Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 173: Hồi Ba Mươi Hai Mùa Gió Bấc B


Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 173: Hồi Ba Mươi Hai Mùa Gió Bấc B


Băng nhạc “Tiếng Tơ Đồng – Xuân Tiền Chiến 1” đã làm quán cà-phê “Sóng Nhạc” bừng sắc rộn ràng.

Sau cuộc gặp gỡ ông cậu vui tính, tâm trạng của Đặng Thừa Tân đã khá hơn rất nhiều, anh cũng bỏ ngoài tai những lời nói khích của những vị khách cố tình kiếm chuyện.
– Mấy bây có đói bụng hôn? Bữa nay tao bao.
Phàm hễ nhắc tới chữ “Ăn miễn phí” là quần thần triệu tập lại mà không cần hiệu lệnh thứ hai!
– Lẹ ghê ha? Nè, muốn ăn gì thì đặt hàng đi, xong xuôi hết rồi gọi tao lại chuyển tiền.
Cậu nhân viên tròn vo e dè hỏi:
– Ăn nhiều quá có bị trừ lương không ông chủ?
– Rửa ly bù thôi.

Riêng cậu chắc rửa máy bù mới đỡ lỗ.
– Hứa nghen?
– Ê tôi rút lời lại được không?
– Không, “Quân tử nhất ngôn, tứ mã nan truy.”
Anh bật cười mà ghẹo:
– “Quân tử nhứt ngôn là quân tử dại, quân tử nói lại là quân tử khôn” mày.
Trong lúc đợi đám nhân viên đặt hàng, anh lắng nghe Duy Quang đang ca bản “Xuân đã về” của tác giả Minh Kỳ.
– Băng nhạc nào vậy cậu?
Anh cầm bìa của băng nhạc lên và đọc:
– Băng nhạc “Shotguns 66 – Mừng Xuân mới: Xuân này con không về”.
Người mối quen lớn tuổi pha lửng:
– Nghe cái tựa băng nhạc là hết muốn nhậu.
Rồi người mối quen nói:
– Tôi chỉ ưng nghe Duy Khánh hay Chế Linh ca bài này.

Một sáng tác thật hay và nhiều xúc cảm của nhóm nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân.
Trò chuyện thêm vài câu nữa, kế đám nhân viên gọi anh lại trả tiền.

Chắc biết lâu lâu anh mới làm phước nên đứa nào đứa nấy cũng ráng đặt cho thiệt nhiều.

– Thường chỉ có văn công mới sáng tác nhạc cổ xúy chém giết, chứ còn những người vừa là lính vừa là nhạc sĩ thì hiếm khi nào họ ca tụng việc này.
Người vừa phát biểu là một thương – phế binh có đôi mắt rất buồn.
– Tại sao vậy anh?
– Bởi vì họ nhìn thấy tang thương trong chiến tranh nên chẳng ai muốn nhắc tới nó trong bài hát, mà nếu có nhắc thì họ cũng thi vị hóa hoặc sử dụng khái niệm trừu tượng.

Uống xong một ngụm cà-phê không đắng bằng đời mình, cụ nói với người chiến hữu:
– Ngoài ra, những người đã từng tham chiến và hành quân khi sáng tác nhạc họ thường thuật lại rất rành mạch cảnh vật, phong tục – tập quán, con người,…!ở những nơi mà họ đã đi qua.

Còn văn công trốn ở hậu phương xúi người ta chém giết nên toàn bộ lời ca quanh đi quẩn lại cũng chỉ có bấy nhiêu chữ và ý, bởi có tham chiến và hành quân lần nào đâu mà biết.
Như nhạc sĩ Lam Phương có bài “Tình anh lính chiến” chẳng hạn, “Xuyên lá rừng trăng lên lều vải.

Lòng đất ấm thương tình đôi mươi”.

Nhạc sĩ Trần Thiện Thanh với bài “Rừng lá thấp”, “Rừng lá xanh xanh, cây phủ đường đi.

Thành phố sau lưng ôm mộng ước gì?” Nhạc sĩ Trúc Phương có “Trên bốn vùng chiến thuật”, “Tôi thường đi đó đây.

Bùn đen in dấu giày, lửa thù no đôi mắt, chân nghe lạ từng khu chiến thuật.” Nhạc sĩ Anh Thy thì “Lính mà em” phổ từ ý của bài thơ cùng tên của thi sĩ Lý Thụy Ý, “Trăng lên cao, muôn hoa sóng dâng đầy.

Tàu lắc lư làm sao viết thư tình?” Đôi nhạc sĩ Song Ngọc – Hoài Linh trải lòng với bài “Một chuyến bay đêm”, “Giữa lòng trời khuya muôn ánh sao hiền.

Người trai đi viết câu chuyện một chuyến bay đêm.” Còn nhạc sĩ Khánh Băng gói gọn từng chiến tuyến và thao trường trong bản “Giờ này anh ở đâu?”
Mỗi người đều phác họa đời lính theo cách của mình, không ai trùng lặp ai, dù bối cảnh bó gọn trong ba địa điểm chính: Đất bằng – Dưới nước – Trên không.

Nghe nhạc Xuân hoài cũng chán, Đặng Thừa Tân bèn mở bài “Tình ca Quê Hương” do song ca Trung Chỉnh – Hoàng Oanh, một sáng tác của ca – nhạc sĩ Duy Khánh.
Người lính già lành lặn hơn kể:
– Có người đã từng hỏi ông Duy Khánh rằng sao lại sáng tác bài “Sao đành bỏ Quê Hương” thì ổng nói không hát vậy nó xử bác sao con.

Đương nhiên đây chỉ là giai thoại.
Người khách có dáng dấp cự phú hôm hổm ghé quán đặt mua mấy ly đồ uống.

Ông này không bao giờ lấy tiền thối nên mỗi bận pha chế anh thường làm nhỉnh hơn công thức tính sẵn của quán.
Song ca Duy Khánh – Ngọc Lan đang hát bài “Tình đời” của nhóm nhạc sĩ Lê Minh Bằng; trong bài này ba vị cố nhạc sĩ ký tên là Minh Kỳ – Vũ Chương.
“Khi biết em mang kiếp cầm ca, đêm đêm phòng trà dâng tiếng hát cho người đời
Bỏ tiền mua vui
Hỏi rằng anh ơi còn yêu em nữa không?”
Nghe đâu được một đoạn, Vệ Thu tấm tắc khen hay, rồi bình phẩm:
– Bản nhạc của người ta là “Tình đời”, mà tự nhiên sửa thành “Duyên kiếp cầm ca”.

Người mối quen nghe vậy gật gù:
– Nhiều ba, má sửa tên bài hát với người sáng tác để lách luật, rồi sẵn đà sửa banh cái lời ca của người ta luôn.
Vừa trả tiền nước, Vệ Thu vừa hỏi người chủ quán trạc tuổi con trai trưởng của mình rằng có bài hát nào là lạ không cho mình nghe với.
– Dạ, “Tâm sự Mộng Cầm”, nhạc sĩ Trần Thiện Thanh viết tặng cho bà Mộng Cầm và thi sĩ Qui Nhơn Hàn Mặc Tử, người trình bày là cô Trúc Mai.

Vệ Thu cười:
– Hầu như ông Thanh cảm mến ai hay ai đó quen biết ông Thanh là đều được ông sáng tác cho một hoặc vài bài.

Chiếc xe được tài xế đậu cách chỗ cũ khoảng mấy mươi mét.

Không quá xa với người trẻ, nhưng lại làm khó một người luống tuổi như Vệ Thu; cũng may còn hàng me tây đại thụ làm lọng che nắng, nên thân già đỡ khổ.
Trì Thương đã đan xong khăn choàng cho má, giờ chú đang làm cái khác cho anh Hai.

Mợ Hai khoe với Vệ Thu rằng nửa đêm trời trở lạnh ngủ không được, choàng cái khăn này ra ngồi coi TV hay đọc tin tức trên mạng xã hội không bị hành trúng gió.

Có lẽ cảm thấy nhàm tai, mợ Hai bèn mở bản “Lý Ngựa ô” do tứ ca Hoàng Oanh – Thanh Vũ – Phượng Bằng – Hồng Phúc biểu diễn, đây là một bài dân ca Nam Bộ được nhạc sĩ Y Vân hợp soạn lại tiết điệu một chút.
Ngang qua Giáo xứ Saint Pio, chú Thương có chuyện cần hỏi nên mạn phép xin mọi người cho mình một tiếng.

Thưa hỏi xong xuôi, chú phóng xuống xe, rồi chạy như bay vô nhà thờ để tìm một người Linh mục.
– Thảo.
– Dạ?
– Sao con không lựa chỗ nào…
– Càng gần phố xá, càng xa Chánh Pháp.

Không dưng mà tôn giả Đại Ca-Diếp phải vô bãi tha ma ngồi quán sát lẽ vô thường hay tôn giả A-Nậu-Lâu-Đà phải tu tập nơi thâm sơn cùng cốc dù hai mắt của ông đều bị mù.

– Má nhìn chỗ con tu, má chịu hổng nổi con à.

Hay là má mướn người lắp máy lọc nước tân tiến cho con nghe? Rồi xây lại buồng tắm và nhà vệ sinh.

Phải cất thêm gian nhà đặng nấu nướng và tích trữ…
– Thưa má, Sa-môn của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni không được phép tích trữ đồ vật và nấu nướng, cũng như không được nằm nệm cao, xài tiền, thậm chí là dầu thơm cũng không được đụng tới.
– Cái gì cũng không được hết rồi sao con sống nổi?
– Tụi con đi theo Đấng Thế Tôn tức là chọn đi theo chữ “Vô”…
– “Vô” đâu mà “Vô”? Má với anh Hai còn sống nhăn răng đây nè.
– Giữa con và má đã có mối dây liên kết và đó gọi là Duyên.

Ở trên đời này không ai Vô Duyên với ai hết.

Cái gì cũng có thể “Vô” được ngoại trừ chữ “Duyên”, phàm đã là con người thì đều gánh trên người chữ “Duyên”, Duyên tốt hay Duyên xấu còn tùy thuộc vô tiền kiếp, quá khứ, hiện tại và sự Cộng Nghiệp qua lại giữa máu mủ ruột rà, bạn bè – thân hữu, đồng nghiệp, chủ của sở làm, quốc gia đang sanh sống,…
Về phần chú Thương, chú đang ngồi đối diện với hang đá đã được trang hoàng lộng lẫy và tinh xảo.

Người Linh mục mà chú cần gặp vẫn đang vướng trên…!nóc nhà; số là con mèo mập bữa nay hứng chí trèo cao rồi hết dám trèo xuống nên bà cụ đành cậy ông Cha kiêm bác sĩ thú y leo nóc nhà bắt nó.

Sống trong cái Giáo xứ này riết chắc mấy ông Cha trở thành siêu nhân hết!
Thấy tình hình không xong, chú Thương quyết định giúp Antonio Vũ.

Gì chứ trèo leo là nghề của chàng.
Ngôi nhà của bà cụ có một gác lửng dành để đón gió và là nơi lưu chuyển không khí, trên bậu cửa sổ trồng bông dừa cạn và dây trầu bà.

Hiện thời Cha Vũ đang ngồi ở trên mái của cái gác ấy mà làm Khương Tử Nha chờ thời.

Sau khi cúi đầu thưa bà cụ và Cha Thành, chú Thương mới đẩy cổng bước vô.

Rồi ngẩng mặt lên hỏi người Linh mục trẻ đang bị say nắng:
– Con mèo sao rồi Cha?
– Tôi đổi phiên gác với nó rồi.
Cha Thành năn nỉ mà như đang pha lửng:
– Con ráng đưa nó xuống đi.

Kẻo tối nay nó biểu diễn bài “Vọng gác đêm sương” của nhạc sĩ Mạnh Phát đó.
– Con khoái nghe Thanh Tuyền – Chế Linh song ca bài này lắm đó ông.
Không mấy khó khăn để chú Thương “đưa chàng về dinh”.

Cả người anh ta nóng bừng, mặt mày ửng hồng vì phơi nắng quá lâu, mồ hôi mẹ – mồ hôi con thi nhau đổ xuống; đã vậy còn mặc đồ đen nên mức độ hấp thụ nhiệt lại càng cao.
– Thôi để ngoại cạo gió cho con nghen Vũ?
– Dạ…
Chú theo chân hai người Linh mục và bà cụ tới khu ký túc xá.

Đường đi rợp bóng mát của cây thao lao, hay còn có cái tên gọi mỹ miều khác là “Bằng Lăng”, sắc hoa tím biếc ấy đã bước vào thi ca, tiêu biểu là bài “Màu hoa dang dở” của nhạc sĩ trước năm 75 Mạnh Quỳnh, “Tuổi Xuân con gái” của nhóm nhạc sĩ Trịnh Lâm Ngân, “Màu tím thủy chung” của nhạc sĩ Thanh Sơn,…!Xích-lô, xe lam, ba-gác máy, thổ mộ, tác-ráng và ghe – xuồng vẫn chạy hà rầm ở đây, làm chú có cảm tưởng như đang lạc bước về thời Sài Gòn xưa, cái thuở kinh – mương đầy rẫy giúp luân chuyển con nước từ muôn phương và cây cao bóng cả làm bầu không khí thêm trong lành, thoáng đãng.

Chú chợt nhớ tới những “đô thị khổng lồ” bị bỏ hoang bên Tàu vì giá bán quá cao so với mức lợi tức của phần đông dân cư bên ấy, tự nhiên e ngại viễn cảnh Đất Nước này mai sau sẽ có những vùng đất chết vì nguyên nhân trên…
Antonio Vũ đã thay sang đồ mát.

Và đưa lưng cho bà cụ cạo gió.

Trải qua bao năm tháng, chai dầu gió Kim vẫn giữ nguyên được mùi thơm năm cũ; trong khi hương vị của mấy gói mỳ mà chú Thương hay ăn lúc nhỏ đã không còn được như xưa.
Vì câu hỏi không có tính chất riêng tư nên chú Thương hỏi luôn.

Antonio Vũ tuy đang mệt nhưng vẫn trả lời chú một cách nhiệt tình và suôn sẻ.

Sau khi tạ từ hai người Linh mục và bà cụ dễ mến, chú Thương trở ra xe.

Cha Thành dặn chú đi hết con đường này rồi hãy quẹo phải, tiếp đó băng lên cây cầu dừa bắc qua cái mương độn là sẽ thấy cổng Đông.

Phải công nhận đi cầu khỉ hay cầu dừa đều khó như nhau, chú vừa đi vừa “đánh lô-tô”, lòng thầm trách bản thân làm biếng mà chi, hồi nãy đi đại đường cái cho rồi.
Một người đàn ông trẻ hơn và tạng người sem sem chú nắm tay dắt chú qua cầu.
– Trời ơi, đợi ông qua cầu mà tôi muốn chết luôn.

– Cảm ơn.
Cưỡng quảy buồng chuối lên vai, rồi đi xăm xăm qua cây cầu dừa.
Hồi nhỏ, trong một lần về quê chơi, chú đã bị đám bạn xô xuống cái mương độn, đầu đập vô cạnh của cây cầu dừa, máu chảy ròng ròng.

May phước tụi nó chơi quân tử nên không bỏ trốn, mà chạy đi báo người lớn tới cứu chú.
Ủa mà khoan đã!
– Anh gì đó ơi! Có phải là…!Trời ơi, người hay là quỷ mà mất hình lẹ vậy?
– Dạ con đang đốn chuối ở đây nè cha!
Ở bờ bên kia, Cưỡng ló mặt ra nhìn chú Thương.

Hai đứa nhìn nhau mà trào máu họng.

– Anh có phải là bà con với với Tư Kiền không?
– Hông.
– Thiệt hôn?
– Tui nói xạo đó.
– Nếu anh đúng là em trai của Tư Kiền, mau về nhà đi…
Cưỡng vẫn đang lựa thế để đốn chuối.

– Tôi đi đây.
Ở ngoài này, mợ Hai đang càm ràm vì sợ qua giờ thọ thực thì thằng Út nhịn đói mất.
– Hay là chúng ta ghé vô đây ăn cơm luôn đi mợ Hai?
– Nhưng mà thằng Út…
– Con không có ngại đâu má.

Chưa kịp lên xe ngồi nghỉ ngơi, chú Thương đã theo nguyên đoàn vào một quán cơm người Hoa có treo tấm hoành phi khá xưa.
– Thương.

Quay mặt qua.

– Mợ Hai lau mồ hôi trên mặt con trai bằng cái khăn lạnh quán để sẵn trên bàn.
Chú Thương cười tươi như đứa nhỏ được nhận tiền lì-xì ngày Tết.
Cha Thành đang ngồi soạn diễn văn cho đêm Lễ Giáng Sinh sắp tới ở đằng sau quầy thu ngân, ngó thấy màu áo Tăng sĩ của người khách mới vô thì bật cười.

Cụ và cậu này mặc đồ nổi nhứt trong quán.

– Con ăn gì Thảo?
– Dạ, con ăn hủ tíu – mỳ hoành thánh với đùi gà.
– Ăn gì nữa hôn con?
– Dạ, nhiêu đó đã quá nhiều rồi má.
Mợ Hai biết thằng Út sẽ không kêu thêm nên bà quay sang hỏi thằng Hai:
– Còn con?
– Dạ, con ăn cơm tấm thập cẩm với dồi trường heo xào.
Dì Bảy hỏi:
– Thầy đây uống chi?
– Dạ, thưa cô, cô gọi con là “Cậu” hay “Con” là được rồi.

Xin đừng kêu con là “Thầy”.
– Vậy con uống gì cô làm cho?
– Nó uống bạc xỉu, tôi cũng vậy.

Còn thằng lớn là trà chanh đá, chị làm ơn bỏ nhiều đá cho nó nghen?
– Dạ, tôi nhớ rồi chị.
Vệ Thu ngỏ lời khen khu dân cư của Giáo xứ thật trong lành và yên tĩnh, còn khu buôn bán thì sầm uất, đông vui và tấp nập phát ham.

Cha Thành nghe vậy thì liền đánh tiếng cáo lỗi, rồi mạn phép ngồi xuống nói chuyện chơi với người khách tóc hoa râm.

Mợ Hai biết chuyến đi lại bị trễ thêm tiếng mấy, song không nhăn nhó mà chỉ ngồi nhìn mấy đứa con mà cười mủm mỉm.

Sắp nhỏ ở đây đứa nào cũng là con của bà hết.
– Dạ, chị với mấy cháu ăn chè tráng miệng nghen?
– Nhiêu tiền chị cho tôi gởi luôn.
– Không, không, tặng, quán tôi hay có chương trình tặng món tráng miệng cho bàn nào kêu nhiều.
Chú Thương lên xe với tâm trạng không mấy yên ổn.

Người đàn ông đốn chuối ban nãy trông rất giống với tay “cò” môi giới nội tạng, mà tay “cò” này lại là em ruột của bạn chú, tức Tư Kiền.

Nếu có kẻ muốn mượn sự giống nhau giữa hai người mà giúp cho em trai Tư Kiền thoát tội thì chú sẽ mang tội nặng lắm đây.
– Con thấy Cha Thành sao Thương?
– Dạ?
Mợ Hai rầy thằng Hai vì Vệ Thu đã hỏi câu trên ba lần mà tới lần sau chót nó mới đáp lại.
– Con thấy ổng hết sức hiền và vui tánh.

Đâu có hằn hộc, độc đoán như những gì mà người ta đồn thổi hay đám Youtuber lên nói.

– Con có nghĩ tới chuyện “Ly miêu hoán chúa” không?
Chú Thương trầm ngâm, chừng như không chắc chắn nên không muốn mở miệng trả lời.

Vệ Thu thấy vậy mới ướm hỏi:
– Con có muốn đi đâu không, nguyên đoàn sẽ ghé đó một chuyến?
– Con muốn xuống Kiên Giang gặp thằng bạn thiết.
– Nó ở đâu?
– Dạ, ở “Kiến Nghĩa đường”.
– “Kiến nghĩa bất vi vô dõng dã.

Lâm nguy bất cứu mạc anh hùng.”?
– Nó đó bác Ba.
Chiếc xe lại rong ruổi lên đường như một con ngựa đã được thuần chủng.

Vì thấy được sự nguy hiểm tiềm tàng trong chuyến đi dài lê thê lần trước nên lần này Vệ Thu mướn thêm một người tài xế nữa, đặng cho hai người luân phiên cầm lái.

Trước lúc về xứ biển Kiên Giang, mợ Hai biểu đoàn xe ngừng lại ở Cần Thơ để thằng Hai mua chút quà biếu bạn.

Hai chàng tài xế sẵn đây xuống xe đi tiểu và châm thêm xăng với nước giải nhiệt cho chiếc xe.
Sau một hồi tra cứu trên mạng, chú Thương biểu hai chàng tài xế đưa mình tới vùng “bánh tráng Thuận Hưng”.

Chú hay nghe câu “Bánh tráng Mỹ Lồng – Bánh phồng Sơn Đốc” và cũng đã từng ăn thử hai món ăn chơi trên, nhưng chưa từng nếm qua đặc sản xứ gạo Cần Thơ.

Kế, má của chú kêu đi mua ba khía, khô và rượu mận.

Tới lượt xấp nhỏ lại than khát, nên chiếc xe lại lòng vòng quanh chợ nhỏ thêm một tiếng nữa mới trở về lộ trình cũ.
Trời bất thần đổ mưa nên hai chàng tài xế ngỏ lời khuyên nên đợi tạnh mưa rồi hẵng đi tiếp cho an toàn.

Cùng đụt mưa chung với nguyên đoàn là một bà cụ bán hàng rong trên đôi quang gánh cũ mèm; cụ bán bánh lá, bánh tằm bì, bánh mặn và bánh ít trần.

Ngoại trừ Trì Thương, ai cũng làm một dĩa bánh quê thơm thảo.
Mợ Hai chỉ vô dĩa bánh mặn của mình mà nói:
– Bánh này là bánh mặn, chứ không phải bánh đúc.

Bánh mặn tức là sao? Tức là bánh được làm từ bột gạo hay bột năng – thậm chí có chỗ còn trộn hai loại bột này với nhau, nước cốt dừa và một số nguyên liệu khác, khi ăn chan nước mắm ớt lên dĩa bánh đã được xắt sẵn thành từng miếng vuông hoặc sợi dẹp như cọng mỳ pasta nhưng bự hơn.

Đặc biệt món này phải có cà-rốt xắt hột lựu và tôm khô xay nhuyễn rồi ram với gia vị trải lên mặt bánh và ăn cặp với giá sống, nó mới đúng điệu.

Cũng có người bỏ thêm thịt bằm xào và đồ chua vô để dĩa bánh “xôm” hơn.
Vệ Thu gật gù:
– Nhiều người ngộ nhận bánh này là bánh đúc của miền Bắc, nhưng kỳ thực hổng phải.

Bánh đúc đâu có ăn giống vầy, thường thì bánh đúc đựng trong chén nhỏ – tô bự hoặc xắt thành sợi không đều nhau, và nguyên liệu ăn kèm rất đa dạng.

Cách ăn bánh đúc của người miền Bắc cũng tương tự như cách ăn bánh quẩy của họ, tức là họ có thể ăn chung món này với đồ ngọt như mật ong, đường mía,…!hay đồ mặn như cá kho, thịt bằm xào,…!Ngoài ra, công thức nấu bánh đúc nguyên thủy đâu có nước cốt dừa, bột năng hay ăn kèm với giá sống, nước mắm mặn như trong đây.
Mợ Hai tiếp:
– Một điều rất rạch ròi ở bánh mặn là nó chỉ ăn kèm với bấy nhiêu thứ tôi vừa kể ở trên thôi, chứ nó không có kiểu ăn chung với nhiều món như bánh đúc.

Xin phép anh Ba cho tôi bổ sung, công thức làm bánh mặn nào giờ không hề xài mỡ heo như món bánh đúc.
Vệ Thương hỏi:
– Sao nó có cái tên là bánh mặn vậy mợ Hai?
– Bánh được ăn kèm với nước mắm mặn nên nó có tên là bánh mặn đó con.
– Đơn giản quá mợ hén?
Vệ Thu trề môi:
– Nói dông dài nãy giờ mà cũng hổng biết, phải đợi người ta nói huỵch toẹt ra mới hiểu.

Thứ đồ chậm tiêu.
Vừa chan miếng nước mắm lên dĩa bánh ít trần, Vệ Thương vừa ngâm nga:
– “Con giống cha là nhà có phước.”
Cũng ngoại trừ Trì Thương, ai nấy nhìn nhau cười rũ, cả bà cụ cũng cười rồi mắng yêu, “Tổ bà cái thằng quỷ hỗn.”
Vệ Thu trừng mắt:
– Mày với tao chắc là Tiết Đinh San với Tiết Nhơn Quý, Lý Tịnh với Lý Na Tra.
– Tiết Nhơn Quý với Tiết Cương nữa ba.
Mợ Hai thấy anh Ba sắp tức hộc máu nên lên tiếng dàn hòa.

Có lẽ vì nể mặt bà nên anh Ba xuôi xị rất mau, còn thằng con của ảnh cũng biết điều mà rối rít xin lỗi ảnh bằng tiếng Anh.

Ngoài chữ “Sorry” ra, mợ không hiểu chữ nào trong mớ chữ “Ăng-lê” của thằng nhỏ.
Để thay đổi bầu không khí, chú Thương kể cho mọi người nghe một câu chuyện vui nhưng hơi riêng tư xíu, hy vọng thằng Út không giận anh Hai nó:
– Nhớ hồi nào cha còn sống, mỗi bận má cản không cho cha uống rượu, cha luôn đem câu, “Nam vô tửu như kỳ vô phong” cự lại.

Con còn nhớ má bực quá mới cãi, “Nam vô tửu như khỉ mắc phong thì có.” Cha mới bẹo má, “Hổng mắc phong sao xà nẹo ra hai đứa?”
Mợ Hai mắc cỡ, nhéo vô cánh tay phải của thằng lớn mà la:
– Quỷ…!
Vệ Thu cười chớ trong bụng nghe chua chát lắm, bởi bà nào cũng nhào vô ăn của của ông một mớ rồi dông, không ai thiệt dạ làm bạn đời với ông hết.

Chị Hai đây đẹp người đẹp nết thì lại phải sống kiếp vắng chồng.
– Nhớ có lần…
– Có lần sao chị Hai?
– Tôi ghé một nhà hàng hạng sang với mấy bà bạn, thấy thực đơn đề “Bánh đúc mặn”, tôi tưởng đâu món ăn miền Bắc nên kêu một dĩa ăn thử…!Dè đâu bưng ra…!- Nói tới đây, mợ Hai thở dài thườn thượt.

Duy Trác đang trình bày ca khúc Tiền Chiến tuyệt hay của nhạc sĩ Tuấn Khanh, mang tên “Mộng đêm Xuân”.

Nhạc phẩm này rất dễ bị nhầm lẫn với bài “Mộng chiều Xuân” của nhạc sĩ Ngọc Bích.
Bà cụ đã luống gần trăm, đi đâu cũng thấy tấm bảng “Bảo tồn văn hóa phi vật thể” nhưng chính những kẻ khua chiêng gióng trống đó lại là đám phá hoại đầu tiên bằng những câu chữ xạo ke, bịa đặt và hướng dẫn cách thức thực hiện cũng trật lất luôn.

Bởi vì đã tuổi cao sức yếu, nên cụ không thể cho thực khách nếm lại món bánh bò đổ khuôn bông mai bí truyền của xứ Nam Kỳ; và cụ cũng đã quyết không truyền cho người ngoài, nhứt là mấy đứa “ăn cây táo, rào cây sung”…
– Cô, cậu có biết khuôn bông mai không?
Mợ Hai gật đầu.
– Còn xài hay là không?
– Dạ còn, con của con toàn đổ khuôn bông mai đặt riêng để làm bánh bông lan bán.
– Quê cô ở đâu?
– Dạ, tụi con dân Hậu Giang, sau vì sanh kế nên lên thành đô sống.
Cụ bà cười móm mém, gật gật đầu, rồi dặn:
– Cho tôi địa chỉ tiệm bánh đi, mốt tôi có lên thăm cháu dâu, sẽ ghé qua chơi.
Nếu là người đàng hoàng, cụ sẽ truyền lại công thức đổ bánh bò và cách làm khuôn bông mai.

Còn nếu không thì coi đây là một mối giao hảo mới thôi.

Ngoài trời chỉ còn mưa lớt phớt nên Vệ Thu đề nghị cả đoàn đi tiếp.

Trước lúc khởi hành, ông lì-xì cho gia chủ và bà cụ mỗi người hai trăm.

Tiếng hát Hoàng Oanh trong bài “Người em hải đảo” của nhạc sĩ Trùng Dương như một lời chào mừng đoàn người xứ lạ đã cất công tới thăm miền duyên hải.

Trước lúc ghé “Kiến Nghĩa đường”, chiếc xe tắp vô một cây xăng đông khách.

Xấp nhỏ đã ngủ gục hết, còn mấy người lớn thì gục gà gục gặc, tài xế Số Hai đã khoanh tay ngủ khò từ lúc trở lên xe sau khi ăn hai dĩa bánh ít trần rất ngon mà lại rẻ, chỉ còn Trì Thương là đủ tỉnh táo vì chú đã tôi luyện được khả năng chống chọi với cơn hôn trầm.
Sau lũy tre xanh cao ngút tầm mắt, lò võ “Kiến Nghĩa đường” yên lặng như tờ.

Cách đó hai con mương và một bờ đất, y quán do ông bác Tư Kiền mở lại đông đúc khôn cùng; nơi đây khám – chữa trị và châm cứu không tốn tiền nên bà con nghèo trong vùng mắc bịnh nhẹ thường tới đây lấy thuốc.
Một bài hát đã bị thất truyền vọng tới tai từng người.

Đó là bản “Chiến Đấu ca” do Phượng Bằng trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Trọng:
“Một trời mịt mùng oán khí bay ngàn phương não nùng
Một đời hào hùng chiến đấu, chưa từng phen nao núng
Sống anh hùng, chết anh hùng
Khắc ghi sâu lòng nhau…
Một lời thề nguyện giết hết quân tàn hung cứu đời
Một cuộc tình buồn khép kín trong rừng xương sông máu…”
Một bản nhạc thật thích hợp để diễn tả cuộc đời của “Kiếm Bạc Kiên Giang” Nguyễn Trung Trực.
“…!Ôi nhân gian nhiều ân oán đau lòng
Thương sinh linh chìm trong khói căm hờn
Ta ghi sâu thù xưa quyết vung gươm
Cho đời thôi đau thương!”
Mợ Hai cảm thán:
– Bài này hay quá, sao không cho giới trẻ Nước Nhà biết?
Vệ Thu cười mà trả lời rằng:
– Rồi họ sẽ biết thôi.
Chú Thương vừa cởi dây đai an toàn, vừa bình phẩm:
– Anh Việt Thu và Hoàng Trọng thường nổi tiếng với những tình khúc lãng mạn hoặc mang tâm tình yêu Quê mến Nước, chẳng ai ngờ rằng hai ông còn sáng tác nên những bản hùng ca bất khuất như vầy.
Tư Kiền rước chú Thương vô đại sảnh.

Chú đang luyện tập múa lân để biểu diễn cho một khu vui chơi nhân ngày khánh thành nên phải lựa bản nhạc hào hùng đặng tập cho thật sung.
Vừa ngắm thằng bạn trong trang phục “Lân trưởng”, chú Thương vừa cười và hỏi thăm nó rằng độ rày mày sao.
– “Tao vẫn đi bên cạnh cuộc đời.

Tháng nào tiền cũng bay đi mất.

Quanh năm suốt tháng không ngày nghỉ.

Mày hỏi làm chi cho tao buồn?”
– Làm gì mà lên cơn chế thơ “Hai sắc hoa Ti-gôn” của nữ sĩ T.

T.

Kh vậy?
– Mơi mốt trên đất Kiên Giang này, sẽ có tao là Hà Huy Hà đệ nhị.
– Người ta lấy bút hiệu Kiên Giang rồi, mày tính lấy tên chi?
– Kiền Giang.
Chú Thương vỗ đầu thằng khỉ gió mà cười lớn:
– Thôi đi thằng quỷ! Thằng đạo thơ mà mơ làm thi sĩ.
Rồi chú trao mấy bịch quà mua ở Cần Thơ cho thằng bạn thiết.

Nó cảm ơn rối rít, rồi mừng húm kêu lên khi thấy năm cặp rượu mận chánh hiệu “Sáu Tía”.
– Sao mày ở Hậu Giang mà không mua đặc sản miệt mày mà lại chọn Cần Thơ?
– Có kịp về đâu.

Sẵn đường tắp vô mua luôn.
Thấy mặt trời đã ngả bóng, chú Thương đứng dậy cất giọng cáo từ, trong khi vẫn chưa hỏi han Tư Kiền về tung tích đứa em trai bị nghi ngờ là tội phạm buôn lậu nội tạng xuyên lục địa.

Kiên Giang và Hậu Giang gần mà, có gì ngày mai chú sẽ quá giang ghe, xuồng hay tác-ráng nào đó để ghé đây nói rõ đầu cua tai nheo với nó.
Trước lúc hai người “đôi ngả đôi nơi”, Tư Kiền mời thằng bạn tên Thương tới y quán chơi, sẵn dịp lấy chục chai rượu thuốc và ve dầu xoa bóp trị nhức mỏi rất hữu hiệu đem biếu nó.
Ban “Tam ca Sao Băng” đang trình diễn bài “Xuân đến Xuân đi (Xuân trong rừng thẳm)” của nhạc sĩ Bảo Thu, ở đây ông ký bút hiệu là Trần Mai Anh; nhạc phẩm này nằm trong băng nhạc “Việt Nam Xuân”:
“Theo cánh quân tôi băng rừng
Kìa đàn én nhởn nhơ đầu gió
Cành mai thắm chắn bước quân đi…”
Lần theo tiếng nhạc tươi vui, dễ thương, hai người đàn ông đã tứ tuần tới một gian phòng nhỏ vách nứa mái tranh xinh xinh.

Nơi đây là phòng châm cứu, có cửa hậu thông ra con mương lưng lửng nước có thể nhìn thấy rõ đáy, bóng dừa xanh rì quanh năm che mát con mương và một phần hàng ba.

Có một đứa nhỏ đang bưng tô cơm mà ngồi chồm hổm dưới gốc cây bình bát ăn chiều; nó ở trần, cạo đầu đinh, mặc quần đùi sờn rách, tay chân đen nhẻm hơn cột nhà cháy, nhìn nó ba gai chết mẹ.
– Xưa mày cù lự lắm, đâu có ba gai giống vầy.

– Chú Thương nhắc thằng bạn nhớ về hình ảnh thời còn học Tiểu học của nó.
– Má tao bả chăm bẵm riết nhìn tao như…!cục mỡ.

Hết bắt uống sữa, ăn bánh mì kẹp phô-mai, rồi…
– Ê, mày không ăn, vô lớp “đẩy cây” cho tao ăn, nhờ vậy tao mới sống tới giờ đó nghen? Tiền mua thuốc cho tao hết rồi, còn đâu mà lo nổi sữa, sùng.

– Mà hồi nhỏ mày bị cái giống gì mà bịnh suốt vậy?
– Hình như là bị thiếu đề kháng do thằng em tao “lấn” lúc còn ở trong bụng má.

Trời ơi cái tên triệu chứng nó khó nhớ còn hơn mật ngữ nữa, tao chỉ loáng thoáng nhớ ba chữ trên thôi.
– Thiếu kháng thể phải không?
– Tao hổng biết nữa.
– Trời đất ơi, mày bịnh mày hổng biết sao tao biết?
– Ai ở ngoài đó mà ồn như cái nhà lồng bị cháy vậy?
– Dạ, là tụi con, thưa cố.

Ông cố nó, tức người thầy thuốc già, mặc đồ bà ba trắng, tóc búi thành một cục, để râu dài phất phơ, dáng người ông roi roi và coi mòi còn tráng kiện hơn cả đám thanh niên đang lăng xăng chạy việc.

Thể theo ý thằng chiến hữu, chú biếu cụ một cặp rượu mận, ba bịch khô đủ loại và một chục bánh tráng Thuận Hưng.

Cụ cười hiền, cất giọng cảm ơn, rồi biểu chú đưa tay cho mình bắt mạch.
– Con đang có chuyện lo âu phải hôn?
– Dạ…
Cụ vuốt râu cười hiền, rồi lệnh thằng chắt tên Sáu Vĩnh đi hốt thuốc; nó bỏ tô cơm xuống bàn, rồi múc nước trong lu ra rửa mặt và lau khô bằng cái khăn vắt sẵn ở trên sào trước khi ba chân bốn cẳng lên nhà trên “đưa chiếu chỉ”.

Cụ quay sang căn dặn chú Thương phải chịu khó sắc thuốc uống, mỗi ngày uống hai chén lưng thì tâm bình khí hòa, gan – thận cương cường.

Chú tính giỡn bằng cách nói chỉ cần mỗi ngày đưa con một trăm đồng Mỹ kim là con khỏe liền, khỏi cần thuốc thang chi sất; nhưng sợ người lớn tuổi khó tánh nên đành thôi.
Hai người vừa dạm bước ra ngoài sân thì thấy bác Ba đang chụp hình cho mợ Hai và xấp nhỏ ở chỗ mấy cây bạch mai trổ bông đặc rật, còn Trì Thương đang ngồi đàm đạo Phật Pháp với ba bà cụ già mặc áo bà ba trơn một sắc lam.
Trở lại Hậu Giang, hai anh em Thương – Thảo bắt tay tảo mộ.

Ngôi nhà hương hỏa này do một tay con trai trưởng mợ Hai gầy dựng; cứ hễ làm ăn khấm khá là lại bỏ tiền ra tu bổ từ đường, nhà mồ và sân vườn nên nơi đây y hệt cái tư dinh của địa chủ.
– Tự dưng tôi nhớ tới bài “Mẹ Hậu Giang” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng, tôi thấy đáng ra bài này phải để tên “Mẹ vỡ mộng” mới đúng.

Mợ Hai ngậm ngùi:
– Nghe nguyên bài hát mới rõ đầu đuôi ngọn ngành, chớ nghe lưng lửng hiểu lầm thì tội nghiệp ổng lắm đa.
– Muốn tìm hiểu ý nghĩa bài hát này thì nên tự đi tìm hiểu, chính miệng ông tác giả giải thích chứ hổng phải do ai bịa ra để binh vực hay hạ nhục bên nào hết.
Thể theo giới nhà Phật, Trì Thương nên hạn chế làm tổn hại tới cây cỏ nên chú đành cậy anh Hai làm giùm.

Về phần mình, chú gánh nước ra rồi tỉ mẩn lau chùi mộ cha, ông bà tổ tiên, họ hàng hai bên và những người chết không có chỗ chôn hay thất lạc thân nhân được má cho “ở đậu”.
– Cái mộ đó là của bạn của cha mấy đứa.

Ảnh từng giúp thằng Thương làm ăn.

Ấy vậy mà về già lại chết nơi đất khách quê người với tình trạng trong túi không có một xu, nên ổng mới đem về đây chôn cất.
Vệ Thu khen:
– Mộ người dưng mà chị xây cất thiệt là đẹp đẽ, trang trọng.

Chắc tốn bộn tiền hả chị Hai?
– Ôi…!Có nhiêu đâu anh.

– Mợ Hai tủm tỉm cười, rồi lại gần ngôi mộ của đứa nhỏ bị mẹ bỏ từ trong bụng mà sắp bánh trái và hương khói cho nó.
– Chị có sợ vong nhi không?
– “Vong nhi”? Hồi đó cũng sờ sợ, nhưng thấy nó tội nghiệp quá nên rước nó về đây “ở”.
Trì Thương cười:
– Có câu: “Đạo cao Long – Hổ phục, Đức trọng Quỷ – Thần kinh” mà bác Ba.
– Phải ha? Có quyền phép thì chỉ sai khiến được mãnh thú, còn có đức hạnh thì sẽ làm các đấng linh thiêng nể phục và độ mạng.

Trì Thương vừa nói, vừa vắt cái giẻ lau thật ráo trước khi lau khô nấm mồ hoang:
– Con thú vốn có tánh linh.

Nếu bác Ba sợ nó thì nó sẽ ăn thịt bác Ba.

Nếu bác Ba dữ hơn nó thì nó sẽ cong đuôi bỏ chạy.

Nhưng nếu bác Ba nhìn nó bằng tâm từ bi, nó sẽ hàng phục bác Ba.
Giai điệu trong bài hát “Mùa Xuân yêu em” do song ca Thái Thanh – Mai Hương trình bày đã điểm vài nét tươi sáng cho góc sau hè u tịch; nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của thi sĩ Đỗ Quý Toàn.

– Bật bản nào về xứ mình nghe chơi cậu Thương.
– Dạ.
Chú Thương bèn bật bài hát “Về miền Tây” do nhạc sĩ Y Vân phổ từ tác phẩm của ông Văn Thế Bảo, người hát là cô ca sĩ Nam Kỳ trước 75 Trúc Mai.
Tiếp đó là bản “Khúc nhạc đồng quê” do nhạc sĩ Mạnh Phát ca, trong bản này ông ký tên là Thúc Đăng, bài hát trên nằm trong băng nhạc “Nhạc phẩm Mạnh Phát” với những giọng ca rất hay và đặc sắc.

Vì đang bận nhổ cỏ nên chú Thương để luôn nguyên cuốn băng cho nó tự phát theo mục lục.
– “Qua xóm nhỏ” và “Chuyến đi về sáng” hình như là của Trần Thiện Thanh, do không có tiền nuôi vợ ở cữ nên đã bán lại cho Mạnh Phát?
Chú Thương ngước mặt lên nhìn ông mà thưa:
– Dạ, hình như vậy.
Mợ Hai cười mà ghẹo:
– Hồi hai ổng còn sống khi không hỏi, giờ bán muối hết rồi lại hỏi.
– Ừm, vì một số nhạc sĩ mất sớm mà nhiều ông bạn cùng thời đã đang tâm cướp bản quyền nhạc phẩm của họ, ngang nhiên tự nhận mình là chủ sở hữu của bài hát đó.
Xấp nhỏ kia đang đứng ở mép nước mà lội xuống thi bắt cá, tép.

Mồ mả mà mợ Hai bắt chúng lau chùi, quét tước đã sạch sẽ và thơm mùi sơn mới.

Còn Vệ Thương thì đang đi dọn bông cúng và sắp mâm bánh trái cho “họ”; về phần vàng mã và đốt nhang vái van, chú Thương là trưởng nam sẽ lo liệu lấy.
Chợt Nguyễn Quý Sinh hỏi:
– Má Hai ơi, con nhỏ ở trên ghe bầu xin mình ít trái mận, má có cho không con hái cho nó?
– Hái đại đi con…!Nhưng leo trèo cẩn thận đó, Tết nhứt mà cà thọt mệt lắm.

– Dạ.
Mợ Hai ra ghe hàng của gia đình nhỏ mua giùm mấy món đồ.

Trong lúc đó, Vệ Thương đang chụp ảnh đăng lên trang mạng xã hội cá nhân của cậu ấy; kể từ ngày về đây, cậu không còn stream game đều đặn như nữa, có lẽ ba cậu nói đúng, “Con còn trẻ, nên dành thời gian ngắm nhìn và khám phá thế giới xung quanh hơn là vùi chôn tuổi trẻ trong phòng kín với cái máy tính và dàn người dưng kia.”
Trong cái giỏ đệm kẻ ca-rô mang hai màu xanh đậm – nhạt là bao nylon, dây thun và dây ràng.

Chú Thương cầm mấy sợi dây ràng lên coi, rồi quyết định mua năm sợi.

Đợi chiếc ghe hàng đi khuất sau bụi cây bần, Vệ Thu mới thông báo cho cả nhà sửa soạn để nguyên đoàn lên xe đi ăn tối.

Hai người tài xế nãy giờ chắc đã ngủ no mắt rồi.
Trì Thương xin phép thất lễ mà không đi ăn tối với mọi người.

Dù rất muốn tẩm bổ cho con trai Út, nhưng mợ Hai đành phải bỏ nó ở nhà vì không muốn nó vì mình mà phạm giới luật.
Đợi mọi người lên xe đi hết rồi, Trì Thương mới ra nhà mồ ngồi xếp bằng đọc Kinh cho “họ”.
Về phần đoàn người, chú Thương mời má, bác Ba và xấp nhỏ đi ăn lẩu gân bò, hột vịt lộn và lòng bò.

Không có thằng Út, chú mạnh miệng kêu đồ ăn theo ý thích của mình hơn.
– Ở đây có chương trình “Hát với nhau” hả? – Vệ Thu hứng chí vỗ đùi cái đét.
– Thôi, thôi, thôi, daddy, daddy muốn nhà hàng người ta nghỉ sớm hả?
– Mày vô duyên vừa vừa phải thôi chớ thằng quỷ…!Mày cứ vậy hoài ai mà thương cái tánh mày nổi?
– Con có tiền.
– Trời ơi, tại sao con không tận dụng khả năng cãi lý thiên phú này để ghi danh vô ngành Luật hả?
– Dạ, để thế giới thương tiếc một tài năng không chịu trổ tài với đời như con.
– Thương ơi.
– Dạ, con biết rồi má, ý của má là con có đối thủ rồi phải hôn?
Mợ Hai mủm mỉm cười, rồi đập nhẹ lên vai trái của con trai trưởng.

Nhiều người không hiểu tại sao bà lại xưng hô khác nhau với hai con trai, đứa lớn “Mày – Tao” trong khi thằng nhỏ lại “Con – Má”; kỳ thực đứng ở hoàn cảnh của bà mới hiểu được tâm tư người mẹ này, bởi lẽ thằng lớn thì suốt ngày xã giao với phường du đãng hoặc chánh khách “đen” nên buộc lòng bà phải nặng lời để răn đe nó, còn thằng nhỏ coi bộ ngoan hơn nên bà không cần phải tốn hơi mệt sức.
Nhân viên dọn đồ ăn – thức uống thật mau.

Thái độ của từng người thật niềm nở và hiếu khách, dù rằng phải làm việc luôn tay luôn chân.
Ai đó đang ca bài “Xe tang và Con phố tuổi thơ” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ theo cách nhả chữ của Duy Khánh.

Vệ Thu nín cười gần chết không được, bèn che miệng rồi lảng vô nhà vệ sinh ôm bụng cười ngất.

Mợ Hai vừa lau nước mắt vừa run giọng bình phẩm:
– Giọng của Nhật Trường bắt chước theo không khéo sẽ tự biến mình thành “đàng giữa” đó.

Ổng điệu mà ổng vẫn còn nét nam tính trong tiếng ca, chứ mấy bây mà điệu…
Đang nói dở dang, mợ Hai phá lên cười ngặt nghẽo.
Chú Thương vừa cười vừa hỏi má mình:
– Chứ má thấy con ca sao?
– Cũng đúng giọng đó.

Mà hổng có làm ca sĩ được thôi hà.
Nguyễn Quý Sinh mạn phép lên ca chơi vài bản.

Cậu có kinh nghiệm bán kẹo kéo hơn ba năm ròng, còn Phan Huy Tường thì thạo nghề ngót được một năm.
oOo
Stephen Đoàn đang nghe bản “Chúa Nhật xám” do Thái Thanh ca.

Đây là một trong những nhạc phẩm của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.

Kể từ ngày hai người đánh lộn với nhau, Antonio Vũ đã theo Cha Augustino Dương về trường Dòng; anh ta nhờ Thầy Phó Tế của Giáo xứ đi thông báo giùm, lúc biến mất cũng bất tử như khi xuất hiện.

Về phần Ignacio Cường, anh bạn Phó xứ đáng mến ráng vui mà vui không nổi.
Người tri kỷ ấy gởi cho anh bài hát “Tình bạn (Un roman damitié)” lời Việt của nữ nhạc sĩ Khúc Lan, do Thái Tài và Ngọc Lan song ca; bản gốc thuộc về bộ ba tác giả Robbie Buchanan, Didier Barbelivien và Diane Warren.

Cô tìm thấy nó trong cd “Thúy Anh 24 – Tình” của trung tâm băng nhạc hải ngoại Thúy Anh.
Để đáp lại thịnh tình của người tri kỷ, anh hứa sẽ gởi cho cô màn trình diễn “Tâm tình đêm Giáng Sinh” của Linh mục Văn Chi.
Trong nhà thờ của Giáo xứ, Cha Thành đang căn dặn người thợ làm ngôi sao Bethlehem:
– Con có biết tại sao Cha tại không làm đèn lồng ngôi sao vào dịp Tết Trung Thu không?
– Dạ không?
– Cái lồng đèn ngôi sao của mình có khung tròn ôm vòng lấy ngôi sao, đã vậy vì làm bằng nan tre nên ngôi sao chắc chắn sẽ có chia khía, trông hệt khuôn như hình vẽ triệu hồi Quỷ trong các nghi lễ phù thủy vậy.

Con có thể coi poster của phim “Devils Five” để hiểu rõ lời Cha nói.
– Vậy khi làm ngôi sao Bethlehem, chúng ta có giữ cái khung tròn được không Cha?
– Được, miễn sao ngôi sao không có chia nhiều khía như cách vẽ trong nghi lễ triệu hồi Quỷ.
– A, con hiểu ý Cha rồi, miễn sao hình ảnh không giống mấy nghi lễ đó là được.

– Thế mà con tưởng Bố bị lẫn…

– Tôi chưa có bị lẫn đâu anh.

Có một ngôi sao đại diện Chúa, và một ngôi sao đại diện Quỷ Satan.
Người thợ ngượng ngùng tâm sự:
– Phải chi Cha ở đây ngay từ đầu thì Cha Khải với cô Theresa Thảo đâu có phải chịu ngậm oan mà rời khỏi Giáo xứ.
– Mọi sự trên đời này cũng giống hệt như vẽ một ngôi sao: Một bên của Chúa và một bên của Quỷ; thay vì thành hình bằng bút họa, nó lại tùy thuộc vô cách con nhìn nhận, diễn giải và kết luận.
– Và tụi con đã vẽ nên ngôi sao của Quỷ trên trán Cha Khải và cô Theresa Thảo bằng sự luận tội độc địa của mình.
– Thiệt ra, ngay từ khi biết ăn năn và nhận lỗi, tụi con đã bôi những lằn ranh đó rồi.

Và giờ đây, trên trán của họ là ngôi sao của Chúa.
– Ngôi sao sáu cánh của người Do Thái, tức sao Vua David, là biểu tượng tốt lành.

Còn ngôi sao năm cánh ngược mới là biểu tượng của thế lực bóng tối.

Thành thử ra, nếu Bố nói vắn tắt quá người ta sẽ hiểu lầm thành hình ảnh ngôi sao toàn mang ý nghĩa xấu trong Đạo mình.
– Có mỗi mình anh nhầm lẫn rồi tưởng tôi bị “suy giảm trí nhớ” thôi.
– Chưa kể đến còn đòi làm Cha cố nữa…
– Tôi uất quá tôi nói thế được không?
– Bố muốn nói sao cũng được hết.

Miễn đừng có nhái con thôi.
Cha Thành vẫn giữ nguyên tông cao vút:
– Đi ăn cháo lòng không?
– Đi.

Quán cháo ở khu Đông đang phát bản nhạc “Cô Thắm về làng” do Thái Châu trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Giao Tiên.

Nhạc sĩ Giao Tiên viết tặng cho người chị ruột, nhưng không lấy tên thật của chị ông mà đổi thành tên Thắm cho đẹp.

JB Khải đã trở thành giáo viên Anh Ngữ cho một trường tư ở Kiến Hòa, tuy lương không cao bằng Sài Gòn nhưng được cái nếp sống thảnh thơi hơn ở đô thành.

Nhân ngày Chúa Nhựt mây mù, anh ghé thăm xóm Đạo cũ.
Bản nhạc “Về thăm xóm Đạo” của hai tác giả Bằng Giang – Nguyễn Đào và được trình bày qua tiếng hát của Thanh Phong, càng khiến nỗi lòng anh thêm phần tê tái.

Đây có thể được coi là phần Hai của bản “Người em xóm Đạo”.
– Cưỡng, ăn cháo với tôi không?
– Cha trả hay tôi trả?
– Tôi bao.

Giới hạn ba tô, hai cặp giò chéo quẩy, hai vắt bún, một dĩa lòng, một khúc dồi.

Nước tự trả, hết tiền rồi.
– Tôi ăn một tô, một phần, một cặp, một vắt, một dĩa, một khúc…!Cha kiếm gì vậy Cha?
Vừa ngồi lại ghế, JB Khải vừa ngó dáo dác mà nói:
– Coi có phải tận thế hay không mà anh ăn ít quá.
– Mới ăn cơm nhà cái sột.

Biết Cha mời tôi khỏi ăn rồi.
– Phước đức cho tôi là bụng cậu lưng lửng rồi.
Bà chủ quán cháo chỉ mặt Cưỡng mà biểu:
– Nè, nay tao múc cho mày thêm trước nửa tô.

Lát nấu nồi cháo khác bán vắt chiều nên mày muốn ăn thêm thì cứ kêu tao, ở trỏng còn dư chút đỉnh.

Hổng có lấy tiền đâu.
– Múc cho Cha “xưa” đi thím Chín.
– Mày làm như Cha là bà Diễm vậy.
JB Khải nhìn hai thím – cháu nói chuyện mà như gây lộn thì che miệng cười phì.

Rồi anh chợt nhớ tới cái ngày Cưỡng làm Lễ Rửa tội, chàng ta lóng ngóng thấy thương, lại còn làm dấu búa lua xua và miệng thì đọc lộn tùng phèo hết lời Kinh.

Tính ra anh theo Đạo hơi ngộ, bởi không phải theo cha hay mẹ, mà là từ một người cậu bên ngoại.
Người chủ vườn hay mướn Cưỡng nhân đó than thở với thím Chín rằng mướn anh ta lỗ quá.

Thím Chín không phục, bèn cự lại rằng sức nó bằng hai người ta.
– Nó làm bằng hai người, mà nó ăn bằng bốn người.

Rồi tao lời hay tao lỗ đây?
– Ờ há? Ông Sáu hổng nhắc chắc con hổng nhớ.
Rồi thím Chín quay sang khuyên lơn thằng cháu ăn khỏe như vâm:
– Một trong Thất Tông Tội có tội tham ăn đó con.
– Con hổng có tham ăn, mà là ăn khỏe thôi.

Chừng nào con ăn không hết, mà lấy đặng lấy đùa về mình mới đúng là đồ tham ăn.
Hai cha con Nhật Thành chưa kịp vô quán đã bị thím Chín cáo lỗi mời ra vì hết giờ bán của ca sáng.

Trước lúc sang quán hủ tíu kế bên, Cha Thành nhắn Cưỡng chiều nay ghé nhà thờ để sửa soạn Cung Thánh đón Giáng Sinh.
oOo
Kể từ khi biết Đức Hoàng thích khám phá hang động, Châu Lợi đã tặng hắn một tấm bản đồ Thất Sơn để ngồi chơi cho khuây lãng tâm trí khi không vui.

Những người được ông trao tấm bản đồ này đều là mẫu người không lấy thiên nhiên làm nguồn lợi kinh tế và không ưa săn bắn động vật.
Chỉ mới có một tuần ở gần má, mà Trì Thương đã tăng lên hai ký mấy.

Giờ thọ thực nào má cũng bắt uống nước ít thôi để dành bụng ăn cho thật nhiều.

Tới ngày tiễn con về Cô Tô, má cũng lựa giờ sắp thọ thực đặng nán lại sửa soạn, chăm bẵm bữa cơm của con trai Út.
– Bây giờ thì các đệ hiểu tại sao hình tượng Quán Thế Âm Bồ Tát sang Nước mình và một số quốc gia lân cận là nữ chưa?
– Dạ rồi.

Nhưng xin huynh trưởng hãy giải thích thêm.
– Bởi vì lòng mẹ thương con vô điều kiện, dẫu cho con cái có lầm lỗi điều chi cũng dang rộng vòng tay che chở và binh vực chằm chặp, và con cái đòi gì thì dầu có phải làm lụng như trâu – bò – chó – ngựa, bán từng bịch máu ở bịnh viện, quần quật nơi công xưởng độc hại, mẹ cũng cam lòng chịu đựng để đáp ứng hết.

Tình cha còn mang nặng sự lý trí, còn tình mẹ thường thì không.

Cho nên người mình hay ví Bồ-Tát mang tánh nữ nhiều hơn nam là vậy.

Đương nhiên, những chuyện mẹ ghẻ hay hổ dữ ăn thịt con vẫn có nhưng là hãn hữu nên người mình vẫn lấy phái tánh nữ áp lên hình tượng các vị Bồ-Tát.
Trì Thương mỉm miệng cười:
– Có nhiều người không hiểu ẩn ý của điều này mà lại chăm chăm bắt bẻ vô khái niệm phái tánh.

Châu Lợi gật đầu:
– Phải, Quán Thế Âm Bồ Tát mang hình tượng luôn cứu độ chúng sanh mà không kể xuất xứ, quá khứ, tâm tánh, địa vị,…!của người đó.

Lòng bi mẫn ấy được ví như tình mẫu – tử.

Các huynh đệ đồng Đạo đã trở lên núi hơn hai giờ rồi mà Trì Thương vẫn chưa có mặt ở đó.

Trần Mộc Thảo đang dìu người má đi ngắm quang cảnh hùng vĩ của vùng năm non bảy núi.

Chừng thấy má đi không nổi nữa, chú ngồi xuống rồi mời mợ Hai lên lưng mình, và dịu dàng thưa rằng, “Để con cõng má đi nghen?”

– Hôm qua ăn cơm do má tôi nấu ngon không Hoàng Kỳ?
– Cũng ngon…
– Tức là hổng ngon phải hôn?
Hoàng Kỳ chỉ biết sờ đầu cười hì hì.
Tăng đoàn đang đi tới khu dân cư ở núi Sam để khất thực.

Không may thí chủ mời họ tới nhà ăn cơm mắc đưa vợ đi sanh nên họ quay gót ra về.
– Trưa nay sẽ có người đem cơm cúng dường.

Vậy các đệ hãy úp y bát vô trong, để các thí chủ biết mà không đưa thêm đồ ăn.
Tăng đoàn bèn chia nhau đi mỗi phương.

Nếu hữu Duyên sẽ nán lại thuyết pháp, còn không thì sẽ lựa một góc rừng ở ngọn núi nào đó mà ngồi thiền định.
Phú Lâm đang ngồi nghỉ chân dưới gốc cây thốt nốt, chợt có một người đàn ông lớn hơn chú chừng mười tuổi bước lại gần chú, rồi mạn phép ngồi nói chuyện chơi với chú.
– Trường phái nghi hoặc Ngã Mạn là sao hả Thầy?
– Tức là họ thích phản bác những gì trái ý họ, mặc dù người ta đúng – còn họ thì sai.
– Thầy có thể trình bày về một quan điểm mà Thầy đang nghĩ tới gần đây hay không?
– Họa sĩ vẽ một con cọp không cần chú tâm vô tiểu tiết hay tỷ lệ cơ thể mà vẫn có thể họa ra rất đẹp.

Còn một người bình thường dù có chú tâm vô tiểu tiết hay tỷ lệ cơ thể thì tác phẩm hoàn thành vừa không đẹp, mà lại còn bị méo mó.

Một người tu hành đắc đạo cũng giống như người họa sĩ trên.

Và vế sau, là chúng ta, nhưng con người vẫn loay hoay tìm đường học Phật.
Tỷ dụ như, khi nghe tới chuyện tôn giả Ananda thuộc làu kinh điển, tạng luật mà lại trở thành một trong những người chứng đắc quả vị A-La-Hán sau cùng, thì thay vì tìm hiểu ý nghĩa của câu chuyện trên, họ lại giãy nãy lên, “Vô lý! Vô lý! Làm gì có ai mà nhớ dai dữ vậy! Chắc chắn kinh điển, tạng luật bây giờ là ngụy thư do ông ấy viết”
– Vậy ý nghĩa của câu chuyện trên là gì hả Thầy?
– Đó là học phải đi đôi với hành, và kiên trì Nhiếp Tâm – Giữ Giới.

Tôn giả Ananda trí huệ sâu rộng nhưng một phần là do tâm tánh ưa bao đồng, một phần là do bận rộn chăm sóc Đấng Thế Tôn, nên bị trễ nải đường chứng đắc.

Người đàn ông trạc tuổi với chú bật cười, rồi mời chú nói tiếp.
– Thí dụ thứ hai: Khi nghe tới chuyện Đấng Thế Tôn, tôn giả Mục Kiền Liên hay Tăng sĩ nào đó có thần thông, là lựa lời biện chứng rằng các Ngài ấy không có thần thông.

Tôi nói luôn, tôi không bận tâm tới chuyện các Ngài có thần thông hay là không, cái mà tôi chú ý tới là những bài học ẩn sau tích truyện trên.

Như việc dẫu có thần thông thì tôn giả Mục Kiền Liên cũng không thể giúp người ta thoát được Luật Nhân – Quả do bản thân họ ấy ra; điều đó nói lên tính công bằng và minh bạch của Luật Nhân – Quả.

Như chuyện Đấng Thế Tôn có thần thông cảm hóa được thú dữ; điều đó mang hàm nghĩa người hiền lương, thục đức thì thú dữ không dám làm tổn hại.

– Phải, xin lỗi vì tạm thời lái sang chuyện khác, Thầy cho tôi chia sẻ chuyện riêng nghen?
– Thưa được.
– Số là vầy: Tôi kể truyện ngụ ngôn cho mấy đứa con tôi nghe, tụi nó ậm ờ qua loa vài tiếng rồi lủi đi chỗ khác.

Tới một hôm nọ, tôi đọc được bình luận của tụi nó trên một bài viết giới thiệu sách của đại văn hào Oscar Wilde, rằng, “Thằng này ngáo cần à?”, “Thấy gì chưa? Hậu quả của ma túy đấy.” Tụi nó không hề hiểu nghệ thuật ẩn dụ trong văn chương là gì, hễ thấy điều chi khác thường là ghép người ta nghiện thuốc và gọi người ta một cách hết sức vô lễ.
Còn ai mà đăng bài phân tích tác phẩm văn học là tụi nó lại chửi người ta nói láo.

Đụng đâu cũng chửi, đụng đâu cũng vu khống – chụp mũ.

Dường như trong đầu tụi nó nhìn ai cũng ra kẻ thù và đạo đức giả.

Dám chừng mốt tụi nó lôi hai vợ chồng tôi ra đấu tố lắm à.
– Thí chủ muốn hỏi tôi rằng vợ chồng thí chủ gây Nghiệp gì mà có mấy đứa “bất hiếu nhi” hả?
Người đàn ông đó gật đầu lia lịa:
– Dạ….
– Trong cách nuôi dạy con cái, hai vợ chồng thí chủ không có gây Nghiệp gì hết.

Bản thân xấp nhỏ bị Cộng Nghiệp với môi trường chung quanh nên cái tốt không vô đầu, mà toàn tự đưa cái xấu vô.

– Có cách nào để hóa giải không Thầy?
– Không có cách nào là toàn vẹn hết.

Và để hóa giải được sự Cộng Nghiệp đó, xấp nhỏ phải tự làm lấy; tức là người ta giỡn hớt dung tục không hùa theo bắt chước, thấy điều gì đối lập với quan điểm từng nghe hoặc được truyền dạy thì biết đi kiểm chứng và phản bác lịch sự chứ không công kích và lăng mạ người phát ngôn, không đua đòi theo những trào lưu và xu hướng có thể gây nguy hiểm tới tính mạng, danh dự của mình và thân bằng quyến thuộc, cũng như đánh mất nhân cách của bản thân,…
– Chắc kiếp sau quá Thầy ơi.
– Thì tụi nó ráng chịu thôi.

Vợ chồng thí chủ đã quăng sợi dây thừng để cứu lấy các con đang bám víu bên bờ vực suy đồi nhân cách và học thức.

Tụi nó không nắm lấy, còn cười chê vợ chồng thí chủ vì đầu óc tụi nó đã bị thứ ánh sáng Vô Minh bên dưới thu hút.

Cũng hệt như việc Đức Phật trao Chánh Pháp cho thế gian, có mấy người chịu nhận và thực hành đàng hoàng đâu.
Người đàn ông không khóc mà đôi mắt đỏ quạch.

Rồi bất thình lình, chú quỳ sụp xuống cầu xin người Tăng sĩ ấy cứu mạng các con.
Phú Lâm đứng bật dậy và đỡ người đàn ông trạc tuổi mình lên, rồi xúc động nói:
– Việc này…!chắc chỉ có thể để cho nhị sư huynh Trì Thương lo liệu.
– Thầy Trì Thương mặt mày ra sao Thầy?
– Huynh ấy dong dỏng cao, da trắng, môi đỏ như son, mắt hạnh và lông mày chữ Nhứt…!- Miêu tả tới đây, Phú Lâm phì cười.
– Thầy ơi, sao Thầy tả giống mấy bức tranh tố nữ hay bán dịp Tết vậy Thầy?
– Huynh ấy đẹp trai lắm.

Nhưng thiên về phần âm nhu hơn là dương cương như người anh song sinh.
– Có phải cha kia để tóc chôm bôm và cái miệng lanh không ai bằng không?
Phú Lâm che miệng cười ngặt nghẽo, rồi gật, gật đầu xác nhận.
– Bữa hổm ổng ghé quán hủ tíu nhà tôi ăn nè.

Trời ơi, con vợ tôi hổng lo bán, lo nhìn ổng không hà.

Mà có điều ổng đen chứ hổng trắng mấy.

Phú Lâm cảm thấy rất ngạc nhiên vì người này nhận ra được điểm khác biệt giữa hai anh em.

Vậy mà cô gái kia lại không thể phân biệt nổi hai người.

– Phải, da của anh Hai hiền huynh sậm màu hơn vì ưa dang nắng dang nôi, nhưng ít ai nhận ra.
– Dạ, ổng trắng ngần còn Thầy kia chắc trắng tươi như bông bưởi.

– Thí chủ làm bên Mỹ Thuật phải không?
– Điêu khắc xấu quá bị thầy đuổi dìa rồi.

– Sao bị đuổi?
– Ổng kêu điêu khắc tượng ác quỷ, tôi bèn tạc mặt ổng.

Chắc hổng có giống nên ổng cho nghỉ thẳng tay.
Phú Lâm che miệng cười.

Hết biết ông học trò chơi rắn mắt.

Người này hồi còn cắp sách tới trường chắc quậy cũng không thua gì chú.

Rồi sụt sùi rơi lệ.
– Sao…!Sao Thầy khóc?
– Tôi nhớ tới Thầy của chúng tôi quá.

Hồi Quy Y lại, tôi giở giọng tài khôn ra vặn hỏi Thầy đủ điều, hết chuyện này rồi tới chuyện kia.

Thầy chỉ tủm tỉm cười, rồi bỏ vô rừng ngồi kiết già một mình.

Cho tới một ngày, tôi lại hỏi Thầy về quan niệm Phật Giáo trong chuyện giáo dục con cái, huynh trưởng đang ngồi giặt đồ ở sau hè thấy tôi lải nhải hoài mới đập cái áo cà-sa xuống cái thau gỗ một cái “Rầm” rồi đứng dậy nhìn tôi mà giơ một ngón tay lên trời và nói…
– A, “Ngón tay chỉ trăng” phải không Thầy?
Phú Lâm lắc đầu cười và biểu:
– Huynh trưởng giơ ngón tay trỏ lên và biểu, “Nín.”
Người đàn ông quên hết chuyện buồn con cái mà ngồi bệt dưới đất cười sặc sụa.
– Lúc đó, tôi tưởng Thầy bí nên không biết đường nào trả lời.

Thành thử, đã ngu dại sanh tâm ngạo mạn.

Sau này tôi mới hay, thì ra tranh biện và diễn giải dông dài chỉ tổ khiến người ta sa vào mê lầm của Bản Ngã và sự Vô Minh của chữ nghĩa, không có ích lợi gì trên con đường tinh tấn hết.

Với lại, Thầy muốn chúng tôi tự mình giác ngộ, không nương dựa vô ai hết.

Thầy thành công theo cách của Thầy, và chúng tôi có cách của chúng tôi.
Thấy còn hơn ba tiếng nữa là tới giờ thọ thực nên Phú Lâm xin phép cáo từ.

Chú đi bộ lên núi mà, nên phải khởi hành sớm.

– Dạ, Thầy ở đâu, tôi chở Thầy dìa?
– Ở tuốt trên ngọn Phượng Hoàng.
– Trời ơi, tu chi mà cao dữ thần vậy?
– Thì cao nhân phải ở chỗ cao chớ.
– Vậy chắc lùn nhân phải ra chòi vịt tu.
Chợt hai người nghe tiếng đằng hắng vang lên bên tai.

Châu Lợi chắp tay mà nói “Sadhu”, rồi bước lại gần hiền đệ và người thí chủ nhiều sầu bi.
– Sao thí chủ nhìn huynh trưởng tôi mà sợ vậy? Huynh trưởng tôi hiền…
– Ông này ổng hổng có hiền đâu.
Châu Lợi sửa vai áo, rồi đứng lặng thinh mà nhìn hai người.

Ông vẫn giữ nguyên dung mạo ở hồi tứ tuần nên ít ai xưng hô với ông cho đúng.
Phú Lâm chắp tay bạch:
– Huynh trưởng.
Châu Lợi chắp tay thưa lại.

Dưới sự khẩn khoản của người thí chủ ở núi Cấm, hai huynh đệ đồng ý quá giang xe ba gác của anh ta.

– Thầy Lợi, tôi hay mất lòng tin với bản thân quá, cưới được vợ hiền tưởng đâu an phận, ai ngờ giờ lại bị mấy đứa con hành…!Theo Thầy thì tôi nên tin gì bây giờ?
– Thể theo Kinh Kalama, “Hãy tin những gì làm cho bản thân mình tốt hơn và có lợi cho chúng sanh”.
– Theo Thầy, Phật Giáo có phải tôn giáo không?
– Phật Giáo bây giờ đã trở thành tôn giáo, bởi nó đã có chức vụ, thứ bậc, lớp lang rõ ràng.

Còn thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, nó là Đạo chứ không phải Giáo.

Về bản chất, nó không phải là tôn giáo.

Nhưng về hình thức, trong đời này nó lại hội đủ yếu tố của một tôn giáo.

Phú Lâm thêm:
– Có vị Tăng sĩ ngoại quốc cho rằng nó là Đạo vì ở đó có niềm tin của các tín đồ, chứ không phải chỉ đơn thuần là triết lý.
Người thí chủ dừng xe trước một quán bánh bao ế.

Chú bỏ tiền mua giùm thằng bạn học chung năm lớp Bốn hai chục bánh bao; mỗi chục là mười ba cái.

Trả tiền xong xuôi, chú trao cho hai vị Tăng sĩ cái bịch bánh bao đã được bỏ thêm ba chiếc.
Chủ quán chắp tay và giơ lên ngang tầm mắt mà cúi đầu chào hai huynh đệ Nguyên Thủy.
Đợi chiếc xe lăn bánh, Châu Lợi từ tốn trình bày:
– Bây giờ lại còn đẻ ra hai chữ “Pháp chủ”, đây là hai chữ hết sức nực cười và bất kính với Đấng Thế Tôn; vì di nguyện trước khi mất của Ngài là đời sau không được lập giáo chủ, mà chỉ nên chọn người tiếp quản và quán xuyến Tăng đoàn chánh.

Người nào “sáng tác” ra hai chữ này đã cố ý làm trái với di nguyện của Ngài, và lách luật bằng cách bỏ chữ “Giáo” thay bằng chữ “Pháp”; “Giáo” hay “Pháp” đều mang hàm nghĩa tương tự nhau, người này chơi chữ rất hay và tuyệt đối không phải là một đệ tử của Sa-môn Tất Đạt Đa Cồ-Đàm.

– Tại sao Phật Tổ lại phải ra di nguyện như vậy?
– Vì Ngài đã nhìn thấy cái gương của Đề Bà Đạt Đa, nên mới phải căn đi dặn lại điều này.

Chú hỏi hai người Tăng sĩ đó có tham gia Giáo hội nào không, và người trả lời vẫn là Châu Lợi:
– Chúng tôi không tham gia Giáo hội nào hết, chúng tôi chỉ theo chân Đấng Thế Tôn, các tôn giả sống trong thời Ngài còn tại thế và Trưởng lão trong đời này.
– Vậy thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, chức danh này gọi là gì?
– Đại Trưởng lão.

Chỉ vậy thôi.
– Bạch Thầy, tôi tính cúng dường xây cất ngôi chùa trên đường…!được không?
– Má thí chủ đang phải ở nhà dột kìa…
– Dạ, tại tôi muốn hồi hướng công đức cho má tôi, số là má tôi bị tiểu đường type 2 nên tôi…
– Để tôi chỉ có thí chủ một cách hồi hướng công đức mau hơn…!Hãy dành ra một chút đỉnh tiền rồi cuối tháng đem biếu cho một quán cơm từ thiện nào đó mà thí chủ cảm thấy tin tưởng để họ đỡ đần bữa ăn bà con nghèo, ấy là cách cúng dường phù hợp nhứt trong thời buổi loạn Pháp bây giờ.

Chú cười tươi mà đáp rằng:
– Dạ…!Cái này thì con lo được…
Châu Lợi chắp tay và nói:
– Lành thay.
Chú bỏ hai người dưới cội cây thốt nốt trăm tuổi ở chân núi Cô Tô theo ý của Châu Lợi.

Vả chăng, xe của chú không đủ xăng để chạy đường núi.
Sau khi chiếc xe ba gác khuất dạng ở cua quẹo, Châu Lợi mới quay qua nói với Phú Lâm:
– Lâu lắm rồi mới thấy đệ nói nhiều như vậy…
Phú Lâm cười ngượng.

Chú vẫn còn “dư âm” cái lần huynh trưởng kêu “Nín”.
– Hả hơi chưa?
Trì Thương bước ra từ một góc rừng và hỏi.

Vẻ mặt của nhị sư huynh hiếm khi nào muộn phiền và tuyệt nhiên không bao giờ để mọi người thấy sự quạu quọ, nhăn nhó của mình.

Huynh ấy luôn trao đời một nét tươi cười, rạng rỡ và đẹp đẽ vô ngần.
– Hả rồi.

– Hả rồi thì về núi nghen?
– Dạ.

– Riết rồi tôi cứ tưởng mình là quân sư quạt mo, chứ không phải là một người thầy tu…
Biết rằng nhị sư huynh đã “nghe” được chuyện ban nãy nên Phú Lâm không nhắc lại.

Chú rụt rè hỏi hai người hiền huynh:
– Huynh trưởng và nhị sư huynh sẽ không hoằng pháp sao?
Châu Lợi cười buồn:
– “Thế gian này đã không còn cách cứu chữa rồi.”
– Dạ.

Ba huynh đệ đi ngang qua một quán cà-phê cóc được hai cây đa già che mát; phần đông là khách du lịch ngồi uống, còn dân bản xứ thì lác đác vài người.
Thái Thanh đang ca một bài hát mang đậm tư tưởng Phật Giáo mang tên “Ru người hấp hối” của nhạc sĩ Phạm Duy:
“…!Ru người đang chết và không sợ chết
Ru bằng tiếng hát của thế giới vô biên
Ru bằng muôn mắt của ánh sao đang đi tìm
Ru người đã thoát ra lồng Tình hay cũi Duyên…”
– Anh Hai của Thảo vẫn chưa thể dứt khỏi tơ vương với nữ thí chủ đó.
– Dạ.

Một đoạn Duyên nhỏ, lại gây ra một oan trái lớn.

Kế, Thái Thanh lại ca bản “Đưa em lên đỉnh cao” của nhạc sĩ Ngô Mạnh Thu; một trong những tình khúc đã thất truyền.
Chủ quán nhìn màu áo Nguyên Thủy Phật Pháp của ba người, chợt tức mình mà nói với thằng bạn sống bằng nghề hướng dẫn viên du lịch:
– Vì một bài hát mà người thì sắp phải chịu vòng lao lý, kẻ thì thập tử nhất sinh, khứa chủ mưu và đồng bọn của khứa lại “rước” thêm Ác Nghiệp vô mình.
– Người ta tức cảnh sinh tình sáng tác vu vơ, bản thân có tật nên giựt mình thành thử ra rắp tâm hại người ta.

Khi tâm thức trong sạch, không cần phải phí phạm thời gian – công sức để đi rình rập và gây đau khổ cho người ta.
Vợ của ông chủ quán mời ba người uống đá me, sẵn đây bà mới hỏi Trì Thương về chuyện của con gái mình.
– Khi bị một bà thầy của một giáo phái khác sỉ nhục, Đấng Thế Tôn đã nói rằng, “Những lời mắng chửi cũng giống như một món quà, nếu tôi không nhận thì người phải nhận nó là bà.

Bà coi, chỉ vì tới đây chửi bới tôi mà bà đánh mất bao nhiêu thứ vậy?” Người đàn bà đó ngẫm ra, nếu không tới đây kiếm chuyện thì sáng nay đã có tiền nhờ việc tổ chức cúng kiếng, bản thân cũng không mệt nhọc vì phải cuốc bộ xa, đã vậy còn tốn tiền thuốc thang do đau cổ họng bởi phải rống họng la lối dưới trời nắng gắt gần cả buổi trời, chưa thấy ông Sa-môn này bị thiệt điều gì mà bản thân đã lãnh hết bao nhiêu phiền khổ.
Bà chủ quán cự:
– Nhưng người Ác họ thường không thấy phiền khổ khi đi hại các chúng sanh khác, trái lại còn hả hê và vui sướng nữa.
– Nên thương hại họ thì hơn.

– Tại sao?
– Không tại sao hết.

Như Đấng Thế Tôn lo lắng cho Đề Bà Đạt Đa, như Ananda khóc lóc thảm thiết vì xót thương cho sự Vô Minh ở người anh trai ruột thịt và rất nhiều chúng sanh khác.
Câu trả lời của Trì Thương không làm thỏa mãn tâm trạng bức bối của bà.

Bà giả lả “Mô Phật” mấy tiếng, rồi xin phép cáo từ.
Phú Lâm quay sang hỏi hai người anh bên Đạo về lý do nào mà Trì Thương trả lời trớt quớt như vậy, thì Trì Thương trình bày rằng:
– Họ ác với chúng ta một, chúng ta thương họ mười.

Việc làm này không giúp ích gì trong sự cảm hóa họ đâu, nhưng sẽ làm chúng ta không trở thành người đầy rẫy sân hận và thù oán như họ.
Châu Lợi cười:
– Không trở thành loại người như họ cũng là một dạng Phước Báu vô biên.
– Đệ hiểu ý hai huynh rồi.

Trở thành người Ác thì dễ, chứ hoàn lương thì khó.
Châu Lợi gật đầu:
– Phải, làm người tốt mà còn trung thực là điều khó khăn nhứt.

Trước lúc theo hai người về núi Phượng Hoàng, Phú Lâm đi nhờ nhà vệ sinh của quán cóc.

Châu Lợi và Trì Thương bèn đứng dưới gốc cây đa già mà đợi.
– Phú Lâm vẫn còn khờ dại trên con đường học Đạo.

Sự sốt sắng giảng Pháp của đệ ấy khiến ta e ngại…
Trong quán đang phát bản “Bài di ca cho em” do ca – nhạc sĩ Duy Khánh tự sáng tác và trình bày:
“…!Đừng xõa tóc, đừng quấn khăn, đừng khóc lóc, đừng oán than
Đừng trách móc Trời cách ngăn đôi đàng
Đừng cúng kiếng, đừng vái van, đừng thắp nến, đừng đốt nhang
Đừng gõ mõ, đừng đánh chuông, và đừng xây mộ tròn – mộ vuông…”
Châu Lợi quay qua nhắc Trì Thương một kỷ niệm của Phú Lâm:
– Trước lúc tới đây, Phú Lâm đã gởi cho vợ con bài hát này, và dặn một mai anh chết gia đình cứ y như vậy mà làm đám.

Lúc đó chắc đệ ấy cũng giận gia đình dữ lắm nên mới hùng hùng hổ hổ trở lại Thất Sơn.
Nhác thấy Phú Lâm, Trì Thương quay sang gọi:
– Phú Lâm.
– Dạ?
– Thấy sao?
– Đệ vẫn muốn vợ con đệ thực hiện đúng di nguyện trên.
– Khoan đi đã mấy Thầy.
Người vừa gọi họ là ông chủ quán.

Vẫn ngồi ở đó, ông ngửng mặt lên hỏi:
– Tại sao con thỏ ăn chay mà lại chết yểu?
Châu Lợi trả lời:
– Tại vì chúng là động vật cấp thấp.

Vả chăng, đó là quy luật của thiên nhiên, tức “Mạnh được – Yếu thua”.
Trì Thương bổ sung:
– Một số người thường hay đưa ra thí dụ này để lập luật luật Nhân – Quả không tồn tại.

Và họ, hình như đã quên, có một số loài động vật ăn chay trường vẫn sống thọ và bình yên tới chết như voi, hươu cao cổ, linh trưởng,…!
– Xin lỗi nhưng phải ngắt lời Thầy, tại sao chúng lại sống thọ?
– Tại vì chúng mạnh hoặc khôn khéo.
– Vậy tại sao người lành lại phải chịu khốn khổ hoặc bị hại mà chết?
– Tại vì họ nhu nhược và cả tin.

Ai vu khống gì cũng chỉ biết tấm tức khóc, không dám mở miệng phản bác cho mình; thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, Ngài từng bị một cô gái vu khống là làm cho cổ có bầu, Ngài phản bác một cách lịch sự và khi thấy đối phương cứ một hai ghép tội mình, Ngài thôi không nói nữa, vì biết rằng đối phương tới đây là để gây sự và bôi nhọ mình thì hà cớ gì phải nhọc công giải thích hoài.

Còn về phần cả tin, ai nói gì bùi tai – vừa ý và hứa hẹn mang lại lợi lộc cho mình thì xiêu lòng nghe theo một cách vội vàng mà không chịu đi kiểm chứng, tới chừng gặp chuyện thì biểu, “Trời không thương người lành.”
Phú Lâm thêm:
– Đức Phật đã nói được mang thân người là một phước báu rất lớn vì tuổi thọ chúng ta cao hơn phần đông loài vật và cái chết diễn ra cũng nhẹ nhàng hơn nếu biết giữ gìn thần trí – thể xác đúng mực.

Người bạn thiết của ông chủ quán hỏi về ý kiến của ba người về việc ăn chay, và Châu Lợi vẫn là người trả lời trước:
– Thế gian này thật là ngộ…!Một số người trường chay chê trách người ngả mặn là quân sát sanh, đồ man rợ; còn một số người ngả mặn lại dè bỉu người trường chay là thứ dòng đạo đức giả, tu hình thức, miệng Nam-Mô mà bụng một bồ dao găm.

Bên nào cũng muốn ép bên kia sống theo ý mình, mà không chịu nghĩ cho đối phương rằng họ ăn không được như mình thì thôi.

Phú Lâm chắp tay mà nói rằng:
– Một số người bị dị ứng với đậu nành mà ép họ ăn chay, có khác nào bắt họ tự sát đâu?
– Nếu không ăn được đậu nành thì có thể ăn rau cải không mà?
– Thí chủ hãy thử ăn rau cải trong nguyên một ngày không đi, rồi thí chủ sẽ biết cảm giác bị cào ruột tới mức độ ói mửa ra sao.

– Vậy sao một số người ăn chay vẫn hoang dâm vô độ hả mấy Thầy?
– Một số loại rau cải – trái cây là bài thuốc bổ thận tráng dương, như bột cà-ri, đại hồi, quế vị và một số nguyên liệu có trong ngũ vị hương, nên Đấng Thế Tôn căn dặn nên hạn chế ăn những món chay kể trên, điều này viết rất rõ ràng trong giới luật dành cho Sa-môn nhà Phật.

– Thủy Diệu gia nhập vào Tăng đoàn tự bao giờ mà không người khách nào biết.
– À, Thầy, Thầy đẹp trai quá chèn! Nhìn như Thiên Tiên hạ phàm vậy.
Thủy Diệu chắp tay nói, “Sadhu”, rồi nhận lấy ly đá me từ tay bà chủ quán.
Một số du khách nhận ra người thầy tu nổi tiếng bất đắc dĩ nên giơ điện thoại lên chụp hình.

Có người còn khen Thủy Diệu ở ngoài đời đẹp trai hơn trong ảnh và phim rất nhiều.

Người thì nói màu mắt xanh cẩm thạch của chú trông vô cùng ngộ và quyến rũ.
Một người đeo sợi dây chuyền mặt bạc hỏi họ rằng Đức Phật có nói xúc phạm tới đức tin khác không.

Châu Lợi nhường cho Trì Thương trả lời:
– Đấng Thế Tôn đề cập tới Đế Thích, Phạm Thiên, Chư Thiên, Bồ-Tát, Chư Phật, A-La-Hán, Dakini,…!chứ không hề nói về hình tượng Thượng Đế và Thần Linh trong các tín ngưỡng, văn hóa và tôn giáo khác trên thế giới ở thời đó hay sau này.

Tiêu biểu như câu nói, “Phước – Họa do mình làm ra, không có vị nào ở trên Trời ban phát cho mình hết”, là chỉ bao gồm những cái tên ở trên thôi.

Nếu dùng mỗi chữ “God” thôi, sẽ rất dễ phát sinh hiểu lầm, còn liệt kê ra từng cái tên như vầy thì trăm sự an hòa.
Châu Lợi nhìn sắc mặt của từng hiền đệ, rồi lắc đầu phì cười.

Đường lên Niết Bàn thì còn xa, mà đường xuống Vô Minh thì ngay trước mắt.
– Về thôi các đệ.

Người ta chỉ muốn tranh hơn – thua, nên trình bày có ích gì?
– Vậy Thầy đây chịu thua?
– Nếu như muốn thắng, tôn giả Xá-Lợi-Phật đã ở lại đấu lý tới cùng với người ngoại Đạo.
Người bạn thiết của ông chủ quán chưa kịp nói thêm lời gì nữa, thì Trì Thương cười hỏi:
– Nếu như tôi cho thí chủ thấy những gì thí chủ muốn biết, liệu rằng thí chủ có còn bình tâm được hay là không?
– Thì làm thử coi.
Trì Thương che mắt trái, rồi đặt tay phải lên mắt trái của ông ta.
Chỉ thấy ông ta đứng bất động như tượng.

Rồi chạy trối chết ra chỗ đậu xe.
Châu Lợi thoáng cau mày, rồi quay sang hỏi người hiền đệ.
– Đệ không cho ông ta thấy gì hết, ngoại trừ một lời cảnh cáo đừng đụng tới má của đệ thôi.
– Ước gì huynh có cái kiếng, khuôn mặt của đệ giờ y hệt A-Tu-La.
Phú Lâm vẫn thấy gương mặt của nhị sư huynh chẳng thay đổi gì, mới hay huynh trưởng đã nhìn thấu sắc diện nơi tâm can của huynh Thảo…
Thay vì đi đường cũ về thất, Châu Lợi lại dẫn ba người hiền đệ quẹo sang ngả khác.

Nơi đây là một đồng cỏ bao la xanh ngút tầm mắt, trông như thể một ruộng lúa bị bỏ hoang lâu năm nên cỏ dại thi nhau chiếm chỗ.

Một bãi tha ma nằm cách đó không xa, gần biên giới Cao Miên, những cây thốt nốt ôm vòng bãi tha ma như hàng rào bảo vệ hay đánh dấu cho thân nhân của họ biết mà về sau tới đây lấy cốt.
Châu Lợi mời ba người hiền đệ đi viếng những nấm mồ hoang lạnh.

Có cái còn nguyên vết tích bị đập bể sọ, xương tàn trắng hếu phơi bày tội ác loài cốt người hồn quỷ.

Phải cẩn thận lắm, bộ tự mới không giẫm lên di hài của những người đã khuất.

Gió lạnh từ đâu bỗng thổi tới, đem theo mùi thốt nốt chín và hương đồng cỏ dại.

Khi thấy một bộ xương có phần khung chậu gãy nát, Trì Thương ngồi xuống chắp tay đọc Chú Đại Bi, những thảm cảnh mà người nữ đó gặp phải trước lúc chết khiến chú hết sức buồn thương.
– Ai nằm đây vậy thưa hai huynh?
Câu hỏi trên là của Phú Lâm.
– Hòa Hảo.

– Trì Thương trả lời.

– Dạ.
Thủy Diệu đặt câu hỏi:
– Tụi mình có nên thông báo cho người dân biết không?
Trì Thương gật đầu.
Cách đó không xa, ước chừng khoảng hai, ba trăm mét, một cái hồ nước thiên nhiên đang bị bầy le le quẫy đạp ầm ĩ.

– Con này ngoài Bắc gọi là “Sâm cầm”.

– Châu Lợi chỉ tay về phía đàn vịt trời.
Thủy Diệu rủ mọi người tới đó tìm hiểu nguyên nhân tại sao đàn vịt trời đó lại té nước ầm ĩ.

Ba người kia gật đầu ưng thuận.
– À, thì ra là chúng đang tranh nhau bắt cá.
Nụ cười của Thủy Diệu đẹp rạng rỡ tựa cánh đồng hoa hướng dương vắt ban trưa.
Phú Lâm hỏi:
– Ở đây mà cũng có cá sao?
Châu Lợi đáp:
– Có chứ.

Nó ăn thông với hệ thống hang – động mà.
Trì Thương nhận xét:
– Một vòng tuần hoàn không ngừng: Con cá ăn phiêu sinh vật, rồi lại bị chim trời rỉa thịt, kế mấy con chim đó lại bị thú hay loài người giăng bẫy bắt.
Trời đột ngột chuyển mưa nên nhóm Tăng sĩ bèn ghé vô một hang động mà đứng đụt.
Châu Lợi nhân đó nói cho ba người hiền đệ nghe:
– Họ phân loại coi nếu ai rơi vào trường hợp đó thì sẽ thuộc thành phần nào, phe nhóm gì, bạn hay thù,…!Thật ra, người sở hữu tất cả các tiêu chuẩn mà mình mong muốn mới là kẻ thù của mình, bởi vì chỉ có kẻ thù mới giả bộ tâm đầu ý hợp để chờ thời cơ giết mình.
Rồi người huynh trưởng ấy trầm giọng kể chuyện ngụ ngôn:
– Có một con cáo muốn ăn thịt con heo, nên đã nảy ra một kế.

Ngày nào nó cũng tới rờ bụng, đấm lưng, bóp vai cho con heo.

Năm này qua tháng nọ, con heo bắt đầu lơ là cảnh giác.

Cho tới một đêm nọ, thừa lúc con heo thiu thiu ngủ, con cáo bắt đầu moi ruột con heo.

Nhiều người hả hê vì đã tìm được người tâm ý hợp, đứng cùng chiến tuyến với mình, có bao giờ lường trước rằng họ sẽ là con heo trong câu chuyện trên không?
Trì Thương cười:
– Người dám sống khác biệt với tiêu chuẩn của mình, mình còn có thể lường được và không giao du, còn kẻ giả danh hảo hữu…
– Rất tiếc, họ thích “hảo hữu” hơn.
Mưa bắt đầu kéo tới bủa vây vùng đồng không mông quạnh này.

Bầy le le cũng xáp vô đây đụt mưa chung với nhóm Tăng sĩ, con đầu đàn biết thân lớn xác nên đứng ở ngoài mé rìa đặng cho mấy con kia không bị ướt lông.

Thấy vậy, Thủy Diệu bèn đứng ở ngoài cửa hang để che mưa cho nó; chú không phải là loài gia cầm nên sẽ không bị khó chịu vì lông, cánh bị ướt.
– Hồi còn ở Anh Cát Lợi, ba mẹ tôi có nuôi một con…!”Parot”, có lẽ nó là con két hay con vẹt chi đó.

Nó sống tới năm ông nội tôi mất thì lìa đời.

Nó thương nội tôi còn hơn ba mẹ và anh, chị, em tôi nữa.
Châu Lợi chắp tay “Sadhu” một tiếng, rồi khuyên:
– Con vật vốn có tánh linh.

Bớt ăn con nào được thì hãy bớt.
Phú Lâm nhắc Châu Lợi trình bày lại chuyện ban nãy, không dưng mà huynh trưởng lại tự nhiên xía vô cõi Ta-Bà.
– Tôi chấp nhận tính cách từng đệ cũng là bởi lẽ đó.

Hoàng Kỳ không ngồi tĩnh tọa lâu được, cũng chẳng sao.

Trì Thương thích mượn khả năng của mình để cứu người, cũng được thôi.

Phú Lâm hãy còn để tâm ở mấy đứa con, đó là chuyện thường tình ở đời.

Phá Vân ham xe cộ, từ từ rồi sẽ sửa được.

Thủy Diệu đau đáu với cố hương, đương nhiên thôi vì chốn ấy là nơi chôn nhau cắt rốn của đệ.

Và tôi, tôi vẫn chưa kiểm soát được lời ăn tiếng nói của mình.

– Huynh trưởng, sao huynh chưa vô đề?
Châu Lợi bật cười, rồi từ tốn kể:
– Đáng ra, hồi xưa tôi không bị đánh bể đầu, nhờ người “hảo hữu” mà gia đình nạn nhân quả quyết tôi mới chính là kẻ đã gây ra tai nạn cho con họ.
Mưa càng lúc càng nặng hạt.

Mây đen vần vũ trên không.

Gió lạnh thổi ráo riết như người ta kéo ống bể.

Những cây thốt nốt cao nghệu vật vờ theo sự luân chuyển của từng đợt dông dữ.
– Thay vì khẳng định rằng tôi chỉ là người đi ngang qua đó và vô tình nhìn thấy con họ nằm chết giấc bên cạnh chiếc xe gắn máy bị bể trong vũng máu, thì anh ta lại ậm ờ và tỏ vẻ như đang muốn bao che cho tội lỗi của tôi.


Thần sắc của Châu Lợi vẫn vẹn nguyên như cũ, hệt như đang nói về chuyện của người dưng.
– Sau này, hung thủ thực sự bị bắt, họ mắc cỡ nên không dám tới xin lỗi tôi.

Trì Thương trầm giọng hỏi:
– Người đó đã học xong cách thức nuôi thủy sản nên muốn khiến gia đình huynh thân bại danh liệt sao?
– Phải…!
Rồi Châu Lợi tiếp:
– Và người đó hiện thời là một trong những chính khách của bộ sậu thuộc quyền khứa kia.
Trì Thương che mắt trái, rồi quay sang nói với hai người kia:
– Tổng thống Khánh sẽ tới đây…
Khoảng một khắc sau, trời đã tạnh mưa hẳn.

Nhóm Tăng sĩ từ biệt đàn vịt trời mà trở về tịnh thất.
Cùng lúc đó, bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” cũng vừa có mặt ở trển.

Họ đem theo một mâm cơm cúng dường thanh đạm.
Ngó thấy Hoàng Kỳ đang đứng nơi bậu cửa, Đức Hoàng bật cười hỏi mấy thằng chiến hữu:
– Sao trên đời này có nhiều người cao tới nỗi xúc phạm người lùn như tao luôn mậy?
Chí Công cũng cười, rồi phỏng đoán chiều cao của khung cửa trước khi phát biểu:
– Ổng chắc hơn hai mét.
Theo như lời của Đức Hoàng kể thì Tín đã không khai ra địa chỉ nhà của hắn và Thương Hận.

Đây là một câu hỏi cơ nhằm kiểm tra coi nó có còn trung thành với chủ cũ không, và vì nó không hợp tác nên đã bị thanh trừng.

Tống Ngạn cau mày:
– Giờ mày tính sao? Chẳng lẽ đưa gia đình mày lên trên này trốn?
– Không.

Tao không tin tụi nó dám làm càn như vậy đâu.

– Còn tao…!- Khán Bình cướp lời.

-…!tao chỉ e thằng kia bày “Khổ nhục kế” để lấy lòng tin của tụi mình thì khốn.
Bốn đứa cuốc bộ lên đây suốt mấy tiếng liền nên giờ vừa mệt vừa mắc tiểu.

Sau khi thưa gởi xong xuôi, thằng nào thằng nấy vội vàng ngỏ lời đi nhờ nhà vệ sinh.

Phá Vân bèn dẫn đường cho họ.
Trong lúc đó, nhóm Tăng sĩ sửa soạn bàn cơm của mình.

Còn đồ ăn – nước uống của nhóm bạn, họ không đụng tới.
– Dạ, con rót nước uống nghen Thầy? – Đức Hoàng vừa lau tay với khăn mùi soa, vừa hỏi.
Châu Lợi cười hiền, và gật đầu, thay cho một lời xác nhận.

Cái máy lọc nước này có thêm tính năng làm lạnh hoặc đun nóng.

Có vẻ như đây là hàng mắc tiền nên kiểu dáng rất đẹp và thao tác sử dụng vô cùng đơn giản.

Uống xong một ly nước mát lạnh, Đức Hoàng khoan khoái “Khà” một tiếng, rồi liệng cái ly giấy vô sọt rác.
Bữa chay do má của Đức Hoàng và người anh đồng nghiệp nấu, quày dừa – dứa cũng là của ảnh.

– Bông cải chiên bột, canh kiểm, nấm mèo luộc, đậu hũ chưng tương hột và tráng miệng bằng bánh chuối – Bánh chuối này tụi con mua ngoài chợ chứ má con với ổng hổng có biết làm.
Rồi gã trai Bảy Núi bắt đầu khơi chuyện:
– Các Thầy có thể kể nghề nghiệp trong quá khứ của mình được không?
Châu Lợi chỉ từng người và nói:
– Hoàng Kỳ là võ sĩ quyền Anh, Thủy Diệu là điệp viên, Phá Vân là vận động viên đua xe chuyên nghiệp, Phú Lâm là tổng giám đốc, Trì Thương đi tu từ hồi nhỏ nên không có nghề nghiệp riêng, còn tôi là phó giám đốc một cơ sơ nuôi và bán thủy sản ở Cà Mau.
– Nét mặt của các Thầy thật khác với mấy ông thầy chùa lửa kia…
– Mặt sao, Tâm vậy.

– Chí Công bình phẩm.

– Nhiều người phản đối “Nhân tướng học”, chứ tao thấy nó chẳng sai chút nào.
– Chứ mày thấy mặt ông kia sao?
– Mặt cha kia là mặt lì.

Mày coi cái trán dô, cặp lông mày tướng và hai cái tai ép sát vô đầu của chả là họa ra liền.
Khán Bình đã ăn xong tô bún bì chay, hiện đang đi lấy dừa cho mọi người uống giải khát.

Hắn vừa làm vừa đưa mắt ngó mấy thằng bạn thiết và các vị Tăng sĩ; thằng Công vẫn đang lải nhải ba cái chủ đề “Nhân tướng học”, biết nó mê môn này vậy bữa hổm kêu nó ra coi tướng cái đầu lâu để xem bị phá chỗ nào mà chết không toàn thây.
– Mắt buồn khác với mắt rầu.

Mắt rầu là mắt thiếu nợ, nội tâm đau khổ hay sức khỏe thiếu thốn, ví dụ như cặp mắt của mày khi tới tháng trả tiền tụi tao…!Ui da!
Ký đầu thằng bạn xong, Đức Hoàng nói:
– Hồi xưa mà ông Ngô Thụy Miên viết, “Mắt hí năm xưa nay đâu” là nàng thơ bỏ ổng tám kiếp rồi.

Ổng sửa thành “Mắt biếc”, bả mới ưng đó.
Sau giờ thọ thực, nhóm Tăng sĩ dẫn bộ tứ đi ngắm cảnh núi non Cô Tô.
Châu Lợi thuật rằng:
– Có người nói quan điểm buông bỏ cả hai bờ trong Phật Giáo là sai lầm và làm khó các Tăng sĩ, theo cách diễn đạt của họ thì làm vậy có khác nào khiến các Tăng sĩ đứng giữa sóng gió, nước nôi.

“Buông bỏ cả hai bờ” tức là buông bỏ cái Chấp ở Ngã Mạn; chứ không phải “bờ” là “bờ đất” hay “bờ đê” đâu mà suy diễn thành đứng trên mặt nước!
Trì Thương kể:
– Tôn giả Ananda đã từng hỏi Đức Phật về sự khác biệt ở các ngữ cảnh của một câu Kinh, tức là cùng một câu Kinh sao lúc này hiểu nghĩa khác và lúc kia hiểu nghĩa khác, và được Ngài giải thích rất cặn kẽ.

Đời này chúng sanh không dựa vào kinh điển – tạng luật, mà toàn dựa vô suy nghĩ của mình để phân tích và áp đặt ngữ cảnh một câu Kinh.
Đức Hoàng nhân đó hỏi người Tăng sĩ đã gần thất tuần rằng có thể tìm hiểu các bậc phạm-hạnh như họ ở đâu, thì Thủy Diệu chắp tay mà trả lời:
– Forest monk in Sri Lanka – Những Tăng sĩ tu ở rừng tại xứ Tích Lan.
– Mà cũng ngộ hen Thầy?
– Đâu có gì ngộ, họ thích tìm hiểu về ma tăng hơn là những Sa-môn khổ hạnh và thực hành Chánh Pháp đó là Nghiệp của họ, không can dự với mình.
– Nghiệp là tội hả Thầy?
– Không, là quyết định của họ.
Chí Công mới hỏi cảm nhận của họ như thế nào về khoa “Nhân Tướng học”.
Trì Thương cười mà trả lời:
– Con người ưa xét sắc – tướng, và ít chịu để ý tới cái thần trong ánh mắt, nên rất dễ bị lầm.

Trẻ nhỏ thì không giống vậy, tụi nó toàn để ý tới cái thần trong ánh mắt, nên không bao giờ bị lầm…
– Xin phép cho đệ cắt lời huynh….!- Nhận được sự đồng ý của Trì Thương, Thủy Diệu mới nói.

– Ở bên nước ngoài, có một chuyện rất hi hữu: Cô con gái nhỏ nói với cha mình rằng mẹ kế là đàn ông.

Nghĩ con gái mình ghét vợ sau nên anh ta la mắng cô bé rất nặng lời.

Để rồi một hôm anh ta mới phát hiện điều con gái nói là đúng, người vợ sau là đàn ông chuyển giới thành phụ nữ; biết không thể giấu hoài được nên người vợ sau đã tiết lộ luôn.
Thấy hiền đệ đã nói xong, Trì Thương mới nói tiếp:
– Con người mà hơi xấu một chút hoặc có vẻ bề ngoài hung hãn, thô kệch, đần độn thường bị quy chụp là Bất Thiện.

Rất ít ai dành lại một phút để nhìn vào mắt họ mà đoán định nội tâm họ ra sao, chỉ thấy không hợp nhãn là tâm sinh ra ác cảm.

Tới đây là hết giờ diễn thuyết của Tăng đoàn, Châu Lợi chỉ cho phép mọi người nói về Phật Pháp với các thí chủ vài tiếng trong một ngày để tránh sa vào chuyện “nói dai, nói dài, nói dở, nói hớ”.
Nguyên đoàn giờ đang băng qua một rừng cây thốt nốt đang mùa trổ quả.

Không có dấu hiệu nào cho thấy có sự thu hoạch và ghi nhận chủ quyền sở hữu của người dân bản địa.

Vài con sóc đuôi xù cong vút đang ngồi gặm mấy trái thốt nốt chín muồi dưới bụi chuối bên vệ đường.

Đôi lúc họ bắt gặp mấy cái mả lạng đang nằm chèo queo trong những lùm cỏ cao quá đầu gối.
Chuyến đi dừng lại khi thấy bóng chiếc xe Mitsubishi của bộ tứ.

Sau bao nhiêu lần gây lộn, rốt cuộc bốn thằng quyết định sơn màu trắng.

Phá Vân lại gần chiếc xe, rồi mạn phép lên đề máy thử.

– Chiếc xe này cần châm nước giải nhiệt và thay nhớt định kỳ.

Bố thắng hơi rít, có phải là mới đụng vô đâu không? Nếu không thì phải thay cái mới, nó hết dây đai rồi, không khéo đang chạy mất thắng thì chết.

Tống Ngạn xác nhận gã và mấy thằng chiến hữu làm biếng coi sóc nước nôi của chiếc xe.

Còn vụ đụng xe, lỗi không phải do họ mà là do anh Hai của Thầy Thảo quẹo qua bất tử nên họ mới lủi vô đ*t xe của chú Thương.

Gã sẽ ghi nhận ý kiến của Thầy Vân, về kêu thợ thay bố thắng mới.

Chí Công chợt reo lên, rồi chỉ ngón tay về phía cái cây sanh đại thụ.

Thì ra y nhìn thấy con tắc kè bông đã lâu không gặp.

Hồi nhỏ, y hay bắt con này đem vô lớp để hù mấy đứa điệu điệu hay ẻo ẻo, lần nào cũng bị bắt đứng ngoài cột cờ mà chưa bao giờ biết tởn.

– Trời ơi, đàn ông – đàn ang gì mà chỉ ngón tay còn cong hơn dân “Lan Quế Phường” vậy? Chỉ dứt khoát, mạnh mẽ, “quán triệt thật sâu sắc” coi.
Chí Công bực mình nạt thằng Hoàng:
– Thôi mày bẻ ngón tay tao luôn đi con…!Ê, bẻ thiệt hả?
– Dạ.

Tống Ngạn vỗ vai hai thằng bạn thiết mà cười nói:
– “Thương nhau lắm, cắn nhau đau.” Mốt tụi bây thành một đôi tao mua bánh làm lễ cưới cho…!Ế!
Châu Lợi nhìn bốn người bạn chọc ghẹo nhau thật vui vẻ bèn đặt câu hỏi:
– Mốt có vợ con rồi các thí chủ tính sao?
Khán Bình thưa:
– Sau này chắc mua miếng vườn thật lớn, rồi mỗi đứa chia nhau một hướng mà cất nhà ở, đặng dễ bề gặp mặt.

Phá Vân xen vô:
– Có ai muốn học lái xe không?
Tống Nhạn hơi nhếch miệng cười:
– Hễ mà thằng Công, thằng Hoàng đi thi bằng lái, là tụi nó lại hỏi người giám khảo Đạo gì.

Nếu theo Phật nó cho tràng hạt, còn theo Chúa nó cho chuỗi Mân Côi; đặng người đó cầu Chúa – Phật cứu mạng cho đỡ sợ.
Phá Vân từ tốn trình bày:
– Khi điều khiển vô-lăng, không được xoay trở tứ lung tung, hãy giữ nó thật nhẹ nhàng và quay nó mau – chậm tùy tình huống.

Cứ nhớ: “Phải – Ga, Trái – Thắng”, đừng có đạp cùng một lúc hay lộn chân.

Tống Ngạn chép miệng:
– Nó hổng có khiếu lái xe.

Thầy có cất công chỉ mấy nó cũng hoàn ngu hà.
– Đừng áp đặt người khác…
– Dạ…
– Không ai biết trước tương lai sẽ ra sao nên xin thí chủ đừng gieo bi quan vô đầu bạn mình.

Đức Hoàng chắp tay mà đỡ lời:
– Nó nói giỡn thôi hà Thầy.
– Tôi biết.
Sau hai tiếng đồng hồ canh lủi vô vũng sình và lùm cây, rốt cuộc hai đứa cũng lái được đường thẳng và biết quẹo đúng cách.

Kế, Phá Vân hẹn sẽ dạy hai người cách “bo cua” để lách xe sao cho an toàn và không gây nguy hiểm cho mọi người xung quanh.

Có đôi khi đang chạy ngon trớn, thình lình thấy ổ gà hay ai đó băng qua đường ẩu, không biết cách “bo cua” và thắng xe đúng sẽ khiến mình và người khác bị thương tật hoặc vong mạng.
Chí Công la làng:
– Trời ơi con chạy thẳng còn chạy hổng được, ở đó mà lạng với lách…
– Mơi mốt tao với mày song ca bài “Người ngoài phố” của Anh Việt Thu bản chế: “Thôi ta xa nhau từ đây, nghe nước mắt đau thương…”
– Xe của tao mua mà tụi bây đau thương hả?
– Bữa nay tới đây thôi các vị…!- Châu Lợi nói mà mắt ngó mông lung về phía dãy núi hướng Tây đang nhuốm màu chàm của tầng mây thâm thấp.
Tạm biệt nhóm ký giả trẻ tuổi, các Tăng sĩ tản mác một phương để ngồi thiền định.

Trước lúc vô nhà thương thăm Tín, nguyên đám ghé nhà thằng Hoàng để kiểm tra.

Sẵn vào chợ mua bánh tay cùi cho nó như đã hứa, và đi chợ giùm tía má luôn.
Nguyên đám nghe thấy bài “Xin một bóng mát bên đường” do song ca Tùng Giang – Khánh Hà ca, một sáng tác của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang; kế là phần trình bày của Thương Hận:
“Vì tôi trót yêu anh em của mình
Vì tôi trót yêu Quê Hương của mình
Vì không muốn gây xương rơi máu đào
Cầu xin thế gian thôi đừng ghét nhau…”
Phải công nhận Thương Hận hát rất bình thường nhưng chơi đàn thì hết sức điêu luyện, có thể nói phần chơi đàn đã giúp màn biểu diễn của anh ta hay hơn.
“…!Dù cho đói no nhưng mình vẫn cười
Dù cho đắng cay nhưng trọn kiếp người
Dù ai nhỏ nhoi nhưng mình vẫn đầy
Dù ai dối gian nhưng mình vẫn ngay
*
Dù ai mỉa mai nhưng lòng chẳng sờn
Vì ta sống sao cho đừng tủi hờn
Dù cho nát thân nhưng trọn tấm lòng
Cầu xin thế gian như mình ước mong…”
Những người khán giả mời anh ta hát thêm vài bản do anh ta tự sáng tác, và anh ta vui vẻ hưởng ứng.

Thật không ngờ lại có nhiều người thuộc ca khúc của anh tới vậy.

Đương nhiên phải kể đến bài “Đời cọng rơm”.
Khán Bình hỏi:
– Bài lần trước anh trình bày có phải do nhạc sĩ Lê Hựu Hà ca không?
Thương Hận cười và nói:
– Đó là giọng hát của ca – nhạc sĩ Tùng Giang với sự phụ họa của “Phượng Hoàng band”.

Còn phần trình bày kia đã rơi vào cõi hư vô lâu lắm rồi.

Tôi và ông bác nhạc sĩ còn lưu lại để làm kỷ niệm thôi.
Nói rồi, Thương Hận cho các bạn nghe bài “Yêu người – Yêu đời” của nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang, qua phần biểu diễn của Tùng Giang và ban “Phượng Hoàng”.
– Đôi vợ chồng Duy Quang – Julie Quang song ca bài “Where is the love?” của hai ông tác giả Ralph MacDonald và William Salter mà hệt như tiên tri cho cuộc hôn nhân của họ…
Nguyên đám có mời Thương Hận đi thăm Tín, nhưng anh ta cáo bận nên đành thôi.
Người bác sĩ Long Xuyên báo tin qua điện thoại rằng Tín đã tỉnh rồi, đương nhiên hãy còn yếu lắm, mới mở mắt được một lát lại thiêm thiếp ngủ tiếp.
Tình cờ bộ tứ nhìn thấy người anh đồng nghiệp đang đứng hút thuốc dưới tán cây bàng ở đầu chợ nên ghé vô nhờ tới trông nom Tín trước.

Anh ta vui vẻ đồng ý, rồi dụi tàn thuốc trước khi bỏ sọt rác.
– Mày đi đâu hả Tuyết?
– Em vô bệnh viện thăm nó chút.
– Vậy để tao chở mày đi…
Dọc đường đi, anh Ba Hói càm ràm việc gã điên nộp bài trễ.

Xương Tuyết khó xử giãi bày:
– Nửa khúc đầu nó viết, nửa khúc sau em viết.

Giờ hai phần không biết nên kết nối ra sao cho ăn khớp…
– Rồi mày hổng viết cho tao luôn?
– Em đâu phải Medusa mà có nhiều cái đầu để nghĩ?
– Ông nội, con lạy ông nội, ông làm ơn làm phước nộp bài đúng kỳ hạn giùm con.

Tòa soạn hổng có tiền nuôi Bạch Cư Dị đâu.

– Anh càm ràm em sao cũng được hết.

Miễn đừng có vò đầu, sắp thành “đồi trọc” hết rồi mà cứ khiến rụng thêm suốt.
Biết thằng em khùng đang lên cơn cãi lý, anh Ba Hói thôi không nói nữa.

Chú chạy một hơi tới nhà thương trong sự “Tịnh Khẩu”, còn trong bụng chửi đổng nó tơi bời.
Chiếc xe gắn máy vừa dừng lại, Xương Tuyết đã cởi nón bảo hộ vả nhảy xuống xe rồi chạy một hơi lên lầu Ba, bỏ lại anh Ba Hói đang la í ới ở đằng sau.
Người bác sĩ Long Xuyên đang thăm khám cho Tín.

Tưởng đâu anh ta phải chuyển lên thành đô chữa trị, may phước vết thương không nặng nên ở lại đây điều trị và dưỡng sức được.

– A, anh tới trước hả?
– Phải, họ nhờ tôi tới trông nom trước.
– Ảnh mới ngủ lại được một chút.

Anh chịu khó giữ im lặng nghen?
– Được rồi.

Sau khi tiễn chân chàng bác sĩ Long Xuyên, gã điên mở Laptop lên soạn bài tiếp.

Có nhiều chủ đề trong Nước đã được quá nhiều người biên bài, nên anh chuyển sang chủ đề ưa thích của mình là ký sự và thảo luận về nền Khoa Giáo – Đức Dục.
– Anh Tuyết hả?
– Khỏe chưa?
– Chưa…!Tôi chửi anh dữ vậy mà anh cũng còn tới đây thăm tôi sao?
– Cậu chỉ là một trong hàng trăm người thôi.

– À…!Mà nè, tại sao anh lại xưng hô kính ngữ với người mình ghét?
– Hồi còn nhỏ, có lần tôi coi phim bộ với mẹ và nói “thằng diễn viên”, mẹ tôi la liền, “Người ta lớn tuổi hơn con thì con phải xưng người ta là anh/chú/cậu/dượng/bác/ông/cụ, dù thương hay ghét cũng phải ăn nói sao cho phải phép, nói chuyện như vậy là hỗn biết chưa?” Cho nên dù không ưa nhạc sĩ Sơn, tôi vẫn gọi bằng cụ.
– Vậy anh nghĩ sao về bài “Du mục” của ổng?
– Nói nào ngay, cụ Sơn bị oan.

Cái bài “Du mục” kể về một người du mục trên đường lùa đàn bò về quê thì thấy cảnh tượng điêu tàn của một thành phố sau một trận đánh, nên người du mục và đàn bò mới có cảm xúc như những gì cụ ghi trong lời bài hát.

Sau năm 75, đàn bò “được” nhân cách hóa và cái tên bài hát “Du mục” bị đổi thành “Đàn bò vào thành phố” nên cụ phải hứng chịu kiếp trù dập từ chính phe mà cụ thờ.

Mà trước năm 75, bài này chìm nghỉm hà.

Ngoài ban nhạc Du Ca của cụ ra, có mấy ai hát đâu.

Tự nhiên sau này nó lại nổi đình nổi đám.
Thuốc bắt đầu thấm.

Sau mấy lần nhướng mắt chống lại cơn buồn ngủ, rốt cuộc Tín cũng lả đi.

Gã điên bèn quay lại với mớ bản thảo dang dở của mình.

Chủ biên gọi điện xuống nên Xương Tuyết phải ra ngoài hành lang nghe máy.

Trước khi đi, anh tắt Laptop rồi cất nó ở một góc kín đáo nhất có thể.
Anh vừa bước xuống cầu thang theo lời của “ông tòa” để đi gặp anh Ba Hói đang đợi ở căn-tin, thì người kia cũng thừa dịp mà lẻn vô thăm Tín.
Tuế đã lấy cắp được cái Laptop của Tín.

Nhưng không đăng nhập được vì không có dấu vân tay của chủ nhân.
Sau một hồi loay hoay tìm kiếm, rốt cuộc Tuế cũng đăng nhập được.

Theo lệnh chủ nhân, hắn phải xóa trắng toàn bộ dữ liệu có trong máy để giúp gia đình Lê Hoài Sang nắm thêm phần thắng trong vụ kiện sắp tới.

– Xóa đủ chưa?
Chưa kịp phản ứng lại, Tuế đã bị Xương Tuyết dọng vô mặt mấy đấm.
Vừa lau máu mũi, máu miệng, Tuế vừa gầm lên:
– Mày nói quân tử động khẩu không động thủ mà?
– Ai biểu sống động chạm quá thì tôi phải động tay – động chân thôi.
Tuế xông tới đánh trả lại gã điên.

Hai người vật nhau xuống sàn, không bên nào nhượng bộ bên nào một giây, chẳng mấy chốc mà đằng nào cũng có thương tích trên mình mẩy.

– Anh đã cố tình chỉnh sửa nội dung trong đoạn ghi âm để vu khống cho Thương Hận?
– Phải, thì sao?
– Thì anh chỉ là con chó sủa mướn cho chủ.

Anh có tay có chân mà, mắt anh còn thấy đường rõ hơn tôi nữa, hà cớ gì phải chạy theo đồng tiền nhục nhã đó chứ?
– Mày…
– Mày cái gì? Hử? Tôi biết hết chứ…!Chỉ có điều, không bao giờ tôi sống đê hèn như anh và đồng nghiệp của anh.

Tuế định thừa lúc gã điên nhiễu sự không để ý mà thoi xuống bụng một cú.

Nhưng đã bị anh ta phát hiện kịp nên cú đấm đó bị trượt đi và khiến nắm tay của hắn nện xuống sà̀n nhà.
– Anh cứ việc ngồi đó xóa đi.

Bởi anh đã xóa bỏ lương tâm của mình rồi nên thá cái gì mà anh chẳng dám làm gì chứ? Đầu tiên là Tín, rất có thể người kế tiếp sẽ là anh.
Nhờ ơn phước của anh và đồng đảng mà biết bao nhiêu người chết rồi thấy không? Hễ ai vạch ra cái sai hay nghi ngờ khứa chủ của anh, anh lại kéo bầy đàn vô mạ lị một cách uổng phí tiền nuôi ăn nuôi học của mẹ cha.
Bây giờ là Tín, sau này sẽ tới lượt anh.
– Còn mày?
– Mấy người muốn khử tôi lúc nào mà chẳng được.

Nhưng đừng đem cái chết ra hù một thằng đã mấy lần tự sát và tự hoại bản thân như tôi.

Tôi từ cõi Chết trở về đây nên cái chết và đòn thù chẳng còn nghĩa lý gì với tôi đâu.

– Tao không muốn nghe mày nói chuyện đạo lý như phim kiếm hiệp…
– Tôi cũng không muốn nghe anh ăn nói mất dạy như mớ phim hài “đen” rẻ tiền kiểu Mỹ.
– Có chuyện gì mà đùng đùng vậy?
Chàng bác sĩ Long Xuyên vội vàng chạy vô tách hai người ra, rồi lớn tiếng chửi luôn cả hai.

Sợ cảnh sát sẽ tới, Tuế hốt hoảng ôm cái Laptop chạy biến.
– Anh đưa mặt đây cho tôi xức thuốc…
– Cảm ơn anh.

Người trai Long Xuyên đó tuy không hiểu nội tình nhưng lờ mờ đoán được Tín là nguyên nhân chánh.

Vì nhận lãnh chuyện chăm sóc Tín mà anh đã bị rất nhiều người lạ gọi điện tới dọa giết cả nhà.

“Cạch.”
– Tỉnh rồi hả? Trời ơi mày còn ngồi đó hả Tuyết, lại đây xách phụ tao cái coi? Í trời, đánh lộn hả?
Tiếng la thất thanh của Ba Hói đã làm Tín giựt mình tỉnh dậy.

Anh ngơ ngác dụi mắt nhìn chung quanh, rồi tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên khi thấy những vết bầm trên gương mặt ký giả Sương Tuyết.
– Rồi, em nghe rồi…!Không báo trước, giờ bày đặt la người ta.
Anh Ba Hói đi cùng với Lạc Tương Giang và ông chủ biên bụng phệ, theo sau là bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công”.

Lạc Tương Giang lên tiếng trước:
– Tôi cần cậu cho tôi nghe lại đoạn băng ghi âm của nhạc sĩ Thương Hận.

Tín đưa USB chứa nội dung minh oan cho Thương Hận cho mọi người nghe.

Anh ngụy trang nó dưới hình thức mề đay của sợi dây chuyền đeo nơi cổ.

Quả đúng như dự đoán của Lạc Tương Giang, toàn bộ cuộc đối thoại cho thấy Thương Hận không hề nói rằng sẽ viết một bản nhạc nào dựa trên vụ án của Lê Hoài Sang, anh ta chỉ nói sẽ xem xét ý kiến của Tín.

Vì chỉ có nửa khúc của cuộc hội thoại nên nghe như Thương Hận đã đồng ý, nhưng có thêm khúc sau vô thì ý nghĩa hoàn toàn khác.
– Hung thủ ra tay với khứa đó là ai mà phải tốn công đi vùi dập một người nhạc sĩ kém nổi danh như Thương Hận vậy chứ?
Câu hỏi trên là của ông chủ biên.

Lạc Tương Giang gật đầu:
– Phải, cậu ta không xứng đáng để được đem ra làm chiêu trò đánh lạc hướng dư luận.

Người thu hút hơn cậu ta là tay nhạc sĩ “đạo Hàn” đang cặp với vợ người ta kia kìa…
– Vợ nhỏ của khứa đó sao rồi?
– Bỏ về quê sống rồi.

Lạc Tương Giang cất giọng xin phép sao lưu một bản, Tín đồng ý ngay tắp lự.

Trong lúc chờ dữ liệu truyền qua, Xương Tuyết cười hỏi:
– Cậu có nghe bài hát “Những bước đường tương lai” chưa?
– Có.

Nhưng…!anh hát thử cho tôi một đoạn nhỏ đi…
“Những bước đường tương lai dài đằng đằng như mây trên trời.

Xếp thành khối, họa thành hình, vẽ nên con người mình.

Mình chung một mối tình: Tình Quê Hương, tình Dân Tộc, tình hồn thiêng sông núi Nước Nam
Dù mai sao, kẻ tham tàn, biến nơi đây thành chốn điêu tàn
Mình vẫn bám trụ nơi này để gầy dựng lại non sông…”
Tín biết ai sáng tác bài hát đó không?
– Là nhạc sĩ…
– Coi như là một câu đố tôi dành cho cậu, ráng tìm hiểu coi ai sáng tác nghen?
– Tôi sẽ ráng…
Nghe tới tên bài hát, Lạc Tương Giang và ông chủ biên tủm tỉm cười.
– Nơi mà tôi nghe là địa chỉ trang mạng do bạn tôi tạo lập, chứ không phải là những trang mạng nổi tiếng đâu.

Ở đó phẩm chất âm thanh vừa hay nội dung lại phong phú và không bị quảng cáo làm phiền.

Cho nên tôi mới biết nhiều bài nhạc quý hiếm ít khi đăng trên mạng.
Tín nêu một vài cái tên quen thuộc, nhưng không có cái nào nhận được sự gật đầu xác nhận của gã điên.

Gã nói:
– Không, người này cài đặt trạng thái “Riêng tư” và chỉ những ai là bạn bè thân thiết mới được vào nghe.

Vì không có ý đồ kinh doanh nên người này không để quảng cáo.

Thí dụ như là bài “Người em nhỏ” do nhạc sĩ Nguyễn Hiền phổ từ thơ thi sĩ Thiệu Giang, người hát là ca sĩ Duy Trác; nằm trong băng nhạc “Phạm Mạnh Cương 4 – Nhạc và Thơ”.

Anh có từng nghe qua chưa?
– Hình như chưa…
Rồi Tín hỏi:
– Nhưng, anh không thể cho tôi biết tên trang mạng của bạn anh sao?
– Không, chỉ có bạn chí thân, người này mới cho vô.

Tôi không thể thất hứa với người bạn này được.
– À…
Ba Hói vừa soạn đồ uống vừa hỏi:
– Uống cái gì không Tuyết?
– Trà bí đao.
Thường Khán Bình hỏi:
– Anh ca tiếp đoạn cuối của bài hát đó được không?
– “Thương dòng sông, thương con nước cũng như phận mình.

Lênh đênh mãi chẳng trôi về đâu.

Ôi những bước đường tương lai dài đằng đẵng như mây trên trời, xa xôi tận…!cuối…!trời…”
– Chắc bác Duy Khánh có ca bài này.

Anh lên muốn khản tiếng mà còn hát không xong thì chắc chỉ có “Tứ trụ Nhạc Vàng” mới trị được.
– Thì ngon kiếm đi.

Anh mà biết ai sáng tác bản này anh chết đứng như Từ Hải liền.
Nói xong, Xương Tuyết xin phép cáo từ mọi người.

Anh muốn lên núi ngồi làm việc cho yên bình.

Không quên hứa sẽ bao cho Khán Bình một chầu cà-phê ở quán “Sóng Nhạc” nếu tìm ra được chủ nhân của ca khúc.
“Cạch.”
– Ê Hoàng, mày ghiền nghe nhạc, mày biết bài này tên gì hôn?
Đức Hoàng cười tủm tỉm:
– Biết.

“Những bước đường tương lai”.
– Ai sáng tác vậy? Ảnh hát ẹ quá nên tao không nghe ra giai điệu, nhưng nếu thay ảnh bằng Duy Khánh hay Nhật Trường là số dzách a rứa.
– Có giỏi thì kiếm đi mày.

Suốt ngày đè tao ra mà hỏi.
– Gì kỳ cục vậy? Tao hỏi tên cha tác giả mà hết mày với ảnh làm khó dữ dằn rứa?
Tống Ngạn cau mày:
– Phải a.

Nó hỏi thì mày trả lời đi.

– Không, tìm hiểu đi, vui lắm đó…
Rồi Đức Hoàng nghêu ngao hát:
– “Ôi những bước đường tương lai, xa xôi mịt mù như ngày cuối Đông.

Vòng, vòng, vòng, vòng…”
Vì Tín đột nhiên phát đau đầu dữ dội nên cuộc gặp mặt bị gián đoạn.

Chàng bác sĩ Long Xuyên bấm chuông đầu giường để gọi bạn bè đồng nghiệp tới hỗ trợ.
Trong lúc để mặc bác sĩ và y tá thăm khám, Tín nhớ lại câu nói của người mẹ hiền:
“Con không cần mang tiền về cho mẹ, chỉ cần nhớ sống sao cho giống con người thôi con.

Cái đồng hồ Rolex này quý thiệt….!Nhưng mẹ không nhận đâu…”
Kể từ ngày biết anh làm cái nghề này, tuy không nói ra nhưng mẹ buồn lắm.

Bà ngày nào cũng đi chùa cầu phước và siêng bố thí cho thiên hạ, chỉ bởi niềm tin có thể hồi hướng công đức cho anh.

Nghe Đức Hoàng kể, sau khi hay tin anh lâm nạn, bà đã xuống tóc, ăn chay niệm Phật để xin Mẹ Quan Âm cứu mạng con trai bà.

“…!Mẹ dạy cho con tiếng nói Quê Hương
Mẹ nhìn con đi phút giây bàng hoàng…”
Lời ca trong bài “Ca dao Mẹ” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mà anh đã từng nghe qua giọng hát vượt thời gian của cô Thái Thanh cứ thế tái hiện trong tâm trí anh.
– Đau lắm sao mà anh khóc vậy? – Chàng bác sĩ quen thân vừa hỏi vừa lau nước mắt.
Tín òa khóc nức nở:
– Đau lắm…!Đau dữ lắm…

Én đã về mừng Xuân.

Cây mai trước sân và sau nhà cũng đã đâm chồi – nảy lộc.

Mà má con mợ Hai vẫn chưa trang hoàng nhà cửa đón Tết vì bận lu bu dưới Hậu Giang.

Theo như ý của mợ Hai thì mợ muốn Tết này mần đám dưới quê, nên trên này sẽ để nguyên hiện như ngày thường.

Chiều theo ý má, Trần Kim Thương chỉ mướn người quét dọn nhà cửa và lau chùi lư hương, chân đèn và lục bình.

Đã lâu mới có một bữa tối rảnh rang nên mợ Hai vô bếp chiêu đãi thật nhiều món ngon mới học được cho con trai trưởng thưởng thức.

Vừa làm bà vừa coi phim tình cảm Thái Lan; cốt truyện dở ẹt và ba xàm nhưng được cái mấy cậu diễn viên thật đẹp trai.

– Má.
– Chi con?
– Đang làm tôm kho tàu theo cách cổ chỉ hả?
Vẫn mần tôm, bà đáp:
– Ừm…!Thường ngày mình ăn tôm kho sả – ớt, tôm ram mặn, tép chấy đường, tép rim dừa, rồi kho hủn hỉn.

Bữa nay đổi sang món này cho lạ miệng.
– Má…
Mợ Hai ngước mặt lên nhìn thằng con trai trưởng.

Bà đoán được sắp có chuyện không lành sẽ xảy ra với mình.
– Ra đường cẩn thận đó…
Mợ Hai thở dài thườn thượt:
– Bởi má nói hoài mà bây hổng nghe.

Mấy cha Lương Sơn Bạc có sống ở thời này cũng bị đám bồi bút dập chết thôi.

Huống hồ chi là bây, một tay anh chị cỏn con ở cái đất Gia Định này.
– Má giận con hôn?
Mợ Hai phồng miệng mà nói, “Hông.”
– Vậy là giận rồi đó…
– Thôi ông đi chơi ở đâu đi, rồi chừng nào tui nấu xong tui kêu dìa, đừng có đứng ở đây đía nữa, tui quạu là tui cho diễn tuồng cải lương “Chén cơm chan nước mắt” bây giờ…
– Vậy con đi nghen má?
Tiếng ca Ngọc Lan trong bài “Cơn mê dài” vang lên nơi góc phố quạnh hiu; nhạc sĩ Mạnh Toàn đặt lời Việt từ tình khúc “Sayonara no Banka”.

Chú vừa cài nón bảo hộ vừa lắng tai nghe bản nhạc, rồi chợt ngẫm ra nơi mình muốn ghé.

Trước khi nổ máy xe, chú quay đầu ngó vô trong nhà, mong rằng Trời Phật phù hộ cho má ở nhà bình an vô sự.
Ngang qua chợ Bến Thành, chú ghé mua cho má một ký bụp dừa nước.

Thím Năm hỏi han chú đôi câu về mợ Hai, chú trả lời qua loa cho xong chuyện.

Chú chẳng còn tâm trạng nào để nói hết.
Chú lần bước tới nơi ở mới của người bạn gái cũ.

Chú tưởng người ta thương chú, ai ngờ đâu không phải vậy.

Trăng đã lên cao mà người ta chưa tắt đèn đi ngủ.

Cửa sổ sao không đóng, để gió bấc thổi tấm màn vải trơn màu xanh cốm bay lên bay xuống.

Chú nào hay người ta đã thấy chú nhìn trộm người ta.

Cô cũng lén nhìn lại người giống mối tình đầu như lột.

Ừ thì song sinh cùng trứng mà, y hệt nhau là chuyện đương nhiên.

Có trách là cô trách bản thân mình kìa vì không phân biệt nổi giữa hai người.

Hai tâm hồn khác nhau hoàn toàn; ấy vậy mà chỉ bởi chấp vô hình tướng, cô đã nhận lầm.
Tiếng nhung mềm của Sĩ Phú trong bài “Biển vắng” của nhạc sĩ Tùng Giang vọng đến tai chú khi người khách bước ra từ cửa hàng tiện lợi.

Chú sực nhớ ra người mẹ hiền đang đơn côi trong gian bếp đầy mùi dầu mỡ, nên hấp tấp quành xe về nhà.


Cô cũng đóng cửa sổ, rồi kéo màn lại.
oOo
Tiếng hát Anh Khoa trong bản “Ngày Tân Hôn” vang lên thật trầm ấm; nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ bài hát “Oui, devant Dieu” của nhạc sĩ người Pháp Mauric Tézé, bản gốc của hai ca khúc trên có xuất từ Ý và mang tên “La Novia” do nhạc sĩ Joaquín Prieto sáng tác.

Phần trình diễn của người ca sĩ Phan Thiết nằm trong băng nhạc “Phạm Mạnh Cương 9 – Hương Xa”.
“Em bên mình anh
Lặng im dưới bàn thờ
Và quanh chúng ta là vui sướng chan hòa
Tình duyên nhỏ bé thành đôi ước mơ già
Bao nhiêu tóc tơ giờ đây đã kết se
Về nơi tổ ấm nhờ ơn đức cao vời
Ơn Mẹ Maria…”
Người chủ trì hôn lễ bữa nay là Linh mục Ignacio Huỳnh Đức Cường.

Bởi vì khuôn mặt của hai người kia không phù hợp với ngày trọng đại này lắm.
Cô dâu – Chú rể đều là dân Đạo gốc nên đôi đàng đều nhẹ gánh về mặt giáo lý và thủ tục, giờ chỉ còn mỗi cái gánh tiền nong.

Sau giờ hành Lễ, quan khách, đàng trai – đàng gái cùng cô dâu – chú rể ra ngoài hội trường dựng ở Rừng Mai.

Đó là một bờ đất còn hàng chục cây mai rừng đại thụ, mỗi dịp Xuân về các nhiếp ảnh gia và đoàn làm phim lại tới đây mượn bối cảnh.
Một cô gái trẻ mặc đầm hồng như màu bông sứ bước lên biểu diễn bài “Đám cưới trên đường quê” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ theo tông giọng của Sơn Ca.

Vừa hát, cô vừa liếc người chơi đàn sắc lẻm.

Ai nấy đều ôm bụng cười khi thấy cô nghiến răng nghiến lợi la:
“Anh, anh ơi, người tình tôi ơi
Anh, anh ơi, xem người ta họ cưới nhau rồi
Anh, anh ơi, người tình tôi ơi
Anh, anh ơi, chuyện chúng mình đã tính sao chưa?”
Khi bản nhạc vừa chấm dứt, chàng nhạc công chắp tay xá bà ghệ ba cái.

Anh nghèo kiết xác, chạy từng cái đám cưới để kiếm tiền ăn, đào đâu ra “money” để lo cho cô chớ.
Để góp vui cho “lâu thật lâu mới thấy được một ngày vui”, cha của cô dâu bật bài “Hằng Nga lấy chồng” do Hùng Cường ca, một sáng tác của nhạc sĩ Viễn Dzu, để khuấy động bầu không khí đang rụt rè giữa hai đàng.
Kế là bản “Đám cưới nhà binh” của nhóm nhạc sĩ Lê Minh Bằng, trong bài này ba bác ký tên là Minh Kỳ – Vũ Chương, cũng do Hùng Cường ca.
Trong lúc mọi người đang ăn uống và nhảy nhót rất sung và vui vẻ, Mỹ chợt nhận được điện thoại nên ra ngoài nghe, rồi băng qua ba bờ đất để gặp chủ nhân của cuộc gọi.
– Vũ nó có đây không anh Mỹ?
– Vũ đã đi rồi.
Thằng Vũ mà ảnh làm như ca sĩ Thanh Thúy trong bài “Thúy đã đi rồi” của nhạc sĩ Y Vân!
Manuel Ngô vắt cái áo vest trên vai phải và giữ nó bằng bàn tay cùng chiều.

Chiếc áo Clergyman hơi rộng so với lúc trước vì y đã sụt xuống mấy ký sau hàng chục lần lên đồn làm việc với cảnh sát.

Không nhờ cái thắt lưng mượn của anh Ba, ắt hẳn y sẽ phải chịu cảnh vừa đi đường vừa kéo quần.
Tiếng hát của song ca Thanh Phong – Trúc Ly trong bài “Mình nhớ nhau không?” của nhạc sĩ Anh Việt Thu đã làm người Mục sư đã qua hàng ba bâng khuâng.

Đời người có bao lâu, dám chừng tới khi già những khuôn mặt còn nhớ dễ dầu được hết hai bàn tay.

Nhưng hận thù đời nào buông xuôi được.
Lần theo con đường có hàng cây trứng cá, y tìm được nơi phi tang xác chết.

Cái mương độn đó hãy còn chăng dây vàng; một vài bó hoa và nến thơm được đặt ở đấy để an ủi vong linh người xấu số.

Tiếng hát của đôi “Yêu nhau một thuở” Duy Quang – Julie Quang trong “Liên khúc: Ngậm ngùi – Mộ khúc” vọng từ phía bên kia đường tới tai y; bài đầu nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của Huy Cận, còn bài sau của Xuân Diệu.

Run rủi sao, y phát hiện một manh mối ở dưới đáy mương.

Sợ rằng bị vu khống là tòng phạm nên y bèn gọi cho pháp y Cảnh.

– Anh.
– Dạ?
– Sao chưa ra xe hỉ?
– Dạ, em đang chờ bạn em.
Năm Tường vừa cùng em trai trở về từ một đám tang của một người Cơ Đốc Nhân.

Anh tính ghé qua cô nhi viện mà thết đãi các em nhỏ và quý nữ tu một bữa cao lầu và chè Huế, mà cù cưa nãy giờ chắc không kịp quá.

– Anh đi trước đi.

Chừng nào về, em gọi.
– Vậy đi.
– Cho em gởi cái áo vest.
Đứng đợi hơn một tiếng mấy, pháp y Cảnh mới có mặt.

– Xin lỗi nghen.

Kẹt xe quá…
Vừa lấy khăn mùi soa ra lau mặt, Mười Anh vừa nói, “Không sao.”
– Ở đâu?
– Dưới lớp lá mục.
– Anh kiếm quán nào ngồi uống cà-phê xíu đi.

Dang nắng hoài oải lắm.
– Dạ.

Vậy có chi cần, anh kêu nghen?
– Đi đi.
Đợi cho Mười Anh đi rồi, pháp y Cảnh mới bước xuống kiểm tra.

Anh hy vọng sẽ không có ADN của Sáu Quới, tòng phạm bất đắc dĩ của chúng.

Sau một hồi bới đống lá mục ẩm ướt, hôi hám, anh đã tìm thấy một sợi dây chuyền Thánh Giá lốm đốm vết đen trên thân cây Thập Tự.

Trong Giáo xứ toàn là người có Đạo, biết ai là chủ nhân của nó đây?
– Ê.

Một người đàn ông vác một buồng chuối thơm phức bước lại gần nhìn anh lom lom.
– Chỗ này cấm xuống cha.
– Tôi bị rớt sợi dây chuyền Thánh Giá, nên phải lội xuống lấy.
– Cái cổ anh đang đeo cái gì?
– Cái này máng ở trên xe hơi của tôi.
– Xe anh đâu?
– Đem đi rửa rồi.
– Rửa ở đâu?
– Hia đang hỏi cung tui đó hả? Hia lấy tư cách gì hia thẩm tra tui?
– Vậy bậu có tư cách gì mà xuống đây lục xét hiện trường vụ án? Bậu nói cho qua nghe coi có thủng màng nhĩ qua không?
– Tôi nhờ ảnh đem xe hơi của tôi đi rửa có được không?
– Vậy tại sao hồi nãy khứa này nói là xe của chả?
– Chả ưa nổ để lấy le với gái.

Chả chuyên môn mượn xe của tôi sao tôi không biết được.

Chả làm rớt đồ của tôi thì phải quýnh lên chớ.
– Xe anh đâu?
Tám Khiêm chỉ vô chiếc xe hơi Ford – Mustang của mình đang đậu dưới gốc cây trứng cá cách đó một trăm mét.

Rồi leo lên xe đề máy thử cho Cưỡng coi.
– Vừa lòng chưa?
– Rồi.
Dứt lời, Cưỡng quày quả xách buồng chuối đi băng qua cây cầu xi-măng nằm ở bờ đất thứ hai một hơi.
Mười Anh nhắn tin, “Anh để xe máy cho tôi chạy về.

Còn anh, anh đi xe của anh Tám cho thằng cha nhiều chuyện đó khỏi nghi.”
Trần Cảnh Chiêu giả bộ ngồi thụp xuống bụi cây, coi ngó sợi dây chuyền Thánh Giá một hồi, rồi bất thình lình la lên:
– Có ai rớt chìa khóa xe gắn máy nè Tám!
– Của người ta thì để đó cho người ta.

Mày cầm cầm một hồi nó tưởng mày lấy nó đánh cho phù mỏ bây giờ.

Ghệ mày nhắn tin hối mà mày cứ làm cà rề, cà rề hoài.
– Để tao coi xe nào mới yên tâm đi được.
Rồi anh đi vòng vòng kiểm tra.

Cù cưa thêm mười phút nữa mới tiến lại xe mình mà tra chìa khóa vô.
– A, đúng chiếc này rồi.

– Rồi, về lẹ đi, tao còn mắc đi công chuyện nữa.

– Sao mày biết ghệ tao nhắn tin?
– Nhìn cái mặt lo lắng của mày là tao biết nhỏ kia đang hối rồi.

Tao là bạn mày mà, sao không rành sáu câu cho được.
Chiếc xe lăn bánh được đâu vài phút, pháp y Cảnh nhìn bác sĩ Khiêm mà cười nói:
– Xưa giờ, cái miệng của tôi không ai đấu lại, mà bây giờ…
– Tôi cũng vậy.

– Theo anh thì sợi dây chuyền này của ai?
– Hệt như vô chùa mà hỏi ai xài lược vậy, sao biết của ai chớ.
Có lẽ Trần Cảnh Chiêu sẽ đi hỏi Sáu Quới.

Anh ta là nhân chứng duy nhất trong vụ phi tang xác này.
oOo
Trời vừa tờ mờ sáng, đã thấy Xương Tuyết và Đức Hoàng tới nhà thương thăm Tín.
– Anh Tuyết có nấu cháo gà cho mày ăn nè con…
Tín khụt khịt mũi mà hỏi:
– Sao hai người không trách tôi? Mấy tòa soạn kia đều hè nhau viết bài thóa mạ hết.

– Chẳng phải quân tử chi sất, chỉ là tụi tôi làm không được, vậy thôi.
Ba thằng chiến hữu của hắn và nhạc sĩ Thương Hận lót tót vô sau, mang theo “hỷ tín” cho mọi người.

Người “phất cờ tang” là Khán Bình:
– Thương Hận bị cướp bản quyền…!Bài “Đời cọng rơm” là của ảnh mà chúng dám đi đăng ký là của mình…
Đức Hoàng tức mình:
– Vậy thì càng chứng tỏ cho dư luận thấy chúng sai mười mươi nên phải đòi dẹp cho bằng được bài hát này.
Chí Công phụ họa:
– Có mỗi bài hát mà cũng sợ…!Thiệt là nực cười…
Tống Ngạn hỏi:
– Anh tính sao hả anh Tư?
– Thì cứ coi như là cúng cô hồn thôi.

Tôi cũng đã nhờ luật sư đi đăng ký cho các tác phẩm khác của mình, kể cả những bài hát chưa phát hành nữa.
Xương Tuyết vẫn cắm cúi múc cháo vào hũ nhựa cho những người mới đến.

Anh có bỏ thêm bộ đồ lòng và trứng gà non, ăn kèm với gỏi ngó sen chua ngọt.
– Cũng cảm ơn anh nghen anh Tuyết…
– Sao?
– Nhờ anh mà tôi mới biết trên đời này có nhiều người hèn tới vậy.

– Có nhiều kẻ chẳng sáng tác nổi một bài hát nhưng lại đăng ký bản quyền là của mình.

Thương Hận cười buồn can ngăn:
– Thôi đừng có tức nữa Hoàng…!
Chàng bác sĩ Long Xuyên bất ngờ vô thăm Tín nên cũng có lộc ăn.

Bữa nay anh ta trực đêm, nhưng vì có khúc mắc với Tín nên xẹt qua ngó cái.
– À, Tuyết này.
– Hửm? – Tuyết trả lời Thương Hận trong khi đang khuấy cháo với bột ớt và tiêu.
– Có thể cho tôi vô nhóm chia sẻ âm nhạc do người bạn của anh làm chủ biên không?
– Tôi nghĩ người này sẽ đồng ý, nhưng để hỏi cái đã.
oOo
– Bữa nay tôi gặp một chuyện hết sức nực cười, rằng: Một người một nốt nhạc bẻ đôi cũng không biết mà lại tự nhận mình là chủ sở hữu của một bài hát do một chàng nhạc sĩ Đồng Tháp sáng tác.
Toàn bộ khán phòng của chương trình “Đối thoại với tổng thống” xôn xao như vỡ chợ.

Bởi vì tổng thống đang nhắc tới một người nhạc sĩ chẳng mấy nổi danh trong Nước.
Xướng ngôn viên chỉnh lại cái nơ trên cà-vạt, rồi cười gượng hỏi:
– Dạ, biết đâu ông ấy nhờ anh ta sáng tác thì sao?
– Vậy thì hợp đồng đâu? Nếu như anh là người minh bạch, anh nên tới thông báo rõ ràng cho người nhạc sĩ đó hay rằng anh muốn được là chủ sở hữu duy nhất trên giấy tờ của nhạc phẩm, rồi phải đợi người nhạc sĩ đó gật đầu chấp thuận và đền bồi một khoản nhuận bút cho người ấy, xong đâu vô đó mới thực hiện công việc đăng ký bản quyền; chứ không phải là lén lén lút lút như đầu trộm đuôi cướp.
– Dạ…
– Cướp công lý chưa đủ giờ muốn cướp “con” của người ta luôn.

– Dạ?
Nữ xướng ngôn viên đặt hai tay lên mặt váy mà rướn người lên hỏi:
– Tổng thống vừa nói gì?
– Tôi nói, chắc sao này người ta mửa thì khứa đó cũng đăng ký bản quyền tiếng mửa của người ta luôn, chỉ vì người ta sống không lòng vừa lòng khứa đó.

Nhìn sắc mặt khó coi của dàn cố vấn, chú vẫn điềm nhiên như không.

Dẫu sao thì chú cũng sắp bị truất phế rồi, thêm cú này nữa cũng chẳng sao đâu.

oOo
Giá cổ phiếu của công ty mà con cái Lê Hoài Sang bỏ vốn xây dựng lao dốc không phanh.

Bởi người ta nương theo câu nói của tổng thống Khánh mà cho rằng, “Cướp được một bản nhạc của người ta một cách trơ trẽn như vậy thì chuyện lũ đó lừa đảo cướp tiền của họ sẽ là điều quá sức hiển nhiên.”
Buộc lòng gia đình con cái của Lê Hoài Sang phải đứng ra tổ chức buổi họp báo công khai và đích thân xin lỗi Thương Hận, cũng như trao trả lại bản quyền nhạc phẩm của anh ta, chưa kể tới là còn phải bồi thường một khoản tiền rất lớn vì đã xâm phạm tài sản thuộc diện sở hữu trí tuệ của chàng nhạc sĩ miền Đồng Tháp Mười.
Thắng lợi này do tổng thống Khánh làm ra, ơn nghĩa ấy không biết tới đời – kiếp nào Thương Hận mới trả nổi.

oOo
Hác Đăng Khánh viếng thăm ngôi chùa mà má chú đã dẫn chú lên chơi hồi năm, sáu tuổi.

Kể từ ngày ba má chết, chú bị nhốt trong bốn bức tường cô nhi viện, sống đời “Phạm-Hạnh” bất đắc dĩ.

Tuy vậy, chú hãy còn giữ được lòng mộ Đạo Phật, chẳng hiểu sao nữa, ừ thì cho đó là cái Duyên đi.

Khung cảnh ngôi chùa giống hệt như bài hát “Vườn Thu” của nhạc sĩ Văn Thủy, mà chú đã từng nghe qua phần trình bày của tam ca Bạch Lan Hương – Bạch La – Thu Thảo; trong đó cô Bạch La là quý nữ của người đã hòa âm phối khí cho màn biểu diễn này, tức nhạc sĩ Hoàng Trọng.

Tự nhiên nghĩ tới cái tên Bạch La, chú bỗng nhớ về bài hát “Tiếng đàn tôi” do nhạc sĩ Phạm Duy sáng tác và cũng do cổ hát:
“Đời lạnh lùng trôi theo dòng nước mắt
Với bao tiếng tơ xót thương người
Vì cuộc tình đã chết một đêm nao
Lúc trăng hãy còn thơ ấu…”
Ở đây, cụ Duy đã khéo dùng chữ “thơ ấu” với mặt trăng, thay cho chữ “non” thông thường, nên câu ca nghe hết sức thi vị.
Ni trưởng là chị ruột của má chú.

Bà đã an trú dưới bóng Bồ Đề hơn năm mươi năm.

Một vài thí chủ tín tâm đã giúp bà mở một trại tế bần dành cho phái nữ khốn khó, bất hạnh và không nơi nương tựa.

Bà không muốn họ vì lòng cứu độ mà sống đời khó khăn nên đã khuyến khích các chị, em và cháu nhỏ ở đây trồng bông, rau củ – trái cây đem ra chợ bán hoặc nhận hàng về thêu thùa, kết mắt thú nhồi bông, giặt – sấy – phơi – ủi trang phục, sửa giày – dép, nấu cơm tháng, làm đồ ngọt bỏ mối,…!Thành thử ra, ai hễ siêng thì đều có tiền tiêu xài rủng rỉnh, không phải phụ thuộc vô Mạnh Thường Quân.
– Khánh hả con?
– Dạ, thưa dì.
Ni trưởng rước chú vô Chánh Điện để thắp nhang cho Phật Tổ.

Vừa đi chú vừa hỏi làm thế nào mà dì được xuất gia làm Tỳ-Kheo Ni, bởi vì Nguyên Thủy Phật Giáo thời này rất hạn chế cho nữ Quy Y, không phải là do kỳ thị, mà là không tìm được một vị Tỳ-Kheo đại đức để tới làm lễ Quy Y.

Nói cho rõ ràng hơn thì giới luật này do Đấng Thế Tôn đề ra, nếu như chú nhớ không lầm thì một người nữ muốn xuất gia thì phải tới làm lễ Quy Y với một Tăng sĩ nam đức hạnh và trì giới vẹn toàn; ở cái xứ này tìm được một người Tỳ-Kheo như vậy còn khó hơn hái sao trên trời.

– Theo phép tắc thì dì phải đảnh lễ một vị Tỳ-Kheo phạm – hạnh vuông tròn, nên dì đã lên Cô Tô Quy Y Trưởng lão Vô Sắc.

– À…!Vậy thì may quá…
– Cũng bởi sự xuất hiện của dì mà một Tỳ-Kheo đã mang tiếng nặng nề.

– Dạ?
– Chuyện là vầy: Người này lượm được một đứa trẻ ở ngoài bìa rừng nên đã mang về nuôi, tình cờ một năm trước dì có ghé qua đảnh Lễ và thắp nhang cho Thầy, nên người ta đồn đây là con trai của dì và huynh ấy.
Hác Đăng Khánh thở hắt ra một hơi.
– Người đó là đệ tử của huynh ấy: Tỳ-Kheo Phú Lâm.

Cũng tội nghiệp cho Châu Lợi và Trì Thương phải đảm nhận vai anh để lo cho cẩu.
– Dạ.
Sau khi thăm Đức Phật, Ni trưởng dẫn chú ra sân sau ngồi cho mát.

Sân sau có cây bồ đề rất lớn, nghe đâu chiết gốc từ cây bồ đề bên Ấn Độ về, tuổi đời đã ngoài hàng trăm.

Dưới gốc cây đặt bộ bàn đá đủ chỗ cho mười hai người ngồi; dù là con cháu trong nhà, nhưng chú và dì ruột vẫn ngồi cách nhau một khoảng khá xa.
– Tịnh thất đó ở đâu thưa dì?
– Phải đi qua một cái hang động có dây bìm bìm kết thành rèm.

Trong cái hang động đó lại có nhiều ngách nhỏ nên rất dễ bị lạc.
– Sao các vị ấy không tu gần gần để bảo vệ Chánh Pháp?
– Ma tăng thời nay đầy rẫy nên các vị ấy phải trốn lên núi ẩn tu nơi thâm sơn cùng cốc.

– Rồi họ lấy cái gì mà sống?
– Đi khất thực.

Ai cho gì ăn nấy.

Không ai cho thì luộc hay nướng khoai, sắn và củ mài mà ăn.

Nước thì hứng từ mưa.
– Tại sao những người tu hành thật phải chịu khổ nhường vậy hả dì?
– Họ nhọc thân, nhưng khỏe tâm.

Nội trong tối hôm đó, nhóm cận vệ tháp tùng chú lên Cô Tô tìm nhóm Tăng sĩ Theravada có mối giao hảo với người dì ruột.
Ngồi một mình trong xe buồn chán, chú bất giác hát mấy câu trong bài “Đường xa ướt mưa” của nhạc sĩ Đức Huy, mà chú đã từng nghe qua giọng ca của chính tác giả, Sĩ Phú và Elvis Phương.
– Công nhận tổng thống ca hay ghê…!Cô nào nghe xong chắc thương liền…
Chú nhìn người cận vệ có đôi mắt một mí mà cười buồn, nói:
– Không đâu cậu ơi…!Cổ nghe xong còn nói tôi là “Đồ con nít quỷ”.
“…!Vì đường xa ướt mưa
Đừng bắt anh đưa em về
Anh xin em đừng về, quá xa xôi…
Xin mưa triền miên mãi không lắng đọng
Cho đôi tình nhân đuối trong giấc mộng…”
Chú lại khe khẽ hát bài “Sao em vô tình” của nhạc sĩ Nguyễn Hữu Sáng.

Thật là lạ khi những nam ca sĩ trước 75 ít ai ca bài này, trong khi đây là một tình khúc tuyệt hay.

Tới tận lúc tối mịt, đoàn người mới về An Giang.

Không khí vẫn còn dụ dự ở lằn ranh Đông – Xuân nên trời khá lạnh.

Sao đêm giăng đầy thinh không trong vắt như đường trắng đổ xuống nền gạch đen.

Vài con vạc xoải cánh bay qua chỗ họ, để lại những tiếng kêu hời sầu thảm; phải chăng đó là nguồn cảm hứng để sáng tác bài “Tiếng vạc sầu đêm” của nhạc sĩ Mặc Thế Nhân?
Trong lúc chú và các cận vệ đang loay hoay tìm đường lên núi, từ đằng xa có một đôi Tăng sĩ nhấp nháy đèn pin làm tín hiệu.

Chú bèn cử hai người tới đó hỏi chuyện.
– Thưa tổng thống, đúng là họ rồi.

– Có gì làm bằng chứng không?
– Họ đưa bức hình này để xác nhận.
Tấm hình chụp buổi Quy Y của dì ruột chú.

Đằng sau còn đề tên thật và pháp danh của dì, cùng vị Trưởng lão đứng ra làm Lễ Xuất gia.

– Khỏe rồi các anh.

– Dạ!
Phá Vân mời người tài xế sang ghế phụ ngồi, rồi bình thản ngồi xuống ghế của anh ta.

Dù rất đỗi ngạc nhiên, nhưng chàng ta vẫn nhiệt tình hưởng ứng.

Còn người Tăng sĩ kia đẹp tới nỗi khiến chú phải sửng sốt.

Chú nhìn người thầy tu nhỏ hơn mình nhiều tuổi mà nói rằng:
– Gương mặt của Thầy gợi cho tôi nhớ tới một người?
– Ai?
– Thiền sư Ashin Sarana.
Lối đi bí mật nằm khuất trong một cánh rừng thốt nốt rộng lớn tưởng chừng vô tận.

Sau khi băng qua một khe nước cạn và một bờ đất cỏ cây um tùm, đoàn người thành đô đã tới được tịnh thất đó.

Lá cờ phướn đang bay phất phới vì cơn gió báo mưa lay chuyển.

Châu Lợi lượm một cái lá môn bị gió làm cho rời thân lên, rồi đưa nó cho Thủy Diệu.

Về phần mình, ông để đầu trần vì không tìm thấy cái lá nào khác.
Một người cận vệ đưa dù cho Châu Lợi và mời:
– Thầy, dù nè Thầy.
– Cảm ơn thí chủ, nhưng tôi không cần.

– Bịnh sao Thầy?
– Chẳng sao hết.
Đám cận vệ không biết đường xuống núi nên Phá Vân lại mạn phép chở xuống.

Đáng ra nên đi mua đồ ăn – thức uống trước rồi hẵng lên đây, nhưng sợ tổng thống xảy ra chuyện nên phải đi hai lần.

– Mèn đét ơi, Thầy tu kiểu gì mà Thầy lái xe đường núi còn giỏi hơn con nữa?
– Sadhu.

Phá Vân chở nguyên đoàn ghé khu chợ địa phương rồi thả họ ở đó.

Còn chú thì ngồi ở trong xe đợi.

Phú Lâm bị “nhốt” ở tịnh thất để tịnh khẩu, thành thử ra anh bạn thiết không thể đi cùng chú được.

Ngồi ở đây, chú nhớ tới một cảnh phim đã đóng ở Hoa Kỳ, về phân đoạn tay giang hồ tới con hẻm vắng để lấy “hàng”.
Còn ở trên này, Hác Đăng Khánh kể lại nỗi hàm oan của dì mình và Trưởng lão Như Phong.

Phú Lâm giờ mới hiểu nguyên nhân nào đã khiến bà con thuở trước tin rằng chú là con trai ruột của Thầy.
– Hóa ra vì tôi mà Trưởng lão bị oan.

Hoàng Kỳ đã khai ngộ nên ngậm ngùi trình bày:
– Hèn chi Thầy phải nhập diệt sớm.

Vì nếu ở đây, rất có thể Thầy sẽ không khống chế được cảm xúc mà khiến mình phá giới và hành xử như một ma tăng lỗ mãng.

Châu Lợi vừa dọn phòng cho chú vừa bình phẩm:
– Oan khiên có thể khiến người ta thành ma, cũng có thể biến người ta thành Phật.

– Trưởng lão không thể chống cự lại được sao?
Trì Thương kể:
– Ngay cả Chư Thiên cũng không thể chống lại Thiên Ma-Ba-Tuần.

Khi gặp chúng, họ bỏ chạy hết.

Bởi vì chúng có thể điều khiển tâm trí họ và làm cho họ khởi lên các Ác Niệm ở Thân – Khẩu – Ý, điều này sẽ làm họ rơi vô bể khổ và đọa lạc, tệ hại hơn là có thể phải rời khỏi Cõi Trời do tâm Bất Thiện gây ra.

“Nhất niệm thành ma, nhất niệm thành Phật” là vậy.

Hác Đăng Khánh ngẫm lại tình cảnh của mình.

Rồi cúi đầu thở dài thườn thượt.
Chẳng ai trong số các Tăng sĩ bày tỏ thái độ không hay với chú.

Ai nấy đều lo bày biện và sắp xếp phòng ốc cho đoàn người thành đô; không quên xông tinh dầu đuổi ruồi, muỗi.
– Các Thầy ngủ chung một phòng?
Châu Lợi đáp:
– Phải.

Do di chứng của một đợt sốt rét rừng nên Phú Lâm có vóc dáng nhỏ thó và hay đau bịnh liên miên.

Vùng Thất Sơn này ban đêm ngủ mà không giăng mùng hay xông tinh dầu chắc muỗi ăn không còn miếng xương.

Xong đâu vô đó, Châu Lợi từ tốn kể cho chú nghe về bí danh XYZ.

Nhờ có những tin tức đó, chú mới hiểu thế lực đó nham hiểm và tàn ác ra sao; chú đang bị phe mình tẩy chay, phe đối nghịch thì rình rập lật đổ, người trung kiên và thiện lương chẳng được mấy mống để đứng ra ủng hộ và giúp đỡ chú.

Buồn tình, chú lảng sang chuyện khác:
– Thủy Diệu đẹp thật, như một pho tượng thần Hy Lạp.
– Thủy Diệu là người Bắc Âu.

Nguyên quán cha mẹ ở Địa Trung Hải; nhưng cha ở Hy Lạp, còn mẹ là Ý Đại Lợi.
– Nhưng nói cụ thể là ở nước nào vậy Thầy?
– Vương quốc Anh.

Là nơi mà trước đây thí chủ tu học Luật Khoa.
Các cận vệ đã về tịnh thất.

Họ mua cho chú một hộp cơm tấm Long Xuyên đặc biệt, tung lò mò và trái thốt nốt.

Tăng đoàn lui ra ngoài rừng hành thiền trong lúc đoàn người thành đô ăn uống.

Lạ nước lạ cái nên chú không tài nào ngủ nổi.

Chú đành ra sau hè ngồi hóng mát, không quên mang theo chai thuốc xức ngừa muỗi.

Hương sứ trắng thoảng vương trong tiết trời lành lạnh và hơi gây ran rát mũi.

Bốn bề bị sương trắng phủ vây, kết quả của trận mưa phùn ban nãy.

Có mấy con chó hoang đánh hơi thấy mùi thức ăn thừa nên vẫy đuôi chạy tới xin; nhưng khi thấy mặt chú thì tụi nó cụp đuôi núp hết.

Châu Lợi lại gần trấn an chúng, chúng mới an tâm mà tới lấy thức ăn thừa.

– Kiếp trước?
Châu Lợi giải thích:
– Nửa đời trước của Thủy Diệu chìm trong trụy lạc, xa hoa và đổ đốn.

Nửa đời sau hiền đệ đã thức tỉnh và thay đổi thành một con người khác nên đệ coi như mình đã đầu thai sang kiếp khác.
– Thầy không ngủ sao?
– Tôi với Trì Thương không cần ngủ vẫn sống được.

Chỉ lo cho mấy người kia thôi.
– Áo cà-sa mặc sao hả Thầy?
– Trời nóng thì mặc hở một bên vai, còn trời lạnh thì che kín.

Nếu thấy mình đẹp trai quá thì mặc kín hết luôn, như Thủy Diệu vậy.
Hác Đăng Khánh phá lên cười, rồi nói:
– Vậy chắc tôi phải mặc như xác ướp.
– Sadhu.
Rồi chú nhắc tên một người thầy tu trong Nước.

Châu Lợi mỉm miệng cười và hỏi:
– Xá-lợi?
Người Tăng sĩ đó trả lời trong khi ngửng mặt nhìn lên vòm trời đầy mây mù:
– Phá giới gần hết, mê muội và tham đắm quyền lực chánh trị, hưởng thụ tài vật thế gian và dụ dỗ chúng sanh cúng dường sai lời Như Lai dạy mà cũng có xá-lợi để lại sao?
– Ý Niệm nào là điều khổ ải nhất vậy Thầy?
– Vướng mắc vào một mối tình là điều khổ ải nhất trên đời.
Người tổng thống đó che mặt để giấu đôi mắt nâu ướt rượt của mình:
– Tôi buông không được.
– Tôi buông rồi.

Cổ hiện là vợ của XYZ.

Xin phép thí chủ, tôi đi hành thiền đây.
– Dạ, Thầy đi mạnh giỏi.

Còn lại một mình Hác Đăng Khánh, chú thong thả rảo bước tản bộ.

Đêm nay mây mù, sao đâu chẳng thấy, chỉ thấy toàn những vệt màu xám khói, hư ảo.

Chiếc máy IPop đang phát bản nhạc “Bản tình cuối” do song ca Ngọc Lan – Duy Quang, một sáng tác của nhạc sĩ Ngô Thụy Miên.

Thình lình trời nổi sấm sét.

Nhân đó chú lựa một gốc cây đã chết khô gần đấy để tập bắn súng.

“Đoàng…”
Ba phát súng: Trật một phát, trúng được hai phát.

Vừa lượm những viên đạn, chú vừa nghĩ như vậy.
– Thí chủ cầm súng sai cách rồi.
Sáu viên đạn đều trúng một chỗ.

Chỉ trong vòng một lần nhắm bắn.
– Làm gián điệp có mệt không hả Diệu?
– Mệt.
Hai người cùng nhau lượm những viên đạn nằm trên mặt đất và nạp chúng vô khẩu súng lục.
– Thầy cho tôi thấy những thứ mà tôi cần thấy để thức tỉnh, nên tôi ở đây tu tập luôn.
Thủy Diệu vươn tay ra đón cánh hoa Sala tím biếc.

Một nụ cười thật đẹp tựa ánh trăng Rằm trên cao đang soi rọi nhân thế.
– Có một số người thấy Tăng sĩ lánh đường đi chỗ khác khi gặp phái nữ thì cho rằng làm màu và tâm không vững, tôi chẳng hiểu có gì đáng đùa cợt ở đây mà những người đó lại đem ra nói?
– Tức là sao hả Diệu?
– Tăng sĩ phải đi từng bước một, đầu hơi cúi, mắt nhìn xuống, hai tay chắp trước bụng.

Khi gặp phái nữ, đầu còn phải cúi xuống thấp hơn nữa và mắt không được nhìn lên.
Rồi Thủy Diệu trình bày quan điểm về con đường tu hành của mình cho tổng thống Khánh nghe:
– Thực ra con đường mà Đức Phật Tổ chỉ nó đã xuất hiện ở một số tôn giáo ở xứ Ấn Độ cổ.

Ngài cũng đã từng theo học rất nhiều thầy tu của các giáo phái đó, và đã đạt được một số thành tựu nhất định.

Nhưng càng tiến sâu hơn, Ngài nhận thấy một thực trạng đáng buồn rằng nếu mình thực hành như vậy thì chỉ có mỗi mình mình đạt được cứu cánh và quả vị, còn thế gian này thì không, cho nên Ngài quyết định rời khỏi đó và thẳng tiến vào rừng sâu để tìm con đường Giác Ngộ cho chúng sanh trong toàn cõi.
– “Rời khỏi đó” là rời khỏi đâu hả Diệu?
– Tôi tưởng anh theo Đạo thì phải biết chứ? Tức là vầy: Ngài đạt được một quả vị nhất định theo cách gọi của giáo phái đó, và người thầy của Ngài muốn Ngài ở lại đặng giúp ông ta gầy dựng và phát triển giáo phái đó.

Nhưng Ngài nhận ra thật là ích kỷ khi tu hành như vậy, bởi lẽ đem cái chứng đắc ra làm cái lòe mắt chúng sanh để thu về sự cung phụng và sùng tín, trong khi không giúp ích gì cho thế gian.

Nên Ngài tạ từ người thầy mà đi, mà Ngài đi thì năm người kia cũng đi theo.

Năm người kia là ai? Là quan lại và tùy tùng ở hoàng cung của vua cha Ngài, Sau khi Ngài bỏ trốn đi tu, vua Tịnh Phạn mới sai năm người cận thần thân tín đi học Đạo chung với Ngài để lỡ Ngài xảy ra chuyện gì thì báo liền cho vua biết.

Bởi vì có căn Duyên tiền kiếp nên năm người đó nhập Đạo rất nhanh, chẳng mấy chốc mà họ khai ngộ và xuất gia luôn, và họ coi Ngài như một người bạn đồng tu chứ không còn là thái tử Tất-Đạt-Đa Cồ-Đàm nữa.

Thành thử ra, họ rất tức giận khi thấy Ngài không chịu tuyệt thực cầu Đạo nữa mà chuyển sang đi khất thực tầm Đạo.

Họ nghĩ Ngài đã bỏ cuộc nên thất vọng bỏ đi chỗ khác và tiếp tục phương pháp hành xác tu hành như lời hướng dẫn của một ông thầy trong một giáo phái cổ.

Hai người lạc bước tới một bãi đất rộng mênh mông tràn đầy tiếng dế kêu và đom đóm.

Cỏ dại chỉ cao hơn mắt cá chân một chút nên rất dễ đi lại.
– Nhiều lúc muốn nói nhiều về Pháp Phật mà lại thôi…
– Tại sao?
– Bởi vì nói một hồi rất dễ khiến anh hứng chí rồi bị vạ miệng lúc nào không hay.

Chưa kể tới là nạn diễn giải kinh điển, tạng luật theo cái Ngã Mạn của anh nữa.

Do đó, huynh trưởng thường khuyên tụi tôi chỉ kể truyện Phật Pháp và hạn chế đưa nhận xét cá nhân vô.
– À…!Điều hành một đất nước cũng vậy thôi.

Có nhiều khi anh kể một câu chuyện vui và không có ý châm biếm, đả kích ai, nhưng vô đầu người khác thì họ lại phân tích theo nghĩa khác.

Tôi đứng ở một cương vị mà nói ra một lời là chiêu mộ thêm trăm kẻ thù và người bài xích.
– Miễn sao lời thí chủ thốt ra không trái với lương tâm và làm tổn hại tới quê hương và dân tộc thí chủ mà thôi.

– Còn về thọ thực thì sao?
– Tụi tôi chỉ được phép từ chối ăn mặn khi biết con vật đó vì mình mà chết, gián tiếp vì mình mà bị giết và nghi ngờ con vật đó bị bắt làm thịt vì mình.

Ngoài ra, tụi tôi không nên khước từ người cúng dường.

Đề-Bà-Đạt-Đa vì muốn tỏ ra nhân từ và giữ giới cao hơn Phật Tổ nên đã bắt buộc những ai đi theo ổng phải trường chay một cách khắt khe.

Cũng có nhiều khi tôi thấy mình vô duyên.

Người ta đi làm quần quật cả tháng trời, mới nấu được bữa cơm thịnh soạn.

Tôi không muốn ăn mặn nên mới khuyên người ta múc cơm không thôi.

Người ta thấy cúng dường toàn cơm không thì trong bụng không yên nên sai con đi mua dĩa thức ăn chay.

Rồi tự nhiên tôi khiến người ta tốn tiền vô cớ vì mình.

Sau lần đó, ai cho gì ăn nấy, tôi hết dám mở miệng ngỏ lời điều chi.

– Các anh có kiêng cử món gì không?
– Thịt chó, thịt mèo, thịt chuột và thịt rắn, tụi tôi tuyệt đối không nhận.

Có lần có người chơi khăm huynh trưởng, họ cúng dường món nhựa mận.

Huynh trưởng biết nhưng không trách, về tới tịnh thất liền ra sau hè ngồi chôn phần cơm đó xuống đất với cái y bát.

Mấy con chó hoang hay lại tịnh thất chơi hiểu lầm tụi tôi ăn thịt chúng nên không còn dám bén mảng tới nữa…!
Mãi về sau, có một con chó xà-mâu đói quá mới lết tới tịnh thất xin ăn.

Thấy huynh trưởng rất hiền từ và chẳng hề có ý định hại nó, nó mới về rủ mấy đứa bạn lại chơi như cũ.
– Diệu miêu tả con chó mà tôi tưởng miêu tả một sắc dân nào đó.

Thủy Diệu bật cười.

Trời đã hừng đông, nhưng mùa Đông đã khiến cho khung cảnh vẫn còn mờ mờ tối tối như hồi khuya lơ khuya lắc.

Thời tiết se lạnh này rất phù hợp với một bữa điểm tâm nóng hổi.
– Theo Diệu thì tôi có nên xuống chợ ăn uống không?
– Được.
– Nếu như tôi bị ám sát thì sao?
– Nếu chết thì coi như khỏe rồi, khỏi phải tốn công lo nghĩ cho quốc gia mà còn bị khắp nơi chửi cha mắng mẹ.

Còn nếu bị thương thì hãy thôi chức, rồi làm một chuyến du ngoạn thế giới…
– Vậy nếu nằm một chỗ không thể tỉnh dậy nữa thì sao?
– Có sao đâu.

Hết nợ hồng trần rồi.

Nghe theo lời của Thủy Diệu, chú rủ đám cận vệ xuống núi ăn sáng.

Viên chức địa phương nói chung và giới cảnh sát nói riêng bị “chấn động” còn hơn thấy cảnh Thất Sơn lở núi.

Ông thần này hiện hồn về đây tự bao giờ vậy cà?
– Xin quý bà con làm ơn làm phước cho chúng tôi ăn xong bữa sáng; rồi các vị muốn hỏi chi hay nhờ giải quyết khúc mắc gì, tôi sẽ ráng hết sức “gỡ rối tơ lòng” cho các vị.
Vừa mới ăn xong dĩa cơm tấm Long Xuyên, chưa kịp lau miệng thì chú đã nghe một thím bán chè phàn nàn về việc du khách xả rác và phá hoại cây cỏ chỉ để có bức ảnh vừa lòng.

Trước lúc trả lời thím, chú uống lẹ một hớp cà-phê đắng, rồi nhỏ nhẹ thưa:
– Thưa thím, ban kiểm lâm ở đâu?
– Trời ơi, tới chừng mấy ổng xuống tụi nó bỏ đi mất tiêu rồi.
– Dạ, ý của tôi hỏi là họ ở đâu?
– Đánh bài chứ đâu.

Cha Tư chủ thầu đề….!Gì bịn miệng tao mày? Để tao tố giác với tổng thống cái.

Tại nó mà con tao bỏ xứ đi.
Tự nhiên hứng chí xuống đây du ngoạn sơn thủy, rồi bị hô biến thành Bao Công.

Lạng quạng gặp Quách Hòe hay Bàng Thái Sư là chú bị thanh trừng khỏi về thành đô luôn.

Tới câu hỏi thứ năm mươi, vì chú bị khàn tiếng do nói suốt mấy giờ liền nên thông báo tạm ngưng cuộc đối thoại.

Chủ xe nước mía biếu chú và đám cận vệ mỗi người một ly nước mía – hạnh.

– Kẹo ngậm “Ricola”, trị ho khá hay và ăn cũng ngon.

Chia nhau mỗi đứa một cục đi mấy anh.

Trưa nay chú lo phần cúng dường nên Tăng đoàn không xuống núi khất thực.

Không hiểu bằng phương cách nào mà chẳng ai bám đuôi theo chú về đây.

Chú thầm cảm ơn Trời – Phật vì đã độ mạng cho chú thoát khỏi bầy cáo quỷ và hùm, lang, beo, gấu.
– Má của Trì Thương cho tụi tôi một cái tủ lạnh hai cửa có tính năng làm nước đá và hai cái máy lọc nước Kangen.

Từ chối không đặng đành đem về đây xài.
Châu Lợi hãm một bình trà tim sen thật đậm, rồi sải bước ra ngoài sân đứng nghe nhạc thiên nhiên.

Rồi bỗng dưng, ông nói:
– Họ sẵn sàng hủy diệt Chân – Thiện – Mỹ chỉ vì ghét một ai đó.

Họ tuy mang cốt của loài người, nhưng hồn lại là của A-Tu-La.

Trì Thương tiếp:
– Âm báo thì dễ kiếm, chứ Phước báu thì khó tìm.
– Vậy Thầy nhìn coi hậu vận của tôi ra sao?
– Không tệ.

Đăng Khánh uống vài hớp trà.

Cổ họng chú đã cảm thấy dễ chịu hơn.
– Có lẽ tôi sẽ mở một quán ăn nhỏ sau khi bị truất phế.

Đắt – ế không quan trọng, miễn sao giết thời giờ là được rồi.
– Lành thay.

– Hai người Tăng sĩ đồng thanh đáp.
– Tôi muốn ngồi thiền một lát.

Thầy có thể chỉ cho tôi được không?
Trì Thương cười hỏi:
– Hết sợ bị ám sát rồi sao?
– Thưa phải.

Kỳ này chắc sát thủ cao tay hơn, bắn một phát là chết tươi luôn, chịu khó giãy đành đạch một lần là khỏe…
Vì nợ ơn đảng Dân Chủ và tổng thống Bàng Đông Quân nên Hác Đăng Khánh không thể đứng ra tranh cử dưới tư cách một người “độc lập”.

Còn nhớ sau khi cố tổng thống mất, theo di chúc thì chú sẽ được hưởng phân nửa tiền bảo hiểm nhân thọ để lo việc học hành bên Anh Quốc.

Nhưng do họ hàng hai bên và đứa con rơi của ông tranh chấp tài sản nên phải dằng dai mấy năm trời mới lấy được.

Qua đó còn bị ám sát và khổ ải trăm bề, giờ nhớ tới chú hãy còn rùng mình.
oOo
Trước khi về quê thết đãi thân bằng quyến thuộc và bà con chòm xóm một bữa tiệc thật linh đình và công phu, Thương Hận rủ ký giả Sương Tuyết và bộ tứ “Nhạn – Vàng – Bình – Công” tới nhà hàng buffet ăn uống.

Lý do nào đã khiến anh không mời các bạn trong giới văn nghệ, đơn giản lắm, bởi lúc anh bị người ta truy cùng giết tận thì tụi nó dông mất, chừng đánh hơi thấy mùi tiền và nghe tổng thống Khánh binh vực anh thì te rẹt trổ mồi làm quen.
Trong lúc đi lựa món để gắp, Thương Hận vui miệng mà hỏi Xương Tuyết:
– Anh làm sao quen được với thầy Giang vậy?
Gã điên chỉ cười trừ mà không nói gì.
– Từ chuyện của tôi, anh nghĩ sao về chuyện sáng tác một tác phẩm?
– Đừng sợ người ta ghét mình hay nhân vật do mình sáng tạo, miễn đừng xúc xiểm tới tín ngưỡng, đức tin của người khác thì mình cứ mặc sức mà tung hoành.

Nếu như tôi sợ có kẻ thù hay người chống đối, tôi đã không duy trì việc viết lách từ hồi trẻ cho tới bây giờ.
Ông nhà văn Duyên Anh là một trong những cây viết dám sáng tạo hình mẫu nhân vật vượt khỏi giới hạn thông thường.

Đó là một điều rất hay, bởi lẽ anh nên sáng tạo một nhân vật có tính cách cụ thể chứ không phải là “vung bút” vẽ ra một tên ba phải để lấy lòng người đọc.

Nhân vật mà tôi sáng tạo ra chẳng có đứa nào dễ ưa đâu; vì tôi mong muốn người đọc có thể nhận thấy cái sai, cái ngu, cái dại và cái dở đó mà tìm được bài học hay cho bản thân họ.
– Vậy anh làm được vế sau chưa?
– Chưa.

Có đủ trí khôn với kinh nghiệm sống đâu mà đòi truyền đạt qua ngòi viết.
Thương Hận vỗ vai anh bạn cười lớn.

Nhạc sĩ Lam Phương đã viết trong bài “Cám ơn người tình” rằng, “Có nhiều lúc ước mơ chỉ là mộng thôi, tan biến theo sương mù khơi…”
Bữa nay nhà hàng có món ốc vòi voi xào tỏi, cua biển hấp bia hành và sò điệp nướng mỡ hành, có lẽ nhờ hai món này “trám miệng” mà Đức Hoàng và Xương Tuyết nhường “sân khấu” lại cho bốn người kia.

Nói giỡn vậy thôi, chứ kỳ thực hai người muốn nghe những người bạn văn nghệ thảo luận và pha lửng, bởi lối nói chuyện của bốn người ấy dễ mến, dễ thương hơn họ rất, rất nhiều.
Nhà hàng cho ngồi ăn uống có một tiếng rưỡi đổ lại nên thằng nào thằng nấy cũng ráng ăn cho lẹ.
– Trời ơi, “người thừa kế” gì đâu mà ăn như heo nái vét máng vậy.

Nội trong đây mày là thằng giàu nhứt đó Ngạn.

Tống Ngạn che miệng, nói đúng hơn là gã đang bụm miệng để tránh phun thức ăn ra ngoài; sau khi “tâm bình khí hòa”, gã nhéo lỗ tai thằng bạn Bảy Núi và nói:
– Tao mà chết vì mắc nghẹn, tao ám con vợ mày.
– Ủa sao hổng ám tao?
– Ám mày chi?
Thấy hai đứa sắp nổi cơn khùng, Chí Công và Khán Bình đứng dậy can gián, để hai “Người ngoài phố” ngồi nhìn nhau mà lắc đầu cười.
Vừa mới rời khỏi nhà hàng, Thương Hận đã bị hai ký giả tới từ một tòa soạn mời tham gia phỏng vấn.

Anh niềm nở nhận lời.

Cả ba bèn vô nhà mát trong công viên gần đó để thực hiện việc ghi hình và trò chuyện.
Số Một hỏi anh:
– Anh tính làm gì với số tiền nửa triệu đồng này vậy?
– Tôi sẽ dành cho mình một phần, gia đình một phần, phần còn lại…
Số Hai ra hiệu mời anh nói tiếp.
– …!Tôi xin dành tặng cho các nhạc sĩ thuộc thế hệ Nhạc Vàng – Nhạc Tiền Chiến cùng những nhạc công ở miền Nam trước năm 75 đang phải sống cảnh lay lắt, cực khổ dù rằng thiên hạ phát nhạc của các vị hà rầm.

Tôi xin chân thành cảm ơn các vị ấy vì đã làm tôi thêm yêu chữ Quốc Ngữ và nền âm nhạc Nước Nhà.
Ngoài ra, tôi cũng sẽ dành tặng những người đã từng trải qua kiếp “gạo chợ nước sông” để làm cho cải lương một thời lừng lẫy.
Số Hai hỏi:
– Anh có muốn nhắn gởi điều chi không?
– Nhân đây, tôi cũng xin thưa với quý vị đồng nghiệp một chuyện, làm ơn đề tên hoặc giới thiệu người sáng tác – đặt hay dịch lời Việt ở mỗi bài hát; quý vị lấy tiền thì làm rốp rẽng lắm, còn lấy ra một ít thời gian để nhắc tới tên nhạc sĩ đã giúp mình nổi danh và giàu sang thì làm không đặng.

Đừng để người đời cười khinh quý vị là thứ dòng “xướng ca vô loài” và “con hát không tim”, quý vị à.
Trước lúc trở về với nhóm bạn ký giả, Thương Hận nói lời cảm ơn và chúc họ một ngày tốt lành.

Nhờ bị Tín gài bẫy mà anh đã biết mở máy ghi âm lén để bảo vệ bản thân khỏi những lời xuyên tạc của thế gian.

Thành thử ra, anh không cần phải đòi họ cho coi lại nội dung cuộc phỏng vấn và đoạn ghi hình.

Chiếc xe bảy chỗ chở nguyên đoàn về chung cư mà bộ tứ đang ở.

Bên dưới chung cư có một siêu thị ngoại quốc khá lớn, mỗi người sẽ mua một thứ để hùn vô bàn nhậu tối nay.

– Sao anh nhìn bảng quảng cáo mà cười hả Tuyết? – Đức Hoàng hỏi.
– Một bên thì “Chống” một cách quyết liệt, còn một bên thì lựa những chữ nhẹ nhàng sát nghĩa hơn như “Ngăn”, “Ngừa”, “Phòng”, “Không”,…
Thí dụ như: Chảo không dính, Mùng ngăn muỗi, Thuốc ngừa đông máu, Giày đi không trơn,…!Chứ xài kiểu “Chảo chống dính”, “Mùng chống muỗi”, “Thuốc chống đông máu”, “Giày chống trơn”,…!nghe nó vừa nặng mà vừa mắc cười nữa.
– Tại nhìn đâu cũng ra kẻ thù nên phải chống suốt.
– Hai lối suy nghĩ thể hiện hai bản chất đối lập nhau một cách hoàn toàn.
Xương Tuyết mua ba kết bia Heineken, có gì thiếu thì lát xuống mua thêm.

Nhìn giá tiền mà anh nhớ tới khoản nhuận bút bị treo của mình, rồi cười xòa.

Có gì òn ĩ xin anh Ba Hói bỏ qua.

Ngôi nhà khá gọn gàng, tươm tất và có mùi thơm thơm của nước xịt phòng hương ngọc lan.

Biết có khách nên mấy đứa nó tự giác quét dọn và lau chùi khu ổ chuột thành phòng tổng thống; ngay cả nhà tắm và vệ sinh cũng đụng tới, mà chắc có lẽ phải lâu lắm đám lười này mới đụng lại.
Xương Tuyết giới thiệu:
– “Tubi TV”, trên đó chiếu phim mới miễn phí.

Tôi học tiếng Anh thông qua đọc và nghe hội thoại của nhân vật trong phim trên đó.

Mỗi bận làm biếng đọc sách lại lên coi tài liệu ở trển.
Chí Công hỏi:
– Có Anime không anh?
– “Attack on Titan”, “Hunter x Hunter”, “One-Punch man”, “Naruto”…!Nhiều phim lẻ lắm.

Có phim Việt Nam luôn.
Trước lúc mở phim lên coi, Xương Tuyết kể cho mọi người nghe một chuyện:
– “Thằng Minh nào đầu hàng, chứ thằng Chính Minh này không hàng.” Vừa nói xong, ông trưởng ấp ở Bến Tre cầm khẩu súng lục lao lên đồn rồi xả súng.

Phát đầu tiên ông giết chết một người.

Tới phát thứ ba, ông bị trúng đạn do chúng xả vô người tới tấp nên nằm gục xuống đất chết.

Xác của ông bị vục xuống mương nước gần đó.

Sau này người ta lấp mương để làm nền nhà mới phát hiện ra bộ hài cốt của ông nằm vùi dưới đó, nên đã báo cho gia đình biết mà đưa ông về an táng.
Thương Hận cảm thán:
– “Anh đã ngủ yên trên Quê Hương.”
– Ba tôi kể, hồi còn nhỏ, ba tôi và mấy thằng bạn thân từng bị một khứa trong đám “tụi nó” xúi lượm đá chọi mấy ông Thủy Quân Lục Chiến đang tắm dưới sông.

Mấy ông lính bị đau mới quay phắt lại coi quân nào ném.

Lúc đó bạn bè bỏ ba tôi mà chạy có cờ, riêng ba tôi đứng lại và còn vẫy tay cười vì tưởng mình đang giỡn thôi.

Một trong mấy ông lính bước lại gần, rồi hỏi ba tôi, “Nhỏ, ai xúi con chọi đá mấy chú vậy?” Ba tôi mới kể hết ráo sự tình và chỉ vô mấy lùm cây – Chỗ đó là chỗ núp của cái thằng cha xúi dại mấy đứa con nít.

Ông lính ấy gật đầu, rồi hỏi nhà ba tôi ở đâu để xuống nói chuyện với gia đình; những người lính khác thì lớp vác súng đi lùng sục mấy lùm cây, lớp thì điện báo cho cấp trên.

Theo sau lưng ba tôi là hai ông lính khác cũng trạc trạc tuổi với ông lính kia.

Bà nội tôi nghe ông lính kể từ đầu chí cuối xong, chỉ biết kêu Trời rồi quày quả vô nhà xách cây chổi lông gà ra tính quất ba tôi một trận.

May phước cho ba tôi, một trong ba ông lính kịp thời đẩy ba tôi ra sau lưng ổng, rồi lên tiếng khuyên can, “Thôi mợ Hai, nó còn nhỏ, lại ốm yếu như vầy chị đánh nó sao nó chịu nổi?”Vì nể mặt ba người lính mà bà nội tôi “đao hạ lưu tình” với ba tôi.

Đợi cho bà nội tôi đi rồi, ông lính im lặng nãy giờ mới ký đầu ba tôi một cái, rồi móc túi lấy ra tờ giấy bạc năm đồng và dặn, “Nè, cho mày tiền nè, ra chợ kiếm cái gì ăn bỏ bụng để bớt phá làng phá xóm nghen con? “Dạ, con cám ơn chú.” “Ừ, hồi nãy mày “cám ơn” tao quá trời quá đất luôn.” Ba tôi mới cầm tiền ra chợ mua tô cháo lòng.
Nhà bà nội tôi ở cặp ngay mé sông nên mấy ông Lôi Hổ thường hay chọn đó làm nơi “làm việc”, trá hình là sòng bài và chỗ nhậu nhẹt.

Ông cố của ba tôi, tức ông sơ của tôi, coi họ như con cháu trong nhà và khoản đãi rất nồng hậu dù nhà nghèo rớt mồng tơi.

Tống Ngạn hỏi:
– Đất Kiến Hòa là đất của “tụi nó” phải không anh?
– Chưa chắc.

Vốn dĩ nơi đây đất rộng, người thưa, rừng dừa bạt ngàn, bãi bồi và kinh – rạch đầy rẫy nên “tụi nó” mới chọn đây làm địa điểm hoạt động; mà những người theo chúng chỉ có rất ít dân địa phương, còn lại là dân tứ xứ và đám tập kết đổ về.

Chưa kể tới là nạn cướp đất của điền chủ lập căn cứ nữa, mấy ông điền chủ thân cô thế cô, quanh năm suốt tháng chỉ lo làm ăn và lo tương lai cho sắp nhỏ trong nhà, bị kề súng vô người thì hỏi sao không gật đầu ưng thuận để cứu lấy gia đình…!Còn vấn đề đi dụ khị mấy ông, bà già thì nhóc luôn; một trong số đó là câu chuyện “Má lo cho con đi, mốt con thắng con nhờ Liên Sô cẩu nhà lắp ráp sẵn từ bên ấy qua cho má ở”, rồi “Mốt con cho má cái máy, má muốn ăn gì nhấn nút một cái rồi nó làm cho má món đó”,…
Thương Hận hỏi:
– Sao tôi thấy anh ít đề cập tới chuyện Sử trước năm 75…
– Tôi không muốn nói chuyện lịch sử ở miền Nam trước 75 với những ai lăm lăm chụp cái nón mày theo phe ông này, mày thờ cha ông kia đâu,…!
– Vậy không nói chuyện đó nữa, anh có biết kỷ niệm nào vui vui không?
– Ba tôi kể, hồi đó có chương trình phát sữa cho trẻ em do một tổ chức Hoa Kỳ tài trợ, ba với bác Hai tôi mới thay phiên nhau ẵm cô tôi ra lãnh.

Tới lần thứ ba, ông tổ chức nhìn mặt cô Út xong, ông vừa cười vừa ghẹo, “Sao tao nhớ con nhỏ này mặt mày quen quen ta…!A, tao phát hiện rồi nha, thằng ròm này ẵm con nhỏ này ra hai lần rồi…” Vậy thôi, chứ không chửi mắng một lời.
– Cái sự xuề xòa cho qua đã làm hại cái mảnh đất này phải không anh?
– Tôi không biết nữa.

Tôi chỉ biết nhạc sĩ Phạm Duy đã nói trong một bài hát rằng, “Người hiền lành như một giấc mơ”, người ở đây tốt tới mức độ cụ không thể nào tin nổi đó là sự thật.

Và cho tới thời điểm này, tôi chưa tìm thấy bài hát nào của cụ khen người ở quê cha đất tổ của cụ là hiền lành, tử tế hay thân thiện hết.
Chí Công mời gã điên kể.

Và gã điên lại kể kỷ niệm của ba:
– Ba và bạn bè thường gọi Địa Phương Quân là mấy chú “Xì dầu – Nước tương”, vì bộ đồ của mấy chú y hệt màu này.

Cứ hễ mấy chú làm tới khúc đường nào, mấy đứa con nít lại chạy theo hỏi han và ghẹo, mà ghẹo ác nhứt là, “Anh muốn làm anh rể em hôn? Em có bà chị nà.” Mấy chú đó thường đã học ra trường xong xuôi, nên tác phong không giống lính mà giống học trò.

Một số người nghe mấy đứa con nít ghẹo vậy thì mặt mày đỏ lựng, la nho nhỏ mấy tiếng thật hiền rồi cười mủm mỉm làm đường tiếp.

Mà tụi con nít nó cũng ác lắm, cha nào mắc cỡ nhiều chừng nào thì nó bu theo chọc chừng nấy.

Việc này chỉ chấm dứt khi ông “Đốc công” ổng nạt một tiếng nguyên bầy mới ráp nhau bỏ chạy.
Đức Hoàng nhờ gã điên chỉ cách làm món tôm hấp nước dừa.

Rồi bị gã điên vỗ đầu la vì chọn cái món chi mà vô hậu rứa.
Thấy Xương Tuyết nói giọng quê mình, Khán Bình buột miệng khen.
Nhân đó gã điên mới nói:
– Còn một thứ tiếng nữa đang bị mai một…
Mọi người mời anh ta trình bày.
– Là tiếng Huế của anh.

Khán Bình gật đầu.
– Mang tiếng người trong một Nước mà mấy ai biết tiếng Huế và tiếng miền Tây.

Đức Hoàng nhận xét:
– Nhiều người hô hào “tinh thần giang sơn một cõi” lắm, nhưng lại cật lực phản đối, chê bai và biếm nhẽ tiếng địa phương của người ta.

Suốt ngày ôm khư khư mớ chữ “mẹ đẻ” mà la làng và áp đặt tiếng của họ mới là tiếng phổ thông.
Khán Bình ướm hỏi:
– Vậy là anh phải học tiếng Huế?
– Phải.

Nỏ học, răng biết chi mà viết.
Thương Hận góp lời:
– “Mày tằm mắt phụng” và “Mày ngài mắt phượng”, “Chưng bông” và “Trưng hoa”, “Cua quẹo” và “Ngả rẽ”,…
Chợt màn hình của máy quay an ninh phát sáng, kèm theo đó là tiếng chuông cửa kêu “reng”, “reng” ầm ĩ.
Người ngoài cửa là pháp y Trần Cảnh Chiêu.

Anh ta đem tới ba con vịt quay hảo hạng, mấy ký tôm hùm đất và một tá bánh mì nóng giòn.

Đằng sau lưng anh ta là hai người điều tra viên kiêm bạn sống cùng nhà; Tào Việt Bân làm Oden, bánh gạo và kimchi, còn Mạnh Cường thì mua hột vịt lộn và gà xác chiên.
Xương Tuyết chợt hỏi:
– Có phim đồng tính luyến ái coi không?
– Không!
– Đồng thanh quá ha?
Đức Hoàng trình bày:
– Thiệt tình mà nói, tôi thấy tội nghiệp cho họ.

Yêu một người khác giới mà không được hồi đáp đã là một điều đau khổ, huống hồ chi là yêu một người đồng giới…!Dẫu có được hồi đáp cũng không thể sống yên thân với xã hội…
Trần Cảnh Chiêu vừa lau tay với cái khăn mùi soa vừa hỏi:
– Anh có tin trên đời này còn tình yêu vĩnh cửu không Tuyết?
– Có.

Và những người mang trong mình tình yêu vĩnh cửu không bao giờ lên mạng khoe khoang rằng mình và người ấy hạnh phúc và yêu nhau sâu đậm ra sao.

Nếu như đôi lứa không thành hay người đó không thương họ, mỗi khi nhớ về người đó, họ chỉ lặng lẽ khóc và van xin Trời Cao cho họ một lần được nắm tay người ấy; để rồi ngày qua ngày, đêm nối tiếp đêm, hy vọng và tuyệt vọng cứ thế chất chồng trong tim họ.
– Tại sao họ không tìm người mới?
– Đồ ăn, thức uống, hàng hóa, cây kiểng,…!hư hay mất có thể tìm cái khác thế vô.

Nhưng tình yêu thì không thể; anh lấy người này lắp vô người kia thì về sau anh sẽ khiến cả hai đau khổ muôn niên.
Vì vẫn chưa tìm được phim ma ưng ý nên nguyên đám biểu Xương Tuyết kể chuyện chơi.

Anh ta bèn kể rằng:
– Hồi mới ngồi thiền, tôi đã từng gặp một hiện tượng kỳ lạ.

Trong lúc đang ngồi thiền, tôi có cảm giác như ai đó đang cù chân và gãi lưng mình.

Một hồi bực quá, tôi mới la lên, “Giờ mày có phá cỡ nào đi chăng nữa, tao vẫn theo Phật và không mở mắt ra đâu.” Ước khoảng vài phút sau, tiếng nhạc Kinh không còn nữa nên tôi tưởng giờ thiền đã hết nên mở mắt ra.

Ai ngờ đâu, cái máy Laptop bị tắt.

Bình thường, nó sẽ tắt khi qua nửa tiếng mà tôi không sử dụng, và chỉ cần bấm phím “Enter” một cái là nó sẽ đăng nhập lại.

Còn đằng này, nó tự động tắt ở dạng “Shut Down”, tức là tôi phải nhấn biểu tượng “Khởi động lại” thì mới vào máy được nhưng những gì đang coi hay làm sẽ mất hết.

Tôi nhấn biểu tượng ấy mấy lần mà máy vẫn không hoạt động, trong bụng tôi nghĩ chắc là máy đã hết pin nên ghim điện sạc, rồi mới ấn lại lần nữa.

Lần này thì thành công.

Nhưng khi đăng nhập vô xong, tôi mới ngạc nhiên thấy pin còn gần bảy mươi phần trăm và những chương trình – ứng dụng tôi đang bật nãy giờ vẫn còn nguyên hiện, chỉ khác ở chỗ chúng ở dạng “Ẩn”, nói cho dễ hiểu hơn thì phải click vào chúng mới trở về hình thức cũ.

Không có ai ở bên cạnh tôi lúc đó, vậy thì ai tắt máy?
Trần Cảnh Chiêu hỏi:
– Vậy lúc đó anh làm gì?
– Tôi mở Kinh lên và ngồi thiền tiếp.

Tôi đọc bài kệ như sau:
“Đức Phật trên đầu con
Xá-Lợi- Phất bên phải
Mục-Kiền-Liên bên trái
Tam Tạng ở phía trước
Ananda ở sau con
Bậc lậu tận bốn hướng
Chung quanh tứ hộ thể
Đế Thích và Phạm Thiên
Nhờ thần lực các Ngài
Tất cả nạn họa tai
Nguy hại dù còn nhiều
Xin hãy tiêu diệt hết.”
Đây là bài kệ diệt tâm Ma của mình, chứ không phải hàng Yêu – phục Ma chi sất.
Tôi vẫn còn nhớ như in những gì đã viết trong kinh điển, rằng Ma Vương sẽ sai phái đệ tử hủy diệt Chánh Pháp, và Đức Phật cũng đã dặn rằng hễ ai đi theo con đường mà Ngài đã chỉ đều sẽ bị đệ tử của Ma Vương cản trở và hãm hại.
Tôi đã chứng nghiệm nên tôi tin lời trên là có thật.

Và vì tôi đã trải qua quá nhiều chuyện nên tôi tin những gì Phật Tổ từng thốt lên đều là Sự Thật; kể cả Quả Báo, kể cả Luân Hồi.
Thành thử ra, nhiều người mới ngồi thiền gặp những hiện tượng lạ thì liền chụp mũ rằng ngồi thiền sẽ chiêu ma quỷ vô mình, điều đó hoàn toàn không đúng chút nào.
Thương Hận hỏi:
– Vậy bây giờ anh ngồi thiền như thế nào?
– Tôi ghim điện sẵn luôn, và lần nào tôi cũng xin Đức Phật gia hộ cho mình.

“Gia hộ” có nghĩa là “Che chở”, “Bảo vệ” chứ không phải “Ban ơn”, “Ban phước”.
Chí Công che miệng hỏi:
– Anh không sợ sao?
– Nó phá một lần đầu, mà mình sợ thì coi như xong.

Kể từ ngày đó tới nay, nó không còn phá tôi nữa, bởi vì tâm tôi trì chí đi theo Phật.
Con đường học Phật của tôi bắt đầu từ năm mười lăm tuổi, không có sư cũng chẳng có chùa, chỉ có kinh điển và tạng luật, mà trong số những sách – tập đó lại không ít cuốn lồng ghép những điều trái với tín lý và cổ vũ cho lối sống hư hèn, làm con rùa rút đầu lánh đời.

Thành thử ra, mang tiếng là người theo Đạo mà tôi không hề biết tên ông sư nào ở quê tôi, và cũng chẳng rành tên của mấy ngôi chùa dưới đó.

Rồi gã điên mời Trần Cảnh Chiêu kể cho mọi người nghe chuyện Giáng Sinh quê anh ta.
– Phải, tôi trở về quê dự Thánh Lễ.

Thương Hận hỏi:
– Mẹ anh tên Thánh là chi?
– Vì trong nhà thờ có ba người cùng tên Thánh với mẹ tôi nên Cha đặt cho mẹ thêm cái tên Grainne cho dễ phân biệt.

Tên Thánh đầy đủ của mẹ tôi là Anna, nhưng thường thì mọi người gọi mẹ tôi là Anna – Grainne.

Sau nửa tiếng tìm kiếm, rốt cuộc họ cũng tìm được phim ma – kinh dị ưng ý.

Bộ phim tạm ngừng để chiếu quảng cáo nên Xương Tuyết kể:
– Tôi thèm ăn thịt kho tàu, mới chạy lại nói với mẹ rằng, “Mẹ ơi, mai mẹ nấu thịt ba tàu cho con ăn nghen?”
Đợi cho tiếng cười lắng xuống, gã điên mới nói tiếp:
– Khỏi kể khúc sau, các vị cũng biết rồi hén?
Thương Hận kể:
– Hồi xưa gia đình tôi hay nấu món này ngoài sân sau.

Cũng may không lần nào khiêng vô bếp nấu lại bị trợt chân.
Coi xong bộ phim, nguyên đám quyết định không xem nữa mà nhóm họp lại để thử tài điều tra – phá án của mình.
Chí Công mở màn:
– Nhờ ơn phước của đám bồi bút đó mà hiện thời số người chết đã vượt quá hàng trăm.
Khán Bình tiếp:
– Xong việc rồi chủ thuê của tụi nó cũng khử tụi nó để bịt đầu mối thôi.

Ở đó mà ảo tưởng dựa hơi được đám đó.
Đức Hoàng vỗ đùi cái đét:
– Ăn cái giống gì mà ngu dữ thần.

Đã quân bất nhân mà lại còn đi giao du và binh vực cho tụi nó nữa.
Trần Cảnh Chiêu vừa lột vỏ hột vịt lộn vừa hỏi:
– Theo mấy anh thì vì nguyên cớ gì mà ông Khánh phải lên tiếng và can thiệp vậy?
Tống Ngạn chợt đứng lên, rồi đi một hơi vô phòng.

Ước khoảng mười phút sau, anh ta mới trở ra với một tờ giấy nhăn nhúm.

Sau khi ngồi xuống, gã nhìn ký giả Sương Tuyết mà báo tin rằng:
– Bữa trước tôi có gặp bạn trai cũ của anh đó Tuyết…
Xương Tuyết hỏi trong khi vẫn đang nhai gà xác chiên:
– Thì sao?
– Ảnh nhờ tôi đưa anh cái này.
Sau khi giải mã mật thư, gã điên vỗ vai Trần Cảnh Chiêu.

Rồi hai người ra ban-công nói chuyện.
– Anh có biết loại thuốc khiến người ta hoang tưởng bản thân bị hại không?
– Nói rõ ràng hơn một chút được không?
– Tức là vầy, thôi thí dụ đi: Anh sợ chuột, kẻ đó cho anh thấy con chuột rồi lụi một mũi vô người anh, kế đó trong đầu anh sẽ phát sinh hoang tưởng rằng mình vừa bị chuột tấn công hoặc đang ăn thịt chúng.

Đó là công dụng của nó.
Trần Cảnh Chiêu thôi cắn móng tay.

– Một số người hành nghề mãi dâm không muốn tiếp khách cũng sẽ bỏ thứ này vô ly nước.

Thứ này chỉ phát huy tác dụng khi cảm xúc của anh lên tới tột độ.

– Tôi hiểu ý anh rồi.

Một số người không hề bị khứa chủ mưu tra tấn mà là bị lụi cái này vô người.

Chúng cho đám đàn em hù dọa, rồi…

Thể theo lời nhờ cậy của pháp y Cảnh, Xương Tuyết đưa anh ta tới khu “xóm gà” ở Quận Mười.

Ngôi nhà đó nằm đằng sau tòa nhà xây cất dang dở, là ổ chứa của đám mãi dâm nam.

Trần Cảnh Chiêu đi sau lưng người bạn cùng nhà với sắc mặt vô cùng lo lắng và hơi khó chịu.

Những mũi chân của anh lắm lúc đá phải sỏi đá và ổ gà vì đầu óc người chủ nhân đang rối bời.

Anh không thể giữ được sự bình tĩnh và thản nhiên như Tuyết được.
– Tới rồi.
Hai người cùng bước lên bậc tam cấp một lượt.

Trần Cảnh Chiêu gõ cửa rồi kéo chuông mấy bận mà không có ai ra đón.
– Ở đây, anh không thể mở cửa bằng cách lịch sự được.

Phải như vầy nè…
“Rầm.”
Gã điên đá thật mạnh vô cánh cửa, khiến nó bung ra và đập mạnh vào bức tường.
– Cửa ở đây không bao giờ khóa đâu.

Chẳng qua người trong nhà không muốn tiếp khách lạ nên mới bị điếc tạm thời.
Một người thanh niên tỉa lông mày lá liễu, mình mẩy xăm trổ, thân hình gầy như con cò hương, tay giữ điếu thuốc, còn miệng thì nhả khói phì phà bước ra gặp họ.

Anh ta chỉ mặc độc quần đùi nên pháp y Cảnh thấy rõ những vết sẹo ở hai bắp chân.
Nhác thấy sợi dây chuyền Thánh Giá trên cổ pháp y Cảnh, anh ta sa sầm nét mặt, rồi đẩy hai người ra khỏi nhà như người ta lùa vịt ra đồng.

Vừa làm anh ta vừa nhăn:
– Thôi nha.

Bữa hổm Tin Lành xuống rồi, không cần thêm Công Giáo tới đây truyền Đạo đâu.
– Tin Lành? Có phải thằng cha mặt đẹp như con gái không?
Anh ta liếc pháp y Cảnh một cái sắc lẻm:
– Gì dữ vậy má? Mặt người ta vậy mà nói đẹp như con gái, đẹp giống diễn viên Đại Hàn má ơi.
– Tư Cổn.
– Gì đây anh Tuyết?
– Tôi đã giúp cho anh viết bài kêu gọi đóng học phí cho em gái anh.

Nhớ chưa?
– Nhớ rồi…!Mệt quá! Muốn gì vô đây nói rồi đi dìa đi.
oOo
Cha Thành nằm võng mà nghe bài hát “Đưa người về phương Đông” do Duy Trác trình bày, nhạc sĩ Phạm Anh Dũng phổ nhạc từ thơ của thi sĩ Cung Vũ.
Chương trình âm nhạc tiếp nối bằng bài hát “Tình Xuân” cũng do Duy Trác biểu diễn, một sáng tác của nhạc sĩ Vũ Thành, một trong những tình khúc rất hay của băng nhạc “Xuân Quê Hương”.
– Bố có bao giờ muốn ra thăm đất Bắc không?
– Từ ngày chánh phủ thực hiện chương trình “Chuyến tàu hồi hương”, Cha đã không còn ý định ra Bắc nữa.
Rồi cụ nhìn thằng con trai từ trên trời rơi xuống mà âu yếm nói rằng:
– Con đã chọn ở lại đây với Cha…!Cũng may, tạ ơn Chúa, “Cái gì của Caesar đã trả cho Caesar, cái gì thuộc về Chúa đã hoàn lại tay Chúa.”
– Gây lộn suốt ngày mà cũng làm cha con được…
– Cha có một đứa nhỏ thất lạc người thân, sau được một cặp vợ chồng Bắc Kỳ nhận nuôi, rồi không hiểu sao họ lại giao nó cho Cha Matthias Hoàn nuôi dưỡng…!Nghe đâu họ đã tham gia chương trình trên…
Thầy Dự thôi lặt rau răm mà quay qua hỏi người bố nuôi rằng có còn giữ kỷ vật nào của đứa nhỏ không.
Sau hơn nửa tiếng lục tìm trong buồng, Cha Thành trở ra với một cuốn album đã ố vàng và bị gián gặm nham nhở.
– Đây…!Đây là tấm hình chụp lần cuối cùng nó sanh hoạt với các Cha và Giáo dân ở dưới đó.

– Vậy là nó đã rời xa vòng tay Chúa?
– Phải.

Cha Matthias Hoàn buồn lắm nhưng cũng không nỡ nói gì.
Thầy Dự bèn rủ Cha Thành tới thăm Cha Hoàn.

Ông dạy ở trường Dòng Chúa Cứu Thế nằm ở khu đất đằng sau đài “Vinh danh Petrus Trương Vĩnh Ký”.
Cha Matthias Hoàn đang dạy Toán cho các trò lớp Sáu, nhác thấy một người già cùng một người trạc tuổi mình đứng ở ngoài cửa lớp thì bỏ cục phấn lên bàn, rồi rảo bước về phía hai người đó.
– Ôi trời, thằng chiến hữu của tôi đây mà.
Cha Hoàn nhờ một người Linh mục trẻ đứng lớp giảng dạy giùm mình.

Rồi hối hả lại gần hai cha con mà giục đi uống cà-phê với mình.

Quán cà-phê mà thầy Dự chọn nằm ở một con hẻm vô danh.
Trong quán cà-phê đang phát bản nhạc “Người xóm cũ” của nhạc sĩ Trúc Phương và được trình bày qua tiếng hát của Duy Khánh.

Người chủ quán đã bỏ Giáo xứ St.

Pio mà ra đây ở, vì giận ông Cha bất nhân thất đức.

– Mới có mười năm mà ông Phương đã than mỏi mòn, huống hồ chi tao với mày xa nhau gần nửa đời người hén? – Cha Thành ngó giàn bông giấy hồng rực mà nước mắt lưng tròng.

Cha Hoàn nắm tay thằng bạn thân mà vỗ về:
– Người ta đồn ác về mày dữ lắm, nhưng tao tin mày vẫn là con trai của Cha Vincent Trung, tao tin sống chung với một người tốt như Cha thì mầm ác trong người mày không thể nào sanh sôi dù cho dòng đời có thăng trầm như thế nào đi chăng nữa.
– Chúa ơi, hồi xưa mày nói ít lắm mà, sao bữa nay, à không, ngày nay dài dòng dữ vậy?
Cha Hoàn vừa khuấy ly sâm bổ lượng vừa buồn buồn tâm tình:
– Tao muốn nói ít lắm, nhưng học trò ngày càng hỗn nên phải buộc lòng nói nhiều để khuyến hóa chúng.
– Mày tin rằng tình thương có thể khuyến hóa chúng không?
– Không.
– Tại sao? – Cha Thành hỏi trong khi mắt ngó vô ly trà mứt dâu chua ngọt, mát lạnh.
– Trái tim của chúng bẩm sanh đã vậy.

Cái chết của Chúa Jesus có làm thức tỉnh được mấy người nơi đó không?
– Và Chúa đã sống lại.

Chứng tỏ cái Thiện sẽ trỗi dậy chừng nào chúng ta không bỏ cuộc.
– Mày gieo mầm Thiện, nhưng…!hết người này tới người kia lại bứng gốc triệt rễ, mày không nản sao Thành?
– Nếu chúng ta bỏ cuộc, cái Ác sẽ chiếm lấy thế gian này.

Một người tốt bỏ cuộc, thế gian này sẽ mất đi một chiến sĩ.
Rồi Cha Thành từ tốn thuật hết “kiếp nạn” của mình cho thằng chiến hữu nghe.

Bên cạnh cụ, thầy Dự đang uống sinh tố cà-phê và đọc tin trên mạng xã hội.
– Rao giảng lời Chúa chưa đủ, chúng ta phải sống như Ngài mới đủ.
Ngồi cà kê dê ngỗng với nhau hơn hai tiếng đồng hồ, hai người mới chịu ra về.

Trước lúc xa nhau, Cha Hoàn mời hai cha con Cha Thành tới quán cơm ở vùng ngoại ô vào trưa ngày mai.

Địa chỉ và giờ hẹn cụ sẽ nhắn tin sau.

Hôm sau nhằm ngày thứ Tư nắng ấm, trời trong.

Hai cha con tới điểm hẹn trong một bầu không khí vô cùng dễ chịu và tươi mát.

Phố sá giờ này không đông đúc mấy, thầy Dự bèn đưa ông bô đi vài vòng ngắm cảnh trước khi tới nhà hàng ở ngoại ô.
– Tự nhiên con nhớ bài “Giấc mơ Hà Nội” của nhạc sĩ Y Vân.

Lời bài hát gợi cho con liên tưởng tới mối tình đầu của ông, vì nội dung hàm chứa rất nhiều câu như đang nhắn nhủ với một người con gái.

Ngoài ra, còn có bài “Thương về năm cửa ô xưa” cũng do ông sáng tác.
– Con mở cho Cha nghe bài “Những chuyến xe trong cuộc đời” của nhạc sĩ Hoài Linh do cô Giáng Thu ca đi.
– Bây giờ người nhà của các cố ca sĩ và nhạc sĩ trân trọng tác phẩm của thân nhân mà đăng lên rộng rãi cho giới mộ điệu âm nhạc nghe là một hành động vô cùng đáng quý.
Quán ăn gia đình nằm trong khuôn viên một vườn rau cải xanh tốt và đẹp mắt.

Lối vào hình vòm dựng bằng tre, nứa, mây và lục bình; trên trồng bông giấy muôn màu muôn sắc.

Bảng hiệu “Nguyệt Viên” được làm thủ công bằng chất liệu thiên nhiên rất tinh xảo.

Bãi đậu xe nằm bên hông trái lối vào chính của tiệm cơm.
Gabriel Đinh Thái đã ngồi đợi sẵn ở đó cùng với người Linh mục thân tín và Antonio Vũ.

Còn hai người nữa không mặc áo dòng mà mặc áo Clergyman và quần tây đen, đeo thắt lưng Armani; bề ngoài hết sức đạo mạo mà không kém phần phong nhã.
Cha Thành mừng rơn mà đưa tay ra bắt với từng người, thầy Dự cũng làm hệt vậy.

Xong xuôi đâu đó, cụ hỏi:
– A, là Mục sư Chu Vịnh Nghĩa và Trương Vĩnh Đức đây mà.

Manuel Ngô sao rồi?
Hai Nghĩa trả lời:
– Nó vẫn khỏe, thưa ông.
– Còn cậu đây tên chi?
Gabriel Đinh Thái day mặt qua phía người Linh mục trẻ mà đáp rằng:
– Rapheal Đinh Lễ, cháu của anh Ba tôi.

– Vậy là đủ rồi.
Gabriel Thái hơi nhếch miệng cười, rồi nghiêng đầu chờ đợi người Linh mục già nói tiếp.
– Bộ ba Tổng Lãnh Thiên Thần.

– Vậy một trong hai cậu đây chắc tên là Micae hay Michael.
– Dạ, tôi tên Micae, thưa ông.

– Ai đặt tên cho cậu?
– Dạ, là Thầy tôi, tức Miguel La Viễn Phương.
Nhân đó Cha Thành mới giải thích cho Đức Tổng Giám mục biết về nguồn cơn tên Thánh của Giám mục Tin Lành Miguel Phương và các học trò của cẩu.

– À, hèn chi tôi thấy hơi ngồ ngộ mà…
Người Giáo dân thân tín của ông đem thực đơn ra bàn nên ông chuyển chủ đề:
– Bữa cơm trưa nay do tôi bao, mong các vị cứ tự nhiên kêu món.
Ông chủ quán khui một chai rượu X.O ra rồi rót cho từng người.

Tới lượt Antonio Vũ, Cha Thành đứng bật dậy mà cản:
– Vũ bị dị ứng đồ uống có cồn.
– Xin lỗi…!Xin lỗi…!Tôi không cố ý…
Chợt có một người thanh niên mặt mày khôi ngô, tuấn tú bước lại bàn của họ đánh tiếng thưa.
JB Khải cúi xuống hôn lên bàn tay của Gabriel Đinh Thái.

Người Giám mục đã ngoài lục tuần che mặt khóc nức nở, rồi ông run giọng nói:
– Cha xin lỗi vì đã không bảo vệ được con…
– Thưa Cha, lỗi cũng là do con một phần…
Ông chủ quán nghĩ đây là thượng khách của Tổng Giám mục nên hớt hải chạy vô trong lấy thêm một cái ly và một cuốn thực đơn.

Còn đằng này, JB Khải được sắp xếp ngồi giữa Cha Thành và Gabriel Đinh Thái.
– Vũ.

– Sao Cha Thành?
– Con với Mỹ từng học chung một trường đó.
Rồi Cha Thành bắt đầu kể cho nguyên bàn nghe về kỳ tài thổi harmonica của Stephen Mỹ:
– Nó với con học chung một trường mà con hổng nhớ…!Nó là đứa cao nhứt khối Bảy.

Lúc nào cũng hay ra vườn hoa ngồi một mình, không có ai chơi hết, nhưng tiếng kèn harmonica của nó lại thu hút sự chú ý của rất nhiều người.

Cha còn nhớ Manuel Ngô đã nhờ nó dạy cách thổi kèn harmonica.

Nó đã đi lượm ve chai gần mấy tháng trời mới đủ tiền mua thêm một cây nữa cho Kỳ Anh.
– Không ngờ một con người chai đá như Stephen Đoàn Ngọc Mỹ lại…!- JB Khải không nén nổi sự xúc động.
– Chắc có lẽ cô gái đó là người duy nhứt nhìn thấu được vẻ đẹp nội tâm của Mỹ.
Sau giờ ăn, Gabriel Đinh Thái nhờ hai chàng Mục sư Tin Lành dẫn mình đi tìm con trai Út của Miguel Phương.

Theo sự mách nước của Mười Anh thì anh ta mướn nhà trong một xóm lao động nghèo và ít học nhưng giàu tình nghĩa và độ chịu chơi, cứ hễ tới Chúa Nhựt là bà con mần tiệc ăn uống, đờn ca tài tử om sòm ỏm tỏi.

La Yến Thanh đang hớt tóc miễn phí cho những em nhỏ mồ côi trong một xóm lao động nghèo.

Anh ta đang nghe bản “Jesus is just alright” do Lê Trí và ban “The Family Love” trình bày.

Còn Ngô Gia Định đang giúp những sinh viên “gạo bài” để ôn thi học kỳ Hai.
– Sao tôi có cảm giác hai đứa nó là một đôi quá.
Nghe ông Tổng nói vậy, ai cũng hết hồn.

Nhưng rồi tự trấn an rằng chắc Cha đang nói giỡn thôi.

– Xong rồi nhỏ.

Đổi tài!
Vừa nói, Út Thanh vừa giũ tấm khăn dính đầy tóc vụn.

Thằng nhỏ cảm ơn anh bằng cách cho nải chuối nó mới hái ở bờ đất gần đó.

– Tổng…!Tổng Giám mục xuống…!
– Bớt giỡn cha.

– Út Thanh quàng cái khăn mới vô cổ đứa bé gái răng sún.

Nó đòi anh cắt tóc giống một nữ diễn viên bên Đại Hàn.

– Nó đứng lù lù một đống ở đây nè.
Út Thanh bực mình quay mặt nhìn người đàn ông mới vừa phát ngôn.
– Ủa? Đức Cha!
– Nó đó.
Mấy đứa nhỏ chưa kịp chạy về nhà thâu gom ghế cho khách ngồi, đã bị Cha Thành cản lại.

Hồi nhỏ, cụ là thủ lĩnh của cái xấp này mà, nên nhứt cử nhứt động rành sáu câu.

– Sao Đức Cha tới đây?
– Trước là tới thăm hai cậu, sau là…
– Nhà của tụi con ở mé bên kia.

Mình qua đó nghen Đức Cha?
– Ừ.

Ngôi nhà này nằm lọt thỏm trên một bờ đất bốn bề mương nước vây quanh.

Muốn vào nhà phải đi qua một cây cầu nhỏ phẳng băng, trên lắp giàn sắt trồng Ti-gôn, bìm bịp, dây đủng đỉnh và trầu bà, lan-can thì được đậu biếc tim tím quấn thân.
– Vô nhà mà giống như đang đi đám cưới.
Sân trước có một cây bằng lăng đại thụ trổ bông tím ngắt.

Chủ nhà bèn đặt một bộ bàn ghế ván ép giả vân gỗ dưới đó để hưởng bóng mát và làm nơi hàn huyên tâm sự với bạn hữu.
– Chủ nhà này là nữ hay nam mà yêu màu tím dữ vậy con?
– Dạ, đàn ông, giống con.
– Ờ.

– Gabriel Đinh Thái xoa xoa hai bàn tay vào nhau.

– Ông nhạc sĩ Hoài Linh còn sơn nguyên căn nhà màu tím được mà, rồi sáng tác luôn bài “Căn nhà màu tím” để làm kỷ niệm một thuở ở đó.
Vừa hay chỗ ngồi đủ cho mọi người, nên Samuel Định và Út Thanh không cần phải vô nhà lấy thêm ghế.

Sẵn có quán cà-phê đầu đường, Samuel Định nhờ một thằng nhỏ chạy ra mua nước giùm, còn dư tiền bao nhiêu sẽ là của nó hết.
– Chạy từ từ thôi! Té!
Út Thanh bật cười khúc khích:
– Ai biểu nói sớm làm chi cho nó nôn.

Ba Đức ngó Út Thanh, rồi đưa mắt nhìn Samuel Định.

Lạy Chúa cho hai cha nội này đừng có là một đôi.

Hai Nghĩa giờ mới có cơ hội mở miệng.

Anh hỏi thăm con trai của Thầy vài tiếng, rồi trao mấy bịch đồ ăn và con gà nướng lu mua ở quán cơm ban nãy cho họ.

– Cảm ơn anh Nghĩa, anh Đức nghen.

Một thằng nhỏ chừng chín, mười tuổi ẵm đứa em mới hai, ba tuổi đứng ở bờ đất mé tay trái mà ngó sang đăm đăm.

Ánh mắt đó là ánh mắt của Cha Thành khi thấy cái gạc-măng-rê nhà Cha Trung.
Út Thanh bắc tay làm loa hỏi:
– Con muốn ăn không?
– Dạ muốn!
Nó sai thằng em mới tám tuổi chạy qua lấy đồ ăn giùm, vì nó còn bận giữ em.

Thằng em của nó mượn ống thoát nước làm cầu mà đi qua nhà của hai người.

– Ba nó đi làm phụ hồ, rủi sao té từ giàn giáo xuống nên phải nằm liệt ở nhà dưỡng thương, má nó nhận đồ về may không đủ sống nên phải đi ở đợ cho người ta.
Rồi Út Thanh bổ sung:
– Anh Khiêm và mấy bạn của ảnh lo chi phí thuốc thang và điều trị này nọ nên họ cũng đỡ khổ.

Gabriel Đinh Thái đã hiểu tại sao Chúa lại khuyên họ nên ở giữa người nghèo.

Ông đưa mắt nhìn Út Thanh, ánh nắng chan hòa của vắt trưa đổ xuống đang ôm lấy thân thể người trai đó như hào quang muôn trượng của Chúa.

Chưa lên Thiên Đàng mà ông đã được thấy rất nhiều Thiên Thần của Ngài đang ngự trị nơi đây.

Manuel Ngô và Judas đang ngồi ăn kem trong một quán cóc gần Lăng Ông – Bà Chiểu.

Một buổi chiều Sài Gòn lác đác mưa và gió nhẹ.

Tiếng lao xao của những vòm me xanh như những nốt nhạc vui gửi vào khung trời thơ mộng.
“Ta nghiêng vai soi lại cuộc đời
Thì hãi hùng hoàng hôn chờ tới…”
Giọng ca Ngọc Lan trong bài “Tưởng niệm (Về cõi hư vô)” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng cứ vậy gợi cho hai người những hoài niệm về cuộc đời.

Hai người vừa từ chỗ Út Thanh và Samuel Định về, nói cụ thể hơn thì họ là thầy giáo dạy tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha miễn phí cho người hiếu học, giờ dạy là chín giờ sáng tới mười hai giờ trưa.

Vì vậy họ không gặp mặt Đức Tổng Giám Mục và những người còn lại.

– Hai mối quen muốn nghe bài gì?
Mười Anh trả lời dì chủ quán:
– Con muốn nghe bài “Tình xanh (Tình yêu màu xanh)” do Ngọc Lan ca, nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ ca khúc “Lamour est bleu” của đôi nhạc sĩ André Popp – Pierre Cour.
– Có liền.
Mười Anh kêu thêm một dĩa bánh plan bí đỏ cho mình và một phần Halo-Halo cho Judas.

– Chừng nào Manuel khỏe rồi, tôi sẽ đưa Manuel qua Mỹ chơi một chuyến.
– Hứa nghen?
Hai người bèn ngoéo tay nhau thề.

Rồi phá lên cười sặc sụa vì biết thể nào cũng có người hiểu lầm Út Thanh và Samuel Định là một cặp.

Không biết người bị lầm lần này là ai đây?
oOo
Mối tình thứ hai trong cuộc đời cô Xuân vừa tặng cho cổ băng nhạc “Giã từ” do Duy Trác hát chính.

Người bạn cùng phòng của cô đang nghe bản “Yêu anh lần đầu” do Ngọc Lan ca, nhạc sĩ Nam Lộc đặt lời Việt từ tình khúc “Nostalgie Cinéma” do bộ ba tác giả Dorine Hollier – Georges Lunghini – Vincent Marie Bouvot đồng sáng tác.
Cô bạn cùng phòng khác đang ngồi thêu đồ cho khách chợt bật cười khúc khích.
– Sao vậy cô nương?
– Tui nhớ, cái tuồng cải lương “Lan và Điệp” á, tụi nhỏ nó chế thành như vầy nè, “Lan ơi, xin em đừng cắt đứt dây chuông rồi đấu vô đường dây điện.”
Nguyên phòng cười rần rần.
Một cô phụ họa:
– Mấy thằng gạt con gái người ta rồi bỏ phải đấu dây chuông vô đường dây cao thế mới hả.

Cho tiệt hết dòng giống Sở Khanh.

– Bà ác quá bà ơi.

Bà ở chùa mà bà ác quá hà.
Cô gái thêu đồ mướn bỏ xấp đồ mà bươn lại cù-lét nhỏ bạn thân.

Hai người đùa giỡn rộn cả lên làm mấy cô gái khác phải can ngăn vì sợ Ni trưởng rầy.
Ở đây ai cũng y như cô, bị người ta chơi chán rồi bỏ, số khác gặp người đã có vợ nhưng giấu tiệt làm đời họ dang dở như bông lục bình trôi vô định.

Cô vẫn còn may vì không bị cấn bầu, chứ không thì tội bất hiếu của cô có chết ngàn lần cũng không đền nổi.
oOo
Đức Hoàng hỏi thằng bạn Biên Hòa:
– Rồi ông Cha ở Giáo hạt Hố Nai nuôi mày tới lớn?
– Phải.

Sau năm Hai ngàn, tung tích của ba mẹ tao vẫn biệt vô âm tín.

Có nhiều người nghi ngờ nói giả thuyết cho tao nghe, nhưng tao không muốn tin.

Phải chi cái gốc của tao là ở trong này luôn thì hay quá, đỡ phải khiến cho tao mặc cảm tội lỗi suốt đời.

– Công.

Trước đây mày họ gì?
– Cũng họ Nguyễn luôn.

Rồi gã trai Hố Nai giãi bày:
– Họ biểu tao không phải là con của ba mẹ tao, nên sau khi có con ruột thì họ bỏ tao ở lại chỗ Cha Mathis Hoàn.

Mà, rõ ràng mặt mày tao hổng giống cha cũng hổng giống má…
Vừa nói, thằng Công vừa mở bóp lấy ra một bức ảnh chụp gia đình nó.

Sau một hồi “phân tích”, Đức Hoàng vỗ đùi cái đét rồi reo lên:
– Ê, hổng giống thiệt nghen! Cái miệng mày móm sọm, còn cái miệng của hai ông bà trong ảnh hơi hô.

– Không biết trên mạng còn lưu trữ dữ liệu về chương trình “Chuyến tàu hồi hương” hôn hén?
– Chắc còn…!
Khán Bình hỏi trong khi vẫn xào hến:
– Nhưng sao mày ra ngoải được?
– Tao sẽ nhờ phái đoàn tôn giáo nào đó cho đi chung..


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.