vang và bánh mì nướng bơ tỏi, ăn với salad ô-liu – sò điệp và súp cà chua – phô-mai.
– Cậu học ở bên bển à?
– Dạ.
Học mót của ông bếp trưởng người Pháp.
Claret Sơn nháy mắt:
– Sau này bị đuổi, ra mở nhà hàng sống.
– Xong vụ này thế nào con cũng bị dân xuống đường bắt từ chức.
Lạc Tương Giang trề môi:
– Tự biết mình lạm quyền phải không?
– Dạ.
Đoạn, chú quay qua kiểm tra món gầu bò nướng than.
Món này ăn nhiều dễ cao máu, còn ăn ít thì không làm được.
Biết ý thầy thích ăn bò bít-tết nên chú nướng luôn cho mỗi người, bảo đảm ăn bao bụng.
– Mà thầy tính rắc muối hay chế sốt lên ăn?
– Rắc muối thôi.
Ba cái sốt tê khó ăn gần chết.
Hác Đăng Khánh đích thân dọn mâm – sắp chén.
Chú chiêu đãi các khách quý món bò bít-tết nướng ngũ vị, súp nấm kem tỏi, măng tây hấp và hàu né.
Về phần cocktail, chú sẽ pha riêng theo sở thích của từng người.
Claret Sơn vừa ngắm nghía dĩa thịt bò nướng chín vừa thầm nghĩ tới chuyện sẽ xin tổng thống cho ông vài phần để đem về cho con cháu.
– Uống gì đây bác sĩ?
– À…!- Claret Sơn cười ngượng.
– Tôi quê mùa trong mấy cái chuyện bia bọt lắm.
Thành ra, Khánh muốn pha gì cũng được.
– Vậy uống “Margarita” nghen?
– Dạ.
– Con bé Đào đâu rồi bây?
– Dạ, ẻm đi Lễ rồi.
Trước mắt đã tìm được con trai của một trong hai nạn nhân thảm án “Hai Mươi”, dựa theo nếp sống của cậu ta thì người này hết sức chật vật và khốn khó, nếu không nhờ người bạn thiết cưu mang, ắt hẳn cậu ta đã ra đường sống.
Tuy vậy, có lẽ là bị mặc cảm, thành ra cậu ta hay nói mình có cha mẹ đàng hoàng.
Từ những tin tức trên, Hác Đăng Khánh đã nắm được sơ sơ tánh tình của Nguyễn Chí Công: Tự ti, nhút nhát, sợ bị bỏ rơi, ghét bị hiểu lầm và ưa được gần nơi đông người.
Khá giống với chú hồi còn ở cô nhi viện, mấy cái nết trên chú đã bớt bớt được mấy cái đầu và dẹp được vế chót.
Claret Sơn đã ăn tới miếng thịt bò thứ ba mà vẫn chưa ngán.
Tổng thống đã hứa cho ông mấy phần đem về.
Hiện thời ông đang nghĩ cách để giúp tổng thống mau chóng xác minh ADN giữa tên quan tham và ký giả Côn Lôn.
Dễ dầu gì mà bà vợ ông ta đồng ý để cậu đó xét nghiệm ADN với con mình, vì con của bả không phải con ruột của ổng.
Lạc Tương Giang chợt ngâm nga:
– “Ma Vương sát Đại Quỷ.
Hoàng Thiên tru Ma Vương.”
Đó là hai câu thơ trong “Sấm Trạng Trình” của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
– Dạ, con hiểu ý thầy.
Ba người mật vụ đã ăn no bụng.
Họ đang mở Laptop lên bàn luận công việc và trao đổi tin tức đã thu thập được suốt một năm qua.
Trong lúc ngồi đợi ba “ông đầu rau” chế biến món tráng miệng, Hác Đăng Khánh ngồi nghe bài “Con tim thật thà” của ca – nhạc sĩ Trịnh Nam Sơn.
Ca sĩ Tô Chấn Phong hát bài này cũng hay.
Vừa hay Jaqueline Đào về đến, mang theo tin tức “nóng bốc khói” cho người anh nuôi…
oOo
Nguyễn Chí Công đang đứng đợi mua hủ tíu sườn ở “Vĩnh Hảo mỳ gia”.
Thằng bạn Bảy Núi thì còn bị kẹt trong phòng khám răng, biết nó thèm mà ăn hổng được nên y và hai thằng kia mới mua món này.
– Mày ơi…
– Gì rên thấy ghê vậy con?
Đức Hoàng vỗ đầu thằng bạn một cái rõ đau:
– Cười cái gì mà cười?
– Mặt mày bư nhìn ngu quá…
– Chích bốn mũi thuốc tê mà sao không sưng chù vù cho được?
– Thôi, tao thương, ăn gì hôn tao bao?
– Mày lựa cái quán cũng có đức lắm con.
– Hì, trong này cũng có bán cháo nữa.
– Tụi mày ăn sườn, còn tao ăn cháo…!”Ôi bạn bè, bạn bè là những niềm đau…”
Chí Công bĩu môi:
– Mày cùng quê với ông Song Ngọc mà không có một miếng năng khiếu văn nghệ.
Thường Khán Bình và Tống Ngạn đã có mặt ở trong quán sau mấy tiếng đồng hồ ngồi chờ ở hãng xe đặng rửa xong chiếc xe Mitsubishi.
Bốn người chọn cái bàn ở góc trong cửa ra – vào để tiện bề coi ngó chiếc xe “bé bự” đậu nhờ trong sân chùa.
Ba đứa lành lặn ăn hủ tíu – mỳ sườn, còn thằng niềng răng phải húp cháo đồ biển sền sệt và nồng nặc mùi hành.
Vừa lau đũa với nửa trái chanh, Chí Công tâm sự:
– Tao hy vọng ba mẹ nuôi sẽ không vì tao mà bị hại.
Ba đứa kia nhìn nó đầy ái ngại.
– Chẳng lẽ tao phải về Hố Nai một chuyến?
Tống Ngạn khuyên:
– Mày nên gặp Cha Matthias Hoàn thì hơn.
– Cha đang ở đâu?
Vẫn là Tống Ngạn lên tiếng:
– Ở trường Dòng Chúa Cứu Thế nằm phía sau lưng Đài vinh danh Petrus Trương Vĩnh Ký.
Đức Hoàng gật gù:
– Vậy là Cha sống ở Quận Nhứt.
Sau giờ ăn, bộ tứ bèn ghé qua trường Dòng để kiếm cha đỡ đầu của thằng Công.
Trường Dòng được thành lập trước năm 75, mang nhiều nét kiến trúc Pháp và Ý Đại Lợi, năm qua ban điều hành có cho tu bổ lại cổng rào và xây thêm vườn hoa, bồn bông cùng sân chơi cho các em học nội trú.
Augustino Dương đang dạy đàn vĩ cầm cho mấy cậu học trò trong khoảnh sân gần bức tượng Thánh Cả Giuse.
Ông truyền lại tài nghệ của mình cho thế hệ kế tiếp.
Nguyễn Chí Công đánh bạo cất lời:
– Thưa Cha.
– Chi con?
– Con là Nguyễn Chí Công, một kẻ lạc Đạo mang tên Thánh Ernest, từng được Cha Matthias Hoàn cưu mang và che chở.
Bữa nay con tới với ước mong được gặp lại người cha đỡ đầu yêu quý.
– Khách sáo quá! – Augustino Dương bật cười mà nhận xét như vậy.
– Mấy đứa tự quản lớp nghen? Để Cha đưa con trai của Thầy Hoàn tới chỗ Thầy ấy.
Matthias Hoàn đang ngồi đọc cuốn sách “Minh Tâm Bửu Giám” của cụ Petrus Trương Vĩnh Ký bên cửa sổ phòng ăn lặng ngắt.
Trên bàn còn một tô cháo đang ăn dở và dĩa ghém chưa động đũa tới.
Có lẽ Cha đang ăn trưa.
– Cha…!Cha Hoàn! Cha còn nhớ con không?
Matthias Hoàn đẩy kiếng lên, rồi nheo mắt nhìn đăm đăm.
Vài phút sau, cụ thở dài mà nói:
– Cha già rồi.
Không tài nào nhớ nổi con là ai hết.
– Con là Ernest Nguyễn Chí Công, đứa nhỏ bị bỏ rơi ở Biên Hòa.
Matthias Hoàn đứng phắt dậy.
Cụ hối hả lại gần người con trai năm cũ và đưa tay lên rờ mặt nó.
Không chắc ăn, cụ còn kéo khóe miệng của nó lên để coi cái răng khểnh ở mé trái hàm trên; nó bị khểnh một chiếc do đập mặt xuống mui ghe khi đi qua sông Đồng Nai với cụ và đôi vợ chồng Giáo dân Hố Nai.
– Chúa ơi, Công ơi, đúng là con rồi! Tạ ơn Chúa! Tạ ơn Thiên Chúa!
Hai cha con ôm nhau mừng mừng tủi tủi.
Rồi sực nhớ ra mình vẫn chưa rửa miệng, rửa tay, ông Cha già bẽn lẽn xin lỗi thằng con, đoạn biểu:
– Cha xin lỗi vì đã bỏ rơi con cho cảnh sát Nhạn.
Vẫn với gương mặt rạng rỡ niềm hạnh phúc, Nguyễn Chí Công lắc đầu mà nói:
– Không đâu Cha ơi…!Nhờ vậy mà giờ đây con có ba người bạn rất tốt.
– Đây là con trai của anh Nhạn?
– Dạ, nó đó Cha.
– Con tên gì?
Tống Ngạn chắp tay và thưa:
– Tống Ngạn, thưa Cha.
– Mấy đứa ăn gì chưa? Í, sao cậu này mặt sưng như cái nia vậy? Cảm mạo hả con?
– Mới lụi bốn mũi thuốc tê để sửa niềng răng đó Cha…!- Đức Hoàng ôm má kể lể.
– Chèn ơi tội nghiệp hôn! Lát lên phòng Y Tế của trường coi mấy Thầy ở trển có cấp thuốc chi uống cho mau xẹp không.
– Dạ, được vậy thì con mang ơn lắm.
Trước khi theo con trai ra quán cà-phê ngồi nói chuyện, Matthias Hoàn nhờ bà bếp dọn bàn giùm rồi tất tả vô nhà vệ sinh rửa tay, rửa mặt.
– Chở Cha đi đâu bây giờ? Ra “Sóng Nhạc” xập xình khó nói chuyện quá, mà ông nội đó lại có vẻ thân với đảng Dân Chủ.
– Đức Hoàng nhíu mày nói.
Khán Bình góp ý:
– Vậy dẫn Cha đi ra ngoại ô đi.
Tao biết có quán này dễ thương lắm.
Quán nhỏ mang tên “Ngoại Ô Buồn”, mượn từ tên bài hát của nhạc sĩ Anh Bằng.
Đây là nơi luôn rộng lòng với những học trò – sinh viên và dân lao động nghèo uống thiếu – ăn chịu; nên đã nuôi nguyên đám suốt những năm đi học.
Ở đây có bán gỏi đu đủ khô bò, phá-lấu bò, bò-bía, bột chiên và các loại bánh của người Hoa khá ngon; sau thấy sinh viên ưa hỏi cháo sườn – bánh quẩy và cơm dĩa nên cũng mạy mọ học làm, nhưng không được nên nhường cho hai má con từ dưới miền Tây lên ở đậu mở quầy bán trên đất của mình..