Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 172: Hồi Ba Mươi Hai Mùa Gió Bấc A
Nơi sân thượng khoảng khoát của viện dưỡng lão, những người tuổi hạc đang thực hiện hoạt động yêu thích của mình như nói chuyện phiếm, tập dưỡng sinh, đọc sách, thục bi-da, chơi trò chơi điện tử, đánh bài, chăm sóc cây kiểng – vườn tược,…!hoặc nhờ các điều dưỡng viên làm đẹp, đấm bóp,…!cho mình.
Vừa làm móng cho một ông lão mới mổ lấy sạn thận, Năm Tường vừa ca bài “Tình thắm duyên quê” của nhạc sĩ Trúc Phương, mà anh đã từng nghe qua phần trình bày của năm cặp ca sĩ: Nhật Trường – Mỹ Lan, Mạnh Đình – Sơn Tuyền, Duy Khánh – Thanh Huyền, Mạnh Quỳnh – Như Quỳnh, Tuấn Vũ – Sơn Ca:
“…!Trai miền sông Hương hẹn gái miền Cửu Long
Hai ta ước thề xây thắm tình duyên quê…”
– Tường.
Năm Tường ngừng cắt móng tay cho ông lão và ngẩng mặt lên hỏi:
– Dạ?
Ông lão gãi đầu, rồi cười cười hỏi:
– Có tính lấy vợ hôn, ông làm mai cháu gái cho?
Thể theo lời mời của ông lão Công Giáo, Năm Tường cùng người khách đang sống trong viện dưỡng lão tới thăm Giáo xứ Saint Pio.
Mấy tuần trước em Mười có mời anh và các anh em Mục sư khác ghé chơi, nhưng vì mắc bận tổ chức tiệc mừng thọ cho một bà lão vừa mới trải qua cơn nguy kịch nên anh đành lỗi hẹn.
– Cha, cái xe Toyota dòng Highlander này rộng rãi thiệt! Mua đứt hay trả lần lần con?
Năm Tường vừa giúp ông cài dây đai an toàn, vừa cười đáp:
– Dạ, con mua trả góp, chứ đâu có giàu sang tới nỗi mua đứt nổi một lần, ông.
– Nhiều ít?
– Dạ, cũng bộn.
Đáng ra con tính để dành chở ôn mệ, cha mạ, nhưng chừ thì mọi sự tiêu dên hết rồi!
Giọng Huế rặt của chàng Mục sư Marshall Võ Kiến Tường nghe véo von như chim hót, trái ngược hẳn với sự bải buôi, chất phác mà anh hằng có khi nói giọng miền Nam.
Ông lão đập nhẹ lên mu bàn tay anh mà hỏi:
– Con còn nói được tiếng Huế thuần không?
– Tiếng Huế chay hả ông? Dạ, không còn lại bao nhiêu đâu ông.
– Đâu, con thử ca chơi một đoạn bài Huế nào đi.
Năm Tường bèn bật bản “Mùa Đông xứ Huế” do Duy Khánh ca, rồi bắt đầu nhẩm theo; bài trên là sáng tác của đôi nhạc sĩ Minh Kỳ – Lê Dinh:
“…!Xa Huế thân yêu nhớ nhiều ai ơi
Nhớ bến sông Hương, nhớ hoài con đò
Hẹn ngày mai về thăm kinh đô
Để vương vấn thôi vấn vương ta
Ôi nhớ thương Huế đẹp, Huế thơ…”
– Bài này cô Hoàng Oanh, cô Hương Lan với anh Giang Tử ca nghe cũng mùi lắm con.
Năm Tường gật đầu cười.
– Đâu, con hò một đoạn cho ông nghe coi.
Chiều theo ý ông lão, Năm Tường chọn bài “Huế đẹp, Huế thơ” của ca – nhạc sĩ Duy Khánh.
Bài này có một đoạn hò Huế nghe thương lắm là thương.
“…!Trường Tiền nghiêng nghiêng
Tiếng dép Trị Thiên nghe não nuột đêm trường
Tiếng ai sầu thương ôi xót xa bên dòng Hương
Chừ xa rồi Huế đẹp của mình ơi
Đường lên Nam Giao chừ mới thiệt là cao…”
Ông lão vỗ đùi cái đét:
– Bài này Bắc hay Nam gì ca cũng lẹo lưỡi hết.
Vì toàn tiếng “nước Huệ”, lại còn thêm khoản hò nữa chớ.
Xui cho hai ông cháu, đi đúng lúc tan trường, tan sở nên kẹt xe kinh khủng.
Cơ hồ như một phút nhích được một mi-li-mét, đã vậy thời tiết còn oi nồng, máy điều hòa trong xe không thể cứu vãn nổi hai người.
Ông lão ôm ngực thở dốc, rồi làm liều cởi dây đai ra cho đỡ ngợp.
Bên cạnh ông, thằng cháu trai “nước lã”đang uống từng ngụm nước suối.
Quán cà-phê ven mé lộ đang phát bản “Tango Dĩ vãng” do Phương Dung ca, một sáng tác của nhạc sĩ Anh Bằng.
Ngoài nữ danh ca trước năm 75 này ra, còn có Kiều Nga, Khánh Ly, Lệ Thu, Họa Mi, Lưu Hồng, Thiên Trang, Giao Linh, Thanh Tuyền, Ý Lan,…!trình diễn ca khúc này khá hay theo phong cách và tiết điệu biến tấu của riêng họ.
Ông lão nhớ tới lớp dạy khiêu vũ của người vợ quá cố, nước mắt cứ thế giàn giụa như mưa.
Đời ông còn gì đâu ngoài cái tuổi già và tấm thân bịnh hoạn tối ngày.
Chiếc xe lết thêm hai tiếng nữa mới tới được cái xóm Đạo ấy.
Thường ngày cổng không đóng kín, mà mở toang như dang tay đón khách vô chơi.
Từ ngày “binh biến” kéo đến, các buổi Thánh Lễ phải khóa kín cổng để tránh kẻ gian vào quậy phá.
Ông lão chỉ cho Năm Tường vô Giáo xứ bằng cổng Nam.
Nếu đi bằng lối này sẽ băng qua một rẫy trồng khoai, sắn, củ ấu, củ năng và củ mài của bà Tư Xoan; mấy tiệm chè lớn nơi đô thành rất ưng nông sản chỗ bà vì vừa rẻ vừa sạch.
Nghe Năm Tường nói thích ăn củ ấu, ông bèn biểu anh dừng xe rồi bước xuống mua tặng mấy ký củ ấu.
– Ha, cái này mà chơi đánh bài quẹt lọ nồi là đã luôn con.
Hai bàn tay của ông lão đen như nhuộm sau khi lột vỏ củ ấu, chùi với giấy cỡ nào cũng không ra.
– Nè, há miệng ra, ông đút cho bây ăn.
Nhìn bây mà tao nhớ thằng cháu đang đi làm công bên Nhựt quá.
Hồi nó còn nhỏ, hễ thấy tao ăn gì ngon ngon là nó lại xáp tới há miệng đòi.
Năm Tường phì cười, rồi cũng nghe theo lời ông.
Vị ngọt bùi mộc mạc của nó như liều thuốc tiên giúp anh vơi bớt phần nào mệt nhọc.
Thay vì đi qua cây cầu, ông lão lại biểu anh quẹo trái để đi vô một con đường đất có hai hàng cây thao lao trổ bông tím ngắt.
Hai bên đường, cỏ dại mọc chen lộn với loài sao nháy, mười giờ và dừa cạn.
Cảnh đẹp đó bị mấy miếng rác làm cho kém sắc đi, ông cười trừ và phân bua lia lịa với anh; thật ra, anh không phải là người để tâm tới tiểu tiết nên vẫn thấy bình thường.
– Tắp vô đây đi con…!
– Dạ.
Nơi ngừng bước của hai ông cháu là quán ăn nhỏ của người Minh Hương.
Phía trên cửa chính có gắn tấm bảng bằng cây cẩm lai, trên mặt viết bằng tiếng Hán hay Hán – Nôm gì đó gồm có ba chữ, mỗi chữ đều được dát vàng; nếu như Năm Tường đoán không lầm thì chữ cuối là “Ký” và hai chữ đầu là tên riêng của quán.
Dì Bảy không còn nói được giọng Hoa – Việt lơ lớ như thời ông tằng bà tổ, dì nói tiếng Việt rất rõ ràng và khi nói tiếng cố hương cũng rứa, sự tách bạch đó phần nào đã làm tróc đi cái gốc xa xuôi của dì và gây ngộ nhận cho người đối diện rằng dì là người Việt rặt nếu như dì không kể cho họ hay.
Sẵn đang “mót”, Năm Tường tắt máy và khóa xe cẩn thận rồi bước xuống xe mà vô trong quán xin đi nhờ nhà vệ sinh.
Dượng Bảy bèn dắt anh ra khu “villa” ngàn sao ở sau hè, cái buồng được quây từ bốn tấm tole, mái che lợp bằng ngói theo kiểu dốc nhưng không kín mà để hở khoảng một tấc cho thoáng khí, bên trong vẫn có bồn cầu và bồn rửa mặt đường hoàng; nghe đâu ngày nào cũng có người tới lau chùi sạch sẽ nên nhà vệ sinh này không mấy hôi hám và dơ dáy.
Ở trong quán, Stephen Đoàn cho Ignacio Cường xem đĩa than mà cô bạn miệt dưới gửi tặng nhân dịp Giáng Sinh sắp tới.
Người bạn Mục vụ thấy vậy bèn gác cái muỗng lên tô canh, rồi chùi tay thật sạch trước lúc xin mượn cái đĩa coi thử.
– “Đĩa nhựa 12 – Mùa Giáng Sinh”? Lần trước thì cổ tặng anh đĩa số Mười ba.
Stephen Đoàn vẫy tay ngoắc dượng Bảy, rồi nhờ dượng phát nhạc giùm mình.
Dượng Bảy chọn bài “Lòng thành (Lạy Chúa Ba Ngôi)” do Julie Quang biểu diễn; một sáng tác của nhạc sĩ Tuấn Hải, trong bài này ông ký thêm tên của con trai ông là Lê Kim Khánh bên cạnh bút hiệu Tuấn Hải của mình:
“Lạy Chúa xót thương con không Đạo
Mà con tin rằng có Chúa trên cao…”
Bữa nay dượng Bảy mua được mớ cá nâu tươi rói nên đem về chiên giòn với nước mỡ thắng, rồi nấu thêm tô canh rau ngót với cua đồng xay nhuyễn và nướng cà tím trên lửa than miểng gáo.
Vậy là xong bữa cơm trưa của mấy Cha.
Nán lại tán dóc vài câu nữa với vợ chồng dượng Bảy, hai ông cháu mới tiếp tục chặng đường còn lại.
– Dì Bảy tên thật là Huyền Anh, lấy từ cái tên trong câu chót của ca khúc “Huyền” nhạc sĩ Thanh Trang sáng tác.
Tiếng ca trong vắt như pha lê của ca sĩ Quỳnh Giao cũng là nguyên nhân chính dẫn tới chuyện dì Bảy có cái tên này.
Năm Tường gật đầu, ra hiệu đã nghe.
– Còn con?
– Con cũng không biết nữa ôn ơi, con bồ côi bồ cút từ nhỏ mà.
Nhưng chắc có lẽ Kiến Tường là nơi se duyên cho cha mạ con.
Ngôi nhà ba tầng mà đại gia đình ông lão đang ở nằm ven một bờ đất trồng bông sua đũa và điên điển.
Nghe ông lão kể thì bờ đất này của gia đình hàng xóm, họ kiếm thêm tiền chợ bằng công việc bỏ mối thứ rau miệt vườn trên cho các hàng ăn, quán xá.
Lần theo ngón trỏ của cụ, Năm Tường thấy một ngôi nhà ba gian hai chái mái ngói Âm Dương cam rực nằm ẩn sau rừng ổi thơm phức; sân trước có đặt bàn thờ Thiên, được dựng bằng cột xi-măng và ốp gạch bông kiểu rất cũ, bệ thờ là một cái tủ nhỏ đóng bằng cây thao lao đã được ngâm dầu hôi nên vẫn còn nguyên vẹn tới giờ.
– Cụ bà theo Đạo Phật, tuy đã mất, nhưng con cháu vẫn còn giữ cái bàn thờ Thiên ấy đặng làm kỷ vật.
Chiều nào con cháu cũng luân phiên ra thắp nhang và thay nước với bông cúng.
Ánh mắt Năm Tường buồn rười rượi.
Anh ngậm ngùi thưa:
– Dạ, con mà hay ai giữ kỷ vật của ôn mệ, cha mạ con, có tốn tiền muôn bạc vạn con cũng tới đó xin chuộc lại.
Chưa vô tới cổng mà tiếng con gái cười giỡn um sùm đã vọng tới tai hai ông cháu.
Ông lão cười khổ với anh, còn anh thì nghĩ, “Con gái chi mà vô duyên ộn.”
– Ủa, ông nội mới dìa, ông nội đợi xíu nghen? Con nấu bún bò chưa được.
– Chúa ơi, thôi chị Ba, chị Ba để tôi ra ngoài quán mua một tô cho lẹ.
– Mần răng mà cô ni nấu bún bò nỏ được?
– Ông nội, ông nội, ông nội mới ra Thần Kinh rước đầu bếp vô dạy con nấu hả nội?
Năm Tường ngó bàn bếp để nồi đụng tứ lung tung tràng mà trong lòng thoáng thấy bực mình.
Nường ni mà vô tay chủ quán trước đay của anh thì “mềm xương”.
– Đừng chuộng vị tinh.
– Là cái gì hả anh?
– Bột ngọt.
Ngoài Bắc kêu “Mỳ chính”.
Từ thuở mô đến chừ, anh chưa từng thấy ai nấu bún bò tệ hơn nường ni.
– Cô muốn hầm thịt bò cho mau mềm, nên bỏ vài miếng thơm vô nước lèo; thịt bò sẽ vừa mềm vừa bớt tanh.
Riêng về phần mắm ruốc, cô phải xào sơ trên chảo cho “săn” lại rồi mới vít từng chút vô nồi nước, nêm thấy dậy mùi thì ngưng; đừng cho hết một lần, kẻo một lát nước sắc lại sẽ mặn vô hậu.
Ngoài ra còn phải nướng gừng nữa.
– Biết vậy tui hổng nấu bún bò đâu.
Nấu món chi mà cực vô hậu.
– Răng cô noái nghe tức cười hỉ? Nấu món chi mà nỏ cực?
– Mỳ gói.
Năm Tường tự nhiên có “một khát khao, một ước ao” là tới bệnh viện thỉnh Tám Khiêm về đặng đối đáp lại cô gái có lối nói hiện ngụy nì.
– Cô nấu coi phiêu quá.
Ba Thoa ngó Năm Tường đăm đăm.
Bất đắc dĩ cô mới phải diễn vai này để cuộc mối mai ấy tan hàng, vậy mà người sắp tức chết lại là cô.
Người trai đang nói như hót kia cầm bịch bún khô lên săm soi, rồi nhún vai bình phẩm:
– Cái nì là cọng bánh canh mà, mô phải cọng bún tê.
– Dì bán biểu đúng nó mà!
– Xòe tay ra.
Năm Tường ghi tên loại bún mà mình ưa ăn mỗi khi nấu món nì vô lòng bàn tay của nường nớ.
Anh chừ mới hiểu răng mà nường nì ế.
Ba Thoa cười duyên với anh theo kiểu mím môi mắm lợi, rồi cúi đầu thưa ông nội trước lúc lên xe chạy ra chợ tìm mua loại bún đó.
– Sao thường ngày con nói chuyện với ông bằng giọng miền Nam, mà nay gặp cháu ông lại nói bằng tiếng Huế?
– Dạ, con muốn ghẹo cổ xíu thôi ông.
Mong những lời nói sầm sầy của con không làm phiền lòng ông.
Ông lão biết cuộc mối mai coi như tanh banh, nhưng không giận mà lại còn mắc cười, vì “đàng trai – đàng gái” không ưa nhau nên bên nào cũng chêm móc câu vô lời ăn tiếng nói thành ra nghe như đang diễu hài.
Trong lúc chờ cô gái về nhà, Năm Tường rửa rồi lặt sạch mớ rau sống; về phần thịt bò, anh trụng sơ với nước sôi, để nguội một lát, rồi đem ra rửa lại với nước sạch, rượu trắng và muối hột trước khi bắt lên bếp luộc với các nguyên liệu khác.
Nồi nước lèo bún bò y hệt vị bún nước lèo nên anh buộc lòng phải đổ bỏ và đi nấu lại từ đầu; cũng may có nồi áp suất nên không tốn thời gian nhiều, chỉ ngặt nỗi nó sẽ không ngon bằng nấu trên củi than.
– Ông mời con tới đây ăn bún bò, rốt cuộc lại khiến con đi nấu bún bò thay…!
– Có sao đâu ông? Con cũng ưa nấu nướng lắm.
Vừa mới nói dứt câu, một người đàn ông mặt mày khờ ịch đi cà nhắc lại bàn bếp.
Nếu như Năm Tường đoán không lầm thì đây mới là cháu rể tương lai của nhà cụ.
Không phải vì ghét nường tê mà anh giở bày trù, mà kỳ thực cái ánh mắt của anh ta đã biểu lộ điều đó cho anh linh cảm thấy.
– Anh phụ tôi xắt hành, bào rau muống với bắp chuối và lể xí-quách được không?
– Được…!Được chớ…!
Không biết nường tê mua bún ở chỗ mô mà bây chừ vẫn chưa về.
Năm Tường và chàng rể nớ đang chuyện trò với nhau về tin Bộ trưởng Nội An Nguyễn Kim Hương đã đệ đơn xin từ chức vì không chịu nổi áp lực từ phía gia đình các nạn nhân trong thảm án “Hai Mươi” và “Bát Bửu”.
Phe đối lập đều khấp khởi hy vọng “Cha già” Đăng Khánh cũng từ chức nốt để họ còn bắn pháo bông ăn mừng.
Nhưng chắc có lẽ chừng nào cha Khánh nằm liệt một chỗ, chừng ấy ông ta mới chịu nhượng bộ mà về vườn an hưởng tuổi hạc.
Từ chuyện nọ xọ qua chuyện khác, dân biểu An Tần vì chuyện tình đồng giới của anh Hai và bê bối đời tư của mẹ ruột mà bị trì hoãn việc nhậm chức; dù rằng cái chức dân biểu chẳng đáng để mất công mất sức tranh đoạt, nhưng không hiểu sao chàng ta lại tiếc nuối níu kéo như vậy.
Chừng nghe tiếng kèn xe “Tin”, “Tin” ngoài cổng, buổi tranh luận chánh trị của hai người con Chúa mới ngưng.
Chưa bước lên bậc tam cấp mà tiếng của cô Thoa đã vọng thẳng xuống bếp.
Cô mang theo một bịch mứt chùm ruột, chỉ cần liếc mắt qua Năm Tường cũng biết phần quà đó là của ai.
Vì không quen nấu nước lèo bằng nồi áp suất “cấp tốc” nên súp hơi mặn.
Chẳng nề gì, chỉ cần múc ra phân nửa rồi đổ thêm nước lạnh đặng nấu loãng ra trên lửa riu riu một chút là xong.
Sợ súp bị lõng bõng, Năm Tường nướng sơ một củ hành tây bự chác rồi xắt lát trước khi cho vô nồi, đoạn anh bỏ thêm một ít sa-tế và toàn bộ thịt bò vụn.
Ước chừng mươi, mười lăm phút sau, anh mới tắt lửa, rồi làm cho mỗi người một tô vung chùng.
Cô Thoa đếm được tổng cộng anh quậy nồi nước lèo bốn lần.
Thấy người đàn ông kia đi cà nhắc cà nhưỡi nên Năm Tường biểu anh ta làm ơn “an tọa”, để việc bưng bê cho mình và cô Thoa lo.
– Anh là Mục sư hả anh Tường?
– Phải, thưa cô.
– Mới đầu thấy anh “Nghìn trùng xa cách” quá khiến tôi hơi bực.
– Tôi cũng xin lỗi vì đã lấy tiếng Huế ra ghẹo cô.
– Tôi thương ông này mà ông nội cứ bắt tôi lấy người khác lành lặn hơn ổng.
– Dạ, cô khỏi nói, nãy giờ ảnh nhìn tôi “thương quá đỗi” đủ để tôi hiểu rồi.
Ăn được đâu nửa tô, thấy ngon quá nên ông lão bèn gọi điện “hú” hai cha con Cha Thành qua ăn chung cho vui.
– Chân anh bị sao vậy anh Út Nhót?
– Dạ, tôi bị quẹt xe, xui rủi sao bị xe lớn cán lên nên đâm què.
– Có đi sắp xương lại không?
– Dạ, hổng có tiền.
– Tôi có đứa em là bác sĩ trưởng khoa Chấn Thương – Chỉnh Hình; hễ ai cần là nó và đồng nghiệp sẽ giúp ghi danh mổ và tham gia chương trình vật lý trị liệu miễn phí.
– Ghi danh miễn phí hay mổ và điều trị miễn phí anh?
– Cả ba.
Út Nhót đứng bật dậy, rồi ba chân bốn cẳng phóng về nhà để lấy giấy tờ.
– Chúa ơi, nó què mà nó chạy được kìa!
Cô Thoa nhìn người yêu mà bụm miệng cười nắc nẻ.
Rồi vừa với tay lấy khăn giấy vừa hối ông nội mau ăn giò heo kẻo nguội mất ngon.
Tiếng hát Duy Khánh trong bản “Về với mẹ cha” của nhạc sĩ Nguyễn Đức Quang đã khiến ông lão sầu thương.
Có thể xếp bài nhạc này vô thể loại “Chiêu hồi”.
Chiêu hồi họ về với ai? Về với Mẹ – Cha.
Từ trên chiếc xe bán tải, thầy Dự đỡ Cha Thành bước xuống.
Cụ vừa ghé bệnh viện lọc thận theo lịch trình, nên sắc diện không mấy tốt và tươi tỉnh.
Còn thầy Dự thì mới lấy máu xét nghiệm nên mặt mày cũng chẳng được vui vẻ.
– Ủa Năm Tường?
– Dạ, con đây, thưa Cha.
Đã nghe qua tài nghệ nấu nướng món Huế của Năm Tường nên hai cha con luống tuổi rất mừng.
Không ai biểu ai, người nào người nấy đều tự giác ngồi xuống ghế và soạn sẵn muỗng, đũa.
Cô Thoa đưa chai nước rửa tay khô cho Cha Thành và bác Dự.
Rồi đi chế nước mắm và gắp ớt bỏ vô.
Về phần nội, nội đang mở tủ lạnh để lấy ra hai chai nước sâm mua ở tiệm cơm vợ chồng dượng Bảy.
– Khỏi liếc nữa, Dự.
Tôi tự biết mình phải bớt ăn thịt đỏ.
Thầy Dự nhịp nhịp đôi đũa trên cục giò heo đã được rút xương sạch sẽ:
– Đừng có ăn giò heo luôn.
– Cho tôi ăn giò lợn bữa nay nhé cậu.
– Bố lại nhại con! Ối giời đất ơi!
– Hai cha con mần răng mà noái lác lác nhau rứa?
Quả đúng như tiên liệu của Năm Tường, hai cha con làm thinh, hết móc họng nhau nữa.
Ăn được đâu vài đũa, Cha Thành mới đánh tiếng hỏi:
– Hỏi thiệt nghen Tường…!
– Dạ?
– Con nói tiếng Huế rặt rồi sao tín hữu con hiểu?
– Bởi vậy nên con đâu có được giảng chánh.
Thường thì anh Hai Nghĩa, Ba Đức và em Mười Anh lo vụ này.
Đáng ra dùng bữa xong, hai cha con về nhà.
Nhưng một cơn mưa vu vơ ghé qua nên hai người đành ở lại đụt mưa.
Ngoài sân mưa sa lạnh lẽo, trong này vang rộn tiếng cười và lời ca bất hủ.
Cô Thoa đang xẻ ổi và cam sành, còn người thương của cô thì bào củ cải đỏ và trắng để làm dưa chua; anh bán bột chiên, bánh hẹ, bò bía và gỏi cuốn ở chợ Bến Thành, lợi tức thu về cũng kha khá, đủ để anh nuôi vợ con và gia đình nội – ngoại hai bên.
– Đang đọc chi rứa thầy?
– Cuốn “Nhà tôi” của nhà văn Bắc Kỳ Duyên Anh, đây là một tác phẩm châm biếm khá vui.
Đọc để hiểu thế nào là tự do văn chương và tư tưởng.
Ông lão vuốt râu cười:
– “Nam Võ Phiến, Bắc Duyên Anh.”
Năm Tường hỏi:
– Những tin đồn về Duyên Anh – Vũ Mộng Long là sao hả ông?
– Hãy đọc cuốn “Một người tên là Trần Văn Bá” của Duyên Anh…!
Thầy Dự trình bày quan điểm của mình:
– Nhóm chữ “Phân biệt vùng miền” hoàn toàn sai bét.
Nhóm chữ đúng phải là “Kỳ thị địa phương”.
Bởi vì chữ “Vùng” và “Miền” đều có nghĩa chung là “Địa phương/Vùng hoặc miền đất”, thành thử ra nguyên câu văn sẽ là “Phân biệt vùng đất vùng đất” hoặc “Phân biệt địa phương địa phương”.
Nó cũng thừa thãi như “Bổ sung thêm”, “Khả dĩ có thể”, “Đề xuất ra”, “Cấm không được”, “Cặp đôi”,…!
Út Chót mời thầy Dự giải thích rõ hơn.
Simon Tử bèn đáp rằng:
– “Bổ sung” có nghĩa là “Nói thêm”; nếu bỏ thêm chữ “Thêm” đằng sau chữ “Bổ sung” sẽ thành “Nói thêm – Thêm”.
“Khả dĩ” có nghĩa là “Có thể”; xài một trong hai thôi, xài hai cái cùng một lúc sẽ bị thừa.
“Đề xuất”, chữ “Xuất” có nghĩa là “Ra”, vậy nên ghi “Đề xuất” là đủ không cần chữ “Ra”.
“Cấm” mang hàm nghĩa tương tự như “Không được”, nhưng về ý lại nặng nề và nghiêm nghị hơn “Không được”.
“Cặp” và “Đôi” cũng vậy, chỉ dùng một trong hai, dùng hai cái là thừa.
Út Chót lại hỏi:
– Còn chữ nào xài hổng phù hợp hôn thầy?
– Là “Ghi danh” và “Đăng ký”.
Trước năm 75 ở miền Nam, chữ “Ghi danh” được dùng riêng cho con người, còn chữ “Đăng ký” thì ứng trên con vật, đồ đạc, cây cảnh, nông sản,…!Sau này chữ “Ghi danh” biến mất, “thế giới đại đồng” nên người hay vật gì cũng đều xài chữ “Đăng ký”.
Một cơn đau bụng đã khiến Cha Thành không ngồi nổi.
Năm Tường bèn dìu cụ lên võng nằm, thầy Dự theo hầu kế bên.
Có lẽ ban nãy chàng Mục sư bỏ ớt quá lố nên người Linh mục quản xứ bị đau bao tử.
– Cảm ơn con.
– Cảm ơn chuyện gì thế Bố?
– Cảm ơn vì con vẫn còn giữ được cái giọng Bắc 54.
Thầy Dự cười khổ:
– Người Bắc 54 cũng không dễ ưa đâu Bố…!
Cha Thành vỗ, vỗ vai con trai nuôi:
– Cha đâu có nói người Bắc 54 tốt hay xấu, trung hay phản, thiệt hay xạo,…!Chủ đề mà Cha đang đề cập là giọng nói kìa.
Cha tìm hoài tìm mãi mà không thấy ai ở Đàng Ngoài còn mang giọng nói như con, tiếng nói của những Anh Ngọc, Duy Trác, Nguyễn Đình Toàn, Nhật Bằng, Mai Thảo,…!Tiếng nói mang âm hưởng đặc trưng ấy chuyên chở những lời hay ý đẹp và tri thức đáng mến, không phải là kiểu du đãng và sang sảng thất học mà Cha thấy nhan nhản hiện nay.
Cô Thoa thốt lên:
– Hèn gì ông bà xưa dạy, “Giọng nói sanh ra từ bản chất”.
Anh chàng cà nhắc hỏi:
– Còn những người cà lăm thì sao Cha?
– Một số người mắc tật nói lắp là do trái tim quá nhân hậu, vì họ sợ lời ăn tiếng nói của mình có thể khiến người nghe đau lòng nên cứ ấp a ấp úng hoài mà không dám dạn miệng làm tròn câu.
Anh ta thở dài thườn thượt:
– Vậy thiệt thòi cho họ quá…!
– Chưa chắc đâu con.
Bởi làm người nhân hậu, nghèo tiền nghèo bạc thật nhưng khối óc được thanh thản và tâm hồn được thảnh thơi, đôi mắt không cần phải liếc tới ngó lui sắc mặt người khác để sống và cái miệng cũng chẳng cần mất sức biên soạn lời lẽ để lấp liếm, biện minh.
Trái ngọt đó chỉ riêng người nhân hậu được thụ hưởng và nếm trải.
Thầy Dự lắc đầu cười trừ.
Cái máy hát “bảo vật” đang phát bài “Tình thương mái lá” của nhạc sĩ Trúc Phương và do Thanh Tuyền ca.
Ông lão nhìn người đàn ông cà thọt đó, rồi vuốt râu tủm tỉm cười; dẫu sao mái lá sứt xổ vẫn hơn mái ngói buồn hiu.
Kế, cô Hoàng Oanh trình bày ca khúc “Thương Huế” của nhóm nhạc sĩ Lê Minh Bằng, trong bài này các bác ký tên là Anh Bằng – Hoàng Minh; một trong những bài hát tưởng niệm nạn nhân Tết Mậu Thân.
– Con có ngờ ôn con ác rứa?
Cha Thành an ủi:
– Vậy con ráng sám hối thay cho ông con đi.
Năm Tường lắc đầu:
– Cha cũng biết đại tội bên đức tin mình mà, dẫu Tin Lành hay Công Giáo đều công nhận rứa, thì dễ đâu chỉ bằng sự sám hối của mình con có thể thay ôn con chuộc tội.
Cô Hoàng Oanh lại ca một bài tưởng niệm, mang tên “Chỉ còn cây đàn này thôi” của nhạc sĩ Lê Mộng Bảo.
Càng làm trái tim chàng Mục sư Thần Kinh thêm âu sầu vạn nẻo.
– Ca một bản về Huế chơi đi Tường.
Ôn ghiền nghe con hò Huế lắm.
– Dạ, con có hai bản của nhạc sĩ Lê Dinh, một là “Huế buồn” và hai là “Huế vẫn còn thương”, ôn muốn còn hát bài nào trước?
– Bài nào có hò thì ca trước.
– Dạ, nhứt thời quá nên con nỏ nhớ nổi bài nào có hò, bài nào không.
– Vậy con muốn ca bản nào cũng được.
– Dạ, vậy để con ca bản “Huế bây chừ” của nhạc sĩ Anh Bằng nghen?
Cô Thoa bông đùa:
– Mấy ông nhạc sĩ ưu ái Huế với Đà Lạt quá, bỏ quên Sài Gòn và cái xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh này.
– Đâu, có nhiều người cũng viết mà cô, như Anh Việt Thu, Y Vân, Thanh Sơn, Trần Thiện Thanh, Phạm Duy,..
chẳng hạn.
– Ý của tôi là mỗi tỉnh lác đác mấy bài, còn riêng Cố Đô gần cả trăm bài.
Sợ cháu mình đùa dai một hồi sanh cự cãi, nên ông lão bèn lái sang chủ đề khác.
Cụ nhờ chàng Mục sư bồ côi giới thiệu Huế cho mọi người hay.
Ký ức về Thần Kinh của anh rất vụn vặt và mơ hồ, những mẩu chuyện đó không đủ để gợi lên bức tranh Cố Đô trong lòng khách nghe, anh đành ngắt ngang buổi tự thuật trước khi khiến mọi người ngủ gật hết.
Ông lão tìm thấy băng nhạc “Nghệ Thuật 12 – Quê Hương và Hòa Bình”, rồi tua tới bản “Ngày chưa nguôi yêu dấu” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng và do Duy Trác hát.
Đoạn cất giọng giới thiệu:
– Trong băng nhạc này có bản “Múc ánh trăng vàng” của Hoàng Thi Thơ, cũng do Duy Trác trình bày, nghe hay dữ lắm.
Ngoài trời đã ngớt mưa, hai cha con xin phép cáo từ.
Trước lúc rời khỏi Giáo xứ, Cha Thành kêu con trai ghé qua ngôi nhà đang cất dở dang của đại gia đình tứ cố vô thân kia, số là cụ muốn hỏi họ về chuyện trang trí nhà cửa và sân vườn.
Hôm làm lễ “động thổ”, cụ và Cha Cường có làm phép thanh tẩy cho miếng đất cùng với bãi tha ma và vẩy nước Thánh lên đầu từng người trong đại gia đình, cũng như đội thợ – thầy.
Bữa nay nhằm ngày Chúa Nhựt nên hai vợ chồng không có đi làm, nhân đây họ bèn hẹn ông chủ thầu ghé ký túc xá đặng bàn bạc về vụ cất nhà.
– Cha Thành, anh Dự.
– Ông chủ thầu reo lên, rồi sải bước tiến đến tay bắt mặt mừng.
Đôi vợ chồng cúi đầu thưa hai cha con trước khi bước lại gần và mời hai người vô coi ngôi nhà.
Ông chủ thầu mạn phép đảm nhận vai trò “hướng dẫn viên”.
– Nè, mỗi người làm ơn đội giùm cái nón bảo hộ, nếu sức khỏe “dễ dãi” thì đeo khẩu trang luôn cho trọn bộ.
Ngôi nhà chỉ mới làm móng, nâng nền, đổ bê-tông và lắp giàn giáo, chưa có một bức tường nào được thành hình.
Bên trong vô cùng tăm tối vì lưới bao phía trên và giàn giáo đổ bóng xuống.
Đây đó ngổn ngang những vật liệu xây cất, đi đứng không khéo dễ đạp đinh như chơi.
Vừa lượm một cây đinh lên, ông chủ thầu vừa cười gượng:
– Tụi này bầy hầy quá chèn.
Tôi la hoài mà tụi nó không có nghe.
Rồi ông chủ thầu mượn cớ hỏi ý kiến của hai vợ chồng về cửa sổ phòng ngủ để đánh trống lảng chuyện trên:
– Anh, chị muốn treo rèm hay treo màn?
Người vợ cười hỏi:
– “Rèm” hay “Màn” cũng là một mà ông?
Ông chủ thầu cười và trả lời rằng:
– Người xưa phân biệt chữ “Rèm” và chữ “Màn” rất rõ ràng.
Cái rèm thì vén lên cao, còn cái màn thì kéo sang hai hoặc một bên.
Cái “Rèm” có kích thước nhỏ hơn cái “Màn”; và cái “Màn” thì có nghĩa rộng hơn cái “Rèm” như “Màn trời chiếu đất”, “Màn kịch”, “Màn bạc”,…!Ngoài ra, cái rèm thường có dạng tua rua hoặc lá sách, còn cái màn thì thường là kiểu vải nguyên miếng khổ lớn.
Cha Thành bổ sung:
– Cái rèm còn có tên khác là tấm mành, tấm sáo.
Ông chủ thầu nói tiếp:
– Còn bây giờ thì miền Nam phần đông xài chữ “Màn”, và miền Bắc thì dùng chữ “Rèm”.
Cha Thành lại bổ sung:
– Ngày xưa chữ “Xây cất” là chỉ sự hữu hình, như nhà cửa, công trình,…!Còn chữ “Xây dựng” là chỉ sự trừu tượng – vô hình, như tinh thần, lòng ái Quốc, gia đình, tương lai,…!Ông bà thuở trước xài chữ rất phân minh, rạch ròi, còn ngày nay thì tả pí lù, xà bần đủ kiểu.
Cuộc tản bộ của hai cha con dừng lại ở nhà thờ mang tên Thánh Bổn Mạng Pio.
Trời đang nổi dông, gió bấc thổi mang dư âm xa xôi khiến hai người gợi nhớ về những mùa Đông đã qua trong cuộc đời mình.
Mùi dạ lý hương thoảng vương nơi khoảnh sân trước rộng tênh và được thắp sáng bằng muôn ánh đèn màu.
Từ trong Cung Thánh, bài Thánh Ca “Chúa Hài Đồng” do Ngọc Lan hát vẳng ra tới chỗ họ.
Mùa Giáng Sinh này, ca đoàn nhỏ sẽ trình diễn ca khúc đó và bản “Hồi chuông nửa đêm” do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông dịch sang tiếng Việt.
Ignacio Cường đang ngồi ở băng ghế hàng đầu mà coi các em tập dượt.
Bây giờ Cha Thành mới có dịp quan sát rõ dung mạo của người Linh mục họ Huỳnh, cậu ấy có khuôn mặt thoảng dài và đôi mắt có đuôi rất sâu, nhìn chung cũng bảnh bao, bô trai lắm.
Thầy Dự mượn cớ đi vệ sinh để nhường lại không gian cho Cha Lớn – Cha Nhỏ hàn huyên tâm sự.
Ignacio Cường mời ca đoàn nhỏ giải tán.
Trước lúc ra về, mỗi đứa nhận một phần bánh kẹo do Judas nhờ Alain mua giùm.
Dặn dò chúng đôi câu xong, anh mới trở lại chỗ ngồi và đánh tiếng gọi người Linh mục già:
– Cha.
– Sao con?
Sau một thoáng ngập ngừng, Ignacio Cường cắn môi, rồi đưa mắt ngó dáo dác trong khi đặt câu hỏi:
– Cha thấy Nhật Vũ sao?
Cha Thành nghiêng đầu nhìn con trai một đỗi, rồi nhún vai.
– Sao con có cảm giác Nhật Vũ là “007” của ai phái tới quá Cha?
Cha Thành bật cười khanh khách.
Nếu nói Nhật Vũ là “007”, há chăng Đức Cha Gabriel Đinh Thái là Chủ tịch MI6 sao?
– Không dưng mà nhiều Giáo dân không ưa cẩu…!
Hay người Linh mục nào hay biết sự hiện diện của một người khác nữa.
Người này hiện đang đứng ở ban-công gác chuông nhìn xuống, ánh mắt đăm chiêu trên vẻ mặt dửng dưng như thường lệ.
…!
Trời chưa dứt rạng đông mà Stephen Đoàn đã rời giường và ra vườn tản bộ.
Mấy đứa con của vợ chồng anh chị Sáu đang ê a “gạo” bài trong phòng, thanh âm trẻ con trong trẻo gợi cho anh nhớ về miền tuổi thơ đã khép cửa mãi mãi.
Anh mang theo cái đài nhỏ có thể bỏ túi để nghe đài phát thanh đọc tin buổi sáng.
Sau năm 75, chính phủ cho phép các đức tin như Cơ Đốc Giáo, Hồi Giáo, Phật Giáo, Hòa Hảo, Cao Đài,…!mở đài phát thanh riêng; người phụ trách chương trình Công Giáo là những Đan sĩ thuộc Đan viện Gia Định, anh rất mến giọng nói của anh bạn Đan sĩ tên Jacob Lãm, anh hay ghé nhà ba má anh ta ăn bún thịt nướng mỡ chài, nem lụi, bò lá lốt, chả giò và bì ram.
– Và sau đây, tôi xin được phép trình bày bản nhạc “Tôi tin kính” của Linh mục Hoài Đức để kết thúc chương trình.
Nguyện xin Thiên Chúa gia ân cho quý vị và thân bằng quyến thuộc của quý vị.
Mến chào và hẹn gặp lại quý vị vào sáng mai.
Bài này anh đã nghe qua giọng hát của “Chim vàng Mỹ Tho” Hoàng Oanh, nay nghe Jacob Lãm ca anh cảm thấy ngồ ngộ.
Khi tiếng “Tít” vang lên, anh hiểu chương trình đã chấm dứt.
Tự nhiên anh nhớ tới cô giáo Xuân, giờ này chắc cô đang lui cui dưới bếp phụ tía má rồi sau đó chỉnh trang trước khi chạy chiếc xe cà tàng đến trường.
Vườn trẻ đó có một cây bồ đề rất lớn, đám trẻ lén trèo lên đó chơi hoài, té bầm mình bầm mẩy mấy bận mà vẫn không tởn, cứ rình rình là lại tót lên đó hóng gió mây.
Anh cũng rình rình tót lên đó như xấp nhỏ; “địa bàn” mà anh thường trú lúc còn khờ lại là vườn cây sum sê của bà con chòm xóm, thành thử ra, kỹ năng leo cây của anh đạt ngưỡng thượng thặng.
Anh hãy còn nhớ như in, lần đó anh lẻn vô vườn ổi của một cặp vợ chồng nọ ở cái xóm bên nhà nội, người vợ chạy ra la bài hãi, “Xuống đi con ơi, muốn ăn bao nhiêu cô cũng cho hết, đừng để té chết như con trai của cô…” Và từ độ ấy, anh trở thành con nuôi của họ, Chúa thương người lành nên đã ban tặng cho họ thêm hai lần sinh nở, trai – gái đủ đầy lại hiếu thuận, hòa hảo.
Trước lên chiếc xe Piaggio du hí, anh đặt trước thềm nhà của đại gia đình ba hộp văn phòng phẩm; đó là tất cả những gì mà anh có thể trao tặng họ, bài “Kiếp nghèo” của Lam Phương dường như sáng tác cho riêng mình anh.
Bầy chim hiền đang lanh lảnh hót trên những tàng cây cao – thấp và thinh không hãy còn vương hơi sương giá buốt.
Gió bấc về mang theo một dư vị miền xa, tưởng chừng rất quen mà nghe sao lạ lẫm, khó gần.
Bất giác anh đưa tay lên hứng bóng nắng đang nhảy múa trên đầu cây cọ, cảm nhận cái ấm hiếm hoi giữa tinh sương trong trẻo.
Có con dế mèn đang ngóc đầu nhìn anh nơi bụi bông dừa cạn hồng phớt, tiếng gáy của nó làm anh nhoẻn miệng cười thật tươi.
Rồi anh cao hứng hát một đoạn trong bài “Rạng đông trên Quê Hương Việt Nam” của nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ.
Chạy gần tới nhà ông Sáu Giàu, anh nghe thấy tiếng ai hò Huế hay thiệt là hay, ca sĩ nào mới nổi danh vậy cà?
Anh hứng thú lắng nghe, rồi tắt máy, xuống xe, đoạn bước lại gần hàng rào trà mà đưa mắt ngó vô sân.
Người đàn ông vừa hò Huế ấy đang thưởng trà trong một cái chung da rạn rất đẹp.
Không thấy ông Sáu Giàu đâu.
Stephen Đoàn mượn hàng rào trà làm chỗ chống tay đỡ cằm và bắt chuyện:
– Anh Huế ca bài chi rứa mà hay quá sá.
Năm Tường đặt chung trà xuống một cách thật khẽ khàng, rồi khoan thai bước lại gần và trả lời người Linh mục họ Đoàn:
– À, đây là bài “Khách lạ đò xưa” của nhạc sĩ Hoài Linh, cô Hoàng Oanh ca mùi lắm, bởi vì bài này là tâm sự của phái nữ mà.
– Tôi thích nghe bài “Tiếng chuông Linh Mụ” do nhạc sĩ Hoàng Nguyên phổ từ thơ của thi sĩ Tô Kiều Ngân lắm.
Mà phải là song ca Duy Khánh – Hoàng Oanh mới ưng.
Nhác thấy ông Sáu Giàu ra, hai người tạm ngưng cuộc trò chuyện mà cất tiếng thưa ông.
Trước lúc theo Năm Tường trở về viện dưỡng lão trị bịnh, ông Sáu nhờ Stephen Đoàn làm Bí tích Thêm Sức cho mình.
Vậy là chàng Mục sư theo chân hai người tới nhà thờ; anh cảm nhận được sự mến mộ và tín nhiệm mà người bệnh nhân này gửi gắm ở vị Linh mục có khuôn mặt khó ưa.
Sau hơn nửa tiếng chờ đợi, Năm Tường và ông Sáu mau chóng lên đường.
Ignacio Cường giúp người bạn Mục vụ thu dọn bàn Lễ, rồi cầm chổi quét Cung Thánh tiếp.
Anh vừa mới ăn sáng bằng món cháo mực với bánh quẩy và có thêm vắt bún ở chỗ bà Năm Tình.
– Sáng giờ ăn gì chưa Mỹ?
Vẫn không ngẩng mặt lên, Stephen Đoàn vừa kiểm tra đèn cầy vừa trả lời:
– Chưa.
Chắc tôi sẽ ghé chợ Bến Thành ăn cơm dĩa.
Anh nhắn giùm Vũ rằng nhớ chuẩn bị kỹ cho lớp dạy giáo lý tối nay nghen?
– Ừa.
Phố phường vẫn nguyên hiện vậy.
Cái cảnh náo nhiệt thị thành chẳng làm Stephen Đoàn vui vẻ.
Nếu không vì cảm mến bà con trong xứ, chắc có lẽ anh đã xin lui về quản nhiệm một họ Đạo nhỏ ở miền Tây sông nước.
Xui cho anh, bữa nay tiệm cơm ấy nghỉ bán.
Anh đành ăn đỡ xôi bắp bán cũng ở trong khu chợ đó.
Anh quen gia đình bà bán xôi ngót chừng hai mươi năm, nên mỗi lần ghé mua đều được gia đình bà bán nới hơn người ta.
Ăn uống xong xuôi, anh trở về Giáo xứ phụ bà con trang hoàng cho dịp Lễ Giáng Sinh sắp tới.
Làm được đâu mấy tiếng, thấy đồng hồ đã chỉ mười một giờ kém hai mươi phút nên người Linh mục họ Đoàn mời mọi người giải tán để về nhà nghỉ trưa.
Về phần mình, anh vẫn còn no nên không ghé quán cơm vợ chồng dượng Bảy mà ra mé sông ngồi hứng gió.
Giữa bốn bề cảnh vật hữu tình, gió bấc thổi man mác, Stephen Đoàn chợt cảm khái thổi bài “How I love You” bằng cây đàn harmonica, mà nam danh ca Engelbert Humperdinck đã làm bao lòng người say đắm.
– “Tiếng chim hót trong bụi mận gai”?
Anh quay qua nhìn người bạn Mục vụ có khuôn mặt như tượng Thiên Thần buồn mà anh hay thấy trong nghĩa trang, môi anh hơi mím và mắt anh hơi nheo lại.
Định bụng không thanh minh, nhưng anh không muốn hiềm khích giữa mình và anh ta thêm sâu đậm nên nhân đó bắt chuyện luôn:
– Tôi có một người bạn lớn hơn chừng mười mấy tuổi đã nhờ tôi thổi harmonica bản này để anh ta hát cho mối tình đầu nghe.
Và sau màn dàn dựng công phu của chúng tôi, mối tình đầu của anh ta đã ngoảnh mặt đi không nói một lời sau chót.
Bây giờ anh ta có tất cả mọi thứ, chỉ trừ một mái ấm hạnh phúc với người đàn bà giang hồ đó.
– Anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của tôi.
Thôi hết chịu nổi rồi, Stephen Đoàn nghiến răng trèo trẹo rồi trừng mắt hỏi:
– Còn anh vẫn chưa trả lời câu hỏi của Cha Thành.
Anh là ai hả anh Vũ, anh Antonio Cao Nhật Vũ?
Antonio Vũ hơi nhếch miệng cười.
…!
Cha Thành đang nghe bản “Hoa cài thép súng” của đôi nhạc sĩ Tuấn Khanh – Châu Ngân do Thanh Tuyền trình bày trong quán cơm con Bảy.
Dì vốn coi cụ như cha ruột nên hai người không câu nệ cách xưng “con Bảy” của cụ.
Băng nhạc đang phát mang tên “Tuấn Khanh 1 – Tình dâng trên đồng lúa thắm”, một trong những băng nhạc ít người còn nhớ.
Bỗng một người vác cái cuốc chạy ào vô quán mà la lên bài hãi:
– Cha Lớn ơi…!Chết, chết rồi…!Con thấy mặt mũi hai Cha Nhỏ sao giống mới vừa…!đục nhau quá…!
“Rầm.”
– Lạy Chúa tôi!
Cái ghế bị cụ xô ngã, đập vào chân bàn inox vang lên rất lớn, nước trong ấm trà cứ thế sóng ra ngoài làm ướt vạt áo cụ.
– Cha Lớn, từ từ thôi Cha!
Tiếng nói đó thuộc về thầy Dự.
Ông chưa kịp trở lại bàn ngồi ăn cơm với Bố thì tin động trời kia ập đến.
– Hai đứa nó đâu rồi?
Người Giáo dân ban nãy hát:
– “Một người đi với một người.
Một người đi với nụ cười hắt hiu.”
– Giờ mà còn chế bài “Chuyện ba người” của Quốc Dũng hả?
Thầy Dự nêu ý kiến:
– Vậy là Cha Vũ đi với Cha Cường, còn Cha Mỹ…!chắc kiếm góc nào ngồi nhìn trời đất rồi.
– Ủa mà Ngọc Mỹ biết cười hả mấy đứa?
Một người Giáo dân nữ đang cho con bú bằng bình sữa cười hiền:
– Cha Lớn hỏi câu khó trả lời quá…!Ai mà được thấy Cha Mỹ cười chắc người đó sắp sửa trúng số.
Mà phải giải nhứt mới đặng.
Hai cha con hớt hải đi tốc ra quán cà-phê ông Sáu Hường kiếm Stephen Đoàn; anh ta thường ngồi chơi ở chỗ này lắm.
Ông Sáu đang quét tàn thuốc lá của một người khách để lại, nhác thấy Cha Thành và thầy Dự xăm xăm đi vô thì ngừng tay và bước lại thưa hỏi.
– Con ơi, con có thấy Cha Mỹ đâu không?
– Cha Mỹ hả Cha? Nãy con mới thấy cẩu ghé vô mua một ly trà sữa, con gái con có hỏi han đôi điều nhưng cẩu ậm ừ qua loa rồi dông tuốt.
– Mặt mày nó sao?
– Bầm má trái.
Ủa? Ờ hén? Nãy thấy mà quên hỏi cẩu có té ở đâu hôn để còn biết bị gì mà xức thuốc cho bớt đau.
Nhìn cẩu lầm lì quá nên con cũng hơi ngán.
Tạm biệt ông chủ quán, hai cha con quá giang xe lam của một người thanh niên sống bằng nghề chở đồ mướn để đi một vòng quanh xóm Đạo tìm hai Cha Nhỏ.
Ở đây chủ yếu là đường đất nên chuyến phiêu lưu bất đắc dĩ của hai người ê mông khôn cùng.
– Ê, ê, thằng Cưỡng kìa! Thằng nhiều chuyện nhứt xóm mình đó Cha!
Cưỡng đang đốn chuối bên bờ đất giáp ranh liếp cải nhà bà Hai Móm, nghe ai đó gọi tên mình thì quay phắt lại nhìn.
– A…!Thưa Cha, thưa thầy, thưa…!mày.
Mày làm gì mà kêu tên tao om sòm vậy?
Thầy Dự vào đề:
– Cưỡng có thấy Cha Mỹ ở đâu không?
– Hổng biết nữa.
Nãy thấy có bóng áo đen lướt qua, không chắc có phải của Cha hôn nữa, hay là làm mệt quá nên quáng gà nhìn lộn bóng cây ra bóng người…!
– Rồi thôi, đừng tả cảnh nữa con.
– Thế anh có biết cậu Mỹ đi đâu không?
– Chắc Cha ra ngoài mé sông, bờ ao hay cái mương nào đó ngồi chơi rồi.
Cha Thành phì cười:
– Bộ Tiên cá hay gì mà toàn chọn chỗ có nước không vậy?
Trước lúc lên xe lam ngồi, Cha Thành gởi chút tiền xăng cho người thanh niên sống bấp bênh với cái nghề phụ thiên hạ.
Anh ta rối rít cảm ơn, rồi nhét mấy tờ bạc chục vô cái túi áo trái sờn cũ.
– Dạ, để đáp lại thịnh tình của Cha và thầy đây, con sẽ chiêu đãi một bản nhạc…!
Nói đoạn, anh ta mở bài hát “Chuyến xe lam chiều” của nhạc sĩ Vinh Sử, nhưng trong bài này ông đề tên Cô Phượng kế bên tên bút hiệu chánh, do Giao Linh trình bày.
– Lát con bật bản “Thoáng giấc mơ qua” của Nguyễn Vũ do song ca Chế Linh – Giao Linh hát nghen.
Sau này có song ca Sĩ Phú – Ngọc Lan trình bày rất hay và ngọt ngào.
– Dạ.
Chạy được một đoạn, người tài xế trẻ măng tắp vô lề đường để mua cho con trai hai bịch bánh ống như đã hứa.
Vẫn là chiếc xe gắn máy cũ mèm, trên gắn một cái máy thần kỳ có thể hô biến gạo và đậu xanh sống thành những cuộn bánh thon dài, thơm thảo.
Trong lúc chờ cái máy làm phép xong, thầy Dự hỏi:
– Bánh gì thế anh?
– Bánh ống.
– Anh dân Quảng Ngãi phải không?
– Sao anh biết?
Nhưng thầy Dự không trả lời.
Ông yên lặng lắng tai nghe âm thanh nổ đì đùng như pháo Tết, đám trẻ con đang đứng chầu rìa la inh ỏi theo từng nhịp kêu của cái máy.
Vì dư âm Tết Mậu Thân nên bố mẹ ông không cho ông đi mua thứ bánh này ăn, sợ rằng họ nghe lầm tiếng nổ của súng đạn thành tiếng nổ của máy làm bánh thì nguy to.
– Anh ăn thử không?
– Miễn phí hả?
Vừa đưa một ống bánh cho người đàn ông trạc tuổi mình, bác Tám Siêng vừa nói:
– Ở đây, cái gì cũng rộng rãi, nhứt là tình người.
Chỉ tiếc là quá nhiều kẻ lợi dụng sự rộng rãi đó mà chà đạp lên mảnh đất này…!
Ngang qua một căn nhà có hàng ba treo đầy chò lan, tiếng ca của Mạnh Đình trong bài “Hồi chuông xóm Đạo”, nhạc sĩ Anh Bằng phổ từ thơ của thi sĩ Kiên Giang, vọng tới chiếc xe lam già.
Có những ca sĩ không được trời phú cho vẻ ngoài hấp dẫn nên kém nổi danh, song họ biết bù lại bằng cách sống đáng mến và sự yêu nghề kính nghiệp, vì vậy họ đã giúp bản thân trở thành một viên ngọc thô nhưng sáng rực dù tiếng tăm không bằng đồng nghiệp.
Tới khu Bắc, chiếc xe lam ghé vào đổ xăng để máy không bị nóng mà sinh bệnh.
Cây xăng này thuộc về một gia đình buôn bán nông sản.
Sẵn còn trống mấy khoảnh đất, ông bà chủ cho người bán hàng rong vô buôn bán miễn phí; họ cũng biết điều, thỉnh thoảng biếu ông bà chủ ít bánh trái và đồ ăn – thức uống ở hàng mình.
– Sự tích cây Nêu cũng hay và bổ ích lắm đó cậu.
Số là vầy: Có một bầy quỷ quanh năm suốt tháng ăn bám người dân hiền lành, chăm chỉ; ấy vậy mà còn tự tôn mình là bề trên nữa chớ.
Chắc có lẽ ngứa mắt với cái đám xấu xí vô ơn bạc nghĩa, một ông Thần hiện ra dưới bộ dạng ông già hành khất đã tặng cho bà con một tấm vải, biểu rằng treo tấm vải này lên cây tre, bóng của tấm vải phủ tới đâu thì đất đó là của bà con, còn khoảng sáng là của bầy quỷ.
Bầy quỷ nhìn kỹ tấm vải thì thấy đó chỉ là một cái áo rách rưới, cho nên chắc mẩm toàn bộ đất đai này là của chúng, thành thử ra hí hửng ưng thuận liền.
Ai dè đâu, sau khi dựng cây tre lên, bóng của tấm vải bao trùm lấy hết đất đai, hễ vùng tối đó mà chạm vào bầy quỷ là chúng đau đớn khôn nguôi nên phải lùi dần, lùi dần, rồi lùi ra tuốt ngoài biển Đông luôn…!
Ông lão vừa kể câu chuyện trên là chủ sạp cóc ổi, mía ghim, chuối “bảy món” và rau câu ngũ sắc.
Người khách có quốc tịch Mỹ nghe xong bật cười, rồi xin phép ông cho mình nướng chuối thử, nếu khét mình sẽ bao luôn nguyên mâm.
Sợ ông lão không tin, Vệ Thương trả trước một ngàn đồng.
– Cho ông thiệt hả con?
– Dạ, lát nữa con gởi thêm cho.
Ba con, ổng ghiền món chuối nếp nướng lắm mà con hổng biết làm.
Nay con mượn bếp than của ông nướng chuối cho ổng ăn vậy.
– Rồi, rồi, muốn ngồi nướng tới khuya luôn cũng được, ông không có hối đâu.
Muốn ăn, muốn uống gì hôn? Ông bao cho.
– Dạ, cảm phiền ông mua giùm con một ly đười ươi – hột é.
– Rồi, rồi, ông đi liền…!
Vệ Thương dễ hòa đồng với nếp sống dân dã hơn hai người anh ruột.
Cậu không có tính cách kênh kiệu, trịch thượng thường thấy ở giới thượng lưu; trái lại còn xuề xòa, ăn nói và hành xử không câu nệ, xét nét, nên đám bạn bình dân đông như quân Nguyên, ai cũng thương thằng bạn “tuy giàu mà chẳng coi khinh người nghèo”.
– Anh ơi…!Anh phải cời lửa ra, chớ để một hồi trái chuối còn đen hơn em…!
– Cái que cời đâu rồi ta? Ê! Nhỏ!
Nhưng đã quá trễ, thằng nhỏ đã cho tay sống vô lừa than.
Bàn tay nó thoăn thoắt gạt tàn lửa miểng gáo rồi dằn thêm hai cái miểng gáo mới để làm dịu sức nóng của lò.
Cậu hớt hải cầm tay nó lên và lật tới lật lui:
– Có sao hôn?
Nó cười khoe hàm răng khấp khểnh:
– Tay em dày dữ lắm, lửa hổng táp nổi đâu.
– Muốn ăn gì không? Anh bao?
– Anh cho em tiền chữa bịnh chị em được không? Chỉ đang nằm ở Chợ Rẫy.
Vì đang dở tay nên Vệ Thương không thể đi cùng nó tới nhà thương để xác minh chuyện trên.
Cậu bèn giao phó vụ này cho người luật sư riêng của mình đứng ra giải quyết.
Nghe tới chữ “Luật sư”, thái độ của thằng nhỏ vẫn nguyên hiện như cũ, không có chi sợ sệt hay bối rối, nên cậu càng tin chắc nó nói thật.
Áng chừng một tiếng sau, luật sư của cậu mới tới đón nó đi.
– Tội nghiệp thằng nhỏ.
Stephen Đoàn nói trong khi lần chuỗi Mân Côi.
Anh vừa từ cầu Chữ Y về đây, trước lúc vô Giáo xứ đã ghé xe hủ tíu gõ làm bậy một tô.
Vết bầm nơi má trái anh hãy còn hành đau.
– Mỹ!
– Thưa Cha Lớn, thưa ông.
– Con đi đâu vậy? “Đi đâu loanh quanh cho đời mỏi mệt” vậy?
– “Chủ Nhật buồn, đi lê thê…” thôi Cha.
– Hai người hát đối xong chưa? Xong rồi thì vào đây ngồi cho đỡ mỏi chân.
Chỗ mà thầy Dự chỉ là sạp hàng của ông lão nghèo.
Vệ Thương vẫn đang loay hoay nướng và trở chuối; hình như ông lão đã xuống miệt nào mua hột é rồi nên giờ này vẫn chưa thấy dìa.
– Con với Vũ…!xô xát hả?
– Dạ không.
Tụi con đánh nhau luôn.
– Kể cho Cha nghe lý do hai đứa gây lộn được không?
Stephen Đoàn lắc đầu, rồi viện cớ bị trướng bụng nên xin phép cáo lui.
Cha Thành vươn tay ra, tính níu lấy áo đứa con trai không có gương mặt thuận với trái tim, nhưng không biết nghĩ về điều chi mà cụ rụt tay lại.
Rồi thẫn thờ nhìn theo bóng lưng con trai.
Thầy Dự vừa đưa xâu mía ghim cho Bố vừa hỏi:
– Bố đói chưa? Con dẫn Bố đi ăn bún riêu nhé?
– Ừ…!Ừm…!
Hai cha con vừa mới lên xe được đâu vài phút, ông lão kia đã trở về với một ly đười ươi – hột é nhiều đá viên và một hộp bắp xào.
Trông thấy cái keo thủy tinh có thêm những tờ tiền lẻ mới, khuôn mặt ông rạng rỡ như đứa trẻ nhận được lì-xì.
– Ở đây hổng có bán, ông phải ra chợ cóc cách đây gần cả cây số để mua.
– Trời ơi, hổng có thì ông báo con hay, chớ chi đi xa cho cực thân?
Ông lão cười mỉm chi beo:
– Kệ, sẵn ông mua bắp xào đãi con luôn.
Chỗ này ăn ngon lắm nên chờ hơi lâu.
Cặp này vui vẻ bao nhiêu, thì đôi kia âu sầu bấy nhiêu.
– Bố, bộ không vừa miệng sao mà ăn thấy rầu quá vậy?
– Không, ngon lắm.
Thầy Dự trỏ đũa vào bát bún riêu của Bố:
– Ngon thì ăn cho chóng hết đi Bố…!Tô bún muốn lềnh hết rồi kìa…!
– À…!Ừ…!
Về phần Ignacio Cường và Antonio Vũ, hai người đang rảo bước dưới vòm me xanh trên đường Duy Tân.
Trường Dòng mà chàng Linh mục họ Cao sẽ vào ẩn tu và giảng dạy cách đây lối chừng vài trăm mét.
Không biết ai đã mật báo mà Đức Giám Mục Augustino Dương hay tin nên đứng đợi dưới gốc me cuối vỉa hè.
Ông đứng khoanh tay mà ngửng mặt nhìn lên bầu trời le lói ánh sao và thiếu trăng sáng.
Vài ba cô gái bán phấn buôn hương diễu qua diễu lại trước mặt ông như đang trêu ngươi; tự nhiên ông sực ngẫm ra, từ nhà Chúa tới nhà thổ chỉ cách nhau không đầy một gang tay.
– Cơm nước gì chưa hai đứa?
– Dạ chưa, thưa Thầy.
– Ignacio Cường bước tới cầm lấy tay ông bằng cả hai bàn tay.
Thầy anh cũng đáp lại bằng một cái vỗ vai thâm tình.
Antonio Vũ cúi đầu thưa Thầy, rồi đứng sau lưng Ignacio Cường.
– Trốn cái gì? Núp cái chi? Cái mặt anh chần dần kia kìa thì sao tôi không thấy vết bầm cho được.
Augustino Dương biểu Ignacio Cường phụ mình lôi Antonio Vũ tới lò võ của người cháu họ xức thuốc.
– Ngọn gió nào thổi cậu Tư con vô đây vậy?
– Mưa dông chứ không phải giông gió.
Nguyên nhân nè!
– Trời…!
Đặng Thừa Tân xem xét vết bầm trên khuôn mặt và cánh tay của người Linh mục “Búp-bê buồn”, rồi biểu một người võ sinh đem thuốc xức ra.
Rồi đích thân bôi thuốc.
– Cái này là đánh lộn với ai chứ không phải té ở đâu hết.
Phải hôn anh Vũ?
– Ờ!
Trong lúc chờ cháu họ xức thuốc cho con trai, Cha Dương ra ngoài mua sáu hộp đồ chiên thập cẩm và năm ly nước sâm dứa sữa cỡ lớn.
Còn Cha Phó Giáo xứ St.
Pio thì trò chuyện với học trò thân tín của Thừa Tân, cũng đồng thời là huynh trưởng của võ đường này.
– Độ rày bán đắt không con?
– Dạ, cũng lai rai.
– Con cẩn thận đó.
Coi chừng tụi nó mượn chuyện nhạc nhẽo để lôi con ra làm chèo.
– Dạ, mấy bữa nay con tiễn hết “mấy chục” rồi.
– Đâu, có kiếm được bản nào là lạ không? Cho cậu nghe với.
Đặng Thừa Tân bèn mở điện thoại lên và bật bản “Sài Gòn xa hoa” của nhạc sĩ Trần Văn Nhơn do Ngọc Bảo ca.
Nghe được non nửa bản, Augustino Dương đòi đổi sang bài khác.
Vậy là anh chủ quán kiêm võ sư liền phát bài “Hát trên đỉnh đèo” do Duy Khánh ca, bác là tác giả của ca khúc trên.
– Đúng là “Phước bất trùng lai, họa vô đơn chí”, tự nhiên cái bao tải đó lại đặt ở sau hè quán con.
Anh chủ quán buồn hiu gật đầu.
Con hẻm ấy hiện giờ nhang khói nghi ngút, vài hộ bán buôn gần đó đã lập bàn thờ cúng kiếng vì sợ oan hồn của những nạn nhân kia tới kiếm chuyện quấy rối.
Anh cũng phụ họa bằng một mâm trái cây; đương nhiên chuyện này anh không dại dột gì mà “cung khai” cho ông cậu hay.
– Nè, trứng cút chiên bột con khoái nhứt nè!
– Dạ, con cảm ơn cậu…!
– Nếu năm đó cậu có ở nhà thì con đâu có phải chịu cảnh tù đày nhục nhã…!
Đặng Thừa Tân vuốt lưng ông cậu thân như bạn thiết mà cười biểu:
– Nhờ một mình con chịu thiệt mà giờ đây có hàng ngàn đứa trẻ được cậu cứu sống.
– Bởi vì cậu không muốn làm nhơ danh cái tên “Dòng Chúa Cứu Thế”…!
Các võ sinh vẫn đang miệt mài rèn luyện võ nghệ với các sư huynh, sư tỷ.
Có đứa con nít mập ú đi bài quyền mà hệt như đang bắt bươm bướm; Antonio Vũ che miệng cười rúc rích, ấy vậy mà khuôn mặt anh ta vẫn không xua đi được nét sầu cố hữu, cũng tại cặp mắt quá ư là buồn.
oOo
Đã cuối năm rồi, mợ Hai mới rủ hai con về quê tảo mộ ông bà và người cha vắn số.
Đi cùng với họ trên chiếc xe Limousine sang trọng là gia đình họ Vệ, Nguyễn Quý Sinh và con trai Phá Vân.
Cô Hoàng Oanh đang ca bản “Thương về Gò Công” của nhạc sĩ Lê Dinh, địa danh này là nơi chôn nhau cắt rốn của cố nhạc sĩ.
Trước khi tới Hậu Giang, chú Thương phải ghé qua Mỹ Tho để nhận đồ giùm thằng bạn thiết đang sống ở quận Ba.
Chặng đường về quê không còn xa như ngày xưa vì hệ thống xa lộ, hương lộ đã được cải thiện.
Dưới thời tổng thống Bàng Đông Quân, miền Tây được chăm sóc hết sức kỹ lưỡng và ưu ái.
Sau khi ông qua đời, các đời tổng thống kế nhiệm phớt lờ những bản kế hoạch canh tân miền Tây ấy.
Tới chừng Hác Đăng Khánh lên nắm quyền, chú thực hiện hết mọi di nguyện của cha đỡ đầu, nên miền Tây đã được nhận những gì mà họ xứng đáng được hưởng.
Trong lúc mọi người đang ăn sáng ở một trạm dừng chân ở Vĩnh Long, Trì Thương ngồi móc len đan khăn choàng cho má.
Sợ con Út bị tụt đường, mợ Hai ép nó uống một ly bạc xỉu.
Hai má con chú vô tình bị biến thành tâm điểm của thực khách trong quán.
Chú Thương bị cho ra rìa nên mặt mày bí xị, chú vừa múc cháo vừa lầm bầm, “Má hết thương con.”
– Hết thương cái gì? Hả cái thằng cà-nanh kia?
– Hổng có nói với người ta một tiếng.
Toàn nói với áo cam…!lè.
– Vậy mày mới nói chuyện với không khí hả thằng kia?
Con trai Phá Vân chưa từng được hưởng tình yêu thương của mẹ một ngày nên nhìn ba má con mợ Hai một cách thèm thuồng lộ liễu.
Mợ Hai thấy thương nó quá chừng, nên đứng dậy rồi đi tới chỗ đó và chăm bẵm nó từng miếng ăn miếng nước; nó hớn hở ngồi coi bà lặt rau cho tô phở của mình, bộ điệu ấy khiến hai người anh em song sinh cảm thấy tội nghiệp nó khôn cùng.
– Con muốn ăn thêm bò viên hay nạm, gầu, tái, sách, gân, hột gà gì không? Má Hai đi lấy cho con một phần?
Đôi mắt thằng nhỏ ngân ngấn lệ.
Nó cười chành miệng hết cỡ, rồi gật đầu mà hỏi:
– Dạ muốn.
Con ăn hết được hôn má Hai?
Mợ Hai lau miệng giùm nó và cười hiền mà nói:
– Ừm, con trai của má.
Vệ Thu chợt nhớ tới bài “Lòng Mẹ 2” của nhạc sĩ Y Vân và do cô Hoàng Oanh ca:
“Lòng Mẹ chan chứa trên bao xóm làng gần xa
Tình Mẹ dâng tới trăng ngàn đứng lặng để nghe
Lời ru xao xuyến núi đồi, suối rừng, rặng tre
Sóng ven Thái Bình im lìm khi tiếng Mẹ ru…”
Khi trong tay ông có tất cả thì mẹ hiền yêu dấu đã không còn nữa.
– Anh Ba khóc hả?
Vệ Thu xua tay phân bua:
– Có đâu.
Bị sặc ớt thôi chị Hai.
Ầu ơ ví dầu tới bảy giờ sáng, đoàn người mới rời khỏi Vĩnh Long mà tiếp tục chặng đường về xứ khóm Hậu Giang.
Tiếng cô Hoàng Oanh ngâm thơ bài “Đẹp Hậu Giang” của thi sĩ Kiên Giang gợi lên bức tranh phong cảnh thanh bình và đẹp dung dị của miền đất phương Nam.
Nhưng với một người sinh trưởng nơi Hoa Kỳ như Vệ Thương, nghe tới đâu cậu buồn ngủ tới đó, rồi nhắm măt thiếp đi hồi nào không hay.
Cũng trong băng nhạc “Souvenir Kỷ niệm 7: Thơ – Nhạc Ông lái đò”, “Chim vàng Mỹ Tho” đã trình bày rất hay nhạc phẩm “Em tự nghìn xưa chuyển bước về” do nhạc sĩ Y Vân phổ từ thơ của thi sĩ Đinh Hùng.
Lối chừng chín giờ rưỡi, cả đoàn lại dừng chân để mọi người xuống xe ăn uống và đi vệ sinh.
Quán cơm bình dân mà mợ Hai và bác Ba chọn có cung cách giống như nhà hàng hạng sang, nhân viên đều mặc đồng phục, trong gắn máy điều hòa nhiệt độ và máy lọc không khí tân tiến.
Có vẻ phong thái sang trọng, bệ vệ của Vệ Thu đã làm bà chủ quán để mắt tới; dù rằng bữa nay, ông mặc áo thun trắng, bận quần jeans xanh và đeo thắt lưng hàng xoàng.
Bà đon đả rước cả đoàn vô quán rồi tự tay đem xấp thực đơn tới bàn của họ, kế niềm nở cười mơn với mợ Hai, vì bà hiểu lầm rằng đây là vợ của ông nhà giàu kia:
– Dạ, chị đây cần chi?
– Dạ, chị cho tôi tôm kho tàu, gỏi đọt choại, ếch chiên bơ và hai con gà nướng lu.
Vệ Thương thấy mợ Hai đã nói xong, mới nhã nhặn thưa với dì chủ quán rằng mình muốn ăn trứng cá thu chiên và giò heo phá-lấu, thêm dĩa cải chua, cà tím nướng và dưa giá nữa sau khi chàng ta liếc thấy tấm bảng treo trên vách quán cơm.
Rồi cậu hỏi:
– Dạ, con muốn một bộ dao, muỗng, nĩa được không dì?
Dì chủ quán bật cười:
– À, mình gọi là cùi-dìa đó con.
– Cùi-dìa?
Dì chủ quán gật đầu xác nhận:
– Bộ cùi-dìa, lấy từ chữ “Cuisine” của Pháp,
Rồi dì day sang Trì Thương mà chắp tay hỏi:
– Dạ, thầy đây ăn món chi?
Trì Thương chắp tay trả lời:
– Thưa thí chủ, má và anh Hai tôi ăn gì thì tôi ăn nấy.
– À…!
Hai anh em Nhật Trường – Như Thủy đang biểu diễn nhạc phẩm “Bài không tên số Hai” của nhạc sĩ Vũ Thành An.
Vệ Thu hãy còn giữ băng nhạc “Nhật Trường 4” này, vì nó là quà sinh nhật của người đồng đội nữ mà ông từng yêu.
Đợi khoảng nửa tiếng, cơm canh mới được dọn lên.
Dì chủ quán tặng cho mỗi người một tô canh chua tép, riêng Trì Thương thì canh chua chay.
– Oa, dì kho tôm ngon quá…!
Thấy anh Hai của sư thầy tấm tắc khen ngon, dì chủ quán thật lòng mà tỏ:
– Biết sao ngon hôn? Dì có bỏ thêm gạch cua xào dầu vô đó.
Chú Thương giựt nảy mình:
– Bí quyết riêng mà dì dám chỉ hả dì?
– Chẳng có ai dám làm theo đâu con.
Vì gạch cua thiệt rất mắc nên thành phẩm sẽ đội giá lên gấp mấy lần.
Để cầm chân khách, dì phải chịu bán huề vốn đó.
Rồi dì thấy sắc mặt vẫn còn ngạc nhiên của chú Thương thì liền hiểu ra mình và người này cùng nghề.
Dì nhỏ nhẹ tâm tình:
– Tại người ta tin tưởng mình nên mới ghé ăn ủng hộ, mà mình nỡ lòng nào ăn gian bán dối người ta, tội lút đầu lút cổ con à…!”Ăn ít no dai, tham ăn chết nghẹn.”
– Dì có từng bị các Youtuber ẩm thực làm phiền không? Tỷ dụ như họ hỏi dì nêm sao cho con, bỏ cái gì cho ngọt nước, xắt thịt thế nào ăn mới không ngán,…!
– Có chớ con.
– Rồi dì kể.
– Một lần dì được một đài Youtube chuyên về ẩm thực tới ghi hình quán cơm, trời ơi con nhỏ hỏi búa lua xua, còn bắt dì phải “kê khai” nguyên liệu nấu nướng và “công khai” phương cách chế biến nữa.
Giờ chẳng lẽ dì nói thẳng rằng, “Tui mà khai hết tui cạp đất mà ăn hả cô?” Tưởng đâu có mỗi mình cô đó “dô diên”, ai dè người coi của cổ cũng không kém cạnh, nhiều người trách cô ích kỷ, hỏi sao không trả lời, thứ dòng không để đức cho con cháu,…!
– Thôi leo lên bàn thờ người ta mà ngồi luôn đi.
Con trai tôi đây bán bánh ngọt, nhiều người vô phỏng vấn rồi rà rà biểu chỉ cách canh nướng bánh và làm bơ.
Trước lúc rời khỏi quán nhỏ, Vệ Thu nhờ dì chủ quán biểu toàn bộ nhân viên lên gặp mình, để ông phát tiền lì-xì; mỗi người ông cho hai ngàn đồng.
Trên đường về nhà thờ tổ của gia đình mình, mợ Hai tắp vô sạp cam xoàn Phụng Hiệp bán vét vụ cuối mùa để mua vài ký ăn cho thơm miệng, sạch răng.
Thấy đứa gái, con của hai vợ chồng chủ sạp, nhìn đen thủi đen thui giống mình hồi nhỏ theo ngoại đi bán chuối, bỏ mối bánh quá nên mợ động lòng thương mà mua mão hết.
Sẵn có mấy cây sô-cô-la của anh Ba Thu, mợ ngoắc nó lại rồi biểu nó cầm về ăn.
Nhìn nó cảm ơn rối rít mà mợ rớt nước mắt, vì nhớ tới cái cảnh mình đứng dòm miệng mấy đứa trong xóm ăn cà-lem; bây giờ muốn mua mấy chục thùng cũng được, nhưng cái vị ngon năm xưa đã bay biến theo tuổi thơ mất rồi.
– Ăn lẹ đi Thảo.
Còn nửa tiếng nữa mới hết giờ thọ thực lận.
Trì Thương chắp tay, thưa:
– Dạ, con xin nghe theo lời má.
Tiếng hát Trần Văn Trạch trong bài “Nàng Hà Tiên” của nhạc sĩ Lê Thương giúp cho cuộc hành trình thêm thi vị.
Đây là một huyền tích về nguồn gốc địa danh Hà Tiên ở xứ Kiên Giang, không rõ do tác giả tự đặt hay lấy ý từ truyện dân gian mà sáng tác thành.
Ngôi nhà từ đường đó nằm cặp mé sông Hậu.
Từ đằng xa nhìn vô chỉ thấy minh mông sông nước, cái nhà giống hệt cái cù lao nhỏ xíu nổi trên dòng nước phù sa; khuôn viên nhà áng chừng được một ngàn mét, cũng dư ra được vài khoảnh đất để trồng cây ăn trái và rau cải.
Nhà mồ của gia đình được xây ở phía sau hè, thuộc góc Thanh Long – Huyền Vũ, nơi đây còn là chỗ yên nghỉ của ông bà nội – ngoại hai bên, cùng một số bà con họ hàng vì gặp cảnh ngặt nên phải nương thân ở chốn này.
Châu Lợi quỳ xuống mọp đầu đảnh lễ ngôi mộ cha, rồi ngồi thẳng lưng lên mà xá ba cái.
Chú Thương đã đốt sẵn ba cây nhang cho đứa em trai để nó dâng lên cha.
Đáng ra cha không mất sớm như vầy, cũng bởi do làm lụng quá sức nên vong mạng khi tuổi đời chỉ mới chớm sáu mươi.
– Để má dắt hai đứa lại lò bánh chú Út Tiếp mua vài đòn bánh tét và ít chục bánh ít lá gai, bánh cúng, bánh ú,…!
Lò bánh đó nằm tuốt trong một con đường vườn chật hẹp, hai bên đường rợp bóng cây xanh mát và hoa cỏ muôn sắc, hương thơm đồng nội quấn quýt bước chân khách bộ hành.
Nước mưa theo độ nghiêng của mặt lộ mà chảy xuống vỉa hè còn là nền đất, nuôi dưỡng những mầm sống bé mọn vừa mới vươn mình trỗi dậy khỏi cõi U Minh.
Còn cách đó áng chừng mấy mươi mét, đã thấp một cái bảng đề “Lò bánh Út Tiếp – Xin hân hoan chào đón quý khách” lấp ló sau tàng cây bông gòn rậm lá.
Mợ Hai nắm tay hai thằng con trai song sinh mà hăm hở tiến thật mau về phương đó; đằng sau lưng ba người, Vệ Thu cùng con trai Út, cháu trai và Nguyễn Quý Sinh hấp tấp nối gót.
Một chiếc xe ba-gác lớn đậu trước cổng vào lò bánh, trên xe để đầy những cần-xé bánh được phủ bạt sơ sài; theo lời chú tài xế thì số bánh này sẽ được giao cho mấy chỗ bán trên thành đô và một số tỉnh lân cận đất Hậu Giang.
Sẵn dịp, chú nhờ mọi người cột giùm mình tấm bạt vô bốn góc xe.
Chủ lò bánh đang đi coi sóc bếp nấu ở gian nhà sau.
Ở đây vẫn duy trì hình thức nấu củi như thuở xưa, chứ không đổi sang máy móc tân thời.
Ngay cả khâu đóng gói và dán nhãn cũng được làm thủ công nốt.
– Thưa quý khách.
Đoàn người nói lời đáp lễ bác Út Tiếp.
Bác Út Tiếp dẫn nguyên đám đi coi nơi làm bánh.
Đó là một gian nhà rộng chừng hai ngàn mét vuông, cao khoảng mười mét vuông; từ tầng lửng có thể nhìn bao quát khu vực này và một góc hàng ba.
Nhân công độ khoảng hơn trăm người, tuổi tác đều ngoài tứ tuần.
Ở đây bán mười loại bánh: Bánh tét, bánh ú, bánh ít lá gai, bánh xu-xê, bánh da lợn, bánh lỗ tai heo, bánh lá mít, bánh dẻo, bánh in và bánh phục linh; đặc biệt lò bánh còn có bán mứt khóm và kẹo khóm làm từ trái khóm chánh hiệu Cầu Đúc – Hậu Giang.
Bác Út niềm nở mời đoàn khách nếm thử bánh – kẹo thoải mái.
Rồi biểu, nếu ăn cảm thấy không ngon, không vừa miệng, không thích thì khỏi mua, không cần phải sợ chi mà bỏ tiền mua vị bụng.
Trước sự dễ thương của chủ lò bánh, Vệ Thu và mợ Hai hứa sẽ mua luôn mấy ký mứt và kẹo khóm mà không cần phải ăn thử.
Tuy nhiên, bác Út Tiếp vẫn nài mỗi người ăn thử vài miếng, viện rằng nếu thấy không hợp khẩu vị thì khỏi mua cho đỡ tốn tiền.
– Con thấy chưa Thương? Buôn bán phải vậy mới được chớ…!
– Dạ.
Thương tính đưa kẹo và mứt khóm cho em trai ăn thử, nhưng sực nhớ nó đã hết thời gian thọ thực nên đành thôi.
Không biết nó thấy cái gì mà cứ đứng ngửng mặt nhìn lên tầng lửng, miệng lầm rầm nói mấy câu nghe như mật ngữ.
Đi tuốt ra sau hè mới hay ông chủ lò bánh còn mở một quán cà-phê sân vườn để vui thú điền viên cùng thân bằng quyến thuộc và chòm xóm.
Sẵn tánh ưa bắt chuyện, Vệ Thu liền tìm cái bàn nào có mấy ông già xồn xồn cỡ tuổi mình để ngồi xuống tán gẫu.
Vừa hay có bốn ông già ở một cái bàn nọ kê dưới gốc cây trứng cá đặc rật trái thấy ông đứng lóng ngóng thì ngoắc vô ngồi chơi.
Đợi bản nhạc “Một người đi xa” do Duy Khánh ca, một sáng tác của nhạc sĩ Trúc Phương, lắng xuống, ông khách đầu hói “toàn phần” mới tiếp tục chủ đề dang dở:
– Anh đâu thể nào nói về cái thú pha trà hay cà-phê với những người bẩm sinh không có kiên nhẫn.
Ông khách mặc áo thun ba lỗ khoát tay:
– Nhưng thời đại bây giờ thời gian là vàng bạc.
Đầu Hói Họi trề môi:
– Người Nhật vẫn kiếm ra “Vàng – Bạc” bằng cách bỏ thời giờ pha trà và cà-phê.
Nếu như tôi nhớ không lầm thì đó gọi là Trà Đạo, và những ai muốn được uống phải bỏ ra một số tiền rất lớn.
Ông già có cái sẹo dưới mi mắt trái bình phẩm:
– Suốt ngày chạy theo kim tiền, bỏ phứt những tập tục mang nét đẹp bản xứ vốn có của mình, đó là một điều đáng trách chứ chẳng hay ho gì mà lại đi cổ xúy.
Đầu Hói Họi gật đầu:
– Làm ơn đừng đổ thừa cho Nho Giáo.
Ăn uống cầu kỳ, trang trọng hay đơn giản, tiện lợi là ở tính cách mỗi người, chẳng liên quan gì tới nó hết.
Bác Út Tiếp không biết lại bàn tự bao giờ, mang tới hai dĩa bánh – mứt – kẹo đầy vung.
Đặt hai dĩa bánh xuống bàn xong xuôi, bác mới kéo ghế ngồi và trình bày:
– Hồi xưa, mỗi bận Tết đến – Xuân về, ba mẹ tôi có thể kể hàng tá câu chuyện đã từng diễn ra bên mâm cơm, bếp lửa hoặc nồi bánh tét cho chúng tôi nghe.
Còn ngày nay, các con tôi chẳng có cái gì để kể cho mấy đứa cháu tôi nghe hết, bởi lẽ ai cũng đầu tắt mặt tối đi làm, mâm cơm – đồ cúng thì toàn là hàng đặt sẵn hoặc mua ở ngoài chợ, mà những thứ đó thì hê lên là có, đâu còn đáng quý, đáng mừng như xưa.
Vệ Thu vừa “dằm” cà-phê với đá bào vừa lắng tai nghe ông chủ lò bánh dễ mến tâm sự.
– Cho nên tôi mới mở lò bánh này, để Tết về quanh năm.
Tôi cũng có nơi ngồi hàn huyên những kỷ niệm đời mình và ông bà cho khách nghe.
Mới uống được đâu một hớp cà-phê, miệng chưa thấm vị đắng đặc thù của thức uống này, Vệ Thu đã nghe Đầu Hói Họi hỏi:
– Anh nghĩ sao về phong trào bài Nho – xiển Tây?
Vệ Thu đáp liền:
– Cái gì cũng đổ lỗi cho Nho Giáo.
Bản thân thì muốn canh tân xã hội theo hướng tự do – dân chủ, còn cái miệng thì đi chụp mũ người ta bị ảnh hưởng Nho Giáo.
Làm cái gì trái ý mình thì cũng nói người ta bị ảnh hưởng Nho Giáo.
Nghe nhạc ướt át cũng nói Nho Giáo.
Chuẩn bị và chế biến đồ ăn – thức uống cầu kỳ cũng nói Nho Giáo…!
“Người Việt trầm lặng” bấy giờ mới lên tiếng:
– Nếu nói vậy bên Nhật là Nho Giáo chúa vì đồ ăn – thức uống của họ thường được chuẩn bị và chế biến rất cầu kỳ và công phu.
Đầu Hói Họi ghẹo:
– Nhật đã bỏ Nho Giáo từ thời “Thoát Á luận” của Phúc Trạch Dụ Cát rồi ông nội.
Rồi như sợ bạn hiểu lầm sinh xích mích nên ông nói tiếp:
– Thành thử ra, chuẩn bị và chế biến đồ ăn – thức uống cầu kỳ chẳng liên quan gì tới Nho Giáo sất; bởi đó là nghề nghiệp hoặc sở thích của người ta.
Còn nhạc ướt át thì phương Tây cũng có từ lâu rồi, mấy ông soạn nhạc bên bển còn chẳng biết mặt mũi mấy ông triết gia phương Đông ra răng chứ đừng nói chi là bị ảnh hưởng…!
Bác Út Tiếp gõ gõ vô bình trà mà hỏi mọi người:
– Mấy ông thích uống trà túi lọc hay uống trà?
Không hẹn mà mọi người cùng trả lời:
– Trà hãm.
– Vậy mấy ông cũng bị ảnh hưởng Nho Giáo rồi.
Đầu Hói Họi lại pha lửng:
– Ê thằng quỷ, tụi tao lâu lâu ghé thăm mày mà nỡ lòng nào móc họng tụi tao hả?
Nguyên đám bắt đầu bỏ cách xưng hô ban nãy, mà chọn “Xưng “Tao”, gọi “Mày” thương quá gần” của nhạc sĩ Trúc Phương trong bài “Trên bốn vùng chiến thuật”.
Sẹo Mờ bình phẩm:
– Ai nói trà túi lọc ngon hơn trà hãm chứ tao ưa trà hãm hơn.
Hồi đó mỗi bận đi làm đồng, tao thường dậy sớm súc bình trà, nấu nước sôi, rồi bỏ trà khô vô vô hãm thật đặc, tới chiều về rót ra pha loãng với nước sôi trong bình thủy, chà, ta nói nó đã gì đâu…!
Đầu Hói Họi quay qua ghẹo thằng bạn bán đồ ngọt:
– Mày nấu bánh theo kiểu truyền thống lâu lắc như vầy mày cũng bị ảnh hưởng Nho Giáo rồi đó, mốt bỏ củi sang nấu kiểu công nghiệp đi cho nó Tây Phương.
– Nếu nấu kiểu công nghiệp mà ngon thì tao đã dẹp quách cái bếp này rồi.
Tại sao con gà nướng trên lửa than lại ngon hơn lửa điện? Tại sao nấu cơm củi lại ngon hơn nấu cơm điện? Tại sao ăn bánh bông lan do chủ quán làm “tươi” ngon hơn ăn mấy cái bánh làm sẵn đóng gói? Tại sao uống cà-phê “vợt” lại đậm đà hơn cà-phê máy móc hiện đại?
Vệ Thu bấy giờ mới hay mình được thưởng thức lại món cà-phê “vợt” danh bất hư truyền của đất Sài Gòn.
Hỏi thêm nữa mới biết chủ quán pha chế nước uống theo cách thủ công ngày xưa, chứ không lạm dụng máy móc tân kỳ như nhiều hàng – quán khác.
Hương vị cũ còn đây, mà người quen đã thành ra thiên cổ.
Ông già vuốt keo tóc láng coóng trầm giọng:
– Tiền bạc rất quan trọng đối với đời sống vật chất của con người, nhưng chỉ có tình cảm và kỷ niệm mới nuôi dưỡng được tinh thần.
Suốt ngày chỉ ăn uống đồ tiện lợi, đóng gói sẵn, rồi lao đầu đi làm, tao thấy cuộc đời đó trống vắng ra sao đó.
Tại nhóm người bài xích Nho Giáo và ưa chuộng nếp sống Phương Tây không thấy cái cảnh tao hì hụi nấu cháo gà tẩm bổ cho vợ tao hồi em ở cử, trời ơi cái nồi cháo còn đen hơn cái bản mặt tao nữa, đó, mấy người đó sẽ nói nấu chi cho cực mà còn tốn công vô ích, ra ngoài tiệm mua ăn sướng hơn, ừ thì sướng hơn thật, nhưng tao sẽ không bao giờ thấy được vẻ mặt thương tao quá đỗi của ẻm khi tao “báo cáo” lỡ làm cháy cái bếp, ẻm nói, “Ông mà lỡ bị gì, tui đi theo ông luôn.
Đừng có tưởng trốn tui mà được nghen cha?”
Bởi vì sống trong sự an toàn và tiện lợi quá mức, nên con người rất dễ trở nên khô khan, bảo thủ và bị vướng vô cái vòng tính toán sao cho tiết kiệm thời gian, cũng như chi phí nhất; lâu dần rồi chúng ta sẽ bị biến thành những cái máy chỉ biết làm ra tiền chứ không biết nếm trải cuộc sống…!
Đầu Hói Họi gật gù:
– Nhiều người khoái phán những ai ưa chuộng nấu nướng công phu là quởn, rảnh rang, làm chuyện tầm xàm…!Trong khi đó là sở thích cá nhân, có không thích thì cũng nên phê bình ý nhị một chút, chứ…!
Sẹo Mờ bình phẩm:
– Nhiều người bài Nho hay có lối ăn nói tùy tiện, chụp được chữ nào gắn lên miệng chữ đó mà không suy xét lời lẽ ấy có phù hợp với hoàn cảnh hay không, hễ ai góp ý là họ giãy nảy lên biện minh “tự do ngôn luận”.
Thành thử ra, họ bị hố hoặc nói hớ rất nhiều lần…!
Vệ Thu bình luận:
– Nhiều khi tôi thấy tiếng Anh với tiếng Pháp cũng hay, cứ “You and I” và “Moi and Toi” làm tới.
Bác Út Tiếp phản bác:
– Nhưng nhờ tiếng Việt mình đa dạng đại từ nhân xưng nên mình mới biết tính nết mỗi người mà biết đường né.
Vệ Thu hỏi:
– Sao tôi nghe bản hồi nãy giông giống bản gì đây nè anh Út?
Bác Út Tiếp cười, và nói:
– Bốn tác phẩm “Mưa nửa đêm”, “Chuyện ngày xưa”, “Trên bốn vùng chiến thuật” và “Một người đi xa” đều được viết trên cùng một giai điệu và khuôn nhạc.
“Vua Bolero” Trúc Phương có sở thích đặt lời mới trên giai điệu khuôn nhạc cũ.
Năm người bạn thiết bắt đầu thay phiên nhau hỏi Vệ Thu về quê quán, nơi đang sống và còn đi làm hay đang ở nhà chơi với con, cháu.
Ông mới kể sơ rằng mình đang sống ở Mỹ, còn đi làm văn phòng, có ba đứa trai mà không thằng nào chịu cưới vợ sớm để ông được hưởng thú trông cháu.
Nghe kể tới chuyện hôn nhân, nguyên đám như bị ong chích mà sửng cồ lên kể lể cho ông nghe chuyện con cái nhà họ cũng y hệt vậy; tuổi tác của họ thì ngày càng lớn, mà đứa nào đứa nấy lại đủng đỉnh biểu cứ từ từ.
Sau khi “hạch tội” mấy đứa con xong, nguyên đám kiếm chủ đề khác nói.
Lại là ông già đầu hói khai màn:
– Tiền trợ cấp bên Mỹ ra sao hả anh?
– Nhóm được ưu tiên trước nhứt: Trẻ em, người già, người tàn tật hoặc bị bịnh tật.
Nhóm thứ nhì: Những người đã từng hoặc đang phục vụ trong quân đội Hoa Kỳ, sinh viên/học sinh hiếu học hoặc học giỏi, cha/mẹ đơn thân hoặc có hoàn cảnh khó khăn, người phải ở nhà toàn hoặc bán thời gian để chăm sóc thân nhân không minh mẫn hoặc đau yếu.
Nhóm cuối cùng: Người bị thất nghiệp do sở làm phá sản hoặc đơn phương sa thải; nhưng cũng chỉ được lãnh tiền trong vòng sáu tháng tới một năm, sau khoảng thời gian này phải đi xin việc chứ không còn được giúp đỡ về mặt tài chánh nữa.
Ít Nói đặt câu hỏi:
– Xin tiền bịnh dễ hôn anh?
– Nếu muốn xin tiền bịnh, anh bắt buộc phải có quốc tịch Mỹ và giấy chứng nhận mất khả năng lao động vì yếu tố sức khỏe do bác sĩ thăm khám ký tên.
Đầu Hói Họi hỏi:
– Còn tiền trợ cấp thất nghiệp? Có dễ xin như cái đám hay rêu rao trên mạng không?
– Anh phải đóng thuế cho chánh phủ Mỹ thì khi bị mất việc họ mới trợ cấp cho anh.
Chứ làm như qua Mỹ ở ngang xương, không đóng thuế một xu cái người ta quởn cho tiền vậy.
Tiền chứ đâu phải lá mít đâu anh? À, chỉ trừ bị dịch bịch, người ta mới cho tiền ngang xương thôi, để nền kinh tế không bị “suy sụp”.
Đầu Hói Họi lại hỏi:
– Bữa hổm tôi có nghe xin tem phiếu thực phẩm dễ ụi, nhiều người không cần đi làm mà vẫn sống khỏe re?
– Anh biết xin tem phiếu thực phẩm nó nhọc nhằn ra sao không? Mà sau khi xin được rồi, hằng tháng phải lên trình diện với cái sở của họ.
Họ cố tình làm như vậy để mình cảm thấy nhục nhã và phải từ bỏ chuyện ăn loại tiền trợ cấp này.
Thứ hai, những người viết mấy cái dạng tin kiểu đó đã làm một việc hết sức nực cười: Là đem tổng số tiền trợ cấp nhận được bên Mỹ áp dụng vào đời sống Việt Nam.
Bên mình hai ngàn đồng Mỹ kim là một con số khá lớn, đủ để ăn xài sung sướng và thậm chí có thể phè phỡn; nhưng bên bển, món tiền này chỉ vừa đủ sống hoặc thậm chí là thiếu hụt nếu như người đó sống ở những vùng đô thị lớn như New York, Las Vegas, Washington,…!chẳng hạn.
Ngoại trừ cái đám làm biếng thì phần đông chẳng ai ham nằm nhà hưởng trợ cấp hết, bởi vì đi làm vừa vui vừa có tiền rủng rỉnh trong túi, mà lại còn được mọi người coi trọng và quý mến.
Hiện bây giờ ở Cali, mức lương “ép giá” cũng tròm trèm mười đồng Mỹ kim, còn mức lương tối thiểu mà chánh phủ quy định một giờ là mười lăm đồng Mỹ kim.
Anh chịu khó đi làm một ngày là có liền gần hoặc hơn một trăm đồng; nhứt là cái nghề mà mấy đứa sĩ diện hão ở đây hay chê là “bưng phở”, “chạy bàn” á, hôm nào khách đông có thể lãnh mấy chục hoặc cả trăm đồng tiền típ, vị chi một ngày có thể kiếm hơn một trăm mấy chục đồng.
Rồi mấy anh nói tôi nghe, giờ mấy anh chọn nằm dài thòng ở nhà, xin giỏi lắm mới được hai ngàn, hay là chịu khó đi làm mà tháng nào tháng nấy tiền vô đều đều như nước?
Năm người đàn ông kia đều nói muốn đi làm.
Ông đầu hói bỗng nhắc tới tên của một cái trang mạng, Vệ Thu cười lớn rồi vỗ đùi cái đét:
– Trời ơi mấy cái mỏ chưa từng sống ở đất Mỹ một ngày thì tin cái giống gì?
Ít Nói lại hỏi:
– Anh có thể nói thêm về những nhóm người được lãnh tiền bịnh không?
– Nhiều người bị nghiện ngập bên đây cũng được đánh đồng thành mất khả năng lao động vì yếu tố sức khỏe nên chánh phủ mới trợ cấp cho họ.
Mà cho có nhiêu đâu, nên phải đi xin tiền để có dư mua “thuốc”.
Thành thử ra, những người siêng năng làm lụng rất ghét nhóm người này do họ cho rằng họ đã phải nuôi báo cô một đám làm biếng.
Với những người cầu tiến, siêng năng làm lụng, có khi mới ba mươi tuổi mà đã có một hoặc hai căn nhà, mua bằng hình thức trả góp theo hợp đồng với người bán.
Riêng bảo hiểm y tế thì dễ xin hơn, chỉ cần hội đủ hai điều kiện: Thất nghiệp hoặc Lợi tức một năm dưới hai mươi bốn ngàn, là người ta sẽ cấp cho, bởi thứ này liên quan tới sanh mạng con người nên bên đây không bị đòi hỏi gắt gao gì hết.
Về phần Trì Thương, chú đang ngồi nghỉ chân trên băng ghế đá đặt dưới gốc cây mai tứ quý.
Rồi chờ đợi người đó xuất hiện.
Ước chừng mười lăm phút sau, một người thanh niên ốm yếu bước lại gần và ngồi cạnh chú.
– Bạch Thầy, tôi nên nghe Pháp bằng tiếng nào?
– Pháp không bị giới hạn bởi ngôn ngữ, chẳng qua con người còn Ngã Mạn nên nảy sinh sự khó chịu không đáng mà thôi.
Ai muốn nghe tiếng Phạn cứ nghe, ai muốn nghe tiếng Pali cứ tiếp tục, và ai muốn nghe tiếng Việt để dễ bề đọc theo thì cứ tự nhiên.
– Tiếng Phạn có phải là tiếng gốc không Thầy?
– Tiếng Phạn đâu phải tiếng gốc, ngôn ngữ nguyên thủy là Pali mà.
– Vậy khi nghe Kinh có cần phải…!làm này làm nọ cho trang trọng như vậy không?
– Nếu nghe Kinh mà còn tự quàng cái Ngã Mạn phải như vầy, phải như vầy mới được thì xin ngừng nghe.
Bỏ cái Ngã Mạn xuống rồi hãy nghe.
Thắc mắc đã được giải đáp hết, người thanh niên đó xin phép cáo từ.
Mợ Hai và Vệ Thu đã mua được bánh trái, mứt – kẹo ưng ý, mấy đứa nhỏ cũng được ăn uống thỏa thuê, còn chú Thương thì học được điều hay từ cách giao tế và sắp xếp công việc của bác Út Tiếp.
Đợi khi chiếc xe lên xa lộ, Vệ Thu mới hỏi Trì Thương rằng tại sao Trưởng lão Như Phong phải qua đời như vậy, và Trì Thương trả lời như sau:
– Trưởng lão phải ra đi sớm vì Thầy biết bản thân khó lòng trụ qua được cái ải sắp tới…!Đâu phải tự dưng mà hết người này tới người khác lũ lượt “viếng” chùa.
Nguyễn Quý Sinh đặt câu hỏi:
– Sao Thầy Lợi nhìn uy nghiêm quá vậy chú Út?
Trì Thương bật cười, đoạn đáp:
– Thời trẻ, huynh trưởng là tay giang hồ cộm cán ở đất mũi đó.
Nguyên đoàn nhao nhao đòi người Tăng sĩ tên Thảo đó kể rõ hơn.
– Số là vầy: Má huynh trưởng cùng người cháu gái bán cháo ở ngoài Gành Hào thường bị phường du đãng ghẹo chọc và bắt phải đóng “hụi”.
Huynh trưởng mới nóng máu cầm đòn gánh vụt vô người bọn họ túi bụi.
Kể từ đó về sau, không ai dám hó hé hay lai vãng tới nữa.
Chú Thương vỗ tay cười khoái chí:
– Hèn gì mà ảnh có thể “bình định” người ta bằng lời nói.
Mợ Hai tặc lưỡi:
– Dám ổng hổng tu, cái tánh ổng giống mày lắm đó Thương.
Chú Thương hết cười, day mặt ngó chỗ khác.
– Huynh trưởng đã bớt dữ đi từ lúc gia đình làm ăn khấm khá và có cơ sở riêng.
Sau này còn siêng “hành hiệp trượng nghĩa” nữa.
Rồi vừa cúi mặt móc len, Trì Thương vừa kể:
– Hồi xưa Hoàng Kỳ cũng bướng lắm, nhưng lại sợ huynh trưởng một cây.
Rồi tới Phá Vân cũng hệt khuôn…!
Vệ Thu biết Trì Thương không muốn nói nữa nên quay qua hỏi con trai nuôi:
– Sao con sanh trong đây mà lại tên là Sinh?
Nguyễn Quý Sinh cười hiền mà đáp:
– Dạ, ông cố của con tên Sanh, nên má con mới đổi thành Sinh.
– Tên con có ý nghĩa gì không?
– Dạ, là “Quý trọng chúng sinh”.
Chiếc xe còn cách từ đường nhà họ Nguyễn vài trăm mét, mợ Hai chợt biểu anh tài xế quẹo phải để tới nhà một gia đình có con đang “định cư” ở Chợ Rẫy.
Bà chỉ có thể giúp họ về tiền tài, vật chất, chứ bịnh tình con trai của họ đã không còn cứu vãn nổi.
Trì Thương biết gia đình theo Công Giáo nên không vô nhà, chú ngồi ở trong xe mà đan khăn cho má.
Anh tài xế cũng xuống xe để rãn gân cốt và vặn mình cho bớt mỏi lưng; thể theo ý của người Tăng sĩ, anh hạ hết cửa sổ trước khi tắt máy xuống xe.
“Meo…”
Một con mèo hoang hôi hám nhảy phóc vô xe, rồi nằm cạnh Trì Thương.
– Đói hả thí chủ?
“Meo…”
Chú mở hộp thức ăn mua ở quán cơm Vĩnh Long, rồi ẵm nó lên và đặt nó nằm lên phần nắp hộp.
Con mèo hoang nhai ngấu nghiến khúc trứng cá thu chiên, rồi lại kêu “Meo…!meo…” đòi uống nước.
Chú lại cầm chai nước suối để nó thè lưỡi vô liếm.
– Trời, ở đâu ra con mèo hôi rình này vậy Thầy?
– Cơn đói khát đã dẫn thí chủ này tới đây.
Rất mong thí chủ không phiền lòng.
– Dạ…!
Trì Thương biết người này đang bực mình nhưng không nói lời khuyên giải gì.
Có những Nghiệt Duyên hết sức vô duyên…!
Anh tài xế mở điện thoại lướt mạng.
Vừa coi vừa ăn kẹo tơ hồng.
Trước lúc mọi người lên xe, con mèo hoang đã co chân phóng qua cửa sổ, để lại mùi hôi hám vô cùng khó chịu.
Anh tài xế cầm chai dầu thơm xịt phòng xịt qua xịt lại mấy cái, nhưng vẫn không át được mùi xạ của nó.
– Lấy cái này khử mùi nè thí chủ.
Mấy cái túi thơm do huynh đệ Trì Thương làm ra đã xua tan được mùi xú uế.
Anh tài xế đổi giận làm vui, cất giọng ngọt sớt xin mấy gói.
Người Tăng sĩ đó cho luôn một hộp.
Vệ Thu rất thích mùi hương của túi thơm nên xin Trì Thương chỉ cách sao hoa cỏ khô.
Chú hứa sẽ ghi chép công thức sau khi về tới nhà.
Mãi tới lúc xế chiều, đoàn người mới được dừng chân.
Ngoại trừ Trì Thương, ai nấy đều mệt mỏi rã rời.
Mợ Hai dặn:
– Rồi, quý vị đi vô tắm rửa đi.
Rồi khuya khuya đi ăn uống cũng chẳng muộn.
– Tảo mộ sao má?
– Để ngày mai đi con.
Giờ này ai cũng quải chè đậu hết rồi.
Sau khi tắm rửa sạch sẽ, Trì Thương bưng thau nước ấm lại gần má rồi quỳ xuống rửa chân và xoa bóp chân cho bà.
Chú Thương không muốn thua em nên cũng xề lại đấm bóp vai, lưng và tay của bà.
– “Thương ơi, Thương ơi, Thương ơi, con đâu rồi?”
Vệ Thương mang vẻ mặt ỉu xìu tiến lại gần cha.
– Tui biểu ông đấm lưng thôi.
Mười cái thôi.
Được hôn?
– Dạ được.
Mợ Hai thuật lại chuyện ở nhà gia đình Công Giáo ban nãy.
Số là vầy: Họ bị một người tự xưng là đồng Đạo đang sống ở Giáo xứ Saint Pio cò mồi bán nội tạng; khứa đó biểu rằng mình có thể tìm phổi phù hợp với thể trạng của con trai họ, chỉ cần ứng trước một khoản tiền rất lớn.
Vệ Thu cau mày:
– Phổi mà cũng có thể kiếm ra để ghép sao?
Mợ Hai phẩy tay:
– Vậy mới đáng sợ chớ!
Chú Thương nói:
– Nghe đâu ông Chánh xứ ở đó bê bối lắm…!
Trì Thương ngửng đầu lên nhìn anh Hai, rồi khẽ khàng lắc đầu.
oOo
Đặng Thừa Tân hãy còn nhớ như in vị ngon của trái dừa – khóm ở nhà ông Hai Luật.
Gọi là dừa – khóm vì cây dừa xiêm này nằm cạnh luống khóm, bóng già oằn mình xuống mé mương đùng đục.
Ban đầu anh tưởng nó là giống dừa – lá dứa, ai dè uống xong mới hay nó là dừa xiêm thuần, tại đặt tên vậy cho dễ phân biệt với những cây dừa “hên xui” khác trong vườn.
Hai chữ “Hên xui” này mang hàm ý một buồng có trái ngon, trái dở chen lộn vô; ai hên trúng trái ngon, ai xui hốt trái dở, chỉ đơn giản thế thôi.
– Nhạc sĩ Anh Bằng phổ nhạc từ thơ của thi sĩ Hư Vô để tưởng niệm người bạn đồng nghiệp Trần Thiện Thanh, ca khúc đó có tên “Trần Thiện Thanh, dòng nhạc một thời chinh chiến”.
Người bạn cà-phê đồng trang lứa với chàng nhạc sĩ lãng du chưng hửng.
Anh ta giương mắt hỏi:
– Không có ca sĩ nào hát hay hả anh?
– Ừ, nên tôi sẽ ca cho anh nghe một đoạn.
Nói rồi, Thương Hận bèn trình bày:
“Xin cám ơn anh, một thời chinh chiến
Tay ôm đàn, ôm súng viết tình ca
Tầm đạn bay xuyên qua từng nốt nhạc
Những trận hành quân để biết nhớ nhà…”
Bữa nay Thương Hận được đài truyền hình Sài Gòn mời tham dự chương trình thảo luận về đề tài âm nhạc Nước Nhà, nên đã ghé đây ăn bánh mì xíu mại và uống cà-phê sữa lót dạ trước lúc tới đó.
Người bạn cà-phê là tài xế taxi mà ban tổ chức chương trình đã “đài thọ” cho anh.
– Anh ơi, chỗ anh có dĩa hát chứa giọng ca của nhạc sĩ “Hoa nở về đêm” Mạnh Phát không?
– Có chớ.
Nói xong, anh chủ quán lấy từ dưới gầm bàn lên một cái dĩa hát hãy còn khá mới, mang tên rất đơn giản “Đĩa Đá 78 vòng”.
Rồi vừa đặt nó lên máy phát, anh vừa giới thiệu:
– Trong băng nhạc này có một phần trình diễn hết sức hiếm có khó tìm, đó là màn song ca của vợ chồng ca sĩ Khánh Ngọc và ca – nhạc sĩ Hoài Bắc – Phạm Đình Chương, bài hát ấy mang tên “Khúc giao duyên” do nhạc sĩ Phạm Đình Chương sáng tác.
Đôi vợ chồng “Ngang trái” này chỉ thu âm riêng với nhau có mấy bản, phần đông là tam ca hoặc hợp ca không hà.
– Vậy cho tôi nghe bài đó trước đi, rồi cố nhạc sĩ để sau cũng được!
– Okay!
Một người khách lớn tuổi vừa khuấy bạc xỉu vừa buồn buồn tâm tình:
– Dường như bài hát “Đợi chờ” do nhạc sĩ Phạm Đình Chương đồng sáng tác với nhạc sĩ Nhật Bằng đã tiên đoán đúng kết cục hôn nhân của ông và người vợ Khánh Ngọc.
Cậu còn giữ băng nhạc đó không?
– Dạ còn.
Băng nhạc “Mây Hồng 6 – Nhạc phẩm Phạm Đình Chương”.
Để con phát cho anh này trước rồi tới ông nghen?
Người khách cao tuổi vuốt lại mớ tóc mai trắng như cước, rồi gật đầu thay cho lời đồng ý.
Ông uống một ngụm bạc xỉu trước khi trình bày:
– Bài này và “Thuở ban đầu” là hai tình khúc ông dành tặng cho người vợ Khánh Ngọc.
Và bài “Đêm cuối cùng”, “Nửa hồn thương đau”, “Người đi qua đời tôi”,…!là những biệt khúc chia tay mối tình giữa hai người.
Một người khách nam đeo khẩu trang tiến lại quầy thu ngân và đặt câu hỏi với anh chủ quán:
– Anh nghĩ sao về nhạc sĩ Phạm Duy và tác phẩm của cụ?
– Nhạc sĩ Phạm Duy có gần hoặc hơn ba ngàn ca khúc, đa số mang nội dung như lời ca – nhạc sĩ Duy Khánh đã nói trong một số cuốn băng nhạc của mình hoặc người ta, “Những bài ca thời trang ca ngợi Tình Yêu, Quê Hương và Dân Tộc…” Đương nhiên nội dung thành hình dựa trên quan điểm cá nhân và suy nghĩ chủ quan của cụ, nên có người đồng tình – người không là chuyện bình thường.
Về phần đời tư và quan điểm chính
– Vậy còn quan điểm làm tay sai cho ngoại bang thì sao?
Anh cười gằn trước khi trả lời:
– Tay sai? Tay sai mà không có lấy một bài ca ngợi “chủ” hay mấy ông chính trị gia, chỉ có vài bản thương tiếc những người sĩ quan có tên tuổi thật trong chiến tranh? Ai nói cố nhạc sĩ Phạm Duy làm tay sai nên về học lại tiếng Việt rồi đối chiếu với cuộc đời cụ từ lúc gia đình hai bên tham gia kháng chiến chống Pháp cho tới ngày cụ mất.
Tay sai nào mà sáng tác được bài “Việt Nam! Việt Nam!”? Với những câu hát, “Việt Nam, hai câu nói trên vành nôi”, “Việt Nam, hai câu nói sau cùng khi lìa đời”, “Việt Nam trên đường tương lai, lửa thiêng soi toàn thế giới”? Và rất nhiều bài hát luôn kết thúc bằng bốn chữ “Việt Nam muôn đời”?
Ông khách ngồi ở bàn đối diện quầy thu ngân phụ họa:
– Có nhiều khứa muốn “dập” nhạc Phạm Duy lắm, nhưng “dập” không nổi đâu.
Người khách đeo khẩu trang hơi nhếch miệng cười:
– Nói vậy là anh ủng hộ đời tư của cố nhạc sĩ này…!
Anh dằn cái khay đựng đầy đá viên xuống bàn một cái rầm, rồi quắc mắt mà nói:
– Tôi đang nói về âm nhạc, chứ không hề đề cập tới đời tư của Phạm Duy.
Xin anh đừng cố tình đánh tráo khái niệm.
Bây đâu, tiễn khách!
Nhưng người khách đeo khẩu trang vẫn đứng trơ ra như đá.
Anh ta khoanh hai tay trước ngực, rồi trách cứ anh rằng nếu như cứ ủng hộ thể loại nhạc này thì làm sao nền âm nhạc Nước Nhà phát triển.
– Trước khi đổ thừa khán giả yêu chuộng nhạc xưa hoài thì làm sao nhạc ngày nay phát triển, anh nên về coi lại tác phẩm của mình như thế nào mà người ta nghe như nhai kẹo cao su, “ăn” đúng một lần rồi liệng thùng rác.
Rất nhiều bản nhạc Tiền Chiến đã bị lãng quên vì sự phát triển của giai đoạn nhạc Vàng; đó là minh chứng cho những gì tôi nói, anh cứ sáng tác hay thì người ta sẽ tìm nghe và ủng hộ anh hết mình, rồi những gì của Quá Khứ sẽ lui về Quá Khứ.
Còn ngồi đó chỉ trích và bươi móc nội dung tác phẩm, tôi nhấn mạnh một lần nữa là tôi đang nói về tác phẩm, của thế hệ nhạc sĩ trước năm 75, chỉ tổ khiến cho người ta thấy anh tài hèn đức mọn.
Rồi anh bồi thêm:
– Tôi chắc chắn anh không phải nhạc sĩ, bởi vì người bạn nhạc sĩ của tôi không bao giờ có thái độ trịch thượng, xấc xược và lên mặt với những bậc nhạc sĩ tài giỏi hơn anh ta.
Trước lúc rời đi, người đàn ông tới kiếm chuyện đặt mua một ly nước sâm bí đao.
Thái độ “trơ gan cùng tuế nguyệt” của anh ta đã khiến thực khách trong quán cảm thấy ngạc nhiên hết sức.
Em họ của anh vứt cái nùi giẻ mới giặt lên quầy thu ngân, rồi chống nạnh mà nói:
– Mấy bữa rày có nhiều người tới kiếm chuyện với anh Út quá…!
– Tụi nó đang định mượn lời tao để kiếm chuyện đánh lạc hướng dư luận.
Nhưng tao không quởn mà đưa đầu vô đâu.
– Vậy anh nghĩ sao về các nhạc sĩ trước năm 75?
– Họ có tài, tao công nhận.
Đời tư và sự nghiệp của họ có điều chi sai trái, tao nhận xét đôi lời chứ không “lên lớp” nặng nề.
Quan điểm đời sống và chính trị của họ không thuận lỗ tai tao, tao phản bác rõ ràng chứ không tấn công cá nhân của họ.
Một người ca sĩ trẻ có giọng ca đớt đát và cách nhả chữ chải chuốt quá đáng tới hỏi anh chủ quán về một số bài ca hải ngoại sôi động để cô trình diễn trong băng nhạc sắp tới.
– Ca khúc “Yêu hoa” có cô Ngọc Lan trình bày rất dễ thương, nhạc sĩ Kiêm Thêm đặt lời Việt từ giai điệu “Fur Elise” của nhà soạn nhạc Beethoven.
Còn nhạc sĩ Phạm Duy thì có bài “Khi màn nhung mở ra”, và nhạc sĩ Trần Ngọc Sơn là bản “Khi tình yêu tới”.
Nhưng có một số nơi lại cho rằng “Yêu hoa” là của một nhạc sĩ tên Nguyễn Xuân Nghĩa, và “Khi tình yêu tới” mới là của nhạc sĩ Kiêm Thêm!
Rồi Đặng Thừa Tân cho cô ca sĩ trẻ xem bìa đĩa “Khúc ban chiều – Nhạc cổ điển lời Việt 1”; trên nhạc mục ghi rõ ràng rằng: Yêu hoa (Pour Élise), nhạc: Beethoven, lời Việt: Kiêm Thêm, còn người hát là ca sĩ Julie.
Giờ cơm trưa đã tới nên anh giao quán cho đám nhân viên, rồi ghé tòa soạn Canh Tân rủ anh bạn cùng họ đi ăn uống.
– Ký giả Sương Tuyết hả? Nó không có ở đây.
Về quê viết phóng sự rồi.
Tạm biệt người ký giả hói đầu, anh lái xe qua quận Hai mua hủ tíu sa-tế ăn.
Quán ăn này của một người bà con bên nội của một điều tra viên phụ trách thảm án “Hai Mươi”, giá tiền rất phải chăng và một phần ăn cũng nhiều.
Đón anh vào quán nhỏ là ca khúc “Phố buồn” của nhạc sĩ Phạm Duy, do Thanh Thúy trình bày.
Người bồi bàn biểu anh lấy số rồi vui lòng lại ghế ngồi chờ, bởi quán đã hết chỗ rồi.
Anh bằng lòng, rồi vui vẻ cầm tấm thẻ mà ra sân trước đợi.
– Có những thứ chỉ có thể xóa được trên mặt Hữu Hình, chứ không bao giờ xóa được trên mặt Vô Hình.
A, ra là khách quen của quán anh đây mà! Viên sĩ quan cảnh sát ngả nón chào anh, rồi hỏi:
– Có người nói không nhờ nhạc sĩ Phạm Duy thì thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên sẽ mãi là kẻ vô danh tiểu tốt, theo anh nhận định đó đúng hay là sai?
– Vừa đúng, lại vừa sai.
Bởi nếu không có tác phẩm của chú Hải, ắt hẳn ca sĩ Duy Quang đã mất đi những màn trình diễn tuyệt vời và cơ hội đưa tên tuổi bay xa hơn.
– Nói vậy là anh thừa nhận chú Hải phải cậy nhờ tới khả năng biến thơ thành nhạc của cụ Duy để nổi tiếng.
Nhưng cụ Duy không bị thiệt thòi gì nhiều vì nếu không có chú Hải thì chú Quang cũng không nổi danh sớm như vầy.
– Phải.
Hồi còn là thành viên trong ban “The Dreamers”, tên tuổi của chú Quang không mấy nổi bật.
Nhưng sau khi trình bày những bản “nhạc thơ” của chú Nhiên và cha ruột như “Cô Bắc Kỳ nho nhỏ”, “Em hiền như Ma Soeur”, “Thà như giọt mưa”, “Anh vái Trời”, “Chỉ chừng đó thôi”,…!danh tiếng chú Quang vụt sáng như…!thiên thạch vậy.
– Một sự cộng tác y chang thiên duyên tiền định.
Nói chuyện chơi thêm nửa tiếng nữa thì tới lượt anh được gọi vô bàn.
– Khoan đi đã anh Tân!
– Chi hả anh?
– Cho tôi ngồi ké với.
– Thưa…!thưa được.
Viên cảnh sát ấn ông chủ hàng cà-phê thân quen xuống ghế, rồi mỉm cười hỏi:
– Kể từ ngày đó, anh có còn ăn được giò heo, móng heo hay xương tủy không?
Đặng Thừa Tân rùng mình, vừa cười vừa lắc đầu nguầy nguậy.
– Vậy là không ăn được đúng không?
Người bồi bàn bưng mâm lên dọn món nên viên cảnh sát ngừng nói.
Ngay khi người bồi bàn vừa rời đi, viên cảnh sát liền trình bày:
– Tôi có một người bạn pháp y đã chuyển sang phương cách trường chay vì bị ám ảnh bởi mùi tanh tưởi, dịch nhầy tiết ra từ máu thịt, xương tủy…!À quên, đang giờ ăn mà, tôi vô duyên quá!
Anh chủ quán đoán chừng viên cảnh sát đang dò xét thái độ mình nên cố giữ vẻ bình tĩnh.
Anh ghét vô tù ngồi vì dư âm quá khứ, chứ không phải là sợ gì hết.
oOo
Châu Lợi đang lượm từng cánh hoa khô để sao thành hương liệu xông muỗi cho tịnh thất.
Cách ông ước khoảng mười mấy mét, Tín đang đứng khoanh tay nói chuyện với người viếng thăm các Tăng sĩ.
– Mỗi bận thấy Thầy Lợi cười là tôi biết có người đang bị Thầy nhắc…!
– Còn nhớ người thanh niên đứng lấp ló sau bức tường ở chùa Khánh Hỷ không?
Tín giật thót mình, rồi thấp giọng đáp:
– Dạ…!
– Tôi nói người đó mà có người nhột nên đăng bài thanh minh – thanh nga giùm.
– A, là cái anh bạn vô thần của tôi đây mà.
Ảnh mạo danh Phật Giáo để lấy lý luận viết bài vu oan cho nhóm cư sĩ Hòa Hảo.
– Không có nghĩa có nghì như Nho Giáo và Đạo Giáo, không có đức hiếu sinh như Phật Giáo, không có lòng bác ái như Cơ Đốc Giáo,…!Trái tim và khối óc chỉ phụng thờ hai chữ “Kim Tiền”.
– Ừ, ảnh theo Đạo “Hồi”, tức hồi này hồi kia.
Hồi thì mạo danh Phật Giáo để đánh phá những Tăng – Ni mà chủ thuê chỉ định, hồi thì mạo danh Cơ Đốc để san bằng Cha – Sơ không vừa mắt chủ thuê, lúc lại giả bộ làm người yêu Nước thương Dân bài trừ mê tín dị đoan để dẹp Tam Giáo và các tôn giáo ở trong này.
Ảnh là dân vô thần rặt, ở đó mà có đức tin hay Đạo – Giáo nào.
– Ấy vậy mà có người không hiểu, lại nghĩ tôi nói về họ nên viết bài thanh minh – thanh nga.
– Đúng như những gì Thầy đã nói với Trưởng lão Như Phong, ảnh sắp sửa té xuống nước rồi.
– Đa Nghi cũng là một trong những phương thức tự sát mà nhiều người vận vào mình.
– Hì, người cần nghe lời khuyên thì không để tâm, người không liên can gì lại tự “rước” vô đầu.
Một chiếc trực thăng lượn qua bầu trời Cô Tô mù sương làm gián đoạn cuộc trò chuyện giữa hai người.
Đợi cho nó bay khuất dạng, Tín mới đánh tiếng hỏi:
– À, mà Thầy Lợi ơi…!
– Thưa thí chủ, có chuyện chi?
– Thầy nghĩ sao về hình thức du lịch sinh thái?
– Theo Tín thì nên làm gì?
– Tức là vầy, cứ để nguyên hiện rừng cây, đồi núi, kinh mương, sông nước,…!chỉ cần tu bổ đường sá và yêu cầu những nơi kinh doanh nhà trọ, hàng ăn, quán xá,…!phải đáp ứng đầy đủ tiêu chuẩn bảo vệ môi trường.
Du khách tới đây là để thăm thú cảnh sắc tuyệt đẹp của thiên nhiên An Giang, chứ đâu phải là để coi ba cái tượng đục đẽo vô hồn và đền, đài, miếu, mạo do đời sau tự “sáng chế”.
Rồi anh lại thêm:
– Tôi thấy chỗ nào muông thú sinh sống nhiều thì đề bảng “Cấm vô” để bảo vệ nơi đó và loài vật.
– Tức là du khách chỉ được viếng thăm ở mỗi bìa rừng, còn đi vô sâu hơn thì không được? Ngoại trừ trường hợp họ được sự cho phép của địa phương để vô đó lấy tài liệu viết bài hoặc nghiên cứu khoa học.
– Phải, du khách thì chỉ ở mé rìa thôi.
Còn người dân địa phương thì được quyền tự do đi lại.
Châu Lợi vừa cúi xuống lượm xác hoa vừa cười nói:
– Khi đồng tiền làm nặng túi thì lương tâm sẽ chông chênh, khi ấy năm non bảy núi sẽ bị hủy diệt dưới bàn tay Tham – Sân – Si của loài người.
Hãy dạy trẻ yêu thiên nhiên rồi hãy nghĩ tới chuyện phát triển kinh tế thông qua hình thức du lịch.
– Các Thầy có từng qua Bhutan không?
– Đã từng.
– Thấy sao?
– Cảnh vật xanh mát và con người hiền hòa.
Tín thôi đề cập tới chuyện du lịch sinh thái.
Anh lại ngồi nghỉ dưới tán cây Sala trổ bông tím biếc, mắt lơ đãng nhìn cảnh núi non lãng đãng sương trước mặt.
– Có một thứ mà người Ác không bao giờ xóa bỏ được, đó là Sự Thật và Chân – Thiện – Mỹ ở cõi đời này.
Châu Lợi đưa mắt ngó người sư đệ tương lai, rồi cười buồn mà nói:
– Những gì Tín làm đã tích lũy thành Quả Báo quá lớn rồi.
Nếu như kiếp nạn này Tín may mắn còn sống, Tín sẽ…!
Nhưng lời ông chưa tròn mà bỗng đâu trời nổi mây mù, cơ hồ như dông bão sắp sửa kéo tới, bốn bề chìm trong màu đen u tối.
Châu Lợi gạt nước mắt, rồi quay lưng đi một hơi vô tịnh thất.
Vừa đi ông vừa run giọng đọc:
– “Quả bắt đầu trổ
Người phải chịu khổ
Nghiệt do mình gây ra
Không một ai cứu vãn nổi…”
Tín bỏ ngoài tai những điều mà người Tăng sĩ già ấy nói, tự nhiên sáng nay anh thèm ăn bánh bao dì Bảy bán trong khu chợ gần chân núi Cấm kinh khủng.
Không đợi taxi tới đón, anh đã hăm hở chạy băng băng xuống núi.
Chạy như lao vô miệng Quả Báo của mình.
…!
Đã trễ rồi mà vẫn chưa thấy Tín quay lại, nhóm Tăng sĩ chia nhau xách đèn đi tìm khắp vùng núi Phượng Hoàng.
Chợt Châu Lợi thấy một con rắn hổ mang to bằng cườm tay ông đứng trên một tảng đá rêu phong mà lúc lắc đầu như thầm ra hiệu.
Năm xưa, thuở Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế, có một con rắn hổ mang đã vươn thân làm lọng bảo vệ Ngài.
Châu Lợi chắp tay hỏi nó:
– Thưa thí chủ, thí chủ có thấy sư đệ Hỷ Tín ở đâu không?
Con rắn kêu lên mấy tiếng, rồi trườn lên cánh tay phải của Châu Lợi.
Hai chúng sinh cùng nhau tiến về phía trước trong ánh trăng khuyết bàng bạc.
Khi tới nơi, hiện trường chỉ còn lại những vết máu khô lem nhem, còn người thì không biết đã bị đưa đi đâu.
Châu Lợi quỳ xuống vốc lấy nắm đất chứa đựng sự Vô Minh đó rồi ngẩng đầu nhìn Trời.
Hai hàng lệ của ông không ngừng tuôn xuống.
Đoạn quay sang nói với rắn:
– Cảm ơn thí chủ đã dẫn đường cho tôi.
Trước lúc tạ từ Rắn để tới nhà thương gặp Hỷ Tín, Châu Lợi cúi đầu và chắp tay xá nó một cái.
Rắn kia không biết làm sao để đáp lễ ông, chỉ đành gật, gật cái đầu đáng sợ của mình để thay thế cho sự bái – lạy, rồi lủi mất vào trong một bụi cỏ rậm rạp.
– Thầy Lợi! Thầy Lợi! Anh Tín bị người ta đánh bể đầu rồi Thầy Lợi!
Đinh Mạnh Hùng chưa kịp nhường lời cho các huynh đệ, đã vội bổ sung:
– Ủa? Sao trên người Thầy có mùi rắn vậy? Chết cha chưa! Nó có cắn Thầy hôn?
– Không, rắn không làm hại người, chỉ có con người làm hại nhau mà thôi.
Trì Thương đưa mắt nhìn huynh trưởng, rồi chắp tay mà bạch:
– Thưa huynh trưởng, có sẩy chân mới lại gần Đạo được, lời đó là của huynh, huynh còn nhớ không huynh?
– Sadhu.
Trên đường đi tới nhà thương, nhóm cư sĩ Hòa Hảo thuật lại chuyện Trần Trí An đã nghe hết cuộc nói chuyện giữa Tín và đám người hành hung anh ta, và cảm thấy rất buồn khi biết người hãm hại họ “tưởng xa tận chân trời mà gần ngay trước mắt”; vì thân cô thế cô nên Trần Trí An đành phải chạy đi cầu cứu, chứ không thể ở lại giúp đỡ Tín, anh kỹ sư hóa chất vẫn còn tự trách bản thân vì sự vụ trên.
– Bác sĩ phụ trách ca mổ biểu nhà thương thiếu nhóm máu O…!- Trần Bảo Sơn khó nhọc nói tiếp.
– Cần gấp lắm mấy Thầy…!
Trì Thương hướt lời:
– Có…!Nhưng không biết đệ ấy tới kịp không…!
Tín bị chảy máu trong, nói cụ thể hơn là bị vỡ gan và tổn thương bao tử kẻm lá lách, cũng may chưa bị dập phổi hay hư túi mật và thận.
Còn phần đầu, chỉ bị sưng nhẹ và bầm tím vài chỗ, não bộ không bị ảnh hưởng hay có dấu hiệu báo trước di chứng.
– Sao tự nhiên nhà thương hết nhóm máu O vậy? Hay là có mà sợ ai nên không truyền cho nó hả?
Người đang nắm cổ áo bác sĩ mà la làng lên là Lê Đức Hoàng.
Không biết ai đã “mật báo” cho ông chủ biên tòa soạn hay tin mà ổng phái nguyên đám tới đây viết bài.
Chàng bác sĩ trẻ lắc đầu nguầy nguậy, rồi cố sức giải thích cho gã trai Bảy Núi hiểu.
Nhưng hắn vẫn kiên quyết không tin.
– Mày thôi đi Hoàng.
Để yên cho bác sĩ làm việc…!
Lời chưa nói dứt, Tống Ngạn đã kéo thằng bạn thiết ra.
Hai đứa kia cũng hùa vô một tay.
Chàng bác sĩ nhân cơ hội đó mà lẹ gót trốn vô phòng riêng của mình.
Chí Công chợt reo lên:
– Ủa anh Tuyết?
Hỏi ra mới hay, người anh đồng nghiệp của họ cũng bị ông chủ biên điều tới đây lấy tin tức.
Vậy ra kẻ ẩn danh muốn dằn mặt những ai không theo phe chúng nên mới mật báo cho các ông chủ biên.
Tòa soạn Canh Tân và Nếp Sống Mới vốn không đội trời chung với băng viết mướn…!
– Trời ơi, nhóm máu gì không mang, đi mang nhóm máu O.
Chí Công an ủi thằng bạn Thất Sơn:
– May phước là nó chưa mang nhóm máu Rh.
Đức Hoàng thấy người đang nguy kịch thì tức mình dữ lắm vì không thể ra tay giúp đỡ.
Đùng một cái đòi nhóm máu O, hắn liên lạc sao kịp những người có nhóm máu đó chứ?
Châu Lợi đưa mắt nhìn đồng hồ treo nơi vách tường phòng bệnh mà buồn bã nói:
– Ác Nghiệp cứ chuyền tay nhau mà đi.
Người Ác hại người Lành, rồi lại bị chính người Bất Thiện khác hại.
Cứ thế, cứ thế, cõi Ta-Bà chìm trong đau khổ và oán thù triền miên từ đời này sang đời khác.
Chí Công lắc đầu:
– Nhưng làm người Lành bị thua thiệt đủ đường.
– Mình làm nhưng Trời nhìn.
Trì Thương bổ sung:
– Đức Phật còn bị Ma Vương hãm hại, dụ dỗ, bày chuyện khêu gợi nhằm khiến Ngài ấy sanh tâm phá Đạo thì mình là cái thá gì mà có thể tránh thoát tai ương, tù đày và thị phi do con cháu Ma Vương làm ra?
Châu Lợi nhìn hiền đệ cười và nói:
– Nên nhìn với con mắt bao dung thì hơn.
Bởi lẽ họ phải tạo Nghiệp Ác để kiếm sống thì quả là quá sức đáng thương rồi…!
Đức Hoàng vuột miệng:
– Thương con khỉ chứ mà thương.
Trì Thương nhìn Đức Hoàng mà nở nụ cười đầy hiền từ.
Chú đã thấy một người thanh niên đi trả tiền trọ cho một kẻ đã lăng mạ anh ta suốt mấy tháng liền, lại còn nán lại bóp tay – bóp chân cho mẹ của một kẻ không coi mình ra gì nhằm giúp bà đó bớt đau cơ.
Trái tim thiện lương đó bị cái miệng thẳng tưng làm cho vô hình.
– Hoàng mang trái tim Bồ-Tát, nhưng cái miệng và cách hành xử của A-Tu-La.
Đức Hoàng day sang hỏi người anh đồng nghiệp:
– Anh Tuyết nhóm máu chi?
Đặng Xương Tuyết lắc đầu:
– Tôi nhóm máu A…!
Vì đã biết mối ân oán giữa tòa soạn Canh Tân và băng nhóm của Tín nên Khán Bình, Tống Ngạn và Chí Công hết sức nghi ngờ câu nói trên.
Chỉ riêng Đức Hoàng vung nắm đấm quả quyết:
– Ảnh nhóm máu A thiệt.
Tao tin ảnh.
Gã điên đưa mắt nhìn phòng bệnh, rồi xin phép cáo từ.
Anh có máu đâu mà cho? A làm sao truyền được cho người mang nhóm máu O.
Đức Hoàng “còn nước còn tát”.
Hắn đang gọi điện cho tía má để hỏi:
– Ba má, bên bà con mình có ai có nhóm máu O hôn?
Thím Ba nghe tới chữ “Máu” thì hết hồn nên nói sảng:
– Trời ơi, thời giờ còn hổng có, ở không đâu mà đi xét nghiệm cho biết nhóm máu.
Mà cần chi hả con? Con bị thương hả? Có sao hôn con?
– Có một người cần máu liền.
Má ơi, con mà bị mất máu ngất xỉu thì đâu có đứng đây gọi điện dìa được?
– Con nó nói đúng đó mình.
Cái tật nhát của mình làm hỗn mấy chập chưa tởn hả?
Trong lúc các bác sĩ phụ trách ca mổ của Tín đang tiến thoái lưỡng nan, Phú Lâm cùng Trần Trí An bước vô.
Người Tăng sĩ đó hô lên:
– Tôi nhóm máu O.
Phú Lâm liền được đưa vào lấy máu.
Còn Trí An thì chạy đi khám bệnh vì cơn đau nửa đầu tái phát.
– Tao phải về nhà thu xếp công việc.
Tụi bây ở lại theo dõi tình hình nghen?
Lời vừa dứt, Đức Hoàng nắm tay kéo Xương Tuyết đi xăm xăm ra nhà xe.
Mặc cho mấy thằng bạn la í ới ở đằng sau.
Nhà xe của bịnh viện rất thích hợp để quay những thước phim ma quái hoặc kinh dị.
Chiếc xe Jeep mà tòa soạn cho Xương Tuyết mượn nằm cách lối vào thang máy chừng hai chục mét; kế bên buồng thang máy bên trái là phòng trực ban của nhóm bảo vệ, nhóm đi trực ước khoảng mười người và nhóm ngồi trực thường từ hai tới bốn người.
Đức Hoàng ngó chiếc xe Jeep nhà binh một đỗi, mới chịu leo lên xe và ngồi vô ghế.
Công nhận tòa soạn “Canh Tân” rất can đảm vì đã giao phó chiếc xe cho một người bị cận – loạn nặng như anh Tuyết.
Và hắn là người can đảm tiếp theo vì dám giao phó tánh mạng cho anh ta.
– Hồi xưa tôi ở nhà lầu, giờ sa cơ thất thế chuyển sang nhà khác…!
Gã điên cười hỏi:
– Nhà gì?
– Cũng ở nhà cao như xưa.
– Nhưng là nhà gì mới được?
– Nhà sàn.
Đặng Xương Tuyết cười ngất.
Rồi giục người em đồng nghiệp mau cài dây đai.
Trước khi chỉ đường cho người anh đồng nghiệp, Đức Hoàng dẫn anh ta đi coi “di tích”.
Đó là một tòa nhà kiểu Pháp, hai lầu, có sân thượng, diện tích ước chừng ba trăm mét vuông.
Khuôn viên tòa nhà rộng lối hai ngàn mét vuông, có hồ nước và bể bơi, lại có một khoảnh đất trồng cây trái – rau củ và nhà để xe riêng biệt.
– Nơi đó đã từng là nhà của dòng họ tôi, nhờ “ơn” bài bạc và rượu chè của tía và ông cậu tôi mà tôi phải nai lưng ra làm trả nợ.
Xương Tuyết quay qua nhìn người đàn em mà nhếch miệng cười hỏi:
– Vậy miếng đất hiện thời là của ai?
– Của tôi.
Tôi mua trả góp.
Người đứng tên miếng đất đó cũng là tôi.
Sợ tía má đem cầm đi để đánh đề nên tôi đem lên Sài Gòn cất.
Từ ngôi nhà tồi tàn của gia đình Đức Hoàng có thể trông thấy khá rõ vùng núi Ông Két kỳ vĩ.
Chàng trai Thất Sơn kể rằng mỗi bận khổ tâm thường lên Điện thờ viếng thăm Chư Vị; lâu dần thành thói quen, cứ hễ buồn rầu hay về quê, chàng ta lại ghé Điện thưa Chư Vị rồi rảo bước chiêm nghiệm cảnh nước non tráng lệ xứ mình.
– Quê cậu đẹp tựa chốn Bồng Lai – Tiên Cảnh.
Đức Hoàng cười vang:
– Cảm ơn anh Tuyết.
Còn anh? Quê anh, anh thấy sao?
– Quê tôi không có núi non trùng điệp hùng vĩ như vầy, nó chỉ có nước, cù lao, cồn cát, bãi bồi và rừng dừa, chuối gần như bao la bất tận.
Với những ai thích thám hiểm, quê tôi không phải là một điểm đến lý tưởng; nhưng với những ai cần một chốn bình yên và dung dị, thì quê tôi có thể chiều lòng được.
Rồi gã điên mơ mòng hồi tưởng:
– Tôi vẫn còn nhớ những lần đi trên cây cầu bắc qua sông Ba Lai, được ngắm hoàng hôn và trăng mọc cùng một lúc thật tuyệt.
Không biết người xưa hữu ý hay vô tình, mà lại làm cho mạn phải cây cầu ngay chóc hướng Tây và mạn trái ngay chóc hướng Đông, thành thử ra hễ tới chu kỳ thích hợp là tôi có thể nhìn thấy mặt trăng và mặt trời xuất hiện cùng một lúc, có khi cái cao – cái thấp, có khi hai cái đâu mặt nhau.
– Chỉ có ở cố hương, văn tả cảnh mới chân thật nhứt phải không anh Tuyết? Còn ở đất người, dù cho phong cảnh có đẹp cách mấy đi chăng nữa, những vần chữ viết ra luôn luôn gượng gạo và sáo ngữ.
– Phải.
Hơn mười một giờ đêm, đôi bạn đồng nghiệp mới về tới nhà.
Thím Ba đã hay tin nên ngồi chờ sẵn trong phòng khách; còn chú Ba bị rêm mình nên đã vô buồng nằm nghỉ, chừng nào con trai về thì chú sẽ ra gặp.
Mấy đứa em xúm nhau coi TV ở dưới nhà sau, trên đài đang chiếu bộ phim hoạt hình của hãng “Walt Disney”; đứa nào đứa nấy đều mong anh Hai sẽ đem đồ ăn và quà bánh dìa.
– Dạ, thưa má, con mới về.
Còn đây là anh Tuyết, đàn anh trong nghề của con.
Xương Tuyết cúi đầu mà thưa:
– Dạ, thưa cô.
Thím Ba vừa đỡ lấy mấy bịch đồ ăn – thức uống mua ở chợ đêm và gói thuốc trị bịnh xương cốt từ tay con trưởng và người bạn của nó, vừa nói cười tíu tít.
Thím là người Chăm, khi xưa là hoa khôi một vùng, nhưng phận gái thuyền quyên sa lầm bến đục nên giờ phải sống cảnh “Áo vũ cơ hàn”.
– Tía…!Con có mua hột vịt lộn với gà xác chiên nè…!Tía mau ra ăn đi kẻo nguội…!
Chú Ba lết cái chân đang tê rần vì nằm yên quá lâu mà chạy ào ra mừng rỡ hỏi:
– Con hết giận tía với má rồi hả?
Bất thình lình, bắp chân ông bị chuột rút một cái thật đau điếng.
Ông té sõng soài trên sàn nhà, mặt mày nhăn nhó trông khổ sở vô cùng.
Đức Hoàng vừa quỳ xuống bóp chân cho tía vừa nhỏ to giãi bày:
– Con làm con tía má bao nhiêu năm mà tía má hổng hiểu tánh nết con sao? Cái miệng con nói cho hả hơi rồi thôi, chứ không khi nào con để trong bụng.
Thím Ba xoa đầu đứa con trai gầy gò, bác sĩ biểu rằng nó bị thiếu dinh dưỡng do ăn uống không điều độ.
– Mấy bây đâu rồi! Lên lấy đồ ăn – nước uống nè!
– Dạ, anh Hai…!
Thể theo ý ăn của từng đứa, Đức Hoàng mua cho đứa Út nui gà – hoành thánh, đứa Sáu cơm tấm thập cẩm, đứa Năm bánh canh Vĩnh Trung, đứa Tư hủ tíu Nam Vang và đứa Ba bún Thái hải sản.
Thím Ba càm ràm rằng sao không mua cùng một món cho gọn, thì hắn chỉ cười hì hì.
Về phần tía má, hắn mua heo quay, gà nướng muối ớt và xá xíu ăn với bánh mì; chưa kể tới còn hột vịt lộn, gà xác chiên và khô mực xé sợi.
Kể từ ngày đọc tờ giấy kết quả xét nghiệm của Đức Hoàng, chú – thím Ba không còn ham đánh đề nữa.
Bác sĩ nói hắn bị lao lực quá sức, cần phải nghỉ ngơi và ăn uống tẩm bổ nhiều vô; nếu không e rằng sẽ chết sớm.
Đây là kế do Trì Thương bày ra, và quả nhiên thành công mỹ mãn.
– Ăn gì chưa cậu Tuyết? – Thím Ba ân cần hỏi.
Đức Hoàng trả lời thay:
– Dạ, ảnh chưa có ăn gì hết.
Chú Ba cười vang:
– Vậy thì vô đây ngồi ăn uống với chú thím cho vui nghen con? Vô đây…!Vô đây…!
Mấy đứa em của Đức Hoàng đã tự sửa soạn bữa ăn của mình.
Thật trớ trêu khi nói con nhà nghèo luôn tự lo cho bản thân giỏi hơn con nhà giàu, mặc dù con nhà giàu có đầy đủ khả năng mướn thầy về dạy những kỹ năng mà chúng muốn.
Đức Hoàng trở lên nhà trên thắp nhang cho Cửu Huyền Thất Tổ, Đấng Thế Tôn và Đức Thầy.
Trước lúc trở xuống nhà sau, hắn sắp lại mâm ngũ quả và coi lại chung nước nơi tủ thờ Thần Tài – Ông Địa đục hay trong để biết còn thay thế.
Chú, thím Ba hiện đang làm công nhân quét rác ở chân Anh Vũ Sơn.
Tuy mức lương không nhiều nhưng nó giúp đôi tay đỡ quởn để không còn đi đánh đề.
Mấy đứa em thì phân loại ve chai giùm ba má, cuối tháng đem bán đặng san sẻ bớt gánh nặng tiền điện, tiền nước, tiền cáp và tiền rác với anh Hai.
Bây giờ trong nhà ai cũng biết nghĩ, biết lo nên hắn mừng quá chừng.
Ban nãy Tuyết có trả giùm cho hắn phân nửa món tiền.
Hai thằng nghèo kiết xác đùm túm nhau cũng vui.
“Để nhìn xóm khuya không buồn, vì người biết mang tình thương” phải không nhạc sĩ Phạm Đình Chương?
Chú Ba chia heo quay thành ba mâm nhỏ, rồi đẩy một mâm sang phía con trưởng và người bạn của nó.
Ông lựa những miếng heo quay ngon nhứt trong mâm của mình mà sớt qua cái mâm của mấy đứa con kế, còn thím Ba thì lựa miếng nào không ngon trong mâm của đám con thơ mà bỏ ngược lại qua mâm vợ chồng mình.
Thằng Hoàng và bạn nó lại sớt cho ông bà hơn nửa mâm.
– Thôi, sớt qua sớt lại một hồi rớt hết khỏi ăn!
Sau câu nói đó, thằng Sáu bị anh Hai ký đầu vì tội hỗn và rầy nó, “Thằng này, học đâu cái thói ăn nói vô lễ vậy hả?”
Thím Ba nói đỡ:
– Thằng Sáu nó nói đúng á…!Chỉ có điều lời lẽ không được hay thôi con…!Thôi, đang giờ ăn, đừng rầy em nó hoài, tội nghiệp…!
Chú Ba nhìn cái mặt trơ trơ như tượng đá của thằng Sáu mà lắc đầu.
Sau này ông sẽ uốn nắn nó lại, còn bây giờ ông phải sửa mình trước đã thì nó mới nể phục và nghe theo lời cha.
Chú Ba biết gã điên quê ở xứ dừa nên hỏi gã về những lời đồn xoay quanh Ông Hai Đạo Dừa.
Và anh ta trả lời rằng:
– Ông Hai Đạo Dừa tu hành đàng hoàng và siêng đi cứu nhân độ thế, chứ đâu có phải làm chuyện bậy ba hay lang chạ với ai? Nhiều khứa hướng dẫn viên du lịch muốn câu khách nên đã “sáng tác” ra chuyện Ông Hai và các tín đồ tu lõa thể, nam nữ chung chạ – lăng loàn, hoặc khốn nạn hơn là vu khống Ông Hai lừa đảo và gạt tiền những người mộ Đạo.
Rồi gã điên quay qua nói với người em:
– Cậu có biết tại sao những người giàu thất đức mua được miếng đất long mạch thì đời con, cháu, chắt, chút, chít,…!tanh banh không?
Đức Hoàng lắc đầu.
– Bởi vì long mạch bị từ trường xấu ở tâm thức họ làm cho tróc gốc nên miếng đất đó không còn vượng khí nữa.
Nói thẳng thừng ra họ là đồ dơ, thứ rác rưởi khiến miếng đất đó bị ô nhiễm.
Nhưng quá trình ấy diễn ra rất chậm nên tới đời con, cháu, chắt, chút, chít,…!mới tanh banh.
Gã trai Bảy Núi bình phẩm:
– Thay vì tìm long mạch, hãy tu tâm dưỡng tánh, tự khắc long mạch sẽ tới tìm mình.
Chú Ba ngó ra sau hè mà hỏi:
– Con thấy năm non bảy núi nào ở đây tốt nhứt?
– Dạ, con không dám trình bày đâu, thưa chú.
– Con sợ lọt tới tai người xấu thì long mạch sẽ “dứt áo ra đi” hả?
– Dạ…!
– À, con có biết gì về Sấm Trạng Trình không?
– Ba con cũng từng luận giải “Sấm Trạng Trình” cho con nghe.
Và biểu, kỳ thực non nửa bài Sấm đã diễn ra rồi chứ không phải ở trong tương lai.
Xong bữa ăn khuya, Đức Hoàng mời Xương Tuyết vô phòng mình ngủ.
Vì thời tiết rất mát mẻ nên cửa sổ không đóng; cửa sổ được dựng lên bằng một cây chống chuốt bằng thân tre, gió lạnh mang theo tiếng núi vào buồng nhỏ.
– Anh đang đọc sách gì vậy Tuyết?
– “Tam Giáo đại cương” của hai tác giả Trần Văn Hiến Minh và Vũ Đình Trác hợp soạn.
Trong sách này hai cụ nhìn nhận Tam Giáo là một học thuyết và một hệ tư tưởng, chứ không phải một tôn giáo cụ thể.
Đây là một đề tài có thể tạo nên những cuộc tranh luận và phản biện rất hay, mong sao đề tài này sẽ được đem vô chương trình giảng dạy bây giờ, chứ trước 75 là có rồi đó.
– Vậy anh nghĩ sao về Tam Giáo?
– Tôi không cho đó là một tôn giáo, mà là một hệ tư tưởng và bản sắc văn hóa của xứ Đàng Trong.
Ông Hai Đạo Dừa lập Đạo cũng bằt nguồn từ học thuyết Tam Giáo, lối tu của Ông gần giống Đạo Cao Đài, rất khó hiểu và phân tích với lớp trẻ sau này vì cái gốc đã bị bứng.
– Có thể giải thích rõ hơn được không?
– Nhiều người không biết Khổng – Mạnh, Lão – Trang là ai, thậm chí Phật Giáo cũng hổng biết luôn.
Cho nên vì lý do không theo Phật hay Chúa, mà cho rằng người đó theo Tam Giáo là kỳ lắm đa.
Theo thiển ý của tôi, người theo Đạo là người phải nắm được một vài chi tiết liên quan tới cái Đạo đó và biết rõ nguồn gốc thành lập Đạo, còn nếu không biết rành mà có nhiều biểu hiện giống tín đồ Đạo đó thì mình nên nói là ảnh hưởng tư tưởng và học thuyết Đạo đó thì nghe đúng hơn.
– Vậy theo anh “Vô thần” với “Không tôn giáo” giống hay khác?
– “Vô thần” và “Không tôn giáo” hoàn toàn khác nhau, theo thiển ý của tôi là vậy.
Có tôn giáo là có trói buộc hơi nhiều vào đức tin mà mình chọn, như tin giáo lý, học thuyết, tư tưởng, quan điểm sống và rất nhiều điều khác ở người lập Đạo và những bậc kế thừa và xây dựng Đạo đó; có đôi khi sẽ xảy ra xung đột với Đạo khác vì mâu thuẫn ở những chỗ mà tôi đã liệt kê ở trên.
Không tôn giáo là không bị bó buộc vô những chỗ trên và không nâng cao hay hạ thấp người lập Đạo nào, cũng mừng vì nhóm người này có góc nhìn khá khách quan và ít thiên kiến khi bàn luận về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng và đức tin.
Vô thần là những người tuyệt đối không tin vào Đạo nào, nhưng có một số người lại tin rằng có thế giới bên kia dù bản thân chối từ sự hiện diện và chủ thuyết của những người lập Đạo.
– A, tôi hiểu ý anh rồi.
Vậy anh thuộc dạng nào?
– Có tôn giáo.
– Anh nghĩ về khái niệm nhồi sọ như thế nào?
– Bản thân mình tự đưa đầu cho người ta nhồi, chứ người ta đâu có nhồi sọ mình.
Như vụ bài Nho – xiển Tây chẳng hạn, thấy thiên hạ rần rần bài Nho – xiển Tăy cũng a dua hưởng hứng và đổ hết mọi sai lầm, dốt nát và thất bại của cuộc đời và đất nước mình lên Nho Giáo, trong khi phần đông chỉ biết Khổng – Mạnh qua cái miệng của một số người và chưa từng đọc qua một trang sách nào của hai ông triết gia đó.
Hễ hỏi tại sao chưa đọc mà lại biết điều phi lý để ghét, thì họ chống chế rằng vì ghét nên không thèm đọc hoặc nghe ông A, bà B nói! Tôi không ưa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, và tôi có đầy đủ bằng chứng để chứng minh rằng mình đủ biết về người này nên mới sinh ra ác cảm, chứ không phải dỏng tai lên mà nghe hay chống mắt lên mà đọc tài liệu của thiên hạ rồi tin suông trong khi chưa qua kiểm chứng.
Đức Hoàng tâm tình:
– Đòi hỏi tự do – dân chủ mà bản thân không tự độc lập trong tư duy thì cũng như không.
Lại thêm cái tật hễ thích người nào là tôn xưng người đó như “minh chúa”, hành động đó chẳng khác nào tự quàng cái vai nô lệ tâm thức vô người.
Xương Tuyết tính ngồi dậy lấy hộp thuốc lá, nhưng sực nhớ vì cai thuốc nên không còn mua thành ra dẹp bỏ ý định trên.
Anh quay sang cười nói với người đàn em:
– Tôi vừa mới phát hiện ra một người…!
– Ai anh?
– Không, để coi “Con Tạo xoay vần” ra làm sao.
Hai người đều cảm thấy mỏi mệt nên ai cũng ráng ru mình ngủ, nhưng bất thành.
Gã điên bèn gợi chuyện:
– Để tôi kể cho anh nghe kỷ niệm đời tôi, số là vầy: Hồi năm học lớp Sáu, trường tôi có lập ra hộp thư góp ý, hễ ai có điều chi muốn trình bày với nhà trường thì viết thơ gởi vô đó.
Tôi thấy nhà vệ sinh của trường có vài chỗ không đúng gây ra tình trạng bất tiện, phiền hà cho mọi người nên đã gởi một lá thơ.
Và lá thơ đó mãi mãi không được ai hồi âm.
Sau này tôi học lên lớp Bảy, người thân của tôi đi họp phụ huynh mới nghe cô chủ nhiệm báo “tin mật” rằng, “Đừng nên gởi thơ góp ý cho nhà trường.
Coi chừng bị làm khó, làm dễ đó.”
– Nói vậy là anh đã dám đệ đơn góp ý từ hồi còn nhỏ xíu?
– Phải, cho nên tôi không đồng tình với ý kiến bị nhồi sọ.
Cái sọ là của mình, học lấy cái khôn hay để mặc người ta nói gì tin nấy là ở mình.
Nhiều người ở xứ tư bản vẫn tin vào những chủ thuyết quái thai đó thôi.
Đức Hoàng gật gù:
– Người ta muốn mình ngu đi cho dễ trị thì mình phải tự làm cho mình khôn lên chớ?
Trò chuyện thêm một khắc nữa, Đức Hoàng đã thiếp đi, chỉ còn mình ên gã điên là mắt mở thao láo.
Gã điên đó bèn ra sau hè ngắm trăng sao và nghe thiên nhiên trỗi nhạc.
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/Người khôn người đến chốn lao xao – (Cảnh nhàn) Nguyễn Bỉnh Khiêm.”
Trời vừa tang tảng sáng, Xương Tuyết cùng tía má Đức Hoàng xuống vùng Anh Vũ Sơn đi quét dọn và lượm rác.
Trước lúc tới chỗ làm của chú thím Ba, anh đãi đằng đôi vợ chồng đông con một bữa cháo bò Tri Tôn.
Có vài người nhận ra anh nên đã hỏi han anh về chuyện tòa soạn Canh Tân và chuyện đời ký giả, anh cố gắng trả lời hết sức súc tích rồi mạn phép cáo từ.
Đang vừa làm vừa nói, chợt anh Ba Hói gọi điện xuống trách sao mày không gởi bài cho anh đăng.
– Anh à…!Anh ta đủ thê thảm rồi.
Không cần mình xát muối thêm đâu.
– Gì? Mày tính diễn tuồng “Nghĩa tử là nghĩa tận” hả? Vậy thôi để tao xuống An Giang “mục sở thị” rồi viết bài giùm cho.
Đoạn anh Ba Hói “sụt sùi”:
– Hổm rày tao nghe phong thanh tin tức nội bộ tụi nó bị chia rẽ, tao buồn tới nỗi nấu cơm hổng nổi, toàn ăn nhà hàng không hà…!Đ* má mấy thằng chó đẻ, tự dưng kéo tới đánh tao mém nứt sọ.
Đ* má mới mọc lại được mấy cọng tóc, tụi nó đánh tao trụi lủi như xưa luôn.
– “Bỏ thì thương, vương thì…!mắc mệt.”
– Tụi nó “bỏ” lên đầu mày mấy cây rồi đó con.
– Thôi, bỏ chuyện đó qua một bên đi anh…!Chừng nào anh xuống để em còn lo thu xếp chỗ ở cho hai đứa mình?
– Đáng ra ngày mốt tao mới xuống, tại mày không chịu viết bài nên tao sẽ xuống liền…!Chiều nay ra kinh Vĩnh Tế đón tao.
– Anh đâu phải Thoại Ngọc Hầu đâu mà nôn xuống đây dữ vậy?
Hai anh em cù cưa thêm mười mấy phút nữa, mới chịu ngừng cuộc vấn đáp mà trở lại với công việc đang làm dang dở của mình.
Thím Ba dè dặt hỏi, trong khi vẫn đang cúi mặt lượm rác rồi bỏ vô bao tải đã được dán nhãn phân loại rõ ràng:
– Có người cần kiếm chỗ ở hả con?
– Dạ, là người anh đồng nghiệp của con, thưa thím.
Chú Ba hướt lời:
– Ui, kiếm chi cho cực, nhà chú còn dư một phòng, để lát chú thím biểu xấp nhỏ quét dọn cho…!
– Dạ…!Nếu vậy thì con xin cảm ơn chú thím vì đã rộng lòng giúp đỡ hai anh em con…!
Áng chừng tám giờ tối, anh Ba Hói đã có mặt tại nhà Đức Hoàng.
Anh quải ba-lô cỡ lớn và kéo một cái va-li trông có vẻ rất nặng nề.
Vẻ mặt tươi rói của anh đã làm đẹp lòng chú thím Ba; tuy đã sa cơ lỡ vận, nhưng hai người vẫn còn giữ đôi chút cái tánh kiêu kỳ thượng lưu nên không muốn tiếp rước khách ghé chơi mà mặt mày y như vừa bị người ta ăn hết của.
Chú Ba dẫn người khách cùng thứ xuống nhà sau ăn tiệc với vợ chồng mình, bầy con và mấy người bạn của con trai trưởng.
Bữa ăn gồm có năm món: Bò leo núi Tân Châu, lẩu cá linh – bông điên điển, gỏi sầu đâu, tung lò mò và cơm cháy kho quẹt ăn cặp với rau sống.
– Má tôi không ăn được thịt heo…!
Vì ai cũng đã biết trước nên chỉ có mình anh Ba Hói ngạc nhiên.
Đức Hoàng nhân đó mới kể rõ cho anh hiểu:
– Gia đình bên ngoại tôi là người Chàm theo Đạo Hồi nên mặc dù bản thân theo Đạo của Đức Thầy nhưng má tôi vẫn cử ăn thịt heo.
Anh Ba Hói gật đầu, rồi giơ cái bịch nylon lên:
– Tôi có mua chè Thái Nguyễn Tri Phương và…!À, còn có cá thu và mực một nắng chánh hiệu Vũng Tàu; sẵn tiện đường nên tôi về quê mua luôn.
Anh Ba Hói chìa cuốn sách mới ra lò cho thằng em kết nghĩa coi.
Nó bình phẩm với anh vài lời, rồi quay qua nói với mọi người:
– Hồi xưa tôi cũng ưa đọc văn một người Nam Kỳ, nhưng kể từ ngày tôi thấy hầu hết câu chuyện của người này đều đổ lỗi cho lòng người là nguyên nhân chính gây ra xã hội bệ rạc, tôi hết còn tìm đọc nữa.
Nhà văn không phải là chính trị gia, và cũng đừng nên là nhà nói láo và ngụy biện mướn.
Thứ làm cho Victor Hugo trở thành đại văn hào không phải là ở sự bay bướm của chữ nghĩa, mà là Sự Thật trần trụi của cái xã hội đương thời mà ít có ai dám hoặc muốn phơi bày.
Viết ra được một đoạn văn mà có thể khiến người đọc mường tượng được khung cảnh ấy ngay trong đầu họ, anh là một cây viết rất giỏi.
Nhưng viết ra được một đoạn văn mà có thể làm người đọc hướng Thiện và biết đau cho Quê Hương – Đất Nước – Dân Tộc – Thế Giới, anh là một đại văn hào.
Người Nam Kỳ kia là một cây viết rất giỏi.
Đức Hoàng cười hỏi:
– Còn anh?
Gã điên nhún vai:
– Tôi chỉ là người rỗi sự ham viết vậy thôi; chẳng phải nhà văn, cũng chẳng phải văn hào.
Rồi gã điên lại tiếp:
– Khi bàn tới một tác phẩm, nhiều người hay lấy đời tư ra để phản biện về khả năng sáng tác của tác giả, đó là một lối phản biện mang tính chất ngụy biện đầy tính tư thù cá nhân.
Thí dụ như bàn về việc Phạm Duy sáng tác nhạc hay hay dở, thì y như rằng có người lôi chuyện tình cảm của cụ để chê bôi việc sáng tác; còn Trịnh Công Sơn thì đem chuyện quan điểm chính trị và phe phái của cụ vô để bài bác tác phẩm.
Tôi không ưa Trịnh Công Sơn thật, nhưng không đời nào làm ra cái trò bươi móc, săm soi từng câu, từng chữ trong tác phẩm để “dìm hàng” như cái đám mà tôi luôn ghét.
Nguyễn Chí Công hỏi:
– Chuyện Trịnh Công Sơn “mượn ý” thơ của Bùi Giáng có thật không anh?
– Tôi đoán là có, anh có thể tra cứu trên mạng để kiểm chứng.
Có vài người nói rằng thân nhân của cố nhạc sĩ này đã từng ghé nhà gia quyến thi sĩ điên để trả tiền bản quyền; nhưng chẳng có ai trong số những người phát biểu ở trên đưa ra được bằng chứng xác thực nên tôi coi đây chỉ là một nghi vấn nhằm tham khảo.
Đây là một trong những điểm mà tôi không ưa ở cụ, đã mượn “chất xám” của người ta thì phải ghi nguồn và đề tên rõ ràng; chứ không phải là nói khơi khơi thôi.
Thím Ba đặt câu hỏi:
– Về chuyện đọc sách của trẻ em, con thấy sao Tuyết? Nhứt là mấy cuốn “cao siêu” so với tuổi? Có phải là biểu hiện của thiên tài không?
Đặng Xương Tuyết bật cười:
– Hồi nhỏ, nói cụ thể là năm mới học lớp Hai, con đã đọc “Bước đường cùng” của Nguyễn Công Hoan, “Truyện Kiều” của “Nguyễn Du”, sách Tàu “Túi khôn của người xưa”, thơ của Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu,…!Và đã có tập thơ riêng khi chỉ mới gần chín tuổi, thầy giáo dạy năm lớp Hai làm chứng cho con chuyện này.
Nhưng, nhưng, bây giờ, con chỉ là một thằng viết lách quèn, chẳng phải thiên tài văn chương hay văn hào thế giới.
Thành thử ra, việc cho rằng một đứa trẻ là thần đồng, Thần Thánh khi có những biểu hiện trên là một sự hoang tưởng không hề nhẹ của không ít bậc phụ huynh xứ mình.
Thím Ba cự:
– Vậy là con cũng giỏi quá chừng rồi nên mới đọc được những cuốn sách trên ấy chớ?
Gã điên lắc đầu, trên môi vẫn giữ nguyên nụ cười:
– Nói nào ngay, vì gia đình không mấy khá giả, lại thêm các nhà sách địa phương không có bán các loại sách thiếu nhi giá rẻ, nên con phải mua những cuốn sách trên cho nhẹ tiền mẹ cha.
Mấy tập thơ của bộ “Tam Sên” đó giá rẻ như cho, nhỏ xíu, nằm gọn trong lòng bàn tay đứa con nít lớp Hai; nhờ đọc riết mà từ Loạn thuần túy con chuyển sang Cận – Loạn luôn.
Chú Ba vỗ đùi cái đét:
– Hèn gì cặp kiếng bây dày cộm.
Đức Hoàng bỗng hỏi:
– Chuyện đêm hôm qua, anh có thể nói rõ cho tôi nghe được không?
– Hãy cẩn thận với tất cả những ai nhắc tới tên của người ta theo hình thức làm cho méo mó đi.
Ví dụ người ta tên “Ảnh” thì chúng sửa thành “Ẳng”, lời nói thì có vẻ như hùa theo anh nhưng trong ruột lại đang ly gián từng người.
Hễ ai không đồng thuận với chúng là liền chụp cho cái mũ này mũ nọ và bới bèo ra bọt, tấn công cá nhân.
Trước khi nhường lại “sân khấu” cho mọi người, Xương Tuyết chốt hạ một câu:
– Nếu như chúng không thuộc phe kia, thì cũng chẳng đáng để anh giao du qua lại; vì trước hay sau, sớm hay muộn gì, nếu anh không làm vừa lòng chúng, chúng sẽ đưa tên tuổi của anh đi đấu tố khắp nơi.
Sau giờ cơm, Đức Hoàng ghé nhà thương chăm sóc Tín.
Anh thương hại mua cho một mớ đồ lót mới để kẻ cựu thù với bạn mình có đồ để mặc.
Người bác sĩ bị hắn nắm cổ áo hôm qua vẫn còn ớn nên thấy hắn thì lảng đi chỗ khác.
Nhưng vẫn bị hắn kịp thời thọp cổ.
Cũng may hắn chỉ hỏi thăm tình hình sức khỏe của người thanh niên kia, chứ không phải là kiếm chuyện để ăn thua với mình.
Tín vẫn đang hôn mê sâu.
Mới có một ngày mà sắc diện của anh ta trông y hệt cái thây ma chết trôi, mình mẩy bốc mùi thúi hoắc vì những phẩn dơ trong người tiết ra; điều dưỡng viên thấy anh ta thân cô thế cô nên cũng không thèm tắm rửa kỹ càng.
– Ê anh.
– Dạ?
– Cho phép tôi tắm rửa cho người này được không?
Người bác sĩ đó lắc đầu:
– Anh không biết cách, lỡ tay đụng trúng vết thương và chỗ khâu thì mệt lắm.
– Cảm phiền anh đứng đây chỉ tôi tắm rửa cho nó.
Tôi sẽ hậu tạ sau.
– Thôi dẹp chuyện tiền nong qua một bên đi.
Để tôi hướng dẫn anh cho…!Mà anh là gì của anh?
– Người dưng nước lã.
Nhờ có sự giúp sức của chàng bác sĩ Long Xuyên hiền queo nên Đức Hoàng đã giúp Tín tắm rửa sạch sẽ và thay được đồ mới.
– Anh có khiếu lắm đó.
Nói sơ sịa vài câu là đã nắm được thế rồi.
Gã trai Anh Vũ Sơn gãi đầu cười ngượng nghịu.
Rồi thấp giọng xin lỗi vì chuyện đã làm tối qua với anh bác sĩ đồng hương.
Người bác sĩ đó bật cười, rồi vỗ vai nói mình đã quên hết rồi.
Trước khi chia tay người dưng kỳ lạ, bác sĩ Tiến dặn dò hắn đôi câu về Tín và chúc hắn có một ngày thật vui vẻ.
– Mệt cha ghê đó cha…!Tụi tui “Chiêu hồi” mấy bận mà không nghe, để giờ nằm một đống như hũ mắm Gò Công.
Chợt điện thoại của hắn đổ chuông, người gọi tới là Chí Công, thằng bạn răng khểnh khoe rằng mới gặp được bác sĩ có cái trình cao lắm, có thể cứu khứa Tín dễ như trở bàn tay.
Đức Hoàng cự:
– “Cái trình” là cái gì? Trình độ thì nói mẹ trình độ, học ai cái thói cắt xén chữ nghĩa vậy hả?
Chí Công làm thinh nghe thằng bạn Bảy Núi lải nhải:
– Trời ơi hết “Cái trình” rồi tới “Chiếc mèo”, “Quả tóc”, “Chị mẹ”, “Anh đại”…!chữ nghĩa gì mà y như nồi cám heo bị thiu.
– Dạ con hứa với hoàng thượng là từ nay con sẽ sửa.
Còn trọng tâm mà con đề cập, hoàng thượng có dảnh lỗ tai lên nghe thủng chưa?
– Hoàng thượng nghe rồi con.
…!
Còn cách quán mấy mươi bước mà bản nhạc “Khúc hát mùa chiêm” do song ca Duy Khánh – Hoàng Oanh trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Trọng, đã vọng tới tai nhóm cư sĩ Hòa Hảo.
Anh Ba Hói ngồi đọc cuốn “Sử liệu Phù Nam” do Lê Hương biên soạn trong lúc đợi cà-phê.
Thoáng thấy nhóm cư sĩ Hòa Hảo đang bị tai tiếng trên mạng xã hội thì đưa mắt coi cách hành xử của họ ra sao.
Anh dòm ai cũng rất đàng hoàng và nhã nhặn, hoàn toàn khác với những thước phim đăng tải đầy rẫy trên mạng; nhứt là huynh trưởng Trần Bảo Sơn, tức cư sĩ Bửu Sơn, mặt mày đẹp đẽ, dáng vẻ thanh thoát và ánh nhìn rất mực hiền từ.
Sau khi ngồi xuống ghế xong xuôi, Trần Bảo Sơn mới kêu nhân viên lại để gọi đồ uống.
Vừa hay Đức Hoàng trờ tới, hắn biết ở đây bán sinh tố bơ rất ngon nên muốn mua làm quà xin lỗi người bác sĩ kia.
Sẵn đây, hắn cũng mua luôn cho tía má và xấp em mỗi người một ly.
Anh Ba Hói ngó thấy Đức Hoàng nên biểu hắn ngồi xuống tán dóc chơi.
Hai người nói ta bà một hồi cũng vòng về cái nghiệp viết lách và làm báo.
Nhóm cư sĩ Hòa Hảo kia nghe tới chữ “Ký giả”, sắc mặt người nào người nấy vô cùng khó coi, nhưng không kiếm chuyện gây hấn mà nhẫn nhịn gạt qua một bên.
Nguyên đám mượn chuyện phân tích Sấm giảng của Đức Thầy để lỗ tai không bận rộn để ý tới hai tên ký giả kia.
– Cậu đặt mua gì vậy?
– Sinh tố bơ cho gia đình thôi anh.
– Không mua cho thằng Tuyết hả? Vậy để tôi mua rồi cậu đi giao giùm nhe?
Đức Hoàng cười hì hì cho đỡ khó xử.
– Tội nghiệp nó, có yêu “môi trường” đâu mà phải lỉnh đi lượm rác, không muốn viết bài này thì tôi giao cho bài khác, xạo chi cho cực thân.
– Mà mấy tòa soạn khác hể hả lắm hả anh? Nhứt là mấy tay cùng chung chiến tuyến với mình?
– Còn phải hỏi…!- Anh Ba Hói cười vang.
Tiếng cười sang sảng đó làm giựt mình bao quan khách.
– Trời ơi, có ông còn cúng đất đai, cảm tạ hồn thiêng sông núi Nước Nam đã dẹp loài bút gian đểu giả.
– Tội nghiệp anh ta…!Mà, ba má anh ta đâu? Sao không có ai tới thăm anh ta vậy anh Ba?
Anh Ba Hói rờ cái đầu sắp “Tóc gió thôi bay” mà cau mày ngẫm:
– Ờ há! Cậu nói đúng.
Cũng đáng thương thiệt.
Gặp nạn giữa nơi đất khách quê người mà không có thân nhân bên cạnh, tình cảnh đó há éo le, đoạn trường nào bằng?
– Hay là tụi nó…!- Đức Hoàng đưa tay lên ngang cổ, rồi thục cùi chỏ sang trái.
– Trời, vậy thì ác quá chèn! Đã ra tay thì chớ, không để gia đình người ta được gặp nhau nữa.
– Anh áo sọc ơi…!Ra lấy sinh tố bơ nè…!
– Dạ, tôi nghe rồi cô! Cảm phiền cô làm giùm tôi thêm một ly.
– Dạ, có liền.
Không ai biết ở Anh Vũ Sơn có một lối đi mật dẫn thẳng lên mặt núi.
Nhân một lần tình bị sẩy chân té xuống hố sâu và rơi xuống ao nước ngầm mà Đức Hoàng đã khám phá ra điều thú vị này.
Sau khi giao xong mấy ly sinh tố bơ, hắn tìm tới cửa hang động để tiến nhập bên trong.
Một loài dây leo thân gỗ có hoa kỳ lạ đã phủ lấp huyệt đạo này,
– Ủa?
Châu Lợi đã ngồi tọa thiền ở đó tự bao giờ.
Dáng vẻ của ông ̣dường như không còn gắn bó với thế gian này nữa.
– Này Hoàng, đệ hãy ngồi xuống đây cho huynh tỏ thiệt vài câu.
Dù rất ngạc nhiên với cách xưng hô kỳ khôi của vị Tăng sĩ Theravada, Đức Hoàng vẫn quỳ xuống chắp tay đảnh Lễ và xin được nghe Thầy phân giải cho mình hay.
Những gì mà Châu Lợi kể đã khiến Đức Hoàng khóc như mưa.
Hắn xá người Tăng sĩ ấy ba cái, rồi chắp tay nói lời cảm ơn vì đã tỏ thiệt với mình.
…!
Lối chừng mười giờ tối, bộ tứ “Nhạn Vàng Bình Công” cuốn gói vô nhà thương ở để thay phiên nhau trông chừng kẻ cựu thù.
Đức Hoàng mời mấy thằng bạn thiết ăn bánh gạo Nhựt Bổn.
Xong đâu vào đó, hắn kể:
– Bữa hổm tao vô siêu thị mua loại bánh gạo này, nhìn sơ qua có một gói đề “Nguyên liệu Nhật Bản”, viết bằng tiếng Anh hẳn hòi nhe.
Tao hí ha hí hửng tính bỏ vô trong giỏ rồi, chợt linh cảm “ái Quốc” của tao bùng dậy, tao nghi nghi ngờ ngờ lật mặt sau cái gói lên coi…!Thì hỡi ôi, “Product of P.R.C”!
Tống Ngạn hơi nhếch miệng cười:
– Mày thấy cái nào mà ghi “Nguyên liệu Nhật Bản” hay “Kỹ nghệ Hoa Kỳ” thì coi chừng sản phẩm đó là hàng Tàu.
Chí Công hỏi:
– Mà, “P.R.C” là gì mậy?
Đức Hoàng trề môi dài cả thước:
– “Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa.”
– Ủa sao không ghi China cho nó dễ hiểu?
– Mày ngu quá! Ghi vậy người ta biết người ta né sao?
– Suỵt…!- Khán Bình khẽ khàng nhắc nhở.
– Chộ ni là bịnh viện, nỏ phải nhà riêng mà bọn mi om sòm.
Có lẽ là do ban ngày phụ tía má làm việc nhà nên gã trai Bảy Núi ngủ thiếp đi trong bụng hồi nào không hay.
Ba thằng bạn thiết cũng không nỡ làm phiền hắn, bèn để mặc cho hắn nghỉ ngơi; về phần mình, mỗi đứa mở máy Laptop lên soạn văn bản để nộp bài cho tòa soạn “Nếp Sống Mới”.
Chí Công đã xong việc nên tắt Laptop, rồi đứng dậy vươn vao, duỗi người để thả lỏng cơ bắp.
Rồi vô nhà vệ sinh rửa mặt và tiểu tiện.
Chừng khoảng mười lăm phút, y mới trở ra.
Ngó thấy hai thằng kia vẫn còn “rồng bay phượng múa” trên bàn phím, hắn bèn mở vài bản nhạc để khích lệ tinh thần huynh đệ chi binh.
Tiếng hát của Nhật Trường trong bài “Tương tư Hằng” của đôi nhạc sĩ Trường Hải – Vinh Sử vọng tới tai Đức Hoàng đã làm hắn tỉnh ngủ và phải đứng bật dậy hỏi:
– Không biết cha nào trong số hai cha này bị bà tên Hằng bỏ mà sáng tác ra ca khúc não ruột dữ thần.
Chí Công đùa:
– Chắc bà Hằng là Thẩm Thúy Hằng.
Khán Bình tiếp:
– Cũng may không có bài “Tương tư Hoàng”.
Rồi gã trai Thần Kinh nhại giọng Trần Thiện Thanh:
– “Hoàng ơi…!Hoàng ơi…”
Tín vẫn nằm bất động trên cái giường sắt trải nệm không êm ái một chút xíu nào.
Các dây nhợ dẫn chất thải từ trong người anh ta ra bên ngoài được che giấu dưới cái mền bông, mùi xú uế bốc ra hôi tanh tới nỗi chẳng ai tin bốn người này chăm sóc và trông coi không công cho anh ta.
Cái máy đo điện tâm đồ đều đều hoạt động, tiếng máy chạy ro ro nho nhỏ của nó càng khiến cho bầu không khí nơi đây tăng thêm phần ngột ngạt và dễ gây ức chế thần kinh với người bị yếu bóng vía.
oOo
– Nhà của chú Sáu Còn hình như ở gần Thánh Thất Cao Đài – Tây Ninh?
Thầy Dự đang treo đèn trên cây thông kỷ vật của nhà thờ Giáo xứ, nghe vậy thì cất tiếng hỏi mà không quay xuống nhìn mặt ông bố nuôi:
– Thì sao hả Bố?
– À, Cha muốn biết đường để ghé chơi và biếu chút quà cho chú Sáu Còn.
– Thật không đấy? Hay là Bố muốn giúp ai đó gặp lại cố nhân?
Cha Thành gãi đầu cười trừ.
Thầy Dự nhếch miệng cười, rồi bảo Bố mau đi gọi người đó.
Chừng nửa tiếng nữa, họ sẽ khởi hành về miền Tây.
Stephen Đoàn đang tỉa cây cho nhà ông Năm Tốn, nghe Cha Lớn rủ mình xuống Kiến Hòa chơi thì trong bụng dụ dự hoài.
Đi về thăm bà con xóm nhỏ thì sợ cô Xuân hiểu lầm mình nhớ thương cổ, còn từ chối thì e bà con trong Giáo xứ đồn thổi mình có tật nên kiếm cớ thoái thác.
– Có Cha “bảo chứng” cho con, sẽ không ai làm hại con như đã từng làm hại JB Trương Tấn Khải đâu.
– Dạ, con đội ơn Cha.
Vậy xin phép Cha cho con về tắm rửa, thay đồ mới và sửa soạn hành lý.
– Ừa, đi đi con…!
Khoảng mười giờ rưỡi sáng, bộ ba mới khởi hành.
Nghe theo lời khuyên của Stephen Đoàn, hai cha con chỉ ăn qua quýt mấy cái bánh trứng mua ở quán vợ chồng dượng Bảy.
Từ Sài Gòn về Bến Tre cũng khá xa, gặp lúc kẹt xe thì thời gian tốn gần gấp đôi, đi đường trường trong Nước mà tưởng đâu đi vượt biên.
Cha Thành loay hoay mở cái radio hoài mà không được.
Tức mình, cụ đành chịu thua.
Rồi thở ra một hơi nặng nề.
Stephen Đoàn bèn mở bài “Ờ uề” do Duy Quang cùng ban “The Dreamers” trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Phạm Duy, được lưu trữ trong điện thoại của mình.
Người Linh mục có gương mặt tương phản với cái tên cúng cơm khẽ khàng tâm tình cho hai cha con hay về nội dung bức thơ gởi cho cô Xuân.
Trong thơ anh đề hai câu:
“Tóc xanh còn được bao năm
Mà ngồi vương vấn cho Tâm cô mòn?”
– …Ngoài ra, con còn gởi cho cổ bài hát “Un roman dAmitié (Friend you give me a reason)” do Elsa và Glenn Medeiros trình bày để khích lệ tinh thần cổ.
Cha Thành ồ lên một tiếng, rồi dịu dàng hỏi:
– Con sợ người ta mượn cớ chuyện này để vu khống con có tình cảm với cổ hả?
– Dạ.
– Chỉ cần Chúa hiểu con là đủ, không cần bận tâm tới gai nhọn thế gian đâu.
– Dạ…!
Trời đột nhiên đổ mưa.
Màn mưa nặng hạt làm chậm bước tiến của chiếc xe bán tải hiệu Ford.
Simon Tử đã gần bảy mươi, đương nhiên mắt mũi sẽ kèm nhèm và khó lòng lái xe đường dài nổi, nên ông đành bảo Bố và cậu Linh mục vào trú mưa tại một ngôi chùa ở Long An.
Một ngôi chùa nhỏ xíu với vườn tược rộng thênh thang và đầy ắp bóng mát của cây.
Lan Đài đang ngồi thêu tranh dấu thập với cô bạn mới quen, thấy người lạ vô chùa thì ú ớ huơ tay loạn xạ đặng ra hiệu cho cổ hay.
Cô bạn bèn hớt hải chạy đi báo với Tỳ-Kheo Ni Mỹ Hạnh, còn Lan Đài thì lui vô phòng lánh mặt.
Người Ni cô lớn tuổi đó bước lại gần ba người, rồi chắp tay bạch:
– Thưa…!hai…!Cha?
Cha Thành cũng khó xử theo:
– Dạ, thưa…!sư…!cô…!
Stephen Đoàn thoáng thấy bóng lưng của ai đó thấp thoáng sau khóm cây thiên tuế, nghĩ phận mình và người ấy đều là kẻ tu hành nên không dám đưa mắt nhìn lâu.
Anh đánh trống lảng bằng cách trở về xe lấy nước suối uống.
Mỹ Hạnh mời ba người vô nhà sau ngồi chơi.
Rồi bà sai một Sa-di nữ đi pha trà đãi khách; về phần mình, bà sắp bánh trái ra mâm để họ ăn lót lòng.
– Chỗ tôi chỉ có chút trái cây dân dã như thanh long, chuối xiêm, dưa hấu, cam sành và ổi xẻ, mong các vị không chê.
Bộ ba Công Giáo nói lời cảm ơn trước khi lấy trái cây ăn.
Cha Thành vui miệng hỏi:
– Sao tôi thấy cũng sắp chiều rồi mà trong bếp chưa có sơ chế món chi hết vậy?
Mỹ Hạnh cười đáp:
– Dạ, tỷ muội tôi chỉ ăn một ngày một bữa.
Riêng với các Sa-di nữ và những thí chủ cần chỗ nương trú, họ được phép nấu ăn hoặc mua về hâm lại ăn.
– À…!Còn cái tên Mỹ Hạnh của chị thì sao? Là tên thật hay Pháp Danh?
– Thưa, là Pháp Danh.
Đây là tên của A-La-Hán nữ Mỹ Hạnh, đã từng là người vợ trên danh nghĩa của tôn giả Đại Ca-Diếp.
Ngoài trời mưa càng lúc càng hung.
Ngôi chùa đơn sơ và hao gầy không thể nào ngăn được dông, những cơn gió cứ thế luồn vào những kẽ hở của tòa nhà.
Mỹ Hạnh đứng dậy để đi đóng cửa hậu và cửa hông, đặng giúp gian bếp bớt phần lạnh lẽo.
Vừa cời bếp củi, bà vừa nhỏ nhẹ hỏi tên Thánh của từng người.
Thái độ cầu Đạo của bà đã làm mát lòng mát dạ những người khách Cơ Đốc.
Thầy Dự đặt câu hỏi:
– Bờ đất bên kia là của phái nữ hả sư cô?
Người Ni trưởng đó đưa mắt nhìn qua bờ đất im lìm như nghĩa trang mà nhỏ giọng thưa:
– Dạ phải, thưa ông…!
Mãi tới ba giờ kém mười hai phút, bộ ba mới đặt chân lên xứ dừa bạt ngàn.
Lúc bấy giờ, nắng chiều chói lọi như muôn vạn ánh hào quang, sông nước óng ánh sắc vàng hực của vầng dương, nhìn đâu cũng thấy tháp dừa xanh rì đứng lắc lư hay im lìm theo nhịp chuyển động của gió.
Không ăn bữa chính đã đành, hồi nãy còn ăn muốn bay mâm trái cây của Ni trưởng Mỹ Hạnh, nên giờ người nào người nấy đói meo râu.
Thầy Dự bèn rủ Bố và Cha Mỹ ăn bánh tráng nướng quết mạch nha có rắc cơm dừa bào sợi; quầy hàng của bà thím nằm ở một góc đường tại thành phố Bến Tre, con gái của bà vừa phụ mẹ buôn bán vừa trông con.
Nhờ có chất bột đường lót dạ mà ba người khỏe khoắn hẳn ra, không còn xây xẩm mặt mày vì đói nữa.
Chú thím Năm đã hay tin trước nên đã nấu sẵn một nồi bò hon và trộn một dĩa gỏi củ hũ dừa tôm – thịt ăn cặp với bánh phồng tôm.
Mặc dù bữa nay bán buôn rất đắt nhưng chú thím vẫn ráng sức ra công chế biến đặng thết đãi ba người khách quý; nhìn vẻ mặt bơ phờ của hai người mà bộ ba Công Giáo cảm thấy món quà họ đem biếu bé mọn khôn cùng.
Vừa trao gói quà bọc trong giấy bóng kiếng sặc sỡ cho chú Năm, Stephen Đoàn vừa hỏi nhỏ:
– Thưa chú thím, cô Xuân…!
Thím Năm cười mà ánh mắt ướt rượt:
– Nó xuất gia rồi con.
Nó nhắn, chừng nào thần trí của nó tỉnh táo lại, chừng đó nó mới về nhà.
Stephen Đoàn chợt thấy trái tim đau nhói.
Anh lảo đảo ngồi xuống ghế, trong trí óc vọng về câu hát quen thuộc kia, “Lạy Trời cho người con thương thương con, thương con, thương con đời đời…”
– Tại con mà cổ mới ra nông nỗi này…!
Chú Năm cướp lời:
– Tại nó khùng chứ đâu phải tại con…!
Rồi chú Năm hối ba người đi rửa mặt, rửa tay để vô ăn mau kẻo nguội mất ngon.
Về phần đôi vợ chồng, họ kéo cửa sắt gần sát mí tường, rồi cùng nhau bày biện cử nhậu “dã chiến”.
Nếu “con rể hụt” thông báo trước một ngày, ắt hẳn họ sẽ kịp chuẩn bị nhiều món ăn hơn bây giờ.
Vài người hàng xóm kéo tới nhậu chung, ai nấy đều đem theo mồi ngon để hùn vô cho đỡ sượng tay khi gắp.
Một ông dáng vẻ “dân chơi cầu Ba Cẳng” xách cây đờn guitar lại chỗ Stephen Đoàn, rồi nài anh ca một bản.
Sẵn đang mang tâm sự trong lòng, anh bèn trình diễn bài “Đường xưa lối cũ” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ:
“….!Khi tôi về, bồi hồi trong nắng
Tưởng gặp người em hân hoan đứng đón anh về
Nào ngờ người em sang ngang khi Xuân chưa tàn
Con đò nào đây đưa em tôi vào xa vắng?”
Thím Năm lấy ống tay áo lau nước mắt.
Rồi vỗ tay chan chát ra chiều tán thưởng “con rể hụt” một cách nhiệt liệt.
– Trời, ca hay quá sá! Ca thêm một bản nữa đi con!
Lời khen ngợi trên là chủ nhân của cây đàn tây bán cầm.
Stephen Đoàn chọn bản “Em hiểu vì đâu chim gọi nhau”, nhạc sĩ Trần Duy Đức phổ từ bài thơ “Ở chỗ nhân gian không thể hiểu” của thi sĩ Du Tử Lê.
Hát xong, chưa kịp thở, chú Năm giục người Linh mục họ Đoàn mau bưng chén lên phá mồi.
Rồi chú Năm chỉ vào ông chú râu quai nón và biểu, “Món heo quay nhà chú Tám này ngon không thua gì nhà hàng trên thành đô đâu con.
Nè, ăn thử miếng này đi con; vừa có nạc vừa có mỡ lại có thêm miếng da giòn rụm, cắn vô…!nhức nách.”
Cha Thành ăn trong sự chứng kiến “kinh hoàng” của thầy Dự.
Có cha nhạc sĩ nào đã viết ra câu, “Cuộc đời đó có bao lâu mà hững hờ”, sức khỏe của một người mất thận như cụ cũng từa tựa chuối chín cây, ăn được giờ nào cứ ăn, sau này về với Chúa khỏi chắt lưỡi hít hà.
– Mơi mốt tới dịp Giáng Sinh, con quay giùm Giáo xứ của cụ chừng mười lăm con heo được không?
– Rồi ai ăn, ai nhịn hả Bố?
Stephen Đoàn bật cười:
– Dạ, Giáo xứ có khoảng năm trăm người, giờ chẳng lẽ ăn heo quay phải chơi trò bốc thăm trúng thịt hả Cha?
Chú Tám bấm đốt ngón tay nhẩm tính, rồi nói khoảng chừng ba mươi lăm con roi roi là đủ.
– Bộn tiền đó Bố.
– Vâng, tôi biết rồi ạ.
Ăn xong vài đũa bánh hỏi cặp với heo quay và rau sống, thầy Dự mới nêu ý kiến rằng nên nhờ Judas đài thọ.
Cha Thành không muốn Ban Chấp sự Giáo xứ mang tiếng bòn tiền người mộ Đạo nên lắc đầu khước từ, rồi nói để thủng thẳng coi sao.
Tiệc vui nào cũng phải đến lúc tàn canh.
Chỉ trừ hai người Linh mục là không bị say khướt, số còn lại đều chân nam đá chân chiêu mà khập khiễng về nhà.
Sau khi cùng thím Năm thu dọn tàn cuộc, Stephen Đoàn trở về căn phòng mà thím Năm chỉ vô ngủ.
Đó là một chái nhà chia làm ba phòng nằm sát vách nhà chú thím Tư, thường được dùng làm khách phòng.
Bên trong sạch sẽ và thơm tho hơn anh tưởng, anh an tâm mà lên bộ ngựa nằm nghỉ.
Cha Thành và thầy Dự đã ngáy o o, duy chỉ có mình anh là trằn trọc mãi mà giấc ngủ chưa về.
Vẫn thói quen cũ, anh mở cái đài nhỏ lên nghe.
Để cho mau buồn ngủ, anh chọn chương trình âm nhạc.
Một cô gái yêu cầu bản nhạc “Anh là tất cả” do Ngọc Lan trình bày, ca – nhạc sĩ Duy Quang đặt lời Việt từ tình khúc “Youre my everything” của nhạc sĩ Leroy Gómez – Ông đã từng là một trong những thành viên của ban nhạc “Santa Esmeralda”.
Sau khi phần biểu diễn ấy kết thúc, anh bèn yêu cầu bài hát “Một đời không có em” do Anh Tú ca, đây là lời Việt của tình khúc trên và do nhạc sĩ Lữ Liên đặt.
“Tình xưa quá tuyệt vời
Trót lỡ buông lơi nên ta đã mất nhau đến trọn đời…”
oOo
Nhân một ngày cuối năm nhàn hạ, Hác Đăng Khánh đích thân xuống bếp nấu bún riêu để chiêu đãi các vị đầu bếp, phụ tá, thư ký và nhóm cận vệ trung tín.
Chú có luộc thêm ốc, móng heo, khoanh heo, giò heo và cật heo; người bếp trưởng còn chiên thêm tàu hũ và làm mọc sườn non, còn hai người kia thì lo trụng bún, xắt cà, bào rau muống, bắp chuối và rửa giá, xà-lách.
Sau bữa ăn, chú cùng nữ phụ tá vào thư phòng ngồi hàn huyên tâm sự.
Khung cửa sổ lắp sát trần và chạm sàn nên hai người có thể thấy toàn bộ vườn hoa tuyệt đẹp và không kém phần tinh tế, nghệ thuật.
Vừa đưa tép kẹo cao su mùi bạc hà cho em gái, Hác Đăng Khánh vừa bình luận:
– Có người Trời sinh giỏi điều binh khiển tướng, nhưng lại bất tài về mặt trị Quốc an Dân; và cũng có trường hợp ngược lại.
Hầu như trong lịch sử trên thế giới, số người sở hữu cả hai khả năng không được bao nhiêu.
Jacqueline phụ họa:
– Hiền quá không làm tướng và chính trị được.
Rồi chị hỏi:
– Chú nghĩ sao về nhận định dân miền Tây phần đông thất học?
– Phải.
Tôi đồng ý với nhận định trên…!
Chưa kịp để cô phụ tá Bắc Kỳ nói thêm câu nào nữa, chú tiếp:
– Họ không học cách lường gạt, điếm đàng để lấy tiền thiên hạ.
Họ không học cách ăn bám mà siêng năng làm lụng quanh năm suốt tháng.
Họ không học cách ỷ lại vào sự chỉ dạy hay ra ơn của bất kỳ ai mà tự tay hóa chốn rừng thiêng nước độc, cọp vồ sấu tha, vắt hút máu – ong nhả độc thành một vùng trù phú, giàu đẹp.
Họ không học cách “Bên ngoài thơn thớt nói cười/Bên trong dao kiếm sẵn sàng tuốt ra”, mà có sao nói vậy, thương thì biểu thương, ghét thì biểu ghét.
Họ không học cách ích kỷ, chỉ lo vun vén cho bản thân hay thân bằng quyến thuộc của mình, mà lại đi vung tiền lo cho bá tánh, mặc cho bá tánh khi no rồi ngồi xỉa răng viết bài chửi họ ngu và dạy đời họ cách xài tiền sao cho “thông minh” và “hợp lý” nhất.
Họ không học cách bán rẻ lương tâm để đặt chân vô chính trường – quân trường hay làm giàu bất chánh, lại cặm cụi kiếm sống với con nước, miếng vườn, thửa ruộng, bờ ao, gốc cây, cội cỏ, hòn đá quanh nhà,…!Họ không chịu học cách nghi ngờ bất kỳ ai ghé nhà họ chơi, trái lại còn rước vô nhà đãi ăn nhậu linh đình và đối xử như họ hàng xa thất lạc nay mới tìm lại được; để rồi khi tụi nó no say, tụi nó về nhà viết bài chửi gái miền Tây làm đ* và đàn ông tối ngày nhậu nhẹt rượu chè bê tha.
Bởi vì họ không học những điều trên nên tôi gọi họ là dân thất học.
Và nhờ có những người thất học đó, tinh thần của những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Biểu Chánh, Phan Thanh Giản,…!vẫn còn hiện diện trên Đất Nước này.
– Chú nghĩ sao về việc đồng hóa tư tưởng?
– Khi nào miền Tây nói riêng và cái xứ Nam Kỳ Lục Tỉnh nói chung còn nhớ những câu, “Kệ, mình ăn thì hết, chứ người ăn thì còn”, “Sao tôi thấy thương nó quá”, “Vô đây đụt mưa đại đi”, “Cơm nước gì chưa? Làm bậy chén cơm rồi hẵng dìa nghen?”,…!thì chừng đó họ sẽ không bị đồng hóa tư tưởng.
Ngoài trời gió bấc thổi mạnh làm xô ngã những chậu bông mà hai anh em chú cố công ương trồng.
Hương sắc tan theo luồng gió miền xa.
Hác Đăng Khánh đặt tay lên vách kính cường lực mà dõi mắt nhìn vườn tược bị vùi dập.
Rồi chú nói mà như đang tự nhủ với chính mình:
– Ngôn ngữ bị biến tướng có thể lần hồi tìm lại; người Do Thái là một ví dụ điển hình.
Nhưng bản sắc văn hóa và lương tri không còn nữa thì coi như cái gốc rễ đã bị bứng….