Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt

Chương 171: Hồi Ba Mươi Mốt Ôi Kiếp Phù Sinh Triệu Miệng Đời! B


Bạn đang đọc Tiệm Trà Sữa Của Tôi Toàn Là Dân Nằm Vùng Hệ Liệt – Chương 171: Hồi Ba Mươi Mốt Ôi Kiếp Phù Sinh Triệu Miệng Đời! B


– Anh có nhạc sĩ nào ít ai còn biết đến không? Chứ cứ Phạm Duy, Trần Thiện Thanh, Lam Phương, Y Vân,…!hoài cũng chán.

Đặng Thừa Tân trả lời ngay tức khắc:
– Nhạc sĩ Bảo Tố, thuộc dòng dõi hoàng tộc Nguyễn Phước triều Nguyễn.

Cụ còn có bút hiệu là Nguyễn Phước Tố và Anh Tố.

Rồi vừa trở vô kho lấy dĩa than, anh vừa ngoáy đầu nói với ra:
– Tôi mời anh nghe bài “Men tình” của cụ và do ca sĩ trước năm 75 Diễm Chi trình bày, nằm trong băng nhạc “Thanh Thúy 16”.

Người mối quen có vẻ rất thích thú với băng nhạc này nên cứ gục gặc đầu và cười mủm mỉm suốt.

– Cụ còn có một bản Đạo ca rất hiếm người biết là “Niềm hân hoan của người Phật tử”, được thâu âm qua giọng hát của “họa mi xứ Huế” Hà Thanh.

Chín bản còn lại mong anh tự tìm hiểu thêm.

Một người giao hàng lại quầy để lấy trà sữa đã đặt cho khách khiến anh phải ngắt ngang cuộc trò chuyện.

Xong xuôi hết rồi, anh nói tiếp:
– Cụ cũng từng ở tù chung với ca sĩ Duy Trác và nhạc sĩ Xuân Điềm.

– Nhắc mới nhớ, thi sĩ Hồ Đình Phương có cha là cụ Hồ Văn Huân – Một vị quan triều Nguyễn.

Cụ còn là Viện trưởng Bệnh viện Trung Ương Huế.

– Và ca sĩ Thủy Tiên hải ngoại cũng là hoàng thân quốc thích.

Tên đầy đủ của cô là Huyền Tôn Nữ Thủy Tiên.

– Vợ của ca sĩ đất Bắc Anh Ngọc là ca sĩ Quỳnh Giao – Tức Công Tằng Tôn Nữ Đoan Trang.

Pháp danh của cô là Như Nghiêm.

Cô là một trong những hậu duệ của Tuy Lý Vương Miên Trinh.

– Rất nhiều con cháu quan lại và hoàng tộc triều Nguyễn là ca sĩ, nhạc sĩ, văn sĩ, thi sĩ, họa sĩ, thương gia, tướng tá và chính khách, chưa kể tới những lãnh vực khác như Luật khoa, Khoa Giáo, Điện ảnh thứ Bảy, Mỹ thuật – Kiến trúc,…!Cho nên một số khứa đánh đồng con cháu quan lại và hoàng thân quốc thích đều là hạng bất tài vô dụng là tầm bậy.

Khi băng nhạc kết thúc, người khách đó mới chịu rời quán.

Một người khách khác bảo rằng rất muốn nghe một bài ca thật hay của “tiếng hát vượt thời gian” Thái Thanh.

Và phần trình bày của cô Thái Thanh qua bản “Thầm mơ (Mùa thương cũ)” của người nhạc sĩ kiêm ảo thuật gia Bảo Thu, một tình khúc rất hiếm người biết, đã làm thỏa lòng người khách đất Bắc.

Thương Hận cười hỏi:
– Anh có thể tặng tôi một bản nhạc không?
– “Nhạc sĩ với cây đàn” của nhạc sĩ Tiền Chiến Nguyễn Văn Khánh, do Sĩ Phú trình bày.

Một bài tình ca rất hay mà không còn mấy ai nhớ tới.

Thương Hận ngợi khen sự lựa chọn của ông chủ quán dễ thương hết lời, rồi mới gọi một ly chanh muối cỡ lớn để cổ họng đỡ khô khi ăn bánh mì xíu mại.

Anh tính ăn uống xong xuôi sẽ khăn gói lên đường tới tòa soạn Canh Tân thăm người bạn điên.

– Quê tôi ở Đồng Tháp, liệu anh có thể tặng tôi một bài mang tên xứ tôi không?
– “Về Đồng Tháp” của nhạc sĩ Anh Việt Thu, nhưng nay đã thất lạc rồi.

Thương Hận lộ rõ vẻ buồn hiu.

– Tôi sẽ mời anh nghe bài “Bảy màu vang” của ông và thi sĩ Trường Anh, người biểu diễn là Nhật Trường – Trần Thiện Thanh.

Rồi vừa dán miệng ly trà sữa, Đặng Thừa Tân vừa trình bày:
– Nhạc sĩ Anh Việt Thu có rất nhiều bản viết về miền Tây rất hay, như “Giòng An Giang”, “Đẹp Bạc Liêu”, “Về Đồng Tháp”, “Thuyền xuôi Kiên Giang”, “Ngược dòng Cửu Long”,…!Đáng tiếc là hơn phân nửa đã bị thất lạc.

– Còn bài “Đường về miền Nam”, “Nhớ vịnh Hà Tiên” – Đồng sáng tác với Kim Mã, “Mưa Cẩm Giang” và “Mưa đêm nay” – Phổ thơ của Trường Anh.

Anh chủ quán gật gù:
– Những bài hát này mang âm hưởng dân ca Nam Kỳ hết sức hay và đặc sắc.

Nếu thế hệ bây giờ tìm được tờ nhạc và biểu diễn đừng phá cách, ắt hẳn…!
Lời chưa nói hết, một người khách lớn tuổi cất giọng ồm ồm cắt ngang:
– Bữa hổm nghe trúng bản “Tàu về Quê Hương” của nhạc sĩ Hồng Vân bị cái đám nào đó hòa âm phối khí theo kiểu mới mà tôi muốn lên tăng-xông.

Cái gì đâu mà tiếng nhạc hát tiếng hát luôn.

Bộ ca dở lắm hay sao mà phải che đậy vậy?
Một người khách đồng trang lứa với ông ta phụ họa:
– Nghĩ cũng tức cười thiệt, nhiều bài nhạc trước năm 75 đâu phải là nhạc giựt hay nhạc vũ trường mà lại đi remix như đại liên nã đạn.

Ông ta ngỏ lời yêu cầu với người chủ quán nhỏ hơn mình một giáp:
– Cho tôi nghe bài “Tàu về Quê Hương” gốc được không?
– Được.

Đợi tôi một lát.

Sau một hồi tìm kiếm trong kho, Đặng Thừa Tân trở ra với băng nhạc “Băng Vàng Shotguns 74 – 75” trên tay.

– Bài “Tàu về Quê Hương” sẽ do song ca Thanh Tuyền – Thái Châu trình diễn.

Rồi anh quay vào rửa máy xay cà-phê với một nhân viên nam.

Nếu như tâm trạng tốt và không có chuyện gì xảy ra, chắc chiều nay anh sẽ đãi các nhân viên một bữa ăn thật ngon ở nhà hàng mà mình yêu thích.

– Nghe như vầy mới hay nè…!Bài kia nghe được mấy câu, nhạc giựt xập xình nhức đầu muốn chết.

Thương Hận bình luận:
– Bác Duy Khánh ca bản này không hợp giọng bằng bác Thái Châu.

Một người Linh mục trẻ có đôi mắt u hoài lại quầy mà nhỏ nhẹ yêu cầu một bài hát có liên quan tới đức tin của mình.

Và anh chủ quán đáp ứng lời yêu cầu của Antonio Vũ, bằng bản nhạc “Lời Kinh Thánh” do đôi nhạc sĩ Minh Kỳ – Hùng Cường sáng tác, người trình bày là Nhật Trường:
“…!Xưa trên núi cao, Chúa đã truyền mười điều giới răn
Mà điều quan yếu Chúa kêu ta hãy thương mọi người
Như thương chính mình, thương yêu hết tình
Lòng đừng gian dối.

Đừng gian dối, dù người dối ta
Thánh Kinh! Thánh Kinh! Có ai nghe theo gì không?”
Rồi anh chủ quán nêu:
– Một người Đạo Phật và một người Đạo Chúa đã cùng nhau viết ra bài ca này…!
Antonio Vũ chống cằm mà hỏi:
– Ai Đạo Phật? Ai Đạo Chúa?
– Bác Hùng Cường, pháp danh là Thiện An.

Còn bác Minh Kỳ, hiện đang yên nghỉ trong Giáo xứ Tân Định.

Antonio Vũ bật cười:
– Sẽ không ai nghĩ bài hát trên do một người Đạo Chúa hợp tác viết lời – soạn nhạc với một người Đạo Phật…!
Một người khách lớn tuổi ngồi mé tay trái người Linh mục trẻ cất tiếng hỏi chủ quán cà-phê trạc tuổi cháu mình:
– Trong băng nhạc này có bài nào hay nữa hôn con?
– “Bà mẹ Phù Sa” của nhạc sĩ Phạm Duy, do cô Hoàng Oanh ca.

Nội dung của ca khúc nói về một người mẹ già đã cứu mạng cả hai người lính khác chiến tuyến, bằng cách lùa họ xuống gầm giường núp kẻ thù trong mắt họ; cuối bài tác giả đã hỏi rằng, “Rốt cuộc thì ai cứu ai?”
– Có phải các nhạc sĩ đặt lời Việt từ ca khúc ngoại quốc luôn không ghi nguồn rõ ràng và tự nhận là mình sáng tác không?
Người đặt câu hỏi trên là một người mặc áo sơ-mi trắng, quần tây đen, trên vai trái vắt cái áo vest đen, còn tay phải xách cái cặp màu xanh dương.

– Chỉ những ai chưa từng thấy cái bìa đĩa nhạc mới nói các nhạc sĩ nhận vơ là mình sáng tác, họ ghi rất rõ ràng rằng mình đặt lời Việt từ ca khúc nào và thậm chí có người còn ghi luôn tên tác giả bài gốc.

– Cho tôi coi đi.

Đặng Thừa Tân liền đưa băng nhạc “Tuyệt phẩm 4 – Nhạc Cổ điển” cho người thanh niên đó coi.

Vừa đưa anh vừa nói một lèo:
– Một số ca sĩ trong Nước tự ý lấy ca khúc nhạc ngoại lời Việt của những nhạc sĩ bên hải ngoại biểu diễn, rồi cẩu thả không ghi chú rõ ràng trên bìa băng nhạc, dẫn tới chuyện những nhạc sĩ bị hàm oan.

Điển hình là bài nhạc Đài Loan lời Việt “Bức tranh Xuân” của nhạc sĩ Anh Bằng, về đổi thành “Con bướm Xuân” rồi bỏ luôn tên của người đặt lời Việt.

Vừa tính tiền cho khách ở bàn 51, anh chủ quán vừa nói:
– Anh có thấy không? Bài đầu tiên mang tựa “Mối tình xa xưa” do nhạc sĩ Phạm Duy đặt lời Việt từ giai điệu của nhà soạn nhạc Johannes Brahms.

Thấy rõ ràng chưa? Cụ có nhận vơ mình là chủ nhân của giai điệu đó không?
Anh ta cất giọng hòa hoãn:
– Xin anh nói rõ hơn một chút nữa.

– Nữ ca sĩ Đặng Lệ Quân thường đặt hàng cho các nhạc sĩ Nhật Bản sáng tác bài hát để cô biểu diễn trên thị trường âm nhạc xứ họ.

Sau đó, cô mới chuyển lại lời Hoa, tự bản thân hoặc nhờ nhạc sĩ nào đó trong nước viết giùm.

Cho nên, không thể nào nói bản gốc là nhạc Hoa được, mà phải ghi là nhạc Nhật.

Thí dụ là bài “Kuukou (Kuko) – Phi trường” của nhạc sĩ Michio Yamagami, nhạc sĩ Nhật Ngân đặt lời Việt cho ca khúc này và ghi tựa là “Xin thời gian ngừng trôi”, tôi sẽ cho anh nghe qua phần trình bày của cô Ngọc Lan.

Rồi anh cúi xuống lục tìm một băng nhạc có chủ đề nhạc ngoại quốc lời Việt.

Sau năm, mười phút, anh đứng thẳng lên và tươi cười trình bày:
– Còn đây là băng nhạc “Nhạc Trẻ 3 (The God Father)” phát hành trước năm 75, và đây là băng nhạc “Chansons DAmour” phát hành sau thời gian này.

Trong lúc đợi người khách đọc xong mục lục in trên hai cuốn băng, Đặng Thừa Tân vừa lấy nùi giẻ lau mặt bàn quầy thu ngân vừa thuật chuyện:
– Tôi thấy trên mạng nhiều người đăng một vài đoạn băng tổng hợp những bài nhạc Hoa nổi tiếng và bản tiếng Việt bên mình.

Điều đáng nói ở đây là có một số bài mang giai điệu không phải do nhạc sĩ người Hoa sáng tạo mà thuộc về giới nhạc sĩ Nhật, Đức, Anh, Mỹ, Ý, Pháp,…!ấy vậy mà chủ biên vẫn cứ đánh đồng là nhạc Hoa lời Việt hết ráo.

Điều mắc cười thứ hai là họ lấy toàn bản tiếng Việt do ca sĩ trong Nước biểu diễn, mà phần đông những ca sĩ này rất hiếm khi chịu bỏ công ghi tên nhạc sĩ đặt hoặc dịch sang lời Việt và tên gốc bài hát trên bìa đĩa, cũng như giới thiệu trên sóng truyền hình.

Rồi một đám bình luận như vầy, “Hóa ra người Việt mình toàn đạo nhạc Hoa”, “Nhạc Hoa nghe sang bao nhiêu, nghe nhạc Việt phèn bấy nhiêu”, “Mặt dày thật đấy”, “Nói Ba Tàu đạo nhái chứ mình còn đạo nhái hơn nó”,…!
Người khách đập bàn cái rầm:
– Bởi tôi tức quá nên mới tới đây hỏi thẳng anh nè! Con nhỏ em tôi nó cũng bình luận y hệt vậy.

Nhìn nó tôn thờ nhạc Hoa mà tôi muốn…!cuốn gói ra ở riêng cho đỡ chướng mắt.

– Kêu cổ ra đây.

Tôi còn ít nhất một trăm băng nhạc đem ra làm vật bảo chứng cho quan điểm của mình.

Rồi anh chủ quán nóng máu bước lại dắt người khách mới tới quán lần đầu vô kho coi để kiếm chứng những gì mình đã nói.

Do nơi đây lưu trữ băng cối, dĩa than và đĩa nhạc nên Đặng Thừa Tân phải lắp máy lạnh đặng giữ cho chúng không bị hư và chảy.

Nhiệt độ ở đây cao hơn cái thời Đà Lạt còn là xứ ngàn thông một chút.

Người khách sợ bị bắt đền nên đợi anh chủ quán đưa gì thì coi nấy chớ hổng dám tự tiện lấy theo ý mình.

Anh không thể tin nổi ba thế hệ âm nhạc Việt Nam thu gọn trong một căn phòng nhỏ xíu như vầy.

– Bất cứ băng nhạc nào của mình, cô Ngọc Lan đều ghi tên bài hát gốc và tác giả đặt – dịch lời Việt rất rõ ràng.

Mà hầu như trung tâm băng nhạc hải ngoại nào cũng đều làm như vậy hết.

Người khách ngắm nghía bìa băng nhạc “Ngọc Lan 7 – Mãi mãi yêu anh”, rồi tỏ ý lát nữa muốn nghe mấy bài này.

Hai người sắp ra khỏi nhà kho, chợt người khách hỏi Đặng Thừa Tân về ca sĩ Ngọc Lan, anh liền đáp rằng:
– Mỗi lúc muốn sửa lời bài hát, cô Ngọc Lan đều đích thân liên lạc với tác giả để xin phép và hỏi ý kiến, nếu được sự đồng ý cô mới dám biểu diễn theo ý mình.

Và đó là điều đã làm hình ảnh cô trở nên cao đẹp và đáng quý trong mắt các nhạc sĩ, ca sĩ hải ngoại thuở trước.

– Sao anh không xài chữ “Album” mà lại sử dụng chữ “Băng nhạc”?
– Trước năm 75, người mình đã có chữ “Băng nhạc” rất hay, đâu cần phải xài tới chữ “Album” phải không nà?
– Ngày mai tôi sẽ đưa nhỏ em tới quán anh…!
– Anh muốn sao cũng được.

Đặng Thừa Tân tiễn chân người khách tới tận chỗ đậu xe của anh ta, mới quay lại quán cà-phê của mình.

– Lâu lâu bị “Phong Thần diễn nghĩa” há anh Út?
– Ừ.

Lát nữa mày pha đồ uống giùm tao, tao đang bực mình nên không pha ra cái giống ôn gì đâu.

Mấy người nhân viên xúm lại to nhỏ với nhau ngay sau khi tiếng động cơ xe gắn máy của chủ họ vang lên.

Một người bình phẩm:
– Trong mắt nhiều người trẻ bây giờ chỉ có nhạc Tàu, cái quần gì cũng nói nhạc Tàu, riết ổng quạu luôn.

Đặng Thừa Tân ra ngoài đài vinh danh Petrus Trương Vĩnh Ký ngồi hóng mát cho khuây khỏa tinh thần.

Chỗ này cách quán nước của anh ước chừng một cây số rưỡi.

– Ăn bánh còng, bánh cam hôn cậu?
Người mời anh mua hàng là một bà cụ lưng còng, đầu đội mâm bánh đầy vung, bận áo bà ba và quần lãnh đen.

Dù không thích ăn đồ ngọt mấy, anh vẫn mua giùm bà cụ mỗi thứ một chục; một chục của bà cụ bằng đơn vị một tá.

Thấy bà cụ không có tiền thối, anh cười hiền mà biểu, “Ngoại giữ luôn đi ngoại.

Coi như con lì-xì ngoại sớm.”
Dưới bóng mát của cây bàng, người đàn ông cập bến tứ tuần ấy dõi mắt nhìn đám đông ồn ào, náo nhiệt.

Suốt ngày giam mình trong khuôn viên quán cà-phê và lò võ, đã lâu anh không để bản thân được ngồi giữa khung trời rộn rịp như vầy.

Lòng chợt nổi hứng thi nhân, anh mở bài hát “Mùa Thu cánh nâu” của nhạc sĩ Nguyễn Ánh 9 và do Xuân Sơn ca; trong bài này cụ ký tên “Hoàng Nhu – Quang Anh”: Quang Anh là tên con trai cụ, còn Hoàng Nhu là người đã giúp cụ hợp soạn bài hát diễm tình này.

Khi tình khúc kết thúc, anh tính đứng dậy và lái xe về quán nhỏ phụ giúp nhân viên pha chế, thì chợt trông thấy ký giả Sương Tuyết đang bước lại lư hương của cụ Sĩ Tải để thắp nhang.

Anh nảy ra ý định sẽ mời anh ta về xứ dừa chơi một chuyến.

oOo
Trước lúc giã biệt người bạn trẻ để về thành đô, Lạc Tương Giang nói rằng:
– Cậu Sáu của con bị lộn bài hát “Mô, tê, răng, rứa” của nhạc sĩ Thần Kinh Nguyên Chương với bài dân ca Thanh – Nghệ – Tĩnh “Mô, tê, răng, rứa”.

Gã điên cười tủm tỉm:
– Dạ, con với cụ không nỡ “sửa lưng” cẩu.

– Cảm ơn bữa cháo gà nghen cậu Hai!
– Dạ, thầy cũng bảo trọng đó!
Đặng Thừa Tân chở người mối quen và cựu luật sư về nhà bằng chiếc xe hơi hiệu Porsche màu đen bóng loáng của anh.

Thương Hận cáo bận nên chưa xuống hội ngộ mọi người.

Trên đường về, anh chủ quán tắp vô cây xăng châm thêm xăng cho mát máy.

Thấy thằng cháu đã đi đâu mất dạng, ông già Ba Tri mới kể cho hai người bạn trẻ nghe:
– Hồi đó thằng Tuyết có quen với một người, người này rất ghét đàn ông nói giọng trống – mái và ưa giễu nhại mấy khứa đó.

Sau này gặp lại, thì hỡi ôi người này cũng nói giọng trống – mái y chang mấy khứa mà người này vốn ghét cay ghét đắng.

Cho nên việc giễu nhại kẻ mình ghét riết rất có thể khiến mình bị đồng hóa tư tưởng và hành động.

Con nít nó bắt chước riết mà nó giống y chang người nó bắt chước.

Huống hồ chi là mình tự đưa mình vô tròng.

– Một lần giễu nhại kẻ thù là một lần đi quảng cáo thói hư – tật xấu của chúng, và đánh mất một lần giữ gìn nét đẹp – cái hay của mình.

Thằng cháu điên của ông đã quay trở lại tự hồi nào mà ông không hay.

Ông có tịch nên giựt mình giả lả:
– Muốn biết các cụ chửi lộn bằng ngòi viết ra sao, hãy tìm đọc “Phê bình văn học thế hệ 1932 Một và Hai” của Linh mục Thanh Lãng, coi còn vui hơn kịch hài.

Gã điên vừa trao đồ uống cho ông Hai vừa nhún vai bình phẩm:
– Giai đoạn 1954 – 1975 là mốc thời gian có nhiều nhà phê bình công tâm nhứt, còn trước đó và sau này thì…!
– Tôi thấy có một số người nay đã trở thành “Tự Lực Văn Đoàn đệ Nhị”, không phải là giỏi tài văn chương hay tinh thông kiến thức, mà là giỏi chửi bới, châm chọc và miệt thị những cái tên ở thế hệ trước.

Có thể tìm thấy vô số bài bài mỉa mai rất nặng lời Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu, Phan Khôi, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh,…!ở tạp chí “Phong Hóa” do các cụ trong nhóm này chắp bút.

Ngừng một lát để xé cái bao giấy bọc ống hút, ông già Ba Tri mới tiếp:
– Tôi chưa thấy cụ Petrus Ký, cụ Hồ Biểu Chánh, cụ Vương Hồng Sển, cụ Paulus Huỳnh Tịnh Của,…!phê bình nặng lời với ai hay tấn công cá nhân người nào hết.

Hầu như các cụ chỉ chăm chăm vô công việc bút ký của mình và lo cho gia đạo – tình hình chính trị và khoa giáo Nước Nhà – phong hóa mỹ tục mà thôi.

Đặng Xương Tuyết ngửa mặt nhìn vòm trời đầy mây mù mà cười buồn:
– Không thể bắt cây điều ra trái ở Bắc, và cũng chẳng thể bắt cây đào ra quả ở Nam.

Vốn dĩ thổ nhưỡng đã hun đúc thành như vậy rồi, hổng thể cãi lại máy Trời được đâu.

Phan Hoài Việt cười buồn:
– Cho nên bây giờ còn được mấy ai giỏi văn – hay thơ như thế hệ trước năm 75 ở miền Nam? Nhìn đâu cũng thấy xách mé, đùa giỡn và tranh biện bằng lối nói cố tình ngọng nghịu và đầy rẫy sự tục tĩu.

Văn chương và tiếng Việt có chết sớm hay không phụ thuộc vào việc mình ráng sức giữ gìn hay hùa theo số đông để thỏa mãn cái Bản Ngã nhất thời.

Ngôi nhà ba gian hai chái của cựu luật sư nằm lọt thỏm trong bờ đất trồng cây bông kiểng xinh tốt; hàng rào bông bụp điểm tô nét duyên, gần gụi cho ngôi nhà bề thế.

Bước qua cánh cổng sắt kiên cố là thấy liền một vuông khoai bên mé tay trái, chưa kịp để mắt tới nó lâu thêm chút nữa người lữ khách đã bị giàn bầu, bí và mướp thu hút ánh nhìn: Thay vì xây mái che, ông Hai lại lắp đặt một giàn cây dây leo từ cổng rào bắt thẳng vô mái hiên nơi thềm ba, dưới “Con đường Thiên Lý” ấy lát gạch kiểu không trơn và có độ bám rất cao để phòng mình hại người và hại mình, hai bên đường trồng bông dừa, mồng gà, móng tay, cúc, lài, sao nháy, bươm bướm, huệ,…!Nằm cạnh vuông khoai là một con đường đất mỏng phân ranh giữa nó và luống mía lau cao nghệu; từ con đường đất này quẹo qua phải và đi thêm chừng năm, bảy bước nữa là tới cây cầu khỉ yếu ớt, bên bờ kia là mấy liếp trồng rau cải xanh um nhưng không được đẹp mắt như các nông trại trồng trọt theo quy cách tân tiến.

Ông Hai mời sắp nhỏ ra ngoài cái chòi dựng nơi bờ đất thứ ba.

Ông cất kiểu nhà sàn của người Thượng để phòng con nước thất thường miệt mình.

Dưới sàn nhà, ông để trống huơ trống hoác đặng ngừa trộm – cướp ẩn nấp và lũ chuột đẻ dai như quỷ.

Mé vách bên phải treo đầy nông cụ và đồ nghề sửa điện nhỏ gọn, những thứ kềnh càng hơn ông đặt ở trên sàn và trên cái bàn bán nguyệt kê sát vách.

Mé vách bên trái trổ cửa sổ thật lớn để đón gió và nắng trời phước lành vô chòi; đứng đây có thể quan sát động tĩnh ở mảnh sân trước nhà ông.

Ông giương tấm ván nơi bức vách cửa hậu cái chòi lên cao, để lộ ra hàng ba rộng thênh thang, khoảng khoát; ở đây mắc năm cái võng lưới và bày hai cái võng xếp mới tinh.

– Mỗi đứa tự chọn cái “long dển” nghen?
Sắp nhỏ cười rần rần, làm “Ông vua không ngai” cũng hạnh phúc theo.

Đợi đám trẻ “an tọa” xong, ông vô trong nhà nấu nước, pha trà.

Sáng nay mối lái trên Sóc Trăng gửi bánh pía cho ông; ông thấy hai chú cháu lái xe kiếm nhà mình cực khổ quá nên biếu mỗi người hai chục uống cà-phê.

Trong lúc chờ ông Hai xuống chơi, Phan Hoài Việt đặt câu hỏi với người bạn điên:
– Anh nghĩ trình độ dân trí của một người bị thấp là do khoa giáo và môi trường xã hội không tốt không?
Đặng Xương Tuyết lắc đầu:
– Mình ngu và bị người ta dắt mũi là vì làm biếng, hết.

Thuở xưa, cụ Petrus Ký đâu có được đầy đủ phương tiện học tập như bây giờ mà vẫn biết gần ba mươi thứ tiếng.

Nếu như cụ ỷ ỷ vô trí nhớ dai và trí thông minh sẵn có, hoặc cam chịu thời cuộc mà phủi bỏ chuyện thu nạp kiến thức, ắt hẳn cụ không bao giờ trở thành một con người có học vấn uyên bác và đáng kính như vầy đâu.

Bên nước người thì có Thomas Edison và Michael Faraday, cũng siêng năng mày mò khám phá, nghiên cứu, học hỏi và chế tạo nên mới có cái danh tiếng nhà bác học.

Sở dĩ tôi khuyến khích việc đọc sách và tài liệu đa chiều là bởi chúng sẽ giúp ta cải thiện quan điểm theo chiều hướng tốt hơn và mở mang đầu óc.

Còn ưa đọc những gì ngọt lòng mình nhưng sai sự thật hoặc đã qua công đoạn thêu dệt, thêm bớt chỉ tổ khiến ta càng ngày càng ngu muội, cố chấp và tự phụ.

Phan Hoài Việt trình bày góc nhìn của mình:
– Tôi thấy nhiều người đọc xong một bài viết thì liền tấm tắc khen hay, trong khi chưa hề kiểm chứng nội dung mà tác giả đã viết, rồi sau này kiểm lại thấy không đúng lại trách người ta gạt mình.

Tác giả cũng là con người, cũng có lúc nhớ lộn hoặc suy nghĩ chủ quan, muốn trách người thì hãy tự trách mình bộp chộp và dễ tin trước.

Rồi anh thầy hỏi:
– Anh có sách nào hướng dẫn người ta tự học không?
– “Tôi tự học” của cụ Thu Giang – Nguyễn Duy Cần.

Hồi nhỏ tôi đã từng đọc qua “Cái dũng của Thánh Nhân” và “Cái cười của Thánh Nhân” cũng do cụ chắp bút.

Gã điên chợt chia sẻ một bài viết trên mạng:
– Người Do Thái học ngoại ngữ như vầy: Ví dụ chữ “Chat” chẳng hạn, họ sẽ ghi nghĩa của nó trong mỗi quốc gia ra tờ giấy; nói cho rõ ràng hơn thì như thế này: “Chat” – “Mèo trong tiếng Pháp”, “Nhắn tin, Chuyện gẫu trong tiếng Anh”,…!Nhờ vậy mà họ nhớ được rất nhiều ngữ vựng của các quốc gia cùng một lúc.

Phan Hoài Việt lại hỏi:
– “Từ vựng” hay “Ngữ vựng” anh?
– “Từ vựng” là của Ba Tàu, “Ngữ vựng” là của người Việt mình, đã được sử dụng trong khoa giáo Nước Nhà ở miền Nam trước năm 75.

Còn nữa, “Cái chữ” mới đúng, còn “Con chữ” là chữ xài sau này.

Chưa kể tới là “Quốc Văn” chứ không phải “Ngữ Văn”.

Ngoài ra, ngày xưa kêu là “Tĩnh từ”, còn bây giờ lại gọi “Tính từ”.

Hương trà tim sen thơm ngào ngạt lan tỏa khắp không gian cái chòi bé mọn.

Phải hãm ít nhất một tiếng trà uống mới ngon, đậm đà mà không có mùi ngai ngái khó chịu.

Ông Hai cẩn thận bưng mâm trà, bánh ra bàn.

Thằng Tuyết giúp ông soạn chung nước cho từng người, hai người bạn trẻ kia rời cái “Long dển” mà lại ngồi xuống quanh cái bàn cây hình tròn lùn tịt.

Xong xuôi hết thảy, gã điên mới tiếp:
– “Túc cầu” chứ không phải “Bóng đá”; thường mình nói “Đá banh” hay “Trái banh” khi chơi môn thể thao này.

Với những dịp thể thao lớn, người xưa hay sử dụng những chữ trang trọng như “Túc cầu”, “Vũ cầu”,…!chẳng hạn.

Cụ Đào Văn Bình có nói như vầy, “Tại sao lại nói là” có tiền sử bệnh…”? Vậy chẳng lẽ bệnh này có từ thời ăn lông ở lỗ à? Chỉ cần nói đơn giản là, “Đã từng có/mắc/bị bệnh”, “Trước đây có/mắc/bị bệnh” là rõ ý rồi.”
Ông Hai bật cười:
– Cái đó gọi là sính chữ Nho mà hổng hiểu nghĩa thành ra làm trò cười cho thiên hạ đó.

Gã điên gật đầu:
– Lúc cần Hán – Việt thì không xài, tới chừng hổng cần thì xài.

Ông Hai kể:
– Ngày xưa người mình có chữ “hàng xuất dương” rất hay.

Nó có nghĩa là các mặt hàng đem bán ở hoặc nhập về từ nước ngoài, theo hợp đồng hoặc không, thông qua đường biển.

Kế, người mình có chữ “xuất cảng – nhập cảng”, nghĩa rộng hơn một chút, vì sự có mặt của ngành hàng không nên chúng ta bớt phụ thuộc vô đường bộ và đường thủy trong chuyện giao thương và trao đổi hàng hóa các loại.

Tự nhiên bây giờ lại xài chữ “Xuất khẩu – Nhập khẩu”.

So với hai chữ “Xuất cảng – Nhập cảng”, tụi nó trật lất hoàn toàn.

Đặng Thừa Tân cười mà thưa rằng:
– Dạ, người ta bán buôn – trao đổi hàng hóa ở cảng, chứ ai lại làm điều đó ở miệng.

Phan Hoài Việt bỗng hỏi gia thế của người bạn điên.

Sau một lúc đắn đo, anh ta kể:
– Ngày xưa mẹ tôi học trường Thiên Mẫu ở bên Mỹ Tho, có lần Sơ hỏi, “Em nào có Đạo thì giơ tay lên.” Mẹ tôi thấy bạn bè giơ tay nhiều quá nên cũng đưa theo.

Sơ mới phát cho những trò giơ tay một cuốn Thánh Kinh mỏng và dặn Chúa Nhựt nhớ ghé trường để Sơ dẫn các em đi tham dự Thánh Lễ.

Bà nội của mẹ, tức là bà cố của tôi, nghe mẹ nói sáng Chúa Nhựt chở con lên trường thì cũng không hỏi han gì.

Tới chừng mẹ tôi tham dự Thánh Lễ xong, về nhà khoe lại với gia đình thì ông bà nội và các cô, các cậu mới tá hỏa tam tinh.

Sáng hôm sau, bà cố lên trường trình bày mọi chuyện với Sơ chủ nhiệm lớp và trả lại cuốn Thánh Kinh cho bà; bà cố biểu, “Dạ, mong quý Sơ thông cảm, gia đình tôi theo Đạo Phật.” Năm xảy ra sự việc dở khóc dở cười trên mẹ tôi chỉ mới bảy tuổi.

Chuyện thứ hai: Bữa đó đang học, chợt ngoài đường có tiếng nổ thật lớn.

Các Sơ hốt hoảng tri hô, “Tụi nó pháo kích trường học! Mấy em núp xuống gầm bàn liền đi!” Lúc đó các Sơ tuy rất sợ hãi nhưng vẫn liều chết đi ra coi có phải pháo kích thiệt không.

Thì may quá, không phải tụi nó, mà là một chiếc xe vận tải cỡ lớn bị bể bánh.

Đặng Thừa Tân thắc mắc:
– Trường Thiên Mẫu nhận học sinh nào vậy anh?
– Cái trường mà mẹ tôi theo học toàn con nhà khá giả và tướng, tá trong quân đội.

Rồi gã điên kể:
– Chuyện thứ ba: Có hai cậu con nhà sĩ quan không biết chơi giỡn ra sao, mà cậu nọ đá vô bụng dưới cậu kia khiến cậu kia bị bể bọng đái chết ngay tại chỗ.

Mẹ tôi chứng kiến từ đầu tới cuối, nên đâm ra ám ảnh, lúc nào cũng khuyên tôi không được chơi giỡn, chạy nhảy.

Sau sự việc đáng tiếc trên, hai người mẹ của hai cậu đó đã có mặt tại hiện trường…!
Phan Hoài Việt hỏi:
– Vậy bà cố anh theo Đạo Phật hả?
Gã điên gật đầu:
– Hồi còn ở với bà cố, chiều nào mẹ tôi cũng đốt nhang cho bàn thờ Phật và gia tiên, rồi đọc Kinh “Địa Tạng Vương Bồ-Tát bổn nguyện”.

Không cần nhìn sách, mẹ tôi cũng thuộc làu mười mấy trang Kinh.

– Vậy mẹ anh theo Đạo Phật?
– Mẹ tôi đâu có theo Đạo Phật? Mà nói đúng hơn là mẹ tôi, và cả ba tôi không có theo Đạo nào.

Đặng Thừa Tân hỏi:
– Anh có kỷ niệm nào với nhà thờ không?
Gã điên lại gật đầu trước khi trình bày:
– Nhà thờ của người ta thì gác chuông lộng lẫy, kiến trúc tinh xảo, còn nhà thờ của Cha vừa nhỏ xíu, vừa xập xệ.

Tôi cứ nhớ hoài hình ảnh Cha ra sân trước kéo chuông; cái tháp chuông của nhà thờ được lắp ráp từ mấy thanh sắt hay thép gì đó rồi phủ sơn màu xanh lơ, dựng mé bên tay phải của khoảnh sân, tuy khoảnh sân trước rất nhỏ nhưng Cha vẫn cố công trồng bông, kiểng và sắp đặt tiểu cảnh để làm đẹp cho nhà thờ của mình và đoàn Chiên.

Ông Hai mời thằng cháu nuôi kể tiếp.

Và nó nói như thế này:
– Sau năm 75, có một người hiệu trưởng vì thời cuộc mà đã xa rời mái trường và dẹp bỏ bút nghiên qua một bên để đi làm công việc tay – chân kiếm cơm nuôi gia đình.

Thật oan nghiệt thay khi nguyên cái vùng đó hễ gặp cụ là gọi “Thầy” hoặc “Hiệu trưởng”, chứ không phải lấy thứ mà kêu như cách gọi thân thuộc của dân miền Tây.

Hồi đó, mỗi bận gặp mặt, mẹ tôi thường bước lại mà nói rằng, “Dạ, thưa thầy, thầy cho con mua vé số giùm thầy nghen thầy?” Nghe đâu thầy biết cả tiếng Anh lẫn tiếng Pháp, nói và viết ron rót như người bản xứ; ở miền Nam trước năm 75 mà được ngồi vô ghế hiệu trưởng là danh dự và giỏi cỡ nào…!
Nói tới đây, gã điên nghẹn ngào nên không thể kể nữa.

Gã hít ra thở vào một hơi để kiềm cơn xúc cảm, rồi mới trình bày nốt câu chuyện:
– Có nhiều khứa hay khoác lác mình là giáo sư, thạc sĩ, tiến sĩ, cử nhân trời Tây, trời Tàu đâu đó, mà nói tiếng Việt còn ngọng líu ngọng lô, đớt đa đớt đát chứ đừng kể chi là ngoại ngữ.

Trong khi cựu hiệu trưởng chẳng cần khoe bằng cấp và sở học, mà nguyên vùng đều xiển dương và nể phục.

Ấy mới thấy câu “Hữu xạ tự nhiên hương” là đúng…!
– Và “Chuột xạ tự nhiên hôi”.

Câu đối của ông Hai gây một trận cười sảng khoái cho hai người khách.

Một cuộc điện thoại từ tòa soạn Canh Tân đã khiến gã điên rời khỏi buổi tán gẫu.

– Thằng Tuyết thực sự cảm mến đứa nào, nó tuyệt đối không bao giờ tiết lộ cho ai hay đâu.

Nó giữ rịt người đó trong lòng như người ta nhốt con chim quý trong lồng.

Sau giờ trà mạn, Thừa Tân và Hoài Việt theo chân ông Hai ra vườn cuốc đất, trồng rau, ương hột và tưới tiêu.

Họ đương ở bờ đất thứ bảy, nơi đầy trồng cam sành, chanh và hạnh.

– Để tôi chỉ cho một cái mẹo trồng cam mọng nước: Về bắt ổ kiến vàng rồi bỏ dưới gốc cây cam, sau này cây cam vừa sai vừa cho trái nhiều nước và có vị chua ngọt rất ngon.

Thừa Tân nhớ tới ba mẹ dưới quê cũng hay biểu rằng con trùn, con kiến, con mối,…!là bạn của nhà nông.

Hễ chúng ở đâu là ở đó đất đai màu mỡ, tơi xốp; và con người thì ngược lại.

– Nhưng phải đề phòng lũ kiến hôi, chúng là giống diệt cây cam.

Chúng mà làm ổ ở đâu thì cây cam đó ra trái bị chai, khô quắt, không có miếng nước nào.

Hoài Việt làm vườn được một lúc thì ôm ngực thở hổn hển.

Anh vốn có bệnh suyễn nên không khỏe mạnh như trai tráng đồng trang lứa.

– Cậu Việt bị suyễn?
Anh thầy thất chí vừa gật đầu vừa hít ống thuốc trị bịnh.

– Có cần tôi gọi xe cứu thương không?
Anh thầy lắc đầu nguầy nguậy.

Rồi không ngại dơ mà ngồi phịch xuống đất, lưng dựa vô gốc cây bình bát.

Người bạn mới quen tên Tân đã phóng qua mấy bờ mương để vào nhà rót cho anh miếng nước nguội.

Đặng Thừa Tân cùng người bạn cà-phê trở ra với bình thủy và chai dầu cù là – thẻ bài cạo gió.

– Nó bị suyễn chứ không phải trúng gió.

Có cạo thì cạo tao nè.

Nói đoạn, ông Hai cởi phứt cái áo sơ-mi xanh, rồi đưa lưng cho thằng cháu nuôi cạo.

Anh chủ quán mời mọi người nghe bài hát “Cung điện buồn” của nhạc sĩ Lê Trọng Nguyễn, do tam ca Anh Ngọc – Nhật Bằng – Hồng Phúc trình bày.

Rồi nói:
– Tam ca Bắc Kỳ này có bản “Nguồn sống bao la” do đôi nhạc sĩ Xuân Tiên – Y Vân đồng sáng tác rất hay, tiếc rằng trên mạng ít còn chỗ lưu trữ.

Bài hát này nằm trong băng nhạc cùng tên “Đĩa nhựa Nguồn sống bao la”.

Xin nói thêm, tôi vẫn chưa thể khẳng định chính xác là cụ Xuân Tiên và ông Y Vân sáng tác chung hay đây là tác phẩm riêng của một trong hai vị nhạc sĩ.

Ngồi thêm nửa tiếng, anh thầy mới gượng dậy nổi.

Ông Hai cảm thấy áy náy nên hứa tối nay sẽ chiêu đãi một bữa cơm thật ngon và thịnh soạn, đương nhiên ông vẫn cần tới sự giúp đỡ của đứa cháu “nước lã”.

Thừa Tân và Xương Tuyết dìu người bạn lên cái chòi ban nãy nằm nghỉ mệt.

Đi sau lưng bộ ba là ông Hai với vẻ mặt buồn xo.

Chiều hôm ấy, bốn người đàn ông khác tuổi cùng quây quần bên mâm cơm sớm.

Thể theo ý thích của Hoài Việt và Thừa Tân, hai ông cháu nấu món chân gà rút xương hấp hành, ếch xáo lá cách, sườn ram mặn, rau lang luộc, canh bầu nấu tôm khô và gỏi xoài trộn khô cá lưỡi trâu.

Biết anh thầy và anh chủ quán rất thích ăn cơm cháy nên Xương Tuyết nấu luôn hai nồi cơm cho nhiều.

Còn ông Hai thì đang chặt dừa – khóm làm thức uống đãi khách.

Nghe đến cái tên của giống dừa, Thừa Tân bật cười:
– Miền Nam nói khóm, miền Trung nói thơm, còn miền Bắc nói dứa.

Ông Hai cười:
– Miền Nam với miền Trung hay nói lộn chữ này với nhau, nên không thể biết đích xác miền nào hay xài chữ nào.

Ngoài trời mưa rả rích rơi, tiếc thay thiếu vắng tiếng dế nên nghe sao tẻ nhạt khôn cùng.

Những bọt bong bóng thành hình rồi lại vỡ tan trong những vũng lầy và ổ gà ngoài hè.

Gió lất phất thổi làm xao động lũy tre xanh rì và thoang thoảng thanh âm cú kêu, vạc gọi.

Ông Hai bưng chén và cầm đũa trước tiên, kế mới tới ba người đàn ông miền Tây.

Gã điên mở chủ đề trước:
– Mới đọc xong hai tập “Truyện cổ Cao Miên” của Lê Hương…!
Hoài Việt vừa gắp cái đùi ếch bự chảng vừa niềm nở hỏi:
– Anh thấy sao?
– Tôi thấy nước này có nhiều công trình kiến trúc chịu ảnh hưởng của Bà-La-Môn Giáo.

Và những công trình đó rất nổi tiếng trên thế giới.

Ông Hai giúp Thừa Tân gỡ cọng xương còn sót trong miếng khô cá lưỡi trâu.

Có vẻ cậu trai đô thành rất mê món gỏi do ông trộn.

– “Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng.”
Hoài Việt nhướng mắt:
– Hả?
Gã điên nhún vai, cười xòa.

– Muốn biết à?
Ba người kia hào hứng nghe coi có chuyện chi giựt gân hôn.

– Tôi mới phát hiện một người đánh “tâm lý chiến” bằng cách sử dụng tiếng địa phương trong đây để viết bài.

Mọi bài viết của người đó đều cố tình nâng cao đức tin riêng, hạ bệ đức tin của người khác.

Ai từng đời trình bày luận điểm về chữ viết mà cũng phải cố “thọt” vài dòng ngợi ca tôn giáo của mình.

Nếu như để ý kỹ hơn, anh sẽ thấy sự kiện lịch sử đã bị người này cố tình bẻ lái theo chiều hướng có lợi và cao đẹp cho đức tin của họ.

Sùng bái tôn giáo một cách mù quáng thì đừng nên tham dự vô chính trị hay bình luận sự kiện lịch sử.

Người trong Đạo tôi sai, tôi nói vô trong mặt, chứ không bao che một li.

– Có bao giờ anh nghĩ tới chuyện trả đũa không Tuyết?
– Như tôi đã nói với anh và rất nhiều người, mình ghét người ta ở điểm nào thì đừng tự biến bản thân thành bản sao của người ta ở điểm đó.

Chủ đề mà gã điên khởi xướng tạm thời bị dừng lại.

Chủ đề tiếp theo do ông Hai cầm trịch, nói về lợi tức thu được từ mấy công đất vườn.

Kế đến là chủ đề âm nhạc do anh chủ quán dẫn dắt.

Và sau chót là chủ đề khoa giáo và tình hình chính trị trong và ngoài Nước do anh thầy nêu ra.

Tới khoảng bảy giờ hơn, bữa cơm mới xong.

Ông Hai lên nhà trên đốt nhang cho bàn thờ Phật và gia tiên.

Rồi ra sân thắp hương cho bàn thờ Thiên ở sân trước.

Xong đâu vô đấy, ông xuống nhà sau mở truyền hình lên coi thời sự.

– Anh có biết tại sao tôi lại theo Thầy Ananda – Khánh Hỷ không?
Phan Hoài Việt lắc đầu.

– Anh hãy tìm hiểu về cuộc đời của ông, nhất là chuyện “Tôn giả A-Nan nhập Niết Bàn”.

Thừa Tân đổi từ tư thế vắt chân chữ Ngũ sang tư thế nằm nghiêng khi thấy ông Hai xuất hiện.

Anh đang nằm đọc sách điện tử “Ca nhạc cổ điển – Điệu Bạc Liêu” của Trịnh Thiên Tư và nhóm nhạc sĩ Bạc Liêu.

– Anh có biết tại sao mà tôi lại có thể phát hiện điểm bất thường lẹ vậy không?

– Tại sao?
– Hãy nhìn mọi thứ ở góc nhìn “Trung Đạo”, rồi anh sẽ thấy được thôi.

– Tức là sao?
– Người ta nói vừa ý anh, cũng đừng vội tin.

Người ta nói trái ý anh, cũng đừng vội bác bỏ.

Người càng sửa đổi theo lời anh nói là người đáng sợ nhất; họ không ngu đâu, họ cố tình hùa theo để làm anh tưởng rằng anh luôn đúng, và tới chừng cái ỷ y của anh đạt đỉnh, hậu quả mà anh sẽ nhận lãnh là khôn lường.

Bản tin về Anton Nhân đã thu hút sự chú ý của nguyên đám.

Lằng nhằng riết khiến cho tòa án bị đem ra làm trò cười cho dân chúng.

Khi bản tin kết thúc, ông Hai dạy thằng cháu ngồi xuống bộ ngựa để ông xức rượu thuốc cho.

– Mày đánh lộn với ai mà bầm mình bầm mẩy vậy con?
– Chưa thể nói được đâu ông.

Ông thở dài thườn thượt:
– Tao biết mày mà về trển là có chuyện liền.

Trời lại làm mưa tiếp.

Tiếng mưa át luôn âm thanh truyền hình nên ông Hai đứng dậy đi đóng cửa hậu cho bớt ồn.

Ánh chớp lóe sáng hắt lên trên người ông một thứ màu sắc huyền diệu.

– Có một ông ở tù chính trị kể như vầy, mặc dù ở trong lao nhưng ổng vẫn giữ thói quen đọc Kinh Phật hằng đêm.

Cho tới một ngày nọ, ổng nghe một khứa “đồng kẽm” đứng ở ngoài sân nói vọng vô thế này, “Đã bắt được A-Nan rồi nhé.

Hiện đang truy nã Ca-Diếp trên toàn quốc.” Ổng với mấy ông bạn tù cười rần rần vì cái ngu của chúng.

Tự nhiên hai ông tôn giả nhà Phật bị “chế biến” thành hai tên phản động…!
Thấy sắp nhỏ cười tới chảy nước mắt sống, ông Hai hứng chí bồi tiếp:
– Mấy đứa lên mạng tìm chắc còn giữ lại được bài viết nguyên văn.

Coi hài làm chi, coi mấy cái truyện “Trí khôn của ta đây” giống vầy vui hơn nhiều.

oOo
Bài hát “Thuở em hờn tủi” do nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng sáng tác và tự trình bày vọng ra từ xe kẹo kéo vẳng đến tai Cha Thành; cụ ngừng việc xỏ lá làm con cào cào, dế mèn và ve sầu mà lại gần xe hàng của chú Chín và mua ủng hộ vài cây kẹo thơm bùi.

– Con đi đâu vậy Dự?
– Con đi vất rác.

– Đổ rác xong nhớ về sớm nghen?
– Vâng ạ!
Sức khỏe của Cha Thành đã vụt bay theo thời gian và trái thận đã mất.

Sẵn có chứng cao huyết áp trong người nên cụ phải uống thuốc “trường kỳ kháng chiến”.

Thấy mặt ông “Bố già” ỉu xìu, thầy Dự biết ngay Bố muốn đến Giáo xứ Saint Pio.

Sẵn lười nấu cơm, ông bèn rủ Bố đi ăn uống tại quán cơm của vợ chồng dì Bảy.

Hôm nay trời lại đổ mưa.

Mưa tầm tã, mưa dầm dề, mưa như vỡ đập.

Tưởng đâu trưa nay được lái xe trong khung cảnh trời xanh – nắng nóng, nào ngờ phải “chèo” cái xe bán tải trong biển nước mênh mông.

Khuôn mặt Simon Tử giống hệt sắc diện Hạng Vũ lúc tự cắt đầu mình.

Đáng ra chỉ mất một tiếng đồng hồ, nào ngờ bị “dôi” ra một tiếng.

Hai cha con vừa đói vừa mệt nên bắt đầu nảy sinh bực bội với nhau.

Cũng thật là lạ khi hai người luôn khắc khẩu và trái ngược mọi chiều lại có thể sống chung với nhau ngần ấy năm.

– Đang diễn nhạc kịch “Người di tản buồn” của nhạc sĩ Nam Lộc hả hai cha con?
Lời của dượng Bảy đã làm Cha Thành bật cười ngặt nghẽo, còn thầy Dự vẫn giữ gương mặt chằm vằm nãy giờ.

– Thiếu điều Giáo xứ muốn “phát lệnh truy nã” luôn.

– Chừng nào Cha Mỹ còn đi cái xe màu ghi đó, chừng nấy bà con mình còn tìm được.

Cuộc đối đáp của hai người đàn bà trạc tuổi nhau đã thu hút sự chú ý của hai cha con đồng Đạo.

Nói vậy là cậu Stephen Đoàn vẫn “Biệt kinh kỳ”.

– Kiếm chỗ ngồi đi hai cha con.

Đứng xớ rớ ở đó làm gì cho mỏi chân?
Trước lúc chọn bàn, hai cha con lại quầy đặt món luôn.

Cha Thành ăn cháo sườn với bánh quẩy, còn thầy Dự ăn cơm trắng ăn kèm heo quay kho khoai môn trong nồi đất.

Biết Cha Thành bị mất thận, nên dượng Bảy mời cụ uống nước dừa cho mát người.

Dượng còn dặn Cha nhớ cử cây mã đề để tránh bịnh càng thêm nặng.

Riêng về người đồng nghiệp, dượng làm cho một ly bạc xỉu cỡ lớn và ít ngọt.

Đồ ăn – thức uống vừa dọn lên bàn được năm, mười phút, Antonio Vũ và Ignacio Cường ghé ăn trưa.

Bữa nay nhìn mặt cháu trai Cha Trung mới có mùa Xuân một chút, thường ngày u sầu như ngày Thu mưa rơi đầm đìa.

Vừa rước hai người Linh mục vô bàn, dượng Bảy vừa nói mà như thở than:
– Sắp tới Lễ Tạ Ơn rồi hai Cha.

Antonio Vũ nhìn ông:
– Dạ, chắc năm nay mình dẹp chuyện tổ chức tiệc mừng Lễ Tạ Ơn hén dượng?
Dượng Bảy nhún vai:
– Cái đó còn tùy thuộc vô ý bà con nữa Cha…!
Mấy người thực khách là Giáo dân trong xóm bác bỏ câu hỏi của Antonio Vũ bằng luận điệu hơi nặng nề.

Một buổi sáng thứ Bảy năm xửa năm xưa, Thầy Phó Tế dắt Cha Vũ tới giao cho Cha Thành “giả”, rồi nói cậu đây sẽ phụng sự Giáo xứ vài năm trước khi về trường Dòng giảng dạy; cái chữ “Vài năm” nó kéo dài đến nay vẫn chưa có dấu hiệu thực hiện.

Do Cha Vũ nhận chức một cách không đầu không đuôi nên đã khiến một số Giáo dân bất mãn và không tin phục, thành thử ra hễ Cha nói gì họ đều cãi tới bến.

Ignacio Cường đẩy Antonio Vũ ra sau lưng, rồi trừng mắt nhìn những người đã quát nạt người bạn đồng tu với mình.

Những người này theo phe Stephen Đoàn nên luôn có thành kiến với bạn anh.

Cha Thành lại gần nhóm người đang xích mích, rồi cất giọng giảng hòa:
– “But God demonstrates his own love for us in this: While we were still sinners, Christ died for us.” Romans 5:8.

Nhóm Giáo dân bất hòa ngớ người nhìn ông cụ mặt mày sầu khổ.

Họ đoán được đây là câu Kinh Thánh nhưng không hiểu là câu gì.

Nhưng thay vì dịch ra cho họ hiểu, Cha Thành trở lại vai trò một người Ngôn sứ của Chúa:
– Đức Jesus Christ chết vì chúng ta trên cây Thập Tự; còn ở đây, tôi thấy chúng ta đang chết vì nhau trên cây Thành kiến và Chia rẽ.

Rồi cụ nắm tay người cháu trai của cha nuôi và dẫn cậu ấy ra trước mặt nhóm Giáo dân đó:
– Có thể cho Linh mục Antonio Cao Nhật Vũ một sự đánh giá công bằng và khách quan nhứt không?
Ánh mắt hoe đỏ của Cha Thành đã làm lung lay bức tường thành trong lòng từng người.

Họ mạnh dạn bước lên thưa thiệt về những gì mà bản thân không hài lòng ở Antonio Vũ; và mỗi lần họ nêu ra một điểm không tốt, cụ dịu dàng phân trần giùm người Linh mục trẻ.

Khi những hòn đá Định kiến không còn trong lòng nhóm Giáo dân ấy nữa, hình ảnh một người Linh mục bình thường hiển hiện nơi tầm mắt họ.

Biết nhóm Giáo dân ủng hộ Linh mục Stephen Đoàn Ngọc Mỹ đã không còn ác cảm với cháu trai cha mình, Cha Thành lại nhỏ nhẹ rao giảng:
– “For Christ died for sins once for all, the righteous for the unrighteous, to bring you to God.” 1 Peter 3:18.

Hồi đó, mỗi bận tôi bị người ta đổ thừa, Cha tôi thường an ủi bằng câu nói này.

Ignacio Cường bèn dịch câu Kinh Thánh trên sang tiếng Việt.

Một người Giáo dân đang ngồi ăn cơm gần đó nêu thắc mắc:
– Ủa, ông ơi, con thấy câu Kinh này đâu có ăn nhập gì với chuyện trên đâu?
– Ý của Cha nuôi tôi là, thay vì nghĩ tới những người đối xử thiếu công bình với mình, hãy dành tâm nghĩ tới Đức Jesus Christ đã chịu khổ hình một cách thiếu công bình ra sao và thái độ tiếp nhận của Ngài đối với cái ác thế gian như thế nào, rồi con sẽ mở được cánh cửa thứ tha và yêu thương trong tim mình.

Rồi Cha Thành đưa tay lên sờ gương mặt bị thay đổi của mình, kế cụ đặt tay lên phần bụng đã mất đi một trái thận, đoạn nở một nụ cười thật bác ái nhà Chúa:
– Tình thương và sự thứ tha có thể không làm người ác hoàn lương, cái ác biến mất; nhưng nhờ vào tình thương và sự thứ tha, chúng ta có thể ngăn chặn những hạt mầm của cái Ác – điều Bất Thiện phát triển…!
– Cháo nguội rồi Bố ơi…!Quẩy cũng lạnh tanh nốt…!Nước dừa gặp gió chua luôn…!
– Dạ, con nghe rồi cha già Quan Họ.

Cha đừng có ngồi đó ca trù nữa, con vô liền.

– Con mà không nói là Bố ca cải lương đến sáng.

– Thôi hai cha con đừng hò khoan nữa, cần hâm cháo không con làm cho?
– Cảm phiền con vậy.

Sau bữa ăn, hai cha con ghé nhà thờ thăm Chúa.

Nơi đây chẳng được tu sửa gì nhiều; vẫn là khung cảnh cũ và hàng ghế gỗ xoan mộc mạc, trên trần lắp thêm quạt năm cánh và dàn loa phát thanh.

– Dự biết sao Cha phải nói tiếng Anh không?
– Biết.

Nhằm thu hút sự chú ý của nhóm Giáo dân.

Đấy là một cách “đánh tâm lý chiến”.

– Phải.

Cha Thành dẫn thầy Dự thăm lại ngôi nhà cấp Bốn mà cụ và cha nuôi từng sống chung, nay nó thuộc về con trai của anh Ba Cha Trung.

Từ ngày tiếp quản căn nhà, cậu Sáu cất thêm lầu và trồng bông ti-gôn nơi hàng rào sơn xanh nước biển.

Ngày xưa không có hàng rào kiên cố, chỉ phân ranh bằng những bụi bông bụp, cây trà hay các loại hoa cỏ khác, bây giờ ai nấy đều sắm sửa hàng rào kiên cố.

Tiếng hát của Hoàng Oanh trong ca khúc “Từ đó” của nhạc sĩ Anh Việt Thu càng khiến cảnh xưa thêm buồn muôn phần.

Hai người con của đất Mỹ Tho đã góp nhặt cho vườn âm nhạc Quê Hương vô vàn sắc hương tuyệt vời và đượm tình.

Rồi hình như sợ cụ không đủ buồn, chủ nhà hiện thời lại phát tiếp bản “Cuốn theo chiều gió” cũng do cô Oanh ca và ông Thu sáng tác.

Trời vừa mới ngớt mưa đã hớt hải mưa lại.

Giữa lúc hai cha con đang nhìn ngó xung quanh để kiếm chỗ đụt mưa, cổng nhà chú Sáu bỗng nhiên mở ra.

– Thưa hai ông, hai ông có muốn vô nhà tôi đụt mưa không?
Cha Thành phải công nhận gene nhà Cha Trung quá tốt, đời nào phái nam cũng na ná nhau hết.

Thầy Dự đáp hộ:
– Vâng, rất cảm ơn cậu.

Chú Sáu mời hai người khách lên võng nằm nghỉ lưng cho khỏe trong lúc đợi trời tạnh mưa, rồi xuống nhà sau pha trà đãi khách.

– Cái võng cũ chắc vục rồi…!
Thầy Dự gật đầu, rồi đưa mắt nhìn bàn cờ tướng đang đánh dở đặt trên cái bàn đá hoa cương.

Ông đến xem thế cuộc đang diễn ra như thế nào.

Thì thấy hai con Ngựa đang kiềm Xe và Pháo bên kia, chỉ chực một nước đánh hỏng là toi luôn cuộc cờ.

Bây giờ chỉ còn có nước xập Sĩ và chịu mất con Xe để bảo toàn con Pháo, kế đợi đối phương sơ hở mới xuất chiêu Song Pháo sát Tướng.

– Tôi có thể đánh với anh một ván không?
Chú Sáu đặt khay trà, mứt xuống cái đôn giả cổ, rồi mới quay qua nhếch miệng cười với người khách có đôi lông mày chữ Nhất:
– Thưa được, xin mời.

Thầy Dự đi theo đúng như những gì đã hoạch định trong đầu.

Chú Sáu cười hỏi:
– Anh tính bỏ Xe, giữ Pháo để đánh Song Pháo sát Tướng hả?
Thầy Dự chưng hửng, song im lặng đợi bạn cờ nhỏ tuổi nói tiếp.

– Cái thằng đánh cờ với tôi chuyên môn đi chiêu này.

– Thế cậu ấy đâu rồi chú?
– Giữ cầu rồi…!Ăn nguyên tô chuối chưng – nước cốt dừa quá “đát” nên đâm ra bị “xổ ruột”.

Vợ chú Sáu đang ngồi coi truyền hình với bà nội bên chồng, nghe chồng mình đánh cờ với ai mà âm thanh chan chát như đánh kiếm thì tò mò ra ngoài xem.

Cha Thành thấy cái bụng bầu của thím Sáu thì sửng sốt hỏi:
– Vợ chú hả chú?
– Dạ, ẻm đó.

Hình như biết tuổi tác của mình đã cao mà lại có tin mừng về đường con cái, nên thím Sáu vừa xoa bụng vừa tươi cười nói:
– Dạ, Chúa cho thêm đứa con nữa…!
Cha Thành nhìn chú Sáu hỏi.

Ánh mắt cụ vẫn không thôi bàng hoàng:
– Nhiêu tuổi?
– Hơn năm mươi một chút.

– Mạnh dữ.

Cha Thành nói nhỏ rí mà chú Sáu vẫn nghe.

Cậu đỏ bừng mặt, rồi cũng lí nhí nói, “Quá khen.”
– Hai người nói lớn đại đi, bày đặt nói nhỏ nhỏ mà ai cũng nghe.

Người vừa phát biểu câu trên là chú Út, mới vừa “ra tù”.

– Nhẹ bụng rồi há? Để tao cho mày hai chục ra mua thêm tô chuối chưng y hệt vậy.

Chú Út bốc một miếng mứt mãng cầu bỏ vô miệng, rồi ngồi phịch xuống bậc tam cấp thứ nhì.

– Suốt ngày lông bông như…!con kỳ nhông.

– Vợ chồng ông lo đường con cái giùm tui rồi.

Tui lo chi nữa cho mắc công.

– Chúa ơi! Mày nói vậy mà nghe được hả mày?
– Miễn sao tui nghe được là được rồi.

– Mày giống tánh Cha Thành “thiệt” y chang…!
Do trời vẫn không ngớt mưa nên hai cha con xin phép nán lại thêm một chút nữa.

Đại gia đình họ Cao vui lòng chấp nhận.

Vậy là hai người đợi một lèo tới ba giờ chiều mới cuốc bộ về bãi đậu xe của Giáo xứ.

Nhưng hai người vẫn chưa thể rời khỏi Giáo xứ vì hai người Linh mục quản nhiệm nhờ ông soạn tài liệu cho buổi Lễ Chúa Nhựt tuần tới.

Trong lúc ấy, thầy Dự ra ngoài quán net chơi trò chơi điện tử yêu thích.

– Con cảm ơn Cha đã giải vây cho con.

Cha Thành vỗ vai người Linh mục u sầu, rồi day qua nhỏ giọng khuyên lơn Ignacio Cường:
– Con đừng nên trừng mắt với Giáo dân bất hòa.

Ignacio Cường cúi đầu thưa:
– Dạ, con biết lỗi rồi, thưa Cha.

– Giận quá mất khôn…!
Kế, ba cha con ra sau hè thưởng lan và ngắm minh mông sông nước.

Thảng hoặc, những chiếc xuồng ba lá, tác-ráng và đò nổi trôi trên mặt nước đục ngầu phù sa.

– Nhưng Cha thực sự cũng rất tò mò về Linh mục Stephen Đoàn Ngọc Mỹ.

Dung mạo có vẻ không được đẹp mắt cho lắm.

Có một gia đình nhờ Ignacio Cường đi thăm và làm Lễ cho thân nhân đang trong cơn nguy kịch của họ, nên anh lật đật cáo từ Cha Thành rồi khăn gói lên đường.

Còn lại Antonio Vũ, anh mời Cha Thành vô phòng mình nằm nghỉ lưng cho đỡ mệt.

Cụ cũng không khách sáo từ chối, bèn hăm hở theo chân con trai.

Thấy Cha đã say giấc nồng, Antonio Vũ len lén khép cửa phòng, rồi đón xe để tới bệnh viện mà Anton Nhân đang bị giam lỏng.

Thạch Sang đang điên cái đâu vì phải dạy cậu ta ăn nói sao cho khôn ngoan và đừng hành xử như con khỉ mắc phong.

Để giúp thần trí người cư sĩ Phật Giáo ấy bớt cực nhọc, anh quyết định sẽ phụ anh ta một tay.

Ước chừng sáu giờ hơn, Antonio Vũ mới từ “chiến trường không khói súng” về.

Anh vừa ghé phòng khám tư của một Giáo dân mua thuốc nhức đầu uống.

Đáng ra anh nên mua thêm bài thuốc hoạt huyết để ngừa chứng tăng-xông hay nhồi máu cơ tim bất tử.

Anh bây giờ đã tin trên đời còn có người cứng đầu hơn con bò và chỉ số IQ cũng chẳng cao hơn chúng được bao nhiêu.

– Cha ơi, khoan đi đã.

Con trai của nữ bác sĩ đưa cho anh cái bánh khoai mì và một chai nước suối chưa khui.

– Dạ, mẹ con nói Cha uống thuốc liền cho mau khỏi bịnh.

Antonio Vũ cười hiền:
– Ừm, cảm ơn con đã mang tới tận tay cho Cha.

Con về nói lại với ba mẹ rằng cho Cha gởi lời cảm ơn nghen?
Thằng nhỏ khoanh tay thưa anh và nói lời tạm biệt trước lúc quay về nhà.

Cha Thành đang ngồi đọc báo ở hàng ba trước đại sảnh ký túc xá.

Bên cạnh Cha là đứa con nuôi tên Dự, ổng đang ăn trái hồng và nghe thời sự trên một đài Youtube.

Hai cha con ngừng việc riêng và cùng nhau đứng lên nói lời cáo từ Antonio Vũ.

Mớ củi phơi ngoài sân sau chỉ được che bạt tạm bợ nên chắc đã đi tong rồi.

Không hiểu tại sao tâm trí họ lại bận rộn với đống củi không đáng giá là bao kia trong khi đang chuyện trò với cậu Linh mục “Sầu Đông”.

Theo sự chỉ dẫn của Antonio Vũ, hai cha con men theo lối cỏ mòn để lần bước ra bãi đậu xe có mái che của bà con xóm Đạo.

Đi được chừng mấy mươi mét, thấy Bố đau chân – mỏi cẳng, nên ông con đất Bắc khuyên Cha đứng đợi ông đi lấy xe.

Sẵn gió mát trăng thanh, cụ liền đứng tựa gốc bàng già cỗi mà ngắm nhìn phong cảnh dễ thương nhưng man mác buồn ở chốn xưa.

Cố Phêrô Toàn đang ngồi coi mấy đứa cháu đá banh với xấp nhỏ trong xóm nơi bậc tam cấp, chợt thấy một người trạc tuổi mình đứng xớ rớ dưới gốc cây bàng thì lật đật chạy ra ngó.

– Cậu là ai? Sao lại vô đây? Có cần tôi giúp gì hôn?
Người trai kỹ sư công lộ kiêm thầy giáo dạy học cho đám nhỏ mồ côi năm nào nay đã trở thành một ông cụ phúc hậu và chậm chạp.

Quá đỗi xúc động nên Cha Thành ú ớ hoài mà không nói nên lời.

Đang lúc hai bên đang bối rối, con gái trong nhà hỏi vọng ra rằng ba đứng nói chuyện với ai vậy ba, cố Toàn mới trả lời đây là một người khách lỡ đường, thấy ngộ quá nên cụ muốn ra chào hỏi vài câu.

Đúng lúc đó, cụ chợt nghe câu bình phẩm của người trạc tuổi mình, “Đúng là “Toàn rảnh rỗi sanh nông nỗi.”
Đương nhiên cố Toàn sao mà quên được thằng nhỏ đã đặt cho mình vô số cái “nick name”: Toàn lo chuyện bao đồng/thiên hạ/nhà người ta.

– Thành đây hả con?
Cha Thành chưa kịp phân trần, đã nghe người thầy mà mình trọng như cha lên tiếng:
– Thề có Chúa, cái tật móc họng của bây đã giúp tao nhận ra bây dễ dàng.

Thầy Dự lầm bầm:
– Móc họng có tiếng luôn.

Rồi thầy Dự ngồi lên nắp ca-pô xe bán tải chờ đợi ông bố nhiễu sự.

Cố Toàn sợ thằng học trò nhỏ dông mất, nên cứ giữ rịt nó lại bằng cách hỏi han đủ điều.

Sợ ông bô lắm lời sinh vạ miệng thì khốn, thầy Dự bèn ngỏ lời mời cố Toàn đi ăn với mình và Bố Thành.

Cố Toàn thoáng ngần ngại giây lát, rồi cũng tặc lưỡi ưng thuận.

Trước khi leo lên chiếc xe Ford bán tải của hai cha con thằng Thành, cố Toàn vô nhà báo cho người thân hay.

Cụ còn nhờ thằng cháu trai lén ghi hình lại biển số xe cho chắc ăn.

Cố Toàn ngồi băng sau với Cha Thành.

Thấy cố loay hoay hoài mà không sao cài được dây đai bảo hộ, đứa học trò nhỏ mới cúi xuống cài giùm.

Hai người đều đã có mùi già, da trổ đồi mồi, mắt lắm chân chim, đầu sắp hói hết và nếp nhăn trên gương mặt hằn rõ như điêu khắc.

Nhớ lại dĩ vãng xa xưa, không hẹn mà cố cùng thằng con “nước lã” nhòa lệ.

Tức cảnh sinh tình, Simon Tử mở bài hát “Trở về dĩ vãng” của hai tác giả Lâm Tuyền – Hoàng Vĩnh Lộc và do Sĩ Phú trình bày:
“…!Bao nhiêu ngày Xuân
Đau thương sầu mộng chờ giai nhân
Bao nhiêu Xuân qua, bóng em mờ đắm
Bao nhiêu Thu qua
Nỗi đau còn mãi không phai…”
– Dự ơi Dự, con “chơi” Cha hả Dự?
– Không, bỗng nhiên con nhớ tới mối tình đầu của mình thôi.

Con là dân Bắc nên hồi xưa thường hay hát cho nàng nghe theo tông giọng Duy Trác hoặc Anh Ngọc.

Cố Toàn bật cười và cất giọng góp vui:
– Lâm Tuyền – Dạ Chung (Hoàng Vĩnh Lộc), Trần Trịnh – Nhật Ngân, Song Ngọc – Vọng Châu (Hoài Linh) và Đoàn Chuẩn – Từ Linh là những đôi nhạc sĩ hợp tác viết nhạc thành công nhứt.

Trên quãng đường đi ấy, cố Toàn rất mừng rỡ vì đã xác nhận được đây đúng là thằng Thành mà cụ và cố Giám Mục Vincent Trung coi như con trai ruột.

Nhưng trong mừng có lo, vì người đàn ông tên Dự vẫn chưa chịu dừng xe ở đâu; tính ra đã hơn một tiếng đồng hồ.

Đâm hoảng, cố mới ướm hỏi:
– Nhà hàng, tiệm, quán nào mà xa xuôi dữ vậy cậu Dự?
– Sắp đến rồi cố ơi.

Nhà hàng này ở tận bên quận Hai nên hơi xa tí.

Cố Toàn thôi không hỏi dọ mà làm thinh lần chuỗi Mân Côi.

Thay vì đi một đường tới quận Hai, thầy Dự lại chọn những con đường vòng vèo và tuy ở đô thành nhưng ánh phồn hoa không soi rọi đến để phát cơm cho những mảnh đời “Áo vũ cơ hàn”.

Vì mỗi phần gồm bò la-gu ăn với bánh mì baguette và rau củ xào đồ biển nên để lâu không sợ bị oi thiu, thành ra Mục sư Kỳ Anh mới yên tâm giao cho Bố và ông đi phát muộn.

Với trẻ em, thai phụ, người đau yếu, tật nguyền hoặc cao tuổi, họ sẽ biếu thêm sữa pha sẵn dạng lốc hoặc sữa bột tự pha; người bỏ tiền ra mua sữa là Mục sư Vĩnh Đức, Trung Hiếu, Vỹ Khiêm và Thanh Tân.

Cố Toàn vừa ngắm hai cha con thằng Thành vừa mủm mỉm cười.

Quả không uổng công dưỡng dục của Cha Trung, từ một đứa bé đầu đường xó chợ ngỗ nghịch nay đã trở thành một người có tấm lòng bác ái đáng quý và mến phục.

Tới một nhà nọ, cố Toàn hỏi:
– Anh đây bị chi vậy?
Người thanh niên chỉ vô cái chân bó bột trắng xóa mà trả lời:
– Dạ, con mới bị té xe.

Đã vậy chủ không thương còn bắt con đền tiền hàng cho ổng.

Cố Toàn động lòng thương nên gởi cho vài trăm dằn túi.

Người trai đó rối rít cảm ơn, rồi khụt khịt mũi như thể ngăn không cho cơn xúc cảm trào dâng mà hóa thành hai hàng nước mắt.

Từ căn nhà tù mù cuối đường, tiếng hát Ngọc Lan trong bài “Xóm đêm” của nhạc sĩ Phạm Đình Chương như cất lên tâm sự của bà con quanh năm lam lượm bạc cắc.

– Nhiều người hay bị lộn lắm, “Đêm khuya ngõ xâu như không mầu”, chớ không phải “Đêm khuya ngõ sâu như không màu”; chữ “Xâu” ở đây mang hàm nghĩa “Các con hẻm đan cài, xen tiếp với nhau tạo thành một tổng thể vô sắc”, còn chữ “Mầu” là nguyên văn của tác giả.

Cố Toàn nghe con trai nói mà cười và nhớ về Cha Trung; thuở còn sanh thời, Cha thường hay ôm cây đờn guitar ra ngồi hát trên lan-can hàng ba của nhà thờ, ngày đó xứ Đạo còn nghèo nên giọng ca tài tử của Cha đã giúp đời sống tinh thần của đàn Chiên thêm sức sống và vui tươi.

Mới đó mà đã ngót hàng chục năm ròng…!
Xong xuôi hết thảy, thầy Dự mới chở Bố và ông cố Toàn đến nhà hàng mà chú Thương cùng anh em giang hồ hùn vốn gầy dựng.

Chú Thương đang ngồi trên cái ghế cỡ lớn đặt nơi đại sảnh, mắt dán chặt vô màn hình điện thoại, tai đeo Airpods; bữa nay chú bận áo thun ba lỗ kiểu thể thao và mặc quần jeans xanh, chân đi giày Skechers rất thời thượng.

Bây giờ thầy Dự mới có dịp nhìn rõ vẻ ngoài của chú Thương: Chú bấm lỗ tai trái, xỏ khuyên họa tiết nhành nguyệt quế; trên bắp tay phải xăm hình đầu sói đang ngửa cổ tru; điểm chung hiếm hoi mà chú tìm thấy ở người này và em trai là cả hai đều xăm mình.

– Dẫn ông bố đi đâu đây anh Dự?
– Ghé ăn ủng hộ chú và các bạn…!
Chú Thương rước ba người vô nhà hàng, rồi chọn cho họ một căn phòng có cửa sổ nhìn ra một góc phố thương mại sầm uất, rộn rịp nằm tuốt trên lầu Ba.

Sau khi giới thiệu những món ăn đặc sắc nhứt của bổn quán, chú mới trở xuống nhà dưới và tiếp tục ngồi đợi người khách đã hẹn với mình.

Sau một hồi cân nhắc, hai người lớn tuổi gọi Coke Diet, còn người trẻ tuổi hơn thì kêu một chai bia ít cồn.

Về phần đồ ăn, họ chọn cua sốt ớt, tôm sú rang trứng muối, cá chẽm hấp đẳng sâm, mỳ xào chay và cải thìa luộc.

Dẫu biết thằng nào cũng già, cũng có bệnh riêng cần kiêng cử một số loại thực phẩm nhưng cái miệng với cái bụng của từng đứa không chịu nhớ lời khuyên của bác sĩ.

– “Anh cứ hẹn nhưng anh đừng đến nhé?”
– Vô duyên…!Tao đang rầu thúi ruột, mày còn ca bản “Anh cứ hẹn” của nhạc sĩ Anh Bằng và thi sĩ Hồ Dzếnh.

Người đàn ông trạc tuổi chú Thương vẫn vừa đứng dẹo qua dẹo lại vừa hát hò om sòm.

– Cái mặt như quỷ mà suốt ngày cứ nhái Như Quỳnh.

Mấy cô Lễ Tân che miệng cười khúc khích.

Ba người đang chè chén no say, gia đình cố Toàn không yên tâm nên gọi tới hỏi thăm.

Không muốn để người nhà lo lắng, thắt thẻo trong dạ, cố đành ngỏ lời kết thúc bữa cơm rất nhiều kỷ niệm với cha con thằng Thành.

Hai cha con nó cũng không nỡ làm cố khó xử, liền nhấn chuông gọi bồi bàn lên tính tiền.

Sẵn được Judas cho hai ngàn đồng xài chơi, nên Cha Thành giành trả tiền bữa cơm, chỉ chịu để thầy Toàn và con trai lo tiền “boa”.

– Bố con nay có tiền tiêu vặt rồi nên chi thoải mái lắm.

Cố Toàn nghe vậy nhưng không nhiều chuyện hỏi nguồn gốc của xấp tiền đó ở đâu ra.

Cố đợi cho hóa đơn và tiền thối đã được đưa tận tay thằng Thành, mới đặt vài món ngon đem về cho gia đình và cha con chú Tám Què.

Giờ thì nó hết kịp trả tiền giùm cố.

Bận về mau hơn bận đi vì không còn phải ghé dọc đường nhiều lần nữa.

Duy chỉ có một lần ba người phải dừng chân một lát vì cố Toàn thấy một gia đình vô gia cư ngồi co ro dưới gầm cầu tội nghiệp quá nên cậy thầy Dự trao đồ ăn – thức uống và ba trăm đồng cho họ.

Đồ ăn – thức uống mà nguyên đám trao tặng không phải mua từ nhà hàng ban nãy mà là tại một quán cơm tấm rất ngon nằm cách cây cầu này không xa.

Thay vì đi qua cổng chính của Giáo xứ, cố Toàn lại chỉ cho họ một con đường tắt nằm đâu mặt với Quốc lộ 24.

Phía cảnh sát và bà con hồ nghi kẻ chỉ chỗ phi tang xác chết là một người trong xóm nên mới biết con đường tắt này.

Bỗng nhiên ba người nghe thấy giọng ai đó ngân nga sau luống mía cao nghệu và chưa bẻ.

Không hẹn mà những người đàn ông già đời cùng nhau hấp tấp đi về phía ấy.

Đó là bài hát đã bị lãng quên “Thầm gọi tên nhau trên chiến trường” của nhạc sĩ Phạm Duy, người hát là Anh Ngọc:
“Thầm gọi tên mày!
Thầm gọi tên tao!
Thầm gọi tên nó!
Những thằng tốt đen trong cuộc đời…”
Người phế binh già lê cái chân què lại gần luống mía cao nghệu.

Giọng ca trầm hùng của người ca sĩ Bắc Kỳ cũng đi theo ông ta.

“…!Thầm gọi tên mày
Thằng bạn của tao
Mày vừa ngã xuống
Hỡi mày chết đi cho người đời
Còn sống yên trong nụ cười
Gọi tên mày!
Gọi tên tao!
Gọi tên nó!
Gọi tên nhau, suốt đời…”
– Ủa, cố Toàn?
– Con Liễu sao rồi con?
Ông ta mím môi:
– Dạ, nó cũng y như vậy.

Băng nhạc “Trần Ngọc Đức 2 – Tình khúc ngày xanh” đang phát tới bản nhạc “Mùa Thu không trở lại” của nhạc sĩ Phạm Trọng và cũng do Anh Ngọc ca.

Có vẻ như cô Liễu đã tua băng lại.

Cố Toàn sợ cô Liễu gặp mình và hai cha con thằng Thành sẽ tái phát bịnh điên nên vội vàng trao mấy bịch đồ ăn rồi cất giọng cáo từ.

Biết được đây là nạn nhân của cái đám giết người năm xưa, Cha Thành ứa nước mắt.

Nghe đâu con nhỏ bị chúng giam cầm và tra tấn suốt một tuần liền…!
oOo
Bữa nay Mười Anh dẫn Judas ghé thăm gia đình Hai Nghĩa.

Ngôi nhà một lầu ấy đối diện với bờ hồ quanh năm liễu rũ và xanh mát bóng đại thụ dày lá.

Tuy diện tích không được nhiều nhưng anh Hai vẫn dành ra hai khoảng đất để làm sân trước và sân sau; hai mảnh sân này nối liền với nhau bằng một lối đi bên hông trái ngôi nhà, bề ngang của con đường đó ước chừng hai mét.

Chỗ để xe nằm dưới tầng hầm “lộ thiên”; nơi đây còn có “vai trò” là nhà kho, phòng giặt ủi – phơi sấy và góc sửa đồ điện – cất đồ nghề đủ món của anh Hai.

Sau khi giúp Judas đậu xe ngay ngắn dưới tầng hầm, Hai Nghĩa rước em trai và người bạn Nam Mỹ vô nhà thông qua lối cầu thang dẫn thẳng lên gian bếp trang hoàng đầy hoa tươi.

Bé Hải đang ngồi coi chương trình “Chuyện ngày xưa: Cha đỡ đầu” do nhóm kịch “Líu Lo” thủ diễn; vừa xem hài thiếu nhi vừa ăn trái cây dĩa.

Còn Minh Tâm thì đang lui cui nấu nướng, trên cái bàn nơi quầy bếp đầy nhóc rổ, rá và nồi, niêu, xoong, chảo.

– Ủa? Chú Mười, anh Judas…!
Không đợi ba mẹ la, bé Hải đã bỏ cái dĩa xuống bàn, rồi lật đật đứng dậy và khoanh tay dạ thưa từng người.

– Chú Mười cho con nè…!
Đôi mắt bé Hải sáng rỡ khi thấy bịch bánh kẹo trên tay chú Mười:
– Oa, con cảm ơn chú Mười nhiều!
Minh Tâm nhăn mặt nói:
– Con phì lũ rồi đó.

Mười Anh nói đỡ:
– Dạ, con nít mà chị, ăn nhiều chút cũng đâu có sao.

Minh Tâm chỉ biết cười trừ, rồi đon đả mời hai người ở lại ăn cơm trưa với gia đình mình.

Chị còn “chiêu dụ” bằng cách giới thiệu thực đơn bữa nay, gồm có canh măng giò heo, khổ qua xào hột vịt, cá nâu chiên giòn và tép chấy dừa.

Từ chối không được, hai người đành phải “tuân lệnh”.

Chỉ chờ có vậy, Minh Tâm xách xe ra chợ mua thêm ít đồ ăn tươi sống để về chế biến đãi đằng hai người.

Hai Nghĩa nêm lại nồi canh măng giò heo, rồi chỉnh lửa gas ở mức riu riu trước khi lên nhà trên chuyện gẫu với em Mười và anh bạn Ba Tây.

Judas hỏi:
– Nhà mình lắp máy điều hòa hả Micae?
– Đáng ra mua máy lạnh, nhưng sợ thời tiết trái gió bất chừng nên mua máy điều hòa.

– Anh có muốn xây thêm nhà thờ không? Tôi có thể tìm nguồn tài trợ cho.

Hai Nghĩa thấp giọng từ chối, anh viện rằng anh em đã quen làm việc với nhau dưới một mái nhà.

Từ chữ “Mái nhà”, Judas sực nhớ tới chữ “Mái trường”, gã vui vẻ giới thiệu:
– Ứng dụng “Khan Academy” dạy học rất hay.

Nếu nghe không kịp, hãy bật tính năng “Transcript”, nó sẽ hiển thị hội thoại cho mình đọc.

Hai Nghĩa nghe vậy thì rất vui.

Anh cùng vợ đang muốn tìm tài liệu và chương trình học tiếng Anh để bổ túc kiến thức đặng sau này dạy con và các em nhỏ hiếu học cho dễ.

– Thậm chí ứng dụng này còn dạy cả thảo trình và một số thủ thuật cho máy tính.

Chưa kể tới là mục tìm hiểu Lập Pháp, Tư Pháp, Hành Pháp và cách xây dựng – thành lập chánh phủ của Hoa Kỳ.

Mười Anh cũng muốn tải về học nhưng ngặt vốn liếng tiếng Anh quá eo hẹp thì làm sao mà hiểu nổi, nên trong bụng vô cùng muộn phiền.

Như hiểu được nỗi âu sầu của Manuel, Judas liền trấn an rằng:
– Không hiểu thì tra cứu trên Google Dịch và tự điển Anh – Việt.

Hai Nghĩa cũng nói vài lời cổ vũ em trai:
– “Kiến tha lâu cũng đầy tổ” mà lị.

– Dạ.

Hai Nghĩa nhìn bịch bánh kẹo mà nhớ tới anh bạn nhỏ Alain.

Anh mới hỏi Judas về chuyện ai là người đang cấp tiền nuôi dưỡng nó, ngoài chánh phủ Hoa Kỳ ra.

– Nó đi làm thêm để trang trải cuộc sống.

Một giờ mười lăm đồng, làm ở McDonalds.

– Chúa ơi, nó còn kiếm được nhiều tiền hơn tôi.

Hèn chi nó gởi bưu kiện lớn như vậy nổi.


Judas bật cười:
– Nó giỏi lắm.

Mới có chút xíu mà đã chơi cổ phiếu và tiền điện tử, chứ không phụ thuộc vào số tiền mà ba nó để lại.

Hai Nghĩa vừa rót trà cho mỗi người vừa hỏi:
– Sao nó thương em Mười tôi dữ vậy Judas?
– Bởi vì chúng tôi đều là trẻ mồ côi như nhau.

Mười Anh xúc động mà nói:
– Hy vọng trong tương lai tôi có thể đãi nó một bữa cơm và nói chuyện với nó bằng tiếng Anh lưu loát.

oOo
Lối chừng bảy giờ sáng, chú Thương ghé chùa Khánh Hỷ để thông báo chuyện giấy tờ của con trai Phá Vân.

Má của hai anh em cũng đi theo nữa.

– Trời, sao cậu giỏi dữ vậy cậu Thương? Tôi lo cô đó kiếm chuyện làm tiền mới “xì” giấy tờ của thằng nhỏ ra.

Chú Thương vui vẻ thuật lại chuyện hăm dọa đôi vợ chồng sống thiếu đức đó rằng chú sẽ mượn người đưa việc kết hôn giả của người em chồng chị ta lên Sở Di Trú Hoa Kỳ.

Nửa sợ cô em chồng ở tù và bị trục xuất về Việt Nam, nửa khấp khởi hy vọng con trai nuôi sẽ bảo lãnh mình sang Mỹ nên chị ta ưng thuận trao hết giấy tờ cho chú.

Nghe thằng Hai nói xong, mợ Hai đập nhẹ vô vai nó mà bình phẩm:
– Mày côn đồ như vậy hèn chi nó bỏ mày…!Nhìn thằng em mày kìa…!
Chú Thương xụ mặt:
– Phải rồi, con côn đồ, con du đãng, con hành xử giang hồ nên giờ này con mới có cơ ngơi để phụng dưỡng má, chứ như đằng kia…!
Trì Thương nhìn anh Hai mà lắc đầu cười.

Mợ Hai trách:
– Má đặt tên cho hai đứa: Thương – Thảo, tức là “Yêu thương lẫn nhau” và “Hiếu thảo mẹ cha”.

Có một đứa con gái mà cứ kết thù trong lòng, há có giống khùng không?
– Ai biểu má đụng vô vết thương lòng của con?
Mợ Hai liếc thằng Hai mà bĩu môi nói:
– Lòng lang dạ sói mà cũng có vết thương.

Trưởng lão Như Phong tính gọi Trì Thương đi khất thực cùng các huynh đệ trong Tăng đoàn, nhưng đã bị mợ Hai cản bước.

Bà lại gần cụ và chắp tay thưa rằng bữa cơm trưa nay sẽ do bà cúng dường; bà dặn sẽ quay lại đây vào lúc mười giờ rưỡi.

Cụ chắp tay thưa lại thay cho lời đồng ý.

Như Phong biểu các đồ đệ đi cất y bát, rồi dẫn học trò đi quán sát thế gian để cùng nhau chiêm nghiệm lẽ Vô Thường ở đời này.

Địa điểm mà Tăng đoàn dừng chân đầu tiên là một xóm lao động nghèo.

Chưa vô sâu trong xóm mà đã ngửi thấy mùi đốt rác khen khét muốn ói.

Nhìn những đứa trẻ thất học đang chơi đồ hàng dưới bóng mát của cây bồ đề, Như Phong thương quá là thương.

Cụ lần bước tới chỗ sắp nhỏ rồi chắp tay hỏi:
– Này các con, các con có muốn đi học không?
Một đứa trẻ mặt mày láu cá bước lại gần hỏi:
– Đi học với đi tu cái nào sướng hơn ông?
– Đi tu “mượn danh nhà Phật” để kiếm sống thì rất là nhàn hạ và còn được ăn trên ngồi tróc như vua chúa.

Còn đi tu Nguyên Thủy Phật Pháp, trong mắt phần đông người đời, thì rất cực khổ, hành xác và ngu muội.

– Vậy tu chi cho khổ ông?
– Khi con bước chân vào Dharma, con sẽ không còn khổ hay bị gông xiềng thế gian trói buộc nữa.

– Ông giải thích rõ hơn được không?
– Con ăn cá thấy ngon, con có thể làm cho ông cảm nhận được cái ngon mà con đã từng nếm qua chỉ bằng vài câu miêu tả không?
– Dạ không.

– Cũng vậy thôi, hương vị của Dharma không thể diễn tả bằng văn bản hay hội thoại, chỉ những người đã nắm giữ nó mới cảm nhận và hiểu thấu mà thôi.

Thấy đứa bé vắt óc suy nghĩ lời ăn tiếng nói sao cho kháy được mình và các đồ đệ tới nỗi mặt mày méo mó khó coi, Như Phong thầm thương hại nó còn nhỏ mà đã tự rước Ác Nghiệp về mình.

Nỗi đau đó khiến ông vuột miệng nói:
– Sadhu, sadhu…!
Tạm biệt những đứa trẻ, Tăng đoàn ghé nhà một bà lão lượm ve chai để trao món tiền mà má của Trì Thương biếu tặng.

Thể theo lời dặn của má và anh Hai, Trì Thương nhắn bà lão ghé quán cà-phê “Giấc mơ Mùa Đông” để lấy ve chai và thùng giấy.

Một người đàn ông thất nghiệp sống ở kế bên nhà bà lão tình cờ nghe được câu chuyện, bèn đợi Tăng đoàn từ giã bà lão để rước vô nhà nói chuyện chơi.

Như Phong mở lời trước:
– Không cần tốn công pha trà nước đâu thí chủ.

– Dạ.

Trì Thương quan sát sắc diện và hình tướng của vị thí chủ đó một đỗi.

Chú hơi bận tâm tới cái khóe miệng trễ xuống và đôi mắt lắm vết chân chim dù tuổi đời chỉ mới ngoài ba mươi một chút của vị thí chủ đó.

Sau một hồi loay hoay kiếm chìa khóa để mở cửa hậu, rốt cuộc anh ta cũng tìm thấy nó.

Không phải ở đâu hết trong căn nhà, mà là trên cần cổ anh ta!
– Đây, mời chư Tăng ra sau hè ngồi chơi.

Lần lượt từng người Tăng sĩ bước qua ngạch cửa trong tư thế chắp tay và cúi đầu chào anh ta.

Ở đây có hai cây ổi rừng rất cao và sum sê.

Loại ổi này còn gọi là ổi chim ỉ* vì giống cây đó do chim đem từ phương xa tới.

Vừa với tay ngắt những trái ổi trông ngon nhất, anh ta vừa kể sơ chuyện đời mình.

Nghe xong mới hay tin anh ta mới bị sa thải cái sột, đã vậy còn làm ăn thua lỗ, nên vừa trắng tay mà còn phải gánh số nợ lớn.

Chưa kể tới là căn bệnh nghi thần nghi quỷ mạn tính không sao dứt được, cứ hễ gặp ai anh ta cũng đều sinh tâm nghi hoặc người này hãm hại hoặc đi nói xấu mình.

Lời anh ta vừa dứt, Trì Thương đã nêu những gì mình thấy trong thần trí anh ta:
– Lời nói gió bay trên mạng, há sao thí chủ lại tự ôm vào lòng? Hệt như thí chủ thấy một cuộn dây thừng, thay vì bước qua hoặc né tránh nó, thí chủ lại đứng chựng lại và nghi thần nghi quỷ rằng có kẻ muốn hại mình nên mới để cuộn dây ở đây.

Người ta chỉ thí dụ chung chung, thí chủ có tịch nên giựt mình rồi đâm ra thù oán và cứ ôm cái cục đá Sân Hận hoài trong lòng.

Biết anh ta đang cần một công việc, Trì Thương bèn biểu anh ta gọi điện thoại cho anh Hai chú để xin vô làm.

Trưởng lão Như Phong để Trì Thương ở lại giúp anh ta xin việc.

Trước khi tiếp tục cuộc hành trình, cụ dặn dò đồ đệ hãy để mọi chuyện Tùy Duyên.

Ngang qua con đường vắng, Phá Vân thấy một người đàn ông đang lui cui sửa chiếc xe Taxi.

Chú bèn xin nán lại sửa xe giùm ông chú đó.

Nhóm Tăng chỉ còn lại năm người bước qua một cây cầu dừa.

Bước chân của Hoàng Kỳ không vững vì thân hình vạm vỡ của chú.

Còn cách bờ chỉ có vài bước, chú bị trợt chân, nhưng may được ba người bạn đồng tu nắm lấy kéo lại, nên không bị rớt xuống mương.

Như Phong nhìn các trò bằng ánh mắt quyến luyến, rồi ngước mặt nhìn vòm trời trong xanh trên đầu, với cụ đã không còn khoảng cách nữa…!
Hoàng Kỳ và Phú Lâm ở lại một ngôi nhà đang thiếu người khiêng đồ đạc.

Còn Thủy Diệu thì hướng dẫn và cài đặt giùm các nhu liệu cần thiết cho chương trình học tập của một nhóm sinh viên.

Chỉ còn Như Phong và người đệ tử gắn bó lâu năm sóng vai nhau trên vỉa hè cạnh con đường nhựa tráng chưa phai mùi.

Nhưng chưa đi được bao lâu, một người đàn ông thần sắc u ám ngồi vắt chân tréo nguẩy ngoắc hai người Tăng sĩ Theravada lại.

Sau một hồi nói bóng nói gió, nói xa nói gần, rốt cuộc ông ta cũng chịu thể hiện sự bất mãn về đức tin nơi tâm thức ra.

Châu Lợi cười hỏi:
– Rốt cuộc thí chủ tin theo triết lý Đạo nào? Hay là vô thần? Hoặc thấy cái nào hay thì nghe theo và thực hành?
Ông ta không đáp, mà lại hỏi sang chuyện tiền kiếp – hậu kiếp.

Và Châu Lợi vẫn là người đứng ra trả lời:
– Có kiếp sau hay là không có kiếp sau, nếu như tôi nói có mà thí chủ nói không có, vậy một trong hai chúng ta lấy cái gì để chắc chắn lời mình nói là đúng?
Như Phong cười hiền:
– Một số người trải qua những trường hợp đặc biệt, họ thấy những điều mà rất nhiều thí chủ chưa từng diện kiến, nếu họ nói ra thể nào cũng bị chụp mũ “hiện tượng ảo giác trong Y Khoa”, “khùng điên”, “sử dụng chất kích thích”,…!
– Tôi muốn biết có chuyện tranh giành quyền thống lãnh Tăng đoàn sau khi Đức Phật tạ thế hay không…!
Như Phong trả lời:
– Nếu như tôn giả Ma Ha Ca Diếp thực sự muốn tranh giành quyền thống lãnh Tăng đoàn, ông ấy đã không nói lời từ chối khi hai người bạn đồng tu là Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phật đánh tiếng mời – Khi đó Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế.

Sau khi Ngài qua đời, ông chọn con đường Bảo Thủ, còn những Tỳ-Kheo ly khai Tăng đoàn thì chọn con đường Tân Tiến; không biết tự bao giờ mà họ nói con đường của ông là Tiểu Thừa, còn bên kia là Đại Thừa, rồi từ đó hai bên xa cách nhau muôn ngàn dặm và cũng vì lẽ đó mà rất nhiều Tăng – Ni đã bị hoặc cố tình lạc đường.

– Còn tại sao một người lại trổ bịnh?
Châu Lợi đáp rằng:
– Không phải tự nhiên mà một người trổ bịnh đâu thí chủ.

Rồi trước cái nhìn không mấy thiện cảm của ông ta, Châu Lợi dần dấn bước vô tâm thức ngổn ngang và nhiều sai trái của ổng:
– Bởi lẽ, một con người luôn nghĩ kế làm giàu bất chánh sẽ rước cái Nghiệp bất an vô người và tương lai sẽ nhận lãnh cái Quả nhìn đâu cũng sợ và nghi thần nghi quỷ không đáng có, có thể kèm theo cả mê tín dị đoan và mưu sát người khác.

Nói cụ thể như những người bị đẹn, có một số người không phải do ăn đồ cay – nóng mà vẫn nổi, nguyên do là vì thần kinh họ bị căng thẳng, lo âu, tính toán và bực tức, đó là bịnh do Nghiệp sanh ra.

– Sao thầy biết chắc được chớ?
– Bởi những người đó là ba và bà con tôi mà.

Hễ lúc nào đơn hàng không xuất cảng được, ba tôi lại bị nổi đẹn; còn bà thím bên ngoại tôi, cứ gần giỗ quải là lại bị y như vậy, do rầu lo không biết nên cúng kiếng cái gì, liệu có hụt tiền ăn tháng này không, mấy đứa con có về thăm không, rồi chỗ đâu cho tụi nó ngủ,…!
Và Như Phong tiếp:
– “Nghiệp” ở đây ám chỉ hành vi và suy nghĩ tiêu cực, chứ không phải mang nghĩa làm ra những chuyện thương thiên hại lý hay khó chấp nhận được.

Nghiệp là Nguyên nhân, Lý do và Nguồn cơn; còn Quả là cái Hậu quả, Kết quả và Kết cục.

Tới phiên Châu Lợi nói:
– Có nhiều người không tin càng gây Nghiệp ác thì về già khó hưởng cuộc sông thanh bình và cái chết êm đềm.

– Sao tôi thấy mấy thằng khứa tham nhũng có bị gì đâu?
– Người ngoài phần đông nhìn vào chỉ thấy đống tiền và cuộc sống xa xỉ, không cần làm đụng tới móng tay của họ, nhưng nào biết có khi họ đang sống trong đau khổ cùng cực.

Bởi vì mình thì bị thiên hạ lôi đầu ra chửi quanh năm suốt tháng, con cái được mấy người biết quý cơ hội mình có mà ra sức học hành và phấn đấu sống chân chánh…!
– Thôi thà bị chửi mà có tiền sống sướng thân, thiên hạ vẫn trọng người có tiền hơn.

– Thí chủ đã từng chửi không biết bao nhiêu người vì đã xã giao với thí chủ chỉ vì tiền phải không?
– Vậy do đâu mà tôi ra nông nỗi này?
– Tâm của thí chủ là cục nam châm và tấm gương, thí chủ đã tự chiêu những người đó về phía mình.

Những người thương yêu khuyên bảo, chỉ đường ngay – lối phải cho thí chủ đi, thí chủ biểu họ là “hạng thầy đời”, “quân tử Tàu”, “đồng lõa với đám đó”, “nói chuyện nghe mắc ghét”…!nên lâu dài họ nản họ mặc xác thí chủ muốn làm gì thì làm.

Rồi những phường điếm đàng biết thí chủ ưa nịnh và thích mọi người hùa theo mình nên ra sức thổi lỗ tai và vuốt lưng; cái Nghiệp đói rách, gặp toàn thứ lừa thầy – phản bạn,…!là do thí chủ tự tạo ra chứ Ông Trời nào có tội tình gì mà phải bị thí chủ đem ra đổ thừa.

Ông ta toát mồ hôi mẹ, mồ hôi con.

Có lẽ người Tăng sĩ đáng tuổi con trai ông còn biết ông đã bị đám đồng cô – bóng cậu gạt mua bùa ngải chiêu tài.

Ông sợ hãi chắp tay bạch:
– Nhưng trong kinh điển có nhắc tới ai tạo Nghiệp mà về già chịu khổ như vậy không Thầy?
– Đề Bà Đạt Đa.

Ông ta khẩn khoản nài xin Châu Lợi cứu mình.

Song người Tăng sĩ họ Hồ ấy chỉ cười buồn mà trình bày như vầy:
– Thí chủ vốn dĩ đâu muốn tìm hiểu điều chi, mà chỉ muốn gây hấn, thì tôi nói nữa để làm cái gì? Nói cho thí chủ dễ hiểu: Tỷ như một người thật lòng muốn hỏi tôi rằng uống nước ngọt có tốt không, tôi sẽ giải thích cặn kẽ cho người đó hiểu; ngược lại, nếu chỉ muốn hỏi cho biết, tôi sẽ trả lời ngắn gọn là “Không tốt”, bởi tôi biết có nói tới đâu đi chăng nữa thì người đó vẫn khư khư ôm quan điểm và lý lẽ của mình chứ không chịu lắng tai nghe tôi phân tích.

– Đó là lý do tại sao mà suốt bao nhiêu năm qua các Thầy không tổ chức hoằng pháp phải không?
– Phải, chúng tôi làm theo tôn chỉ của tôn giả Ma Ha Ca Diếp.

– Tôn chỉ gì cơ?
Châu Lợi chỉ cười mà không nói.

Như Phong thấy thương hại người đàn ông lo tranh đấu với đời để kiếm tiền nuôi gia đình nội – ngoại hai bên, nên đưa cho ổng một cái lá bồ đề, và dặn hãy làm theo lời nhắn đã ghi ở đó.

Áng chừng chín giờ rưỡi, Tăng đoàn mới quay gót về chùa.

Con trai của Phá Vân, con trai của ân nhân ông Thu và sa-di đã hoàn tục Tố Nguyệt đang dọn mâm sắp chén trên bộ ngựa; còn Vệ Thu và gia đình Trì Thương đang ngồi chơi trên đó.

Thím Hai đãi mọi người món sườn khìa nước cốt dừa, gỏi bồn bồn ngâm chua, cá tai tượng chiên xù, canh chua bông so đũa nấu với tép mòng, nghêu kho sả – ớt, cải ngồng luộc và khổ qua xào hột vịt; biết con trai sẽ không ăn cá, tép và nghêu nếu như mình mua lúc chúng còn sống rồi nhờ người bán mần sạch hoặc về tự làm, nên mợ Hai chọn mua đã mần sẵn, thằng Hai cũng có phụ bà nấu nướng một chút.

– Tôi có nấu cho cậu Út một nồi nước rễ tranh, mã đề và mía lau…!
– Dạ, em cảm ơn anh Hai.

Chú Thương khoát tay, tỏ vẻ không thích cử chỉ khách sáo của đứa em song sinh.

Trong bữa cơm, con trai của Phá Vân và người anh kết nghĩa giang hồ kể lại những tháng ngày truân chuyên nơi đất Việt.

Mẹ ruột của nó đã bỏ nó cho người má nuôi, người má này coi nó như thằng ở không lương nên nó chịu không đặng mà trốn nhà đi bụi, lang thang đầu đường xó chợ, rày đây mai đó suốt mấy năm liền.

Sau này may gặp người anh nuôi, được anh ta bảo bọc và cho đi học chữ ở lớp tình thương nên mới biết đọc, biết viết và làm toán lớp Bảy.

Đang kể tới đó, Nguyễn Quý Sinh xen vô:
– Dạ, ẻm thông minh lắm đó quý vị.

Tuy mới mười tuổi rưỡi nhưng đã làm được toán lớp Bảy, thầy Hiếu khen ngợi suốt.

– Thầy Hiếu? Mục sư Nguyễn Trung Hiếu ở Hội Thánh Tin Lành Lutheran?
– Ủa? Sao Thầy Tâm biết?
Quý Tâm bật cười và trả lời rằng:
– Đoán đại thôi…!Ai dè trúng phốc.

Nguyễn Quý Sinh vừa dẻ cá vừa cười tủm tỉm mà trình bày thêm:
– Dạ, Thầy Hiếu tổ chức lớp học tình thương ở nhà nguyện trên đường Tuy Lý Vương, mỗi tuần dạy bốn buổi: Hai – Tư – Sáu – Chúa Nhựt, vào lúc năm giờ chiều tới bảy giờ rưỡi tối, có khi tới tám giờ hơn mới tan học.

Cùng Thầy dạy học là Thầy Trần Nghệ và Thầy La Viễn Phương.

Sau giờ thọ thực, nhóm Tăng sĩ lui vào phòng thiền để tĩnh tọa.

– Nơi chộn rộn đã làm con mệt mỏi rồi hả Lợi?
– Không, con chỉ thấy hơi ngộ ở chỗ có người không theo đức tin nào mà lại đi diễn giải Kinh Sách của các tôn giáo.

Họ hệt như kiểu người đặt mỗi chân lên một cái ghe vậy; bên nào cũng nắm, bên nào cũng giữ, rồi trật vuột giữa hai lằn ranh.

– Vậy con tính coi chừng nào người đó té xuống nước?
– Vốn dĩ người đó đã đứng lơ lửng trên mặt nước, không đợi té cũng đủ lạnh và ướt rồi.

Trì Thương nhìn huynh trưởng và Thầy mà cười buồn:
– Cho nên con hay dặn Mỹ Hải hoài: Đừng nên đề cập Phật Giáo với bất kỳ ai.

Như Phong gật, gật đầu.

Đoạn biểu:
– Biết điều gì đáng sợ nhứt không Lợi?
– Ba phải.

– Đúng vậy.

Người hùa theo còn biết đường mà né, nhưng kẻ ba phải ngụy trang dưới vỏ bọc “Dĩ hòa vi quý”, “Thế giới đại đồng” thì khó lòng mà biết được.

Như Phong khuyên lơn Châu Lợi:
– “Bỏ cả Tốt lẫn Xấu”, còn nhớ bài học đó không Lợi?
– Thưa Thầy, con luôn khắc cốt ghi tâm bài học đó.

– Bài học đó dành cho ai?
– Giới thầy tu Phật Giáo, không phải cho tín đồ hay hàng cư sĩ tại gia.

– Cho nên, chẳng có chuyện gì đáng để con lăn tăn hết.

Lòng con đang dao động như mặt nước bị người ta liệng sỏi, đá, đất xuống một cách liên tục.

Hãy học Hạnh của Nước, nghen con?
– Dạ.

– Trở về núi không Lợi?
– Dạ về, thưa Thầy.

Hết Duyên rồi Thầy.

Như Phong đưa mắt nhìn các đồ đệ mà cụ tìm thấy trong kiếp sống này, rồi ngậm ngùi nhớ tới ngày đầu tiên gặp mặt từng đứa, tới đây hai hàng nước mắt của cụ rơi lã chã không ngừng.

Hoàng Kỳ đi bằng hai đầu gối tới chỗ Thầy chú, rồi lau lệ cho Thầy bằng khăn giấy.

Cơn xúc động đã qua, Như Phong thông báo:
– Khuya nay ta đi, mấy đứa ở lại mạnh giỏi nghen?
Đôi mắt Hoàng Kỳ mở bừng lên:
– Sớm vậy Thầy?
…!
Đúng mười hai giờ đêm, sáu người đệ tử của Như Phong, cư sĩ Quý Tâm và Thạch Sang, cùng với Tín có mặt trong Chánh Điện.

Cụ đắp áo cà-sa rất cũ, cơ hồ như nó đã có tuổi đời gần nửa thế kỷ, nhưng không bị nổi mốc meo và có mùi hôi.

– Tín, lại đây.

– Dạ…!
– Ta đặt cho con pháp danh Hỷ Tín.

Hy vọng khi con cải hối, sẽ là người thầy đưa chúng sanh về nẻo Thiện; không còn là con quạ đi gieo rắc bất hạnh và bất hòa cho thế gian này nữa.

Tín chưa kịp thanh minh thanh nga hay biện giải điều chi, Như Phong đã dạy Hoàng Kỳ lại gần mình, rồi đưa tay xoa đầu người luôn coi mình là cha ruột mà dịu dàng nhắn nhủ:
– Đừng quyến luyến, đừng đau khổ, đừng như tôn giả Ananda gục ngã khi Đấng Thế Tôn nhập diệt Niết Bàn.

Hoàng Kỳ cắn môi, rồi run giọng thưa:
– Con sẽ ráng hết sức, thưa cha.

Thủy Diệu, Phá Vân và Phú Lâm lần lượt được gọi lên để Trưởng lão gởi gắm và khuyên bảo đôi lời.

Kế là Quý Tâm và người tiếp theo là Thạch Sang.

Sau rốt là Châu Lợi và Trì Thương.

Xong xuôi hết thảy, Như Phong biểu mọi người nhắm mắt tọa thiền mười lăm phút.

Khi mọi người mở mắt ra, đã thấy cụ nằm theo dáng sư tử với đôi mắt nhắm nghiền.

Gương mặt cụ an lạc vô ngần.

Châu Lợi nở nụ cười tiễn biệt người Thầy Đạo:
– Thầy đi rồi…!
– Đi ngủ hả Thầy Lợi?
– Không, đi luôn.

– Hả? Chết gì lẹ vậy? Hổng có giỡn chơi kỳ cục vậy nghen Thầy?
Quý Tâm cũng không tin nốt.

Ông run rẩy lết lại gần bên xác Thầy, rồi sợ hãi đặt ngón trỏ lên ngang mũi Thầy.

Vẫn chưa dám tin, ông hấp tấp cầm tay Thầy lên bắt mạch; hết tay trái rồi sang tay phải, rồi lại đảo sang tay kia.

Kế, ông rọi đèn pin vào từng bên mắt của Thầy; đồng tử đã giãn, chẳng còn một phản ứng nào nữa.

Khỏi cần kiểm tra nhịp tim, ông cũng đã chắc Thầy đã tắt thở thật rồi.

Ông run rẩy thông báo:
– Giờ tử vong là mười hai giờ kém mười lăm phút.

Thạch Sang quay sang chắp tay bạch Châu Lợi:
– Huynh trưởng có ý kiến gì không?
– Làm thủ tục khai báo theo quy định của pháp luật, xong xuôi hết thảy mới đem Thầy đi hỏa táng, sau đó về núi tu tập tiếp.

– Hổng tổ chức đám tang hả Thầy Lợi?
– Đó là di nguyện của Thầy.

– Trần đời mới thấy cái di nguyện gì cụt lủn như vậy!
Tín chỉ nghe nói loài cá heo và cá voi mới có khả năng tự tắt thở, đây là lần đầu tiên anh chứng kiến một người ra đi theo cách tự định đoạt giờ Tử như vầy.

Cái chết của người Trưởng lão Theravada đã đẩy anh tiến lại gần con thuyền Bát Nhã Ba-La-Mật.

…!
Thủy Diệu và Hoàng Kỳ đã trở về Cô Tô từ chập tối hôm qua.

Trước đó vài ngày, Phá Vân và Phú Lâm đã rời khỏi đây.

Trì Thương và Châu Lợi còn nán lại để lo hậu sự cho Trưởng lão Như Phong, Tín cũng tham gia phụ giúp một tay.

Xíu nữa thì quên, còn gia đình dì Út Đẹt và hai chị em cô Mận giúp sức nữa.

– Ủa xong rồi hả hai Thầy?
Châu Lợi mỉm cười xác nhận:
– Đúng vậy, thưa thí chủ.

– Sơ sài quá…!
– Hồi chúng ta sanh ra cũng sơ sài hệt vậy, ngoài cái mình không dính đầy nhớt nhau và cái cuống rún kết nối mẫu – tử ra, chúng ta chẳng có gì sất.

– Thầy nói sao tôi nghe rầu quá…!
– Sadhu.

– Ê, hông đúng nghen, chúng ta có nhà có cửa…!
– Đó là tài sản của đấng sinh thành hoặc người cưu mang thí chủ, chớ thí chủ có cái gì?
– Ờ há!
Quý Tâm và hai cha con họ Thạch khóc nhiều nhất trong cái đám tang chẳng kèn chẳng trống, không băng-rôn “nhiệt liệt thông báo”, không cờ xí rợp trời và không quan khách thăm viếng.

Trì Thương ghé tai Châu Lợi mà hỏi:
– Huynh nghĩ sao về lời dặn dò của Thầy?
– Phải sẩy chân, mới lại gần Đạo được.

Người đó hãy còn cách Đạo quá xa.

– Như tôn giả Khánh Hỷ vậy, phải đợi tới khi Đấng Thế Tôn qua đời và bị hai hiền huynh là Ca-Diếp và A-Na-Luật thúc ép, ông mới chứng đắc quả vị A-La-Hán.

– Hoàng Kỳ khóc nhiều lắm hả Thảo?
– Dạ.

– Cẩu vốn là trẻ mồ côi, sanh ra ở tiểu bang Philadelphia, rồi trôi dạt qua Cali…!
Trì Thương bổ sung:
– Cẩu không chấp nhận rải tro cốt của Thầy xuống gốc cây bồ đề trong sân sau tịnh thất.

– Rải hay không rải cũng chẳng khác gì nhau, cứ để tro cốt của Thầy ở đó.

Trì Thương bồi hồi nhớ lại hôm đó: Hoàng Kỳ xin phép được đứng ra lãnh cốt của Thầy với tư cách một người con trai ruột, các huynh đệ của Hoàng Kỳ đồng thuận cho chú làm người đại diện thủ tục báo tử và mai táng của Trưởng lão Như Phong.

Hai người tính dợm bước khất thực, Quý Tâm đã gọi giật lại:
– Hai huynh ở đây với đệ một thời gian nữa có được không?
Châu Lợi gật đầu:
– Được.

Tín xin đi theo hai người để có tài liệu viết báo, hai huynh đệ vui lòng ưng thuận.

Nhờ đi theo cách bước của hai người Tăng sĩ Theravada, mà người trai lầm lạc đó thấy được cuộc sống xung quanh thật đẹp và rực rỡ.

Lá me bay trên đầu lã chã như mưa phùn, gió mùa Thu dìu dịu xua tan cái oi ả mến thương của đất Sài Gòn, cứ cách mỗi quãng ngắn là lại bắt gặp một quán ăn, xe bán hàng hay gánh hàng rong đơn sơ, mộc mạc.

Đôi lúc, Châu Lợi lại ngừng bước để vươn tay làm nhành cây cho những con sẻ nâu đậu; khi ấy, Tín sẽ nghe thấy ông ngâm nga bài “Kinh Phước Báu – Ratana Sutta”, hay còn gọi là “Kinh Châu Báu”, dường như là để hộ trì cho chúng.

– Hai Thầy có biết tiếng Pali và tiếng Sanskrit không?
Châu Lợi nhoẻn miệng cười:
– Thưa có, thí chủ.

– Có thể dạy tôi học không?
– Thưa được, thí chủ.

Rồi Tín hỏi:
– Không biết Trưởng lão Như Phong đang ở đâu ha? Hai Thầy nghĩ sao, có thể nêu quan điểm xíu không?
Trì Thương bèn đọc bài “Kinh Rải Tâm Từ – The chant of Metta” cho con quạ đen đó nghe.

– Nói vậy là…!
Lời chưa tròn mà Tín phải ngắt ngang vì thấy nhóm ký giả “Nhạn Vàng Bình Công”, trước đây anh ta từng dối gạt ký giả Huế Thương nên không dám gặp mặt.

– Đừng sợ…!
Châu Lợi nắm tay dắt Tín rời đi.

Nhưng Đức Hoàng xông tới cản lại.

Châu Lợi nhìn gương mặt đã qua thẩm mỹ của gã trai đất thiêng một đỗi, rồi mỉm miệng cười và gọi:
– Hoàng.

Đức Hoàng trừng mắt nhìn kẻ lừa đảo bạn hắn, rồi chắp tay xá hai vị Tăng sĩ và gật đầu xác nhận:
– Tôi đây, thưa Thầy.

– Có những người không hề đáng để thí chủ chịu Khẩu Nghiệp như vậy đâu.

Tôi biết thí chủ đã nói láo vô số lần để giúp đỡ người khác, nhưng số người thương và mang ơn thí chủ thật lòng chỉ có vài cái tên.

Muốn giúp ai, hãy cứ giúp thẳng, đừng sợ người đó mắc cỡ hay tìm mình báo ơn là mở lời bịa đặt.

Trái tim của thí chủ rất tốt, song đừng nên nhún nhường người khác quá đáng mà chiêu Ác Nghiệp về mình.

Đức Hoàng đã bật khóc khi nghe lời khuyên giải của Trì Thương.

Hắn đã chấp nhận phạm Cấm Ngữ để giúp đỡ người khác, nhưng ngoại trừ mấy thằng bạn ra, những người kia chẳng ai biết quý trọng lòng tốt của hắn.

– Hoàng theo Phật Giáo Hòa Hảo?
– Dạ phải, thưa Thầy.

– Theravada hay Hòa Hảo đều ráng hết sức giữ gìn Chánh Ngữ.

Chánh Ngữ là gì Hoàng biết không?
– Dạ, là một trong Bát Chánh Đạo.

– Kể ra đi Hoàng.

– Chánh Niệm, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Kiến, Chánh Ngữ, Chánh Tinh Tấn, Chánh Định và Chánh Tư Duy.

– Không có cái nào trong tám cái trên dễ giữ hết, chỉ cần ra đường hay lên mạng xã hội là Bát Chánh Đạo mất tiêu liền.

Biết hai vị Tăng sĩ chỉ còn hai tiếng nữa là hết giờ thọ thực, lại hay rằng Theravada không bó buộc ăn chay, nên Đức Hoàng bèn kêu thằng Ngạn ghé tiệm cơm người Tiều gần “Đài vinh danh Petrus Trương Vĩnh Ký” ăn trưa.

Hai huynh đệ Theravada vừa mới dợm bước vào quán đã gây một trận ồn ào khôn tả.

Đức Hoàng làm cử chỉ mời hai người ngồi xuống ghế, rồi đưa cho mỗi người một cuốn thực đơn và nói lời mời họ chọn món.

Tín vuột miệng hỏi:
– Sao hai Thầy lại đồng ý chọn món?
Trì Thương cười hỏi:
– Vì giữ giới mà khiến người khác sanh tâm bất an, khó xử, há có đáng không?
Châu Lợi chọn bánh canh Trảng Bàng, còn Trì Thương thì ăn mỳ vịt tiềm.

Riêng đồ uống thì hai người lấy trà đá.

Trong lúc đợi đồ ăn dọn lên, Châu Lợi vừa xát đũa với miếng chanh cắt nửa vừa kể chuyện ngày xưa:
– Hồi gia đình còn đói khổ, má tôi thường gánh nồi cháo cá kèo ra bán ở khúc sông Gành Hào, địa phận Cà Mau.

Đức Hoàng cười hỏi:
– Nói vậy Thầy đây là người đất mũi?
– Phải, còn thí chủ là người đất thiêng.

Khán Bình trỏ vô mặt mình:
– Tôi thì sao?
– Đất Thần Kinh.

Tống Ngạn cười hỏi:
– Tôi?
– Đất Gia Định.

Chí Công xen vào:
– Tôi nữa.

– Đất ngọt.

Gã trai Hố Nai chưng hửng:
– Sao lại kêu là đất ngọt?
– Xứ sở của đường mía và bưởi trứ danh mà.

– Cũng có thể gọi là đất nai.

Cách ăn uống của Châu Lợi đã thu hút được những người khách nhiều chuyện.

Dẫu sanh ra trong cảnh bần hàn, cách ăn uống của ông lại giống hệt hoàng thân quốc thích một cách kỳ lạ.

Bởi lẽ, ba ông đã dạy rằng ăn sao cho coi được một chút, đừng vì cái khổ mà mất tư cách của mình, nên ông đã tập cầm đũa, muỗng, nĩa và dao theo kiểu hoàng gia.

Chưa kịp và đũa bún Thái mới gắp vô miệng, Đức Hoàng đã phải ngừng lại để trừng mắt nhìn đám đông đang cười nhạo hai vị Tăng sĩ ăn mặn.

– Tâm thức mình tựa như ngôi nhà, muốn mở cửa đón – rước ai là tùy thuộc bản thân.

Thí dụ như có người đứng ở ngoài cổng chửi rủa mình, mình sẽ ra cãi lại hay nhắm mắt làm ngơ?
Lời trên là của Châu Lợi.

Sắc diện ông không vương một sợi “Thất tình – Lục dục” thế gian.

Trì Thương bồi thêm:
– Có nhiều người cứ nghe “hơi gió” là lại ôm đồm khổ não trần gian vào lòng.

Đức Hoàng bất bình với sự nặng lời của một số độc giả, nên thỉnh ý kiến của Tăng đoàn để giải quyết khúc mắc này.

Châu Lợi ôn tồn nói:
– Nếu mình ghé “nhà” người khác tặng quà mà người ta xua đuổi, miệt thị và giễu nhại thì mình ôm quà về hoặc để đó rồi về.

Hà cớ gì phải mất công phân trần với họ chớ? Người tin và hiểu mình thì sẽ không khiến mình nhọc công nói đâu.

Vì nể mặt hai người Tăng sĩ Theravada, nên nguyên đám đồng ý cho Tín đi chung.

Đức Hoàng dời cái ghế giữa ở băng nhì xuống băng chót, để hai vị thầy tu và tên Tín ngồi cùng một băng.

Dọc đường, thấy bên kia lộ có sạp bán sầu riêng trông ngon quá, Đức Hoàng mới biểu mấy thằng bạn dừng xe để hắn mua ít trái làm quà cho ba má và các em.

Khán Bình níu nó lại hỏi:
– Còn đủ tiền hôn? Tụi tao phụ.

– Dư sức qua cầu.

Hổng đủ, tao bắt tụi bây trả, khỏi mừng sớm đi mấy cưng.

Ba thằng bạn của hắn làm mặt quỷ chọc ghẹo.

Tín bất giác cười theo sặc sụa, rồi im re khi thấy họ nhìn anh bằng những đôi mắt mang hình viên đạn.

– Mời hai Thầy.

Hai huynh đệ chắp tay thưa:
– Cảm ơn thí chủ.

Biết Tín rất ghiền món này nên hai huynh đệ đưa hộp sầu riêng cho anh ta ăn, về phần mình mỗi người chỉ ăn vị bụng một múi.

Lối chừng bảy giờ tối, nguyên đám đã tới An Giang.

Nhóm ký giả “Nhạn Vàng Bình Công” mướn một căn “homestay” của công ty do cựu chủ tịch đảng Thái Bình Thạnh Trị cùng các đảng viên thành lập.

Men theo lối mòn đầy hoa thơm cỏ dại, nhóm bạn và Tín theo chân hai huynh đệ Theravada đến tịnh thất vô danh.

Đom đóm bay rập rờn khắp nơi, tạo thành những đốm sáng mang hình thù kỳ dị, hư ảo và hết sức liêu trai.

Tiếng côn trùng và loài lưỡng cư rầu rĩ khóc than ai oán càng khiến bước chân lữ khách thêm ngần ngại.

Hoàng Kỳ đang ngồi thiền dưới cội cây bồ đề, nghe tiếng bước chân thì mở mắt ra nhìn.

Rồi đứng dậy chắp tay thưa huynh trưởng và nhị sư huynh, đoạn lại gần nhóm bạn và Tín mà chắp tay chào hỏi.

Chánh Điện không có tượng hay tranh – ảnh Phật và Bồ Tát, chỉ vẻn vẹn một cái bàn cây cẩm hương có tuổi đời gần sáu mươi năm: Trên bàn bày một cái lư hương xưa và hai cái lục bình chưng bông, dưới gầm bàn đựng các tấm chiếu và bồ đoàn.


Các hũ tro cốt của những đời tông sư trước được sắp trên cái kệ kê mé tay phải cái bàn cây; trên thân mỗi cái tiểu ghi năm sanh – ngày mất, tên tuổi, pháp danh và quê quán của người quá cố.

Không thấy tinh dầu, sáp thơm hay nước hoa ở đâu hết mà cả Chánh Điện lại có một mùi hương rất thanh nhã và tươi mát.

Những người trai trẻ liền đặt câu hỏi với nhóm Tăng sĩ.

Và được giải đáp rằng đó là xác của hoa cỏ khô, nhờ khéo sao lại mà trở thành dầu thơm xông muỗi và xua ẩm mốc.

Chí Công nhận xét:
– Trời, vậy mà tôi tưởng là trầm hương không…!
Phú Lâm cười hiền:
– Trầm hương rất quý.

Hơn nữa cũng không nên khuyến khích việc phá rừng.

Tín gật gù:
– Chỉ là hoa cỏ khô mà thơm dễ chịu quá.

Chợt Đức Hoàng reo lên:
– Sao có chữ Tàu ở đây vậy mấy Thầy?
Châu Lợi lắc đầu, rồi ôn tồn giải thích:
– Thầy Hàn Việt mang hai dòng máu: Cha Hàn – Mẹ Việt.

Trước đây Thầy đi lính chung với Thầy Như Phong, sau bị thương nên lui về Tiếp Liệu.

Nhờ một dịp hạnh ngộ kỳ lạ mà ưng thuận theo Thầy Như Phong lên đây tu hành.

Rồi Phá Vân tiếp:
– Cây đàn guitar của Thầy Hàn Việt còn dựng ở trong góc tường Chánh Điện.

Và Phú Lâm nối theo:
– Con trai của Thầy đã theo ông nội về Đại Hàn sanh sống từ khi Thầy xuất gia.

Chắc giờ thí chủ đó đã bằng tuổi huynh trưởng hoặc nhỏ hơn một chút.

Trì Thương cũng góp lời:
– Thầy hay hát bài dân ca Đại Hàn “Arirang”.

Kế, những người trai trẻ bước tới những cây cột có thể tự xoay chuyển theo chuyển động của sức nước; không biết ai đã thiết kế thật hay mà nước có thể chảy từ máng xối xuống đây và giúp vận hành nó.

– Bánh xe Chuyển Pháp Luân…!
Lời trên là của Thủy Diệu, đã giải đáp được thắc mắc trong lòng những người khách phương xa.

Tống Ngạn hỏi:
– Xin hỏi cao danh quý tánh người đã thiết kế ra nó.

Châu Lợi đáp:
– Là Thầy Song Ngữ.

Thầy là một kỹ sư xây dựng đã từng tốt nghiệp Cử Nhân bên Pháp.

Trì Thương mời nhóm khách theo mình ra sau am ngắm cảnh “Thất Sơn huyền bí”.

Tuy chỉ đứng ở một góc núi Phượng Hoàng nhưng nhóm khách vẫn có thể nhìn được một vùng cảnh sắc khá rộng.

Dù rất buồn nhưng phải nhận xét rằng nơi đây còn thiếu ánh đèn điện và cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư tốt; nếu biết cách quy hoạch đất đai đúng đắn, có thể biến nơi đây trở thành một địa điểm du lịch – vườn sinh thái và phát triển chuỗi cung ứng nông sản sạch.

– Buồn buồn lên đây ngồi ngắm cảnh là hết sẩy.

Nghe Đức Hoàng nói vậy, mấy đứa bạn của hắn phì cười.

Trần đời mới thấy một khứa tới lớn mới nhận thấy điều đó trên chính quê mình.

Đức Hoàng chợt nói:
– Nếu sau này mấy đứa bạn tôi chết già hết, tôi sẽ lên đây ẩn tu với các Thầy.

Châu Lợi cười:
– “Sanh – Lão – Bệnh – Tử”; có người chỉ có hai vế “Sanh” và “Tử” đã vội trở về với vòng xoay Luân Hồi.

Khán Bình hỏi:
– Sao giờ mày không tu luôn?
– Tao còn ba má và mấy đứa em, có thể mai sau sẽ gánh thêm vợ – con và gia đình đàng gái nên chưa thể dứt hồng trần được.

Tụi bây đi rồi, tao sống một mình chẳng có vui vẻ gì đâu.

Chí Công cảm khái:
– Cái miệng mày tía lia nhứt trong đám, tưởng chừng hời hợt, ai ngờ đâu mày lại là thằng sống có nghĩa có nghì không ai sánh bằng.

Mải lo gây lộn, nguyên đám không hay nhóm Tăng sĩ và Tín đã rời đi tự bao giờ.

Trên đường trở về tịnh thất, Thủy Diệu quay qua nhìn Tín mà nói:
– Thấy không Hỷ Tín…!
– Thấy gì Thầy Diệu?
– Đối xử chân thành và vui đùa cùng bè bạn sẽ hạnh phúc và nhẹ đầu hơn là dành thời gian nghĩ kế gài người ta để kiếm sống.

Tín sa sầm nét mặt.

Rồi nói lí nhí:
– Tôi không thể nào quay đầu được nữa…!
– Tôn giả Vô Não vẫn làm lại từ đầu được.

Nói xong, Thủy Diệu xin phép lui vào phòng thiền tĩnh tọa cùng các huynh đệ Theravada.

Còn lại mình ên, Tín thất thần lê gót khắp ngọn núi Phượng Hoàng.

Đi một hồi không hiểu sao lại xuống núi luôn rồi quên mất đường về.

Đang lúc bối rối, Tín được hai cư sĩ Hòa Hảo cho quá giang một đoàn người.

Người cất giọng mời tên Trần Bảo Sơn, dáng người cao ráo và khỏe khoắn, nước da màu mật rắn rỏi và mái tóc hớt kiểu đầu đinh gọn gàng; tuổi tác áng chừng dưới bốn mươi.

Người còn lại tên Đinh Mạnh Hùng, cũng để đầu đinh giống như anh này, nhưng tạng người cao lớn, phốp pháp hơn hẳn.

Nói chuyện đôi ba câu, Tín đã nhớ ra đây là hai trong số những người bị một nhóm Youtuber thuộc phe mình “tấn công” có chủ đích.

Anh hãy còn nhớ như in những lời lẽ bịa đặt và bằng chứng ngụy tạo mà phe mình tung ra để “san bằng” nơi nuôi dưỡng trẻ em cơ nhỡ và người già yếu – khuyết tật của họ.

Tự nhiên, anh muốn nhảy xuống xe rồi cuốc bộ về vì mắc cỡ không chỗ nào tả xiết.

– Chưa có bằng cớ rõ ràng mà đã chụp mũ mấy anh như vầy, mấy anh có giận không?
Trần Bảo Sơn cười hiền và lắc đầu nói:
– Không, vì đó là nghề của họ nên chúng tôi không nỡ trách.

Đinh Mạnh Hùng trả lời nặng nề hơn người bạn đồng tu:
– Họ muốn dẹp chúng tôi như cái đám đã từng ra tay với Ông Hai Đạo Dừa…!
– Sao tôi thấy con gái ổng…!
– Bà đó bị dí súng sau lưng thì làm sao dám nói thiệt được? Đám đó dặn sao thì lên đài hộc lại như vậy, lơ mơ nói trái ý là ăn “kẹo đồng” liền.

Trần Bảo Sơn hỏi Tín có ăn gì chưa, nếu đã ăn rồi mà vẫn còn thấy đói bụng thì vô nhà ăn bậy bữa cơm rồi dìa.

Thấy hai vị cư sĩ Hòa Hảo sốt sắng quá nên Tín đành phải nhậm lời.

Mâm cơm chay đạm bạc làm ấm lòng người khách phương xa.

Trước lúc ra về, Tín ghé thăm những đứa trẻ mồ côi và người già – khuyết tật – thai phụ cô thế ở đây.

Anh ướm hỏi họ có nhận tiền của giới hảo tâm và có cần làm việc để trang trải cuộc sống không; thì vế đầu họ nói không, còn vế sau nói có: Không phải việc gì nặng nhọc, chỉ là đóng gói – dán nhãn thành phẩm rồi sắp vô thùng; với những ai không đủ sức khỏe và minh mẫn để làm việc thì được miễn lao động.

Đinh Mạnh Hùng tuyên bố thẳng thừng:
– Có đưa tiền tụi tôi cũng không lấy, mắc công mơi mốt quay lại tố tụi tôi ăn chặn và thông đồng với nhau để kiếm chác bỏ túi riêng.

– Trái cây, hoa màu và ruộng lúa miền Tây dư sức nuôi hết người nghèo; nhưng một hột cơm thiu, một trái cây thúi và một cọng rau héo sẽ không có dư để mà cho cái đám ăn xong quẹt mỏ như gà.

Người vừa nói câu trên là một người đàn ông mày tằm mắt – mắt phụng, trông dung mạo như bước ra từ truyện kiếm hiệp Tàu.

Tín liếc mắt nhìn qua Trần Bảo Sơn, thì thấy người này và chàng cư sĩ na ná nhau, hình như là có dính dáng máu mủ, ruột rà.

Kể từ ngày ra tù, Trần Trí An lui về An Giang sống cùng anh họ Trần Bảo Sơn.

Nhờ bài thuốc đặc trị viêm xoang mạn tính của người anh họ mà bệnh tình của anh đã thuyên giảm.

Dù hãy còn vương vấn cái danh kỹ sư hóa chất, nhưng anh ta không buồn chút nào vì hiểu thấu sức khỏe của mình không cho phép làm công việc này.

Thai phụ đang ngồi tết tóc cho cô bé ưa thắt bím hôm bữa.

Hỏi ra mới hay cô bị người đã có vợ gạt nên phải mang cái bầu tới đây tá túc, hòng tránh trận đòn ghen của người đàn bà muộn con kia.

Hỏi nữa mới biết sau khi đẻ con, nếu được đồng ý cô sẽ ở đây lánh đời đặng nuôi con trong yên bình và sẵn bề chăm sóc những người “hàng xóm” bạc phước như mình.

Càng trò chuyện với những người đang nương trú tại đây, Tín lại càng cảm thấy mình và đồng bọn tội lỗi lút đầu lút cổ.

Anh chợt nhớ tới cuốn tiểu thuyết phóng tác “Ngọn cỏ gió đùa” của nhà văn Nam Kỳ Hồ Biểu Chánh: Chi tiết lúc Lê Văn đó bị bắt và cái “trại tế bần” mà ông gầy công xây dựng hằng bao năm qua đã bị dẹp bỏ một cách thiếu lý cạn tình.

Thấy sắc mặt vô cùng khó coi của người khách lạc đường, Trần Trí An sinh nghi nhưng không vội đánh tiếng hỏi han.

Trì Thương đã đứng đợi anh tự bao giơ.

Cùng đi với Thầy ấy là Tống Ngạn – Anh ta hiện đang ngồi trong chiếc xe Mitsubishi mà đọc bài viết trên mạng xã hội.

– Trời, Thầy Thương!
Trì Thương chắp tay cao ngang mắt mà cúi đầu nói:
– Dạ, tôi đây, thưa cư sĩ Bửu Sơn.

Trần Bảo Sơn cũng đáp lễ giống vậy, rồi quay qua vỗ vai Tín và cười lớn:
– Té ra anh này là người quen với Thầy hả? Mèn đét ơi, sao anh hổng nói cho tôi biết?
Trì Thương ẩn ý:
– Trước lạ sau quen.

Trần Bảo Sơn mời Tăng đoàn của Trì Thương trưa may ghé nhà thọ thực.

Trì Thương chắp tay mà nói lời cảm ơn đầy chân thành, rồi xin phép về sớm để Tín còn ngủ nghê.

Trần Bảo Sơn không cầm chân được, đành tiếc nuối tiễn bước hai người.

Vì không muốn ngồi lâu với Tín nên Tống Ngạn cố tình chạy thật nhanh.

Cũng may về đêm đường núi vắng xe nên trên đường đi không xảy ra chuyện gì đáng tiếc.

Tín ngồi day mặt về phía cửa sổ, đầu dựa sát vào khung kính.

Ngồi bên phải anh ta, Trì Thương đang nhắm mắt thiền định.

Vừa tới nơi, Tống Ngạn liền tắt máy, nhảy xuống xe, rồi đi một hơi vô khách phòng.

Tín lầm lũi theo Trì Thương vô phòng thiền để tránh mặt nhóm bạn ký giả.

Ngang qua Chánh Điện, Tín thấy cây guitar không còn dựng nơi cái bàn cây cẩm lai, thì đi hỏi nhóm Tăng sĩ Theravada.

Hay rằng nhóm ký giả đã hỏi mượn để ca hát với nhau, tự nhiên anh cũng muốn tham gia chung vui, nhưng thừa biết điều đó là không thể xảy ra trong thời điểm này…!
Từ khách phòng vọng sang bản “Bên ni, bên nớ” do nhạc sĩ Phạm Duy phổ từ thơ của thi sĩ Cung Trầm Tưởng; người trình bày thành công nhất bên nam thì có Anh Ngọc, còn bên nữ là Khánh Ly:
“…!Em có nghe hồ như bước ai gõ nhịp, bước ai giang hồ?
Hẹn ai bên ni lạnh như ngõ cũ
Em có nghe bên ni lạnh như bên nớ?
Phút giây chia lìa, trong lòng vẫn phải đèo mong…”
Tiếng hát rặt giọng Huế của Khán Bình khiến cho giai điệu ca khúc trở nên ngồ ngộ, không hay mà cũng nỏ dở, nó là lạ như hương vị tô canh mít non nấu riêu tôm của xứ Thần Kinh.

Kết thúc màn trình diễn, Khán Bình uống vài ngụm nước rồi phát biểu:
– Chắc răng chừ thầy mạ tau đang eng cơm với thằng Yên.

Tống Ngạn vừa lể ốc len vừa hỏi:
– Thầy mạ mày dọn vô Sài Gòn sống từ năm nào?
– Tau không rõ.

Chắc năm tê, cái năm mà xảy ra bão lũ ở Thừa Thiên – Huế.

– Sao mày lại kêu bác bằng “Thầy”?
Khán Bình xua, xua tay:
– Nỏ biết thầy mạ tao nghe lời quân nào mà khứa đó dủ rằng tao khắc tuổi hai đấng sinh thành, phải gọi trại “cha” thành “thầy” mới cãi số đặng.

Hồi nãy bộ tứ xuống chợ đêm mua mấy ký ốc và một con vịt nướng lu về ăn tối.

Sẵn thấy sạp trái cây, bèn ghé qua mua một mâm ngũ quả làm quà cúng dường cho nhóm Tăng sĩ; hiện mâm trái cây đó đã được bày trên cái bàn cây ở Chánh Điện.

Giọng hát Duy Khánh trong bài “Trời Thu về chưa em” của nhóm nhạc sĩ Trịnh – Lâm – Ngân càng khiến Khán Bình nhớ Cố Đô a rứa.

Vì anh Hai mà cả nhà đã từ giã mảnh đất Thần Kinh yêu trôi dạt nơi đất khách quê người.

Nếu không vì nặng tình với mấy đứa bạn, hắn sẽ rời đi sau khi giải oan cho anh Cảnh.

– Mi là cái thèng “ăn hả hả, trả hỉ hỉ”.

– Là răng?
– Tức là mượn tiền thì vui vẻ lắm, tới chừng trả cái mặt bí xị như ai ăn hết của.

Đức Hoàng nhún vai:
– Mặt tao dàu dàu là tại sợ trả cho tụi mày xong, lỡ nhà tao có chuyện cần tiền liền tao không biết đường đâu mà lần.

Khán Bình thương thằng bạn quá đỗi.

Hắn hỏi nhỏ:
– Tau nói mi vậy mi nỏ giận tao hỉ?
– Có gì đâu mà giận? Chừng nào mày nói láo tao mới giận, còn mày nói thiệt thì tao luôn lắng nghe.

Tao thích uống thuốc đắng để dã tật, chứ không ưa mật ngọt chết ruồi.

Bên này, Tín đang tắt nguồn điện thoại di động để chặn những cuộc gọi của đám hồ bằng cẩu hữu và nhất là bọn “chủ biên”.

Xong rồi, anh ngồi bó gối nhìn ra ngoài khung cửa sổ hình chữ nhật đứng một cách mông lung, những ánh sao đêm và nét hiền hòa của vầng trăng đêm Rằm chẳng đọng lại trong tâm trí anh.

– Tại Hỷ Tín không muốn biết, chứ mỗi lần nhận tiền từ kẻ đó là mỗi lần Hỷ Tín tự quàng thêm dây xích sắt vô người.

Ăn đồng tiền bất lương thì làm sao mà bền và toàn mạng hả Hỷ Tín?
Nghe Hoàng Kỳ nói vậy, đầu của Tín càng gục xuống, cơ hồ đã trở thành con đà điểu vùi đầu vào cát.

Mãi một lúc sau, anh mới lí nhí giãi bày:
– Tôi không thể nào quay đầu được nữa…!Lùi lại thì tù ngục, bước tới thì vực thẳm, đứng chựng thì xung quanh toàn là gai góc và thú dữ.

– Buông.

– Hả?
Hoàng Kỳ cười hiền mà lặp lại một lần nữa:
– Buông.

Vẫn chưa quá trễ mà thí chủ.

Trì Thương bước lại gần khuyên nhủ:
– Ngồi thiền thử đi Hỷ Tín…!
– Ngồi sao?
– Nằm cũng được.

Chỉ cần nhắm mắt lại và để mặc cho suy nghĩ trong đầu mình hiện ra.

Tới một lúc nào đó, Hỷ Tín sẽ quán sát và kiểm soát được tâm thức mình.

Sẵn đang mỏi lưng, Tín leo lên ghế bố nằm và chắp hai tay lên bụng.

Thể theo lời dặn của Trì Thương, Tín để mặc cho dòng thác suy nghĩ ồ ạt đổ về tâm trí.

Tín thấy mình đang nhớ lại hình ảnh của Trưởng lão Như Phong, khuôn mặt đang khóc của Hoàng Kỳ, những dòng tin nhắn mà anh chưa kịp hồi âm, món nợ tín dụng còn tồn ứ, đến cả việc phàn nàn ăn cơm suýt mắc xương cá,…!Một đoạn thời gian của kiếp người mỏng manh tựa khói sương cứ thế thành hình trong tâm trí anh, bất giác khiến anh rơi lệ, rồi từ từ lịm dần đi lúc nào không hay…!
Ở đằng này, Trì Thương đang bện cầu hoa làm quà mừng đám cưới cho gia đình một thí chủ sống ở núi Cấm.

Vừa làm chú vừa khe khẽ đọc “Chú Đại Bi” tiếng Phạn.

Phá Vân vừa trải chiếu vừa cười hỏi các bạn đồng tu:
– Có vẻ Hỷ Tín ngủ rất ngon?
Trì Thương bỗng gọi chú:
– Phá Vân.

– Dạ?
– Đệ nghĩ sao về lời mời hoằng pháp của người đàn ông đó?
– Đệ xin khước từ.

– Tại sao?
– Phí công vô ích.

Nói Pháp với thế giới kim tiền chẳng khác nào đánh trống bỏ dùi.

– Huynh trưởng nghĩ sao?
– Tôi khác cái nhìn của Phá Vân, nhưng cũng đồng tình với ý kiến “Khước từ”.

Rồi người Tăng sĩ sắp cập tuổi bảy mươi ấy kể:
– Sau khi chứng đắc thành Phật, Như Lai trở về chốn cũ để gặp lại nhóm khổ tu – tham thiền với mình ngày xưa.

Trên đường đi, Ngài gặp một người đang thực hành khổ tu – tham thiền.

Người này thấy toàn thân Ngài tỏa hào quang sáng rực liền biết Ngài đã thành công, nên gặng hỏi Ngài học thầy nào mà thành công như vậy.

Ngài nói rằng không có ai chỉ dạy mình thành công hết, kết quả này là do một mình Ngài làm ra.

Người này nghe vậy thì rất tức giận, cho rằng Ngài quá kiêu căng và đã phủi bỏ công ơn vị Đạo Sư kia…!
Cũng bởi vì suy nghĩ theo lối mòn, hễ ai thành công đều phải có thầy/cô dạy, và cũng do cái tánh cố chấp, bộp chộp và nóng nảy, mà người này đã đánh mất rất nhiều điều.

Đức Hoàng xin phép nói chuyện gẫu với nhóm Tăng đoàn, Phú Lâm đứng gần nhứt nên rước anh ta vô mùng ngồi.

Người trai quê ở đây hỏi các Tăng sĩ cách trị bịnh mê đề của tía má anh ta.

Và nêu ý kiến rằng có nên đưa gia đình lên Sài Gòn sống để xa mấy khứa thầu đề không.

Trì Thương bật cười mà trình bày rằng:
– Con rùa hay con ốc sên có đi tới đâu cũng không bỏ cái “nhà” của chúng xuống được.

Thay vì đổi chỗ ở mới thì hãy làm sạch tâm thức mình.

– Chắc chừng nào tôi chết bất đắc kỳ tử, tía má tôi mới bỏ đề vì hổng còn ai chạy tiền giùm nữa…!
– Ngày mốt dẫn tía má lên gặp tụi tôi, tụi tôi sẽ cố phân giải cho họ hiểu.

Đức Hoàng mượn đồ cạo râu của Trì Thương, rồi lui vô nhà tắm cạo râu.

Khoảng một tiếng sau, Đức Hoàng mới trở ra với cái cằm sạch sẽ, bớt sần sùi.

Dao cạo râu đã được anh rửa với nước kỹ càng và chế một ít cồn vô sát khuẩn, hắn máng nó trên cái giá inox nằm mé tay trái tấm kiếng coi mặt.

Không cần đợi ai mời hay “cung thỉnh”, Đức Hoàng đã tự ý chui vô mùng ngồi.

Vì chiều cao của Hoàng Kỳ mà cái mùng cao hơn hai mét, thành thử ra tuy ngồi đông người nhưng không bị ngợp xíu nào.

– Bạch Thầy Lợi, tôi có cần đặt pháp danh không?
– Đức Hoàng là cái tên rất đẹp, đâu cần phải nghĩ ra pháp danh mới?
– Ngồi thiền có khiến người khác tẩu hỏa nhập ma không Thầy Lợi?
– Nếu mục đích hành Thiền để vọng tưởng bản thân sẽ chứng đắc quả vị cao siêu, hay đòi hỏi sở hữu siêu năng lực và tu luyện thần thông – thiên nhãn để thị oai với đời, chắc chắn thí chủ sẽ bị điên.

Còn nếu ngồi thiền để làm rãn đầu óc và mắt đỡ mệt do học tập – làm việc quá lâu thì chắc chắn chẳng sao hết.

– Ngồi trong bao lâu hả Thầy?
– Năm, mười phút thôi.

– Sao ít vậy Thầy?
– Tâm thì không có vững.

Nhắm mắt ngồi thiền một hồi nhớ ra đủ thứ chuyện lại sanh tâm trả thù, báo oán, sầu muộn, quyến luyến,…!nữa thì khổ.

– Ngồi thiền có vô tình “rước” ma quỷ vô người hôn Thầy?
– Nếu như ngồi thiền mà ráng sức nhớ tới kinh điển, tạng luật, những mẩu chuyện thuở Như Lai hãy còn tại thế, đức hạnh của các vị tôn giả,…!thì chẳng có con ma, ngạ quỷ hay yêu nghiệt nào chiếm cứ được tâm thức mình.

Có một người đã làm vậy mà đã thuộc được kha khá sách Phật Học, và hiện giờ người đó coi phương pháp này là một cứu cánh khi mất tinh thần trong cuộc sống.

– Người đó thiền ra sao hả Thầy?
– Lâu lâu mới thiền, có khi cách mấy tháng mới ngồi nhiếp tâm.

Khỏe và rảnh rang thì khoảng nửa tiếng đổ lại.

Còn mệt và bận rộn thì dưới mười phút.

Ngừng một lát để hớp miếng nước nguội, rồi Châu Lợi mới kết luận:
– Trên đây là cách hành thiền của người theo Đạo Phật.

Phải nói cho rõ để không phát sinh Nghiệt Duyên với nhau.

Và Đức Hoàng đã ngủ luôn trong lúc hành thiền.

Hoàng Kỳ che miệng cười, rồi đỡ gã trai đất thiêng nằm xuống sàn ngủ; trong lúc ấy, Thủy Diệu kê gối giùm hắn ta.

Người Tăng sĩ Phi Châu cười:
– Ai cũng ngủ hết trơn…!
Châu Lợi gật đầu, đoạn nói:
– Nếu tôn giả Đại Ca-Diếp nhận được lời mời này, ắt hẳn ông cũng sẽ khước từ như chúng ta.

Hoàng Kỳ lại hỏi:
– “Đầu con cao ngang núi Tu-Di” nghĩa là gì vậy huynh trưởng?
– Xét về mặt công lao soạn kinh và hoằng pháp, thì câu trên đã vận đúng vào tôn giả Khánh Hỷ.

Nhưng Như Lai không nói gì thì chắc còn có huyền cơ trong đó chưa thể tiết lộ được…!
Có tiếng đập vách đùng đùng bên khách phòng vọng sang, ắt hẳn có vị khách nào đã ngủ mê nên sơ ý vung chân – múa tay.

– “Bodhi” nghĩa là gì hả các đệ?
Trì Thương trả lời:
– “Bồ đề”, trong tiếng Pali có nghĩa là “Trí tuệ”.

Bởi vì Đấng Thế Tôn đắc thành Chánh Quả dưới cội cây này nên nó được mang tên là cây “Trí Tuệ”.

– Với những ai muốn thật tâm tìm hiểu về Phật Giáo, hãy trả lời họ nhiệt tình.

Còn những ai muốn tìm tài liệu và kẽ hở để gây hấn và xích mích, hãy khước từ họ; thà chúng ta bị mang tiếng ích kỷ và ngu dốt, còn hơn là đẩy một người vào Nghiệp Ác.

Rồi người huynh trưởng họ Hồ lại hỏi:
– Có biết tại sao truyện xưa thường viết các bậc chân nhân ở ẩn trên núi cao không?
– Là vì họ chỉ đón tiếp những ai thật lòng với họ, nhứt là tới với họ bằng trái tim và khối óc mở mang, chịu tiếp thu và lắng nghe quan điểm – ý kiến trái chiều; chớ không phải là một đám hổ lốn, hễ nói trái tai là giãy tử lên như con cá chết ngợp…!
Nói xong, Đức Hoàng ngồi bật dậy, rồi đưa mắt nhìn nhóm Tăng sĩ Nguyên Thủy Phật Giáo.

Châu Lợi gật đầu xác nhận, nhưng không cười.

Chợt Đức Hoàng nhờ Thủy Diệu “quét” virus cho cái Laptop của mình, và sẵn cài giùm mình một số nhu liệu cần thiết cho ngành Báo Chí.

Vừa nhìn Thủy Diệu làm, hắn vừa hỏi Châu Lợi:
– Đọc những bình luận giễu nhại về Phật Giáo trên mạng các Thầy có buồn không?
– Không, việc này đã được báo từ thời Đấng Thế Tôn hãy còn tại thế.

– Đây có phải là thời Mạt Pháp không các Thầy?
– Không, chỉ mới cận Mạt Pháp thôi, Mạt Pháp thật thì Phật Giáo sẽ toàn diệt.

– Chỉ mới cận mà Phật Giáo đã gần như tanh banh.

– “Thành – Trụ – Hoại – Diệt” là lẽ đương nhiên mà thí chủ.

Sau khi Thủy Diệu làm xong, Tăng đoàn và người trai đất thiêng cùng nhau tụng niệm “Kinh Rải Tâm Từ – The chant of metta” dưới ánh sáng trăng Rằm.

Châu Lợi đưa mắt nhìn Đức Hoàng đầy mến thương, bởi ông trông thấy ẩn sau lời ăn tiếng nói bỗ bã, nặng nề ấy là một tâm hồn cao đẹp, giàu đức hy sinh tột cùng.

…!
Rạng sáng hôm sau, nhóm bạn ký giả khởi hành đi Thất Sơn để có tài liệu viết bài đăng báo.

Tín được một giấc ngủ thật ngon nên tỉnh dậy thấy khỏe khoắn hơn mọi ngày.

Anh lơn tơn ra ngoài sân nghe chim hót và ngắm cảnh núi non hùng vĩ của vùng Thất Sơn.

Trì Thương đang quét sân sau.

Dáng vẻ hiền hòa như cội cây Sala ấy đã khiến Tín nổi hứng chọc ghẹo:
– Thầy Thương.

– Bạch thí chủ, chuyện chi?
– Cho hỏi chút nhe?
– Sadhu.

– Đức Phật có nhắc tới khái niệm Tạo Hóa không?
– Đấng Thế Tôn đã nói với tôn giả Ưu Lâu Tân Loa Ca-Diếp như vầy, “Tôi chưa từng nói Đấng Sáng Tạo có, mà cũng chẳng từng nói Đấng Sáng Tạo không.”
– Còn “Ananda” và “Nanda” là gì vậy Thầy?
– “Ananda” là trạng thái khánh hỷ, còn “Nanda” là trạng thái hoan hỷ.

“Maha” là Đại.

Có bầy chim chiền chiện sà xuống sân để ăn thóc.

Trì Thương vừa nhìn chúng đầy yêu thương, vừa chầm chậm kể:
– Trong Tăng đoàn, có hai vị tôn giả cùng tên Nanda nhưng xuất thân hoàn toàn trái ngược nhau: Một người đi chăn bò mướn, và một người là hoàng thân quốc thích với Đấng Thế Tôn.

– Một cái tên nhưng hai số phận, Thầy hén?
– Lành thay.

Tín ồ lên:
– Vậy tính ra thời đó đâu có cái vụ kỵ húy tên gọi há Thầy?
– Không chắc chắn, thưa thí chủ.

– Tại sao Đấng Thế Tôn lại ra đi vì ăn nấm độc vậy Thầy?
– Thật ra Ngài đã biết trước nấm đó là nấm độc, nên đã dặn mọi người không được làm hại người cúng dường nấm độc.

Đó là cái Nghiệp mà Ngài ấy phải trả, nên Ngài ấy rất thanh thản đón nhận nó.

Trước đó không lâu, tôn giả Mục Kiền Liên, tôn giả La Vân Châu và tôn giả Vô Não biết Ác Nghiệp từ thuở trước và đời này đã chín muồi nên cũng thanh thản đón nhận Quả Báo.

– Ác Nghiệp là gì hả Thầy?
– Ác Nghiệp là những việc làm không đúng, như đi rình rập hãm hại người ngay và xóa sạch Sự Thật để bao che cho cái ác của chủ thuê chẳng hạn.

Tín không dám nhìn thẳng vào đôi mắt hiền từ nhưng nghiêm minh của người Tăng sĩ gốc Hậu Giang, anh giả lả bằng cách ngó bầy chim chiền chiện béo ú.

– Hỷ Tín, vẫn chưa quá muộn đâu.

Trì Thương chưa kịp đặt tay lên mắt trái con quạ đen hình người, Châu Lợi đã bước tới cản lại.

– Không nên cưỡng cầu.

– Bạch Thầy Thương!
Trần Bảo Sơn tới rước nhóm Tăng sĩ Nguyên Thủy Phật Giáo về nhà mình chơi.

Tín cũng được anh ta mời đi theo; tuy vẫn còn sợ cái nhìn của Trần Trí An, nhưng Tín vẫn làm gan nhận lời.

Viện cớ chiếc xe bảy chỗ hiệu Lexus không nên chở tám người, Tín hẹn rằng lát nữa mình sẽ tự đón xe tới đó.

Xe đang bon bon chạy ngon trớn, chợt bên kia đường có một gia đình đang lết thết đi bộ về nhà đặng tiết kiệm tiền taxi.

Châu Lợi khuyên Trần Bảo Sơn nên cho họ quá giang, ông và các hiền đệ sẽ cuốc bộ một đoạn đường trong lúc chờ người cư sĩ Hòa Hảo quay lại.

Ước khoảng một giờ sau, Trần Bảo Sơn mới quay lại rước Tăng đoàn, với sắc mặt bí xị khó coi khôn cùng.

– Các thí chủ đó không biết điều hả cư sĩ?
Lời trên là của Trì Thương.

Phá Vân đưa mắt ngó nội thất trong chiếc xe hơi mắc tiền một vòng, rồi cười biểu:
– Không sao đâu.

Các thí chủ đó làm dơ xe thì hãy để tôi và Hoàng Kỳ lau rửa.

Gì chứ rửa xe thì tụi tôi rành lắm.

Về phần “chiến sĩ” Tín, anh đang ở trong nhà tắm xức thuốc Anbesol trị đẹn.

Thuốc này tuyệt đối không được nuốt, hễ nước miếng tươm ra là phải lấy khăn lau hoặc phun ra chứ không được nuốt xuống.

Lời khuyên trên là của bà bán cháo lòng, anh nghe vậy thì hay vậy chứ chưa hỏi ý kiến bác sĩ.

Anh nằm trên thảm cỏ xanh rì, mắt ngước nhìn bầu trời trong xanh và ngập nắng.

Cách chỗ anh chừng mấy mươi mét, một đàn bò đang nhởn nhơ gặm cỏ, còn thằng nhỏ chăn tụi nó đang nằm đọc truyện trên chạc cây mận sữa.

Nằm chơi cho tới khi thuốc tan hết, Tín mới đủng đỉnh đứng dậy vào nhà tắm đánh răng, rửa mặt; tiện đây anh thay đồ mới, chải đầu – vuốt keo tóc, xịt dầu thơm và mang đôi giày Nike yêu thích.

Chiếc xe taxi mà anh đặt đã đứng chờ ở dưới chân núi.

Người cầm lái là một bác tài xế ngoài năm mươi, ăn bận như dân công sở, dáng vẻ tròn trịa trông rất phúc hậu và dễ gần.

Hỏi ra mới biết bài hát dân ca mà bác đang nghe mang tên “Đò đọc, đò ngang” do song ca Tài Lương – Phương Đại trình bày.

– Đáng ra băng nhạc “Continental 6 – Dân ca ba miền” do nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông và nhạc sĩ Y Vân dày công “xây dựng” đã được gởi lên tổ chức Văn Hóa Unesco hồi năm 1974, nhưng vì thời cuộc nên công sức của hai vị đã tan thành bọt biển.

Tín gật đầu, rồi cúi mặt cài dây đai an toàn.

– Hát nhạc nào cũng cần phải đúng chánh tả, không thể xuề xòa hay viện cớ gì mà ca sai được.

– Hình như có ca sĩ Trần Văn Trạch phải hôn bác?
– Ông Trần Văn Trạch đâu phải là ca sĩ chuyên nghiệp, ca hát chỉ là một “món” phụ trợ cho công việc biểu diễn của ổng thôi, thành thử ra hồi xưa chẳng ai bắt bẻ chuyện phát âm của ổng.

Ông tài xế liền bật bản “Sang ngang” của nhạc sĩ Đỗ Lễ do Trần Văn Trạch ca; những ca sĩ trình bày thành công và ghi lại dấu ấn trong lòng khán giả phải kể tới: Bên nữ có Thái Thanh, Ngọc Lan, Kim Anh, Lệ Thu, Phương Dung, Khánh Ly,…!Bên nam có Chế Linh, Thái Châu, Tuấn Vũ, Vũ Khanh, Tuấn Anh,…!
– Mấy ông nhạc sĩ ngày xưa tuyển sinh mà thấy hát sai chánh tả là cho dìa quê chăn vịt liền.

– Có phải là do phát âm của miền đất mà họ sanh ra nên phát âm sai chánh tả không bác?
– Nữ ca sĩ Tài Lương, Dạ Hương, Hương Lan, Hoàng Oanh, Sơn Ca, Họa Mi, Diễm Chi, Trúc Ly, Trúc Mai, Huệ Phương, Thảo Ly, Phương Dung,…!là người miền Nam rặt mà có hát sai chánh tả lần nào đâu.

– Còn ca sĩ Thanh Tuyền đâu chú?
– Thanh Tuyền dân Đà Lạt cậu ơi…!Vô Sài Gòn gặp nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đào tạo và được ông đại tá tặng nghệ danh Thanh Tuyền, tức “Dòng suối trong mát”, chứ tên thiệt của cổ là Như Mai.

– Còn ca sĩ Hà Thanh, Quỳnh Giao?
– Hà Thanh, Quỳnh Giao dân Huế.

– Con muốn nghe một bài do bà Huệ Phương hát.

– Được, “Bên hàng bã đậu” của Bồng Nga Nữ, đây là một trong những bút hiệu của nhạc sĩ Vinh Sử.

Tôi sẽ tặng thêm bài “Ngoéo tay nhau thề” của Hàn Gia Nữ, tức bút hiệu khác của người nhạc sĩ nói trên.

Chạy được một đoạn ngắn, khúc gần ngã tư dẫn vô khu chợ mới xây cất, bác tài xế chép miệng:
– Đã lên án người ta lấy cái danh nghĩa “Bảo vệ văn hóa bản xứ”, “Nét đẹp dân tộc” ra bao biện cho cái sai, cái dở, cái ngu, cái ác của họ, thì cũng đừng có hành xử giống mấy khứa đó, coi kỳ lắm đa.

Tín lại nhớ về đám “chiến sĩ” phe mình.

Nghe đâu có đứa công kích lộn con quan nên bị đánh tới lỗ đầu.

– Cậu nghe cô Hà Thanh ca vẫn nặng mùi Huế như thường, thí dụ như hỏi – ngã chẳng hạn, để ý cổ hát chữ “Ở” sẽ bị biến âm sang chữ “Ỡ” liền.

Còn cô Hoàng Oang phát âm chữ “D” rất ngọt, vì cô là người Lục Tỉnh rặt nên không mấy khó khăn khi vừa ca đúng chánh tả mà còn thật mùi.

Và cô Thái Thanh xứ Quan Họ cũng vậy, những vần “V” hay những chữ có vần “T” ở sau đuôi cô hát không sai một giem nào.

– Bác có bài nào quen mà lạ không bác?
– Bài “Tấc đất tấc vàng” của nhạc sĩ Giao Tiên do cô ca sĩ Nam Kỳ Mai Lệ Huyền ca có giai thoại hay lắm.

Trước lúc chia tay bác tài xế hiếu khách, Tín gởi chút đỉnh tiền “boa” cho bác đó, rồi mới từ tạ mà đi vô tịnh xá của nhóm cư sĩ Hòa Hảo.

Đám nhỏ đang chơi bịt mắt – bắt dê với một người thanh niên bị bịnh Down nhẹ.

Những người thai phụ thì ngồi tám chuyện và ăn trái cây trong nhà mát.

Một vài người tật nguyền đang dán nhãn và đóng gói bao bì thành phẩm ở công xưởng.

Anh không hiểu tại sao chủ thuê lại muốn dẹp cái trại tế bần rất đáng quý này; để đánh lạc hướng dư luận hay vì muốn nuốt chửng miếng đất ngàn vàng này?
– Ủa? Thầy Vân, thầy Kỳ? Sao ngồi đây rửa xe vậy?
Hai người trả lời rằng sẵn đang quởn nên muốn giúp cư sĩ Bửu Sơn một tay.

Nghe vậy, Tín xin phép được phụ hai huynh đệ.

Trong lúc đó, Trần Bảo Sơn đang thỉnh ý kiến của các Tăng sĩ mà mình mến mộ và tin cậy về chuyện giải quyết những lời lẽ, tin đồ bất thiện trên mạng xã hội.

Sau một hồi suy nghĩ cặn kẽ, Châu Lợi mới lên tiếng:
– Hãy học Hạnh của tôn giả Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất khi hai ông bị người ta đơm đặt và nói xấu.

– Dạ.

Phú Lâm hỏi:
– Chắc cư sĩ vẫn còn đang giận những thí chủ đi quá giang xe ban nãy phải không?
Trần Bảo Sơn thở dài thườn thượt, rồi khoanh tay và gật đầu xác nhận.

Trì Thương mỉm miệng cười:
– Thế gian này không biết trân trọng Nhân Duyên với nhau.

Thay vì giữ gìn, họ lại phá nát Nhân Duyên bằng những ngôn từ và hành động không đẹp.

Đinh Mạnh Hùng lên nhà trên mời nhóm Tăng sĩ xuống nhà dưới ăn bữa cơm chay và uống nước nấu từ táo xọn, rễ tranh và mía lau.

Bàn cơm vừa dọn xong, đã thấy ngoài sân có nhóm người nhốn nháo với biểu ngữ “Bảo vệ quyền lợi trẻ em”.

– Dẫn con nhỏ thắt bính ra đây cho tôi gặp mặt.

Thể theo lời của Châu Lợi, cô bé đó được đưa ra gặp ông.

Ông mời cô bé đi trước, còn ông nối gót theo sau.

– Xin chư vị hãy bình tĩnh!
Một người đàn ông trông có vẻ là phóng viên bước lại gần chụp hình Châu Lợi và đứa nhỏ.

– Ăn tiền của ai mà tới đây náo loạn?
– Trời đất ơi! Tu hành gì mà ăn nói vu khống vậy?
Câu la lối của một người đàn bà đã kích động đám đông đang phẫn nộ.

Họ thi nhau hú hét, chửi rủa um trời.

– Các vị biết khó chịu, tức giận, nổi nóng, sân hận,…!khi bị người ta vu khống, vậy tại sao lại đi hùa theo những tin tức chưa kịp kiểm chứng mà tới tịnh xá này gây sự?
– Ờ…!Ờ…!Ờ thì…!
– Đâu, cơ sự nghe sao mà phải thân chinh tới đây biểu tình vậy?
Một người thanh niên bắt đầu thuật lại hết những gì mà anh ta nghe nói phong thanh trên mạng.

– Rồi, mẹ của con nhỏ đâu rồi?
– Dạ, chỉ sợ chỉ hổng dám tới.

– Nếu mình là người ngay thì mình sợ cái gì? Huống hồ chi, cổ còn được một đám đông ủng hộ như vầy mà.

Một người phụ nữ vuột miệng nói:
– Ờ há, sao con mình bị người ta bắt cóc mà hổng xuống đòi quyền lợi, mà lại cậy chúng ta vậy cà?
Một người đàn ông ngoài ngũ tuần vung nắm đấm và la:
– Đừng để thằng đầu trọc đó mị bà!
Châu Lợi chắp tay, nói một tiếng “Sadhu”.

Rồi điềm tĩnh trình bày quan điểm của mình:
– Bằng chứng.

Tất cả những gì mà chúng ta đều cần là bằng chứng.

Chứ không phải là tin tức thêu dệt, xuyên tạc và định hướng có chủ đích đến từ hai bên.

Dù muốn dù không, ngay trước mặt con nhỏ, các cư sĩ Hòa Hảo vẫn phải trưng ra bằng chứng chối bỏ con của mẹ nó và tài liệu chứng thực sự nhờ nuôi dưỡng nó của ông bà ngoại.

Sau khi coi xong bằng chứng, đám đông chấp nhận rút về, nhưng thủ lĩnh hẹn sẽ trở lại vào một ngày không xa; không năm nay thì cũng năm tới.

– Vô nhà ăn cơm thôi các cư sĩ…!
– Dạ, thưa Thầy Lợi…!
Tín thấy cảnh bát nháo do mình và đồng bọn gây ra theo lịnh chủ thì mắc cỡ khôn cùng.

Anh cúi gằm mặt, giả vờ lau chùi nội thất xe thật kỹ lưỡng nên không biết chuyện gì đang xảy ra.

Phá Vân và Hoàng Kỳ thấy được sự hối hận nơi Hỷ Tín thì rất hoan hỷ.

Hai huynh đệ biết rằng vẫn còn cứu vãn được người sư đệ này.

– Xuống bếp ăn cơm thôi ba đệ…!
– Dạ!
Chiếc xe Lexus được lau chùi bóng loáng như mới mua không làm Trần Bảo Sơn mừng rỡ.

Anh mặt mày chù ụ bới cơm cho từng người; đến lượt Tín, anh nhận lấy mà tay run bần bật như bị bệnh Parkinson.

– “Cứu vật, vật trả ơn.

Cứu nhân, nhân trả oán.” – Đinh Mạnh Hùng nghiến răng ken két.

Hoàng Kỳ giảng hòa:
– Không sao đâu cư sĩ…!Nè, ăn liền cho nóng.

Có phải cư sĩ đã cực khổ nấu bữa cơm này hay không? Vậy thì nên gạt bỏ muộn phiền mà thưởng thức thành quả của mình chứ?
Đinh Mạnh Hùng cười trừ:
– Dạ, tôi sẽ nghe lời Thầy Kỳ.

Nhờ vào câu nói của người Tăng sĩ da đen mà Đinh Mạnh Hùng mới nhớ công sức mình đã bỏ ra để có được mâm cơm chay vừa đẹp vừa ngon như thế này.

Anh thôi còn ủ rũ nữa, bắt đầu xăng xái và cơm gắp đồ ăn và uống canh.

Càng nếm anh càng khen tài nghệ mình sao giỏi quá.

Những người bạn Hòa Hảo của Mạnh Hùng thấy chàng ta ăn uống ngon lành như vậy cũng xốc lại tinh thần.

Người nào người nấy hăm hở gắp đồ ăn, chan canh và đơm thêm cơm.

Bữa cơm đã trở lại sự rôm rả, vui tươi đáng có.

Tín cũng được mạnh miệng hơn, không còn vừa ăn uống vừa nhìn mặt từng người để liệu đường tẩu thoát.

Sau bữa cơm, nhóm cư sĩ Hòa Hảo và nhóm Tăng sĩ Theravada lui vô phòng thiền tĩnh tọa.

Về phần Tín, anh đi loanh quanh nhìn ngắm mấy mẫu đất đầy rẫy hoa màu; anh được phép ăn trái cây miễn phí, chỉ cần nhớ không làm gẫy cành – nhánh là được.

Tín đang đứng gần ruộng dưa hấu, chợt thấy thanh niên bị bịnh Down nhẹ ban nãy đang ngồi chồm hổm cạnh một luống dưa, anh ta búng tay lên mấy trái dưa nghe “chốc…!chốc…”
– Ê, ăn dưa hôn?
– Ăn.

Anh hái hay tôi hái?
– Tui hái.

Có lẽ nhờ sự chỉ dẫn của những người cưu mang mà anh ta lựa dưa hấu rất giỏi.

Hai trái dưa mà anh ta đem vô vừa ít hột vừa ngọt mát lại mỏng vỏ; ăn tới đâu mát trời Ông Địa tới đó.

Hai người ăn được phân nửa thì no cành hông.

Thằng nào thằng nấy thở hơi lên còn hơn con cá mắc cạn.

Khờ ngửa mặt than:
– Biết vậy hồi nãy hai đứa mình “chai hia”.

Tham ăn chi cho cực cái thân vầy nè Trời.


Tín gật đầu đồng tình.

Rồi bổ sung:
– Ăn một hồi nó ngây cha ơi.

Thành ra kiềm hổng được.

Gió báo mưa mát mẻ, ru hồn hai thằng tham ăn vào một cơn mộng đẹp.

Mỗi thằng kiếm một góc trong nhà mát mà ngả lưng ngủ khò…!
“Bẻ một nhành cây, nhành cây trứng cá
Để khi vô trường hai đứa chia trái cho nhau…”
Tiếng ca của Thanh Tuyền trong bài “Nhành cây trứng cá” của Diễm Chi, tức bút hiệu của nhạc sĩ Vinh Sử, như lời mẹ ru hai con người khờ dại.

Sau này, cô Tuyền có song ca bài này với ca sĩ Tuấn Vũ, và màn trình diễn ấy vẫn hay như lúc cô đơn ca khi còn trẻ.

Người coi ruộng dưa ngó thấy hai người trai ngủ say như chết, thì lại gần nhấc chân thằng này lên sạp, rồi sửa gối cho thằng kia.

– Mẹ tụi bây…!Có hai cái giường hà, tụi bây chiếm hết trơn rồi.

Đã vậy ăn uống xong còn không chịu dẹp nữa.

Bắt thằng già này nai lưng ra lo.

Càm ràm xong, ông Sáu trải ghế bố ra nằm.

Cái đài nhỏ của ông đang phát tới bản “Mấy nhịp cầu tre” do Duy Khánh ca, một sáng tác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ.

oOo
Stephen Đoàn và cô giáo Xuân đang ngồi nghe Sĩ Phú hát bài “Vũng tối đầy” của nhạc sĩ Trần Trịnh trong khi lặt hẹ, rửa rau giùm thím Năm.

– Cũng trong băng nhạc “Mây Hồng 12” này, tôi rất thích nghe bác Sĩ Phú hát bản “Khi em nhìn anh” của nhạc sĩ Y Vân.

Rồi cô tua băng nhạc tới bài tình ca ngọt ngào đó:
“…!Ánh mắt em u buồn, đôi mắt em ươm sầu
Đã thấy trong thiên hạ
Ai buồn, ai buồn bằng đôi lứa chúng ta?”
Bỗng người Linh mục hòa theo giọng của người ca sĩ được mệnh danh “Tiếng hát nhung mềm”:
“…!Ánh mắt bao la tình
Với ý thơ thưa rằng:
“Chí lớn trong thiên hạ
Không đầy, không đựng đầy đôi mắt mỹ nhân…””
Cha Thành, gia đình cố Phêrô Toàn, thầy Dự, vợ chồng Thầy Phó Tế, hai người Linh mục quản xứ và JB Khải đã ngồi quây quần quanh hai cái bàn cây ghép lại thành hình chữ nhật tự bao giờ.

Stephen Đoàn hỏi bằng giọng lạnh tanh:
– Ai báo cho mọi người hay?
Cố Toàn cười hiền mà trả lời rằng:
– Cô Xuân.

Vợ Thầy Quới niềm nở mời Cha Mỹ ngồi ăn uống với chức sắc trong Giáo xứ.

Thím Năm biết con gái lại một lần lỡ Duyên, nhưng không biểu lộ điều chi.

Thím cố ý múc nhiều hơn một phần bình thường, coi như là quà mừng Linh mục Stephen Đoàn Ngọc Mỹ trở lại làm Ngôn sứ của Chúa.

Nhóm người Công Giáo đó nào hay nào biết có một người má đang khóc cho đứa con gái bạc phận trong lòng…!
Đằng kia, chú Năm đang ép mía lấy nước.

Mắt chú đỏ lên như người say rượu, nhưng không rơi một giọt lệ nào.

– Nè, Cha Mỹ, ăn nóng cho ngon nghen con.

– Dạ, con cảm ơn thím…!Cô Xuân đâu rồi thím?
Thím Năm run giọng trả lời:
– Nó…!nó hả con? À…!Ủa con nó đâu rồi ông?
Chú Năm chỉ ra sau hè.

Stephen Đoàn đi ra sau hè một hơi.

Anh quyết định phải hiểu cho bằng được lý do nào mà đã khiến cho hai chú thím buồn tới mức độ như vầy.

Cô giáo Xuân đang ngồi chồm hổm bên mương nước cạn có thể nhìn thấy đáy.

Bên cạnh cô là hai rổ rau lang: Một rổ đã lặt, còn một rổ thì chưa; có lẽ là để dành cho mấy con heo ở nhà chú Tư.

– Tôi tưởng cô thương tôi…!
Xuân vừa lặt rau vừa nói nho nhỏ:
– Thương ai thì phải để cho người đó tung hoành ngang dọc như chim Bằng nơi Đông Hải, như phượng vũ – rồng bay, như đại bàng sải cánh trên sa mạc,…!chứ không phải giam hãm người đó trong cái gông xiềng gia đình, làm nhụt chí nam nhi và phí hoài đời trai.

Xuân thấy người đó quay lưng đi rồi, mới lấy ngón trỏ gạt nước mắt.

Bông điên điển nở vàng mé mương đùng đục; chuồn chuồn bay rợp phía trên mặt nước, trời lại sắp ban mưa…!
Từ bên nhà hàng xóm vẳng sang tiếng hát Hương Lan trong “Liên khúc: Còn thương rau đắng mọc sau hè – Bông bí vàng” của nhạc sĩ Bắc Sơn:
“Tình nghĩa nhà quê rất đậm đà
Cọng rau, ao cá đọng lòng nhau
Chiều hôm gió cuốn rơi nhiều lá
Chiếc lá tìm rơi xuống cội nguồn
Ở đó, tình quê cũng mặn mà
Chuyện bông bí trổ một tình ca
Người con gái ấy đau lòng nói:
“Ảnh cũng thương tôi, nói thiệt mà…””
Thím Năm rón rén xuống coi con gái ra sao.

Thấy nó vẫn còn ngồi lặt rau nổi thì trong bụng bớt lo.

– Con đừng nghĩ quẩn nhe con?
Xuân cười mà như mếu:
– Đời con đâu phải mới lần đầu dang dở đâu má.

Tối đó, thím Năm ghé nhà trọ của Stephen Đoàn thăm và biếu quà tiễn biệt anh.

Sẵn đây, anh gặng hỏi nguyên nhân nào đã khiến cho gia đình thím sầu não như vậy, và thím giãi bày như vầy:
– Nó đâu có bị bịnh nan y gì…!Thuốc mà nó đang uống là thuốc hướng thần…!Kể từ khi bị thằng Sở Khanh đó gạt cả tình lẫn tiền, nó đâm ra điên loạn…!Gia đình tôi và bác sĩ chữa trị phải nói láo rằng nó bị u não sắp chết, nó mới chịu uống thuốc…!Tại vì nó nghĩ mình sắp chết nên muốn làm đẹp lòng cha mẹ ngày nào hay ngày nấy…!
Stephen Đoàn ngây người nhìn thím Năm.

Thím hết nước mắt để khóc rồi, chỉ còn lại sự cam chịu tột cùng vì thương con hết dạ của mình.

Một đỗi sau, anh mới lên tiếng nổi:
– Hèn gì mà con thấy cô Xuân…!
Thím Năm gật đầu xác nhận.

– Nhưng con ngẫm những gì cổ nói thì thấy hết sức tỉnh táo.

Tỉnh táo hơn rất nhiều người, trong đó có cả con.

Thím Năm biếu Stephen Đoàn một chục bánh tráng Mỹ Lồng, hai xấp bánh phồng sữa, hai cây kẹo chuối và kẹo dừa.

Biết anh rất thích ăn tóp mỡ, cô giáo Xuân có thắng cho anh ba ký mỡ heo, hèn chi mà anh thấy bàn tay cô bị phỏng.

Và bây giờ thì anh đã hiểu tại sao cô lại buồn rười rượi khi nghe bài hát “Kinh cầu tình yêu” của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, bởi “Đời bể dâu, còn gì đâu, chỉ khổ đau, khổ đau, khổ đau, khổ đau đã nhiều rồi, cuộc đời còn thấy ấm lòng với cuộc tình mà thôi…”
…!
Chiếc xe đò đậu dưới gốc cây gòn, cách cây cầu dẫn lối nhà cô giáo Xuân áng chừng mấy mươi mét.

Anh lơ xe trạc tuổi Stephen Đoàn, dáng người dong dỏng cao và khuôn mặt hết sức sáng láng, hiền hòa.

Anh chọn băng ghế sát lối lên – xuống thứ nhất của chiếc xe đò.

Ngồi xuống ngay ngắn rồi, anh kéo nón kết sụp xuống để che mặt cho dễ ngủ.

Bây giờ là hai giờ sáng, bốn bề tối đen như mực, ngọn đèn mắc trên đọt cây gòn quá ít ỏi để soi sáng bóng tối dưới chân nó.

Bác tài xế đang mở bản “Đôi chim giang hồ” do song ca Duy Trác – Sĩ Phú trình bày, một sáng tác của nhạc sĩ Ngọc Bích, để dỗ dành giấc ngủ hành khách:
“Lờ lững đôi chim giang hồ bay
Về phía chân trời xa khuất mây
Mờ xa cánh chim vẫn tung bay
Vào nơi mênh mông gió chiều nay…”
– Ăn bánh ú hôn cậu?
– Dạ…!
Stephen Đoàn ngó sang, thấy một cụ bà tay mặt ôm khư khư cái bị rách, tay trái chìa cái bánh ú về phía mình.

Sau một thoáng phân vân, anh cảm ơn cụ bà rồi nhận lấy cái bánh ú.

Mới ăn được vài miếng, cụ bà bỗng nhờ anh giữ giùm cái bị để cụ bà an tâm đi cầu tiêu cá.

Anh sực nhớ tới cô giáo Xuân, nên chỉ đường cho cụ bà đến đó xin đi nhờ nhà vệ sinh.

– Dạ, cậu ơi, tui về liền nghen.

Nhớ chờ tui đó.

Tui đi vệ sinh cái về liền hà.

Người lơ xe khoát tay:
– Rồi, rồi, con nghe rồi ngoại ơi…!Ngoại ráng về sớm nghen ngoại? Tụi con còn phải ghé nhiều bến nữa mới đủ “sở hụi” bữa nay.

– Dạ, cảm ơn hai cậu nhiều.

Cái bị của cụ bà được anh để ở sau lưng cho yên dạ.

Rồi anh ăn bánh ú tiếp.

Bánh ú nhưn tôm- thịt, không bị bỏ thêm thứ “ngoại lai” trứng muối hay “món phát kiến mới” của ai đó nên ngon vô cùng.

Vốn dĩ bánh trái miền Nam ngon là nhờ sự dung dị, đơn giản của nguyên liệu và rất nhiều sự khéo tay – hay làm của người đứng bếp; đâu phải bánh Trung Thu mà có thể thêm thắt tùy hứng?
Người lơ xe nhìn Stephen Đoàn mà cười hỏi:
– Bộ hổng sợ bả dàn cảnh đặng đổ thừa anh lấy để bắt đền à?
– Không, tôi không có nhiều tiền, nhưng nếu như cụ bà cần tôi sẽ cho hết.

– Vậy chắc anh hổng phải người phàm rồi…!
Cụ bà mang theo cô giáo Xuân.

Bữa nay cô đi ăn thôi nôi con gái chị của người bạn trên Sài Gòn nên chọn áo dài, guốc gỗ làm trang phục; tóc cô bới cao, cổ đeo kiềng bạch kim, tai đeo đôi bông là của hồi môn bà nội trao cho má cô, mặt điểm trang vừa phải chớ không quá lố.

– Cô Xuân tới đây chi?
– “Tôi tiễn anh lên đường…”
Stephen Đoàn dịu giọng hỏi thăm xấp nhỏ học ở vườn trẻ, vắng anh tụi nó có buồn không.

– Mấy ẻm buồn hiu, còn tôi thì thành Hoàng Thi Thơ.

Stephen Đoàn bật cười và ngỏ ý nhờ cô giáo Xuân giải thích cho mình hiểu.

– “Nàng đã trót yêu, yêu một chàng tu sĩ.

Tình hỡi, hỡi tình, chàng đâu có, đâu có muốn lập gia đình.” Chế từ bài “Chuyện tình nàng trinh nữ tên Thi”.

Stephen Đoàn bật cười, rồi nghiêm nghị khuyên:
– Cô nhớ ráng uống thuốc đều đặn nghen? Bệnh u não vẫn có thể trị dứt điểm một cách thần kỳ.

– Dạ, tôi sẽ nghe theo lời khuyên của anh.

Cô giáo Xuân nhờ bác tài và anh lơ xe đưa mình tới chợ chồm hổm, chút nữa cô sẽ gởi tiền.

Cụ bà không biết mối quan hệ của họ ra sao, nhưng vẫn quyết định nhường ghế cho hai người dễ ngồi nói chuyện riêng.

Về phần mình, cụ bà được người lơ xe dễ thương mời ngồi nơi ghế phụ của anh ta.

Trước khi đi, cụ bà gởi cho cô giáo Xuân cái bánh ú.

Cũng như Stephen Đoàn, cô cảm ơn rồi mới nhận lấy món quà nhỏ của cụ bà.

Cô mời anh bạn tu sĩ nghe bài “Trời chưa muốn sáng” của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh, bài này bác lấy tên con trai Anh Chương làm bút hiệu; người trình bày cũng chính là bác:
“Lạy Chúa tôi, con người không Đạo
Nhưng tin có Chúa ở trên cao…”
Stephen Đoàn nghe bài Đạo ca đã từ lâu tên tác giả bị bỏ ngỏ và cái tựa bị thay đổi mà trong lòng thấy xuyến xao khôn cùng:
“…!Xác người nào trôi sông
Quay đầu về biển Đông
Những bước chân nào đi
Có khi không trở lại
Đứa nhỏ ngồi ôm em
Không còn nghe đạn nổ
Một người phơi tóc bạc
Đếm thầm hai mươi năm…”
– Không biết cái tên “Lạy Chúa tôi, con người ngoại đạo” do ai đặt nữa.

Cô giáo Xuân nêu ý kiến:
– Tôi thấy trong tờ nhạc gốc chỉ đề vỏn vẹn cái tên “Trời chưa muốn sáng”.

Thời gian sáng tác trước năm 75.

Rồi cô lột bánh ú ra ăn.

Bên cạnh cô, Stephen Đoàn đang uống cà-phê do má cô pha.

– À, tôi có cái này muốn tặng anh…!
Nói xong, cô lấy từ trong giỏ xách ra một cái dĩa hát bự bằng cái mâm cúng chè.

– Ô, cảm ơn cô rất nhiều.

Tôi đã kiếm nó rất lâu rồi.

Stephen Đoàn ngắm nghía vỏ bìa băng nhạc “Phạm Mạnh Cương – Băng nhạc chủ đề 13: Nhạc Giáng Sinh”, hay còn có tên gọi ngắn gọn là “Phạm Mạnh Cương 13 – Giáng Sinh”.

Trong đây có bản “Hồi chuông nửa đêm” do bà Thái Thanh ca rất hay; nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông đặt lời Việt từ ca khúc “Jingle Bells” của nhạc sĩ James Lord Pierpond, cũng thật đặc biệt khi một người theo Đạo Phật như ông lại dịch bài hát bên Đạo Chúa sang tiếng Việt rất sát nghĩa và thể hiện được tâm tư mà tác giả gốc muốn truyền đạt.

Còn bên Công Giáo có một người nhạc sĩ tên họ đầy đủ là Joseph Vũ Trường Kỳ cũng có đặt lời Việt cho ca khúc này và lấy tựa là “Tiếng chuông ngân đêm Noel”, trước năm 75 hai vợ chồng nhạc sĩ Minh Phúc – ca sĩ Minh Xuân trình bày bản nhạc đó rất dễ thương.

– Tôi cũng thích nghe tam ca Ngọc Lan – Thái Thảo – Kim Ngân hát bài “Mừng Chúa giáng sinh”, không biết tiểu sử của nó ra sao anh há?
– À, bài gốc mang tên “We wish you a Merry Christmas” của nhạc sĩ Arthur Warrell, còn nhạc sĩ dịch lời Việt thì tôi không biết.

Xuân à lên một tiếng, rồi cắn thêm mấy miếng bánh ú thơm thảo.

– Mà bài đó nằm trong băng nhạc nào vậy cô?
– Dạ, là băng nhạc “Niềm vui Giáng Sinh” phát hành ở hải ngoại năm 1993.

Kế, Stephen Đoàn mời cô bạn miệt vườn nghe bản “Thư gửi Cha già Noel” cũng do Ngọc Lan ca; cũng như bài trên, anh cũng không biết ai là người đã đặt lời Việt từ bài hát “Petit Papa Noel” của đôi nhạc sĩ Raymon Vincy – Henri Martinet.

Nói chuyện đâu được nửa tiếng, cô giáo Xuân cất giọng cáo từ.

Người Linh mục trẻ tìm mãi mà không thấy cái chợ chồm hổm đâu, chỉ thấy một cái cớ lửng lơ như con chim bồ câu đậu trên tháp chuông nhà thờ.

Tới Long An, Stephen Đoàn đi quá giang xe của một người bà con bên nội của người Giáo dân xứ mình.

Chiếc xe tải “ních” đầy bao gạo, thóc và nếp; chúng sẽ được giao cho tiểu thương chuyên bán mặt hàng này ở các chợ đầu mối đô thành.

– Cha.

– Thưa chú, có chuyện chi dạy con?
– Nghe nói Cha Thành bị bịnh thận phải hôn?
– Dạ phải.

– Vậy cho tôi biếu hai bao gạo lứt ăn cho khỏe người.

Stephen Đoàn bặm môi:
– Dạ, gạo lứt nấu lâu quá…!
– Yên tâm, tôi lường trước rồi, nên sẽ tặng kèm cho Cha Thành một cái nồi áp suất nấu cơm vừa mau chín vừa nhuyễn nhừ.

– Chúa ơi, trần đời con mới thấy cái cảnh tặng gạo tặng kèm nồi nấu cơm.

Chú Sáu Còn cười khoe hàm răng ố vàng:
– Tặng sao cho coi được Cha à.

Tặng mà người ta làm biếng nấu hay khó xài thì thà đừng tặng.

Nói đoạn, chú Sáu Còn mở bài hát “Anh đi chiến dịch” do Duy Khánh ca và Hương Lan ngâm thơ, một sáng tác của nhạc sĩ Phạm Đình Chương.

– “Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi…”
Stephen Đoàn nghe chú Sáu Còn ngâm bài thơ mà mình không biết tựa mà lòng se sắt buồn.

– Chú ơi.

– Sao Cha?
– Con bật bản “Chuyện hai người lính” do bà Thái Thanh ca nghen?
– À, một trong những bài “Tâm Phẫn ca” của nhạc sĩ Phạm Duy đây mà.

Xin Cha cứ tự nhiên.

Gió mát Quê Hương hiu hiu thổi làm Stephen Đoàn ngủ gục lúc nào không hay.

Chú Sáu Còn thôi cười tươi như ban nãy, chú ưu tư ngẫm lại từng câu, từng chữ trong những bản nhạc trước 75 yêu thích; âm nhạc thì không biên giới, nhưng lòng người lại chi chít ranh giới và biên cương.

Cú thắng xe dừng đèn đỏ đã phá tan giấc điệp của Stephen Đoàn.

Anh dụi mắt mấy lần trước khi mở mắt hắn.

Anh thấy mình đang ở một nơi vừa lạ vừa quen, có vẻ như là…!
– Mình đang ở đâu vậy chú?
– Ở Tây Ninh, Cha.

– Ủa? Mình không về thẳng Sài Gòn hả chú?
Chú Sáu Còn cười hiền:
– Dạ, mong Cha thứ lỗi, tôi có hẹn với một quán cơm từ thiện nên phải ghé đây giao gạo như đã hứa.

Stephen Đoàn gãi đầu cười trừ.

Lôi thôi thêm mấy tiếng nữa, anh mới về tới Giáo xứ Saint Pio.

Bây giờ là gần Chính Ngọ.

Toàn bộ Giáo dân và Hội đồng Mục vụ đã đứng đợi anh ngay cổng chính Giáo xứ.

Trong số đó có người cha nuôi mà anh hằng mang ơn và quý mến; anh reo to:
– Cha Thành! Cố Đoàn! Thầy Quới!
Không biết đứa nhỏ nào khởi xướng trước, mà sắp nhỏ hùa nhau đồng ca:
“Cha về với con, như chim liền cánh, như cây liền cành…”
Stephen Đoàn xây xẩm mặt mày.

Anh đưa mắt ngó đám con nít, rồi cười khổ hỏi:
– Ai “phát kiến” ra vụ chế bài “Anh về với em” của Trần Thiện Thanh vậy?
Thầy Dự liếc mắt về phía “anh ấy”:
– Đằng đẵng chứ đâu.

Một đứa nhỏ mừng quá hóa hớ:
– Cha đi trốn vui hôn Cha?
Cố Toàn vuốt râu cười ha hả:
– Cha Thành truyền “bí kíp võ công” sớm quá.

Thầy Quới thấy Cha Mỹ sắp sửa thành “ngọn đuốc sống”, nên vội bước tới dàn hòa:
– Tụi tôi có chuẩn bị một bữa tiệc nho nhỏ mừng ngày Cha Mỹ về.

– “Tung cánh chim bay về tổ ấm…”
Một đứa nhỏ trong ca đoàn cao hứng hát bài “Ngày về” của Hoàng Giác, một trong những ca khúc chiêu hồi nổi tiếng ngày xưa.

Bữa tiệc hôm nay có mười hai món: Khai vị gồm có chả nguội và gỏi củ hũ dừa; các món chính gồm có mực nhồi sen, sườn nướng bơ tỏi, gà ác tiềm thuốc Bắc, tôm sú hấp nước dừa, cá trứng chiên xù chấm mắm me, cơm chiên Dương Châu, mỳ xào chay và lẩu “cù lao” ; về phần tráng miệng, họ chọn kem trái dừa và sâm bổ lượng.

– Cha Vũ uống bia hôn?
Antonio Vũ ngần ngừ hoài mà không ừ hử gì.

– Bia trái cây, hổng phải Heineken hay Con Cọp đâu.

Sau một lúc phân vân, Antonio Vũ đành thất lễ với người Giáo dân ấy, rồi lại quầy nước ngọt làm một ly cỡ lớn uống giải khát.

Judas níu một người Giáo dân trạc tuổi mình mà hỏi chuyện kiêng rượu của người bạn thân của Manuel Ngô.

Người Giáo dân đó lắc đầu cười xòa, rồi giải thích:
– Ở đây ai mà hổng biết Cha Vũ uống rượu Lễ còn sặc lên sặc xuống mấy lần.

– Cha bị dị ứng chất cồn trong đồ uống?
– Ừ, nhưng nhẹ hều hà, uống nhấp môi vài ngụm thì hổng sao hết.

– Cha Vũ mũ mĩ thấy mà thương.

– Một người đàn ông cũng bằng tuổi cái anh chàng hồi nãy xen vô.

Ở bàn gần sân khấu nhứt, Cha Thành đang ráng sức ăn hết đồ ăn mà bà con chung bàn gắp cho mình.

Món nào cũng ngon, món nào cũng đượm tình tín hữu và Hồng Ân Thiên Chúa.

Cái chén của cụ mới “lùn” xuống được một chút, đã được bà con thi nhau đơm đầy lên.

– Bố.

Cha Thành ngước mắt nhìn con trai nuôi.

Simon Tử vừa bóc vỏ tôm sú vừa cằn nhằn:
– Ăn in ít thôi.

Còn có một quả gắng sức mà giữ cho kỹ đấy.

Cha Thành nháy mắt ghẹo:
– Tôi biết rồi.

Cậu khỏi lo nhá?
Trong bữa tiệc, cố Phêrô Toàn lên sân khấu phát biểu về kế hoạch xây dựng Giáo xứ.

Đầu tiên là sửa sang đường sá, khơi thông kinh rạch – mương máng, xây thêm cầu để tạo nhiều lối đi tắt cho bà con dễ đi lại.

Về mặt khai dân trí, cố rất mong bà con sẽ góp tiền để xây cất thư viện cộng đồng, nhà Văn hóa – Thể thao và trường cao đẳng cộng đồng cho mọi lứa tuổi.

– Vườn trẻ cũng cần sửa sang lại nữa cố.

Mấy cái cầu tuột, xích-đu nó rỉ sét hết trơn rồi.

– Còn sở Cứu Hỏa của mình nữa, ba cái đồ dập lửa hiện nay hổng còn xài được nữa.

– Cái trạm xá nữa cố…!
Cố phát hoảng giơ hai tay lên:
– Mấy bây ơi, cố là chủ tịch Giáo xứ, chớ hổng phải tổng thống Quốc Gia! Mấy bây hổng thương cố già hay sao mà nói liên tu bất tận vậy?
Ignacio Cường bấm đốt ngón tay nhẩm tính thử số tiền cần chi để kiến thiết họ Đạo.

Rồi rùng mình ngán ngẩm.

Họ Đạo có hơn trăm nóc nhà, người còn lao động kiếm sống nổi chỉ có bảy mươi mấy hộ, thì tiền đâu mà xây cất và tu bổ dữ vậy?
– Giáo dân chứ hổng phải thương gia Dubai đâu cố ơi…!
– Tôi có thể giúp bà con một tay không?
Bà con trong xóm không hẹn mà cùng nhìn về phía Judas.

Một người ngồi gần gã hỏi tính danh, gã trả lời rằng:
– Tôi? Tôi là Judas Amadeus Monteclaro.

Cố Toàn quay qua hỏi Antonio Vũ:
– Ảnh là ai vậy Vũ?
– Dạ, là người bạn của bạn thân con.

– Mời cậu đây lên phát biểu đôi lời…!
Judas bước lên trong tràng pháo tay nhiệt liệu của Giáo xứ.

Gã bắt đầu trình bày bài thuyết trình về phương án canh tân lại Giáo xứ này.

Phần đông rất ngạc nhiên khi gã khuyên mọi người nên xây cất nhà máy chế biến rác và nước thải, nhưng nghe tới lợi ích về môi trường và sức khỏe cho con cháu thì ai cũng tán dương hết mình.

Gã hứa sẽ nhờ các bạn làm ăn bên nước ngoài gây quỹ ủng hộ.

Song, gã cũng dặn rằng, chừng nào có tiền rồi hẵng làm.

Những người kiến trúc sư và kỹ sư xây dựng hăng hái giơ tay xin nhận lãnh phần thiết kế và giám sát công trình.

Muốn thay đổi bầu không khí ngột ngạt nãy giờ nên Cha Thành mời bà con lên sân khấu biểu diễn văn nghệ.

Chiều theo ý bà con xóm Đạo, Stephen Đoàn lên sân khấu trình bày ca khúc “Tôi trở về thành phố” do đôi nhạc sĩ Y Vân – Hoàng Huy đồng sáng tác, theo tông giọng của ban “Tam ca Sao Băng”:
“Tôi trở về thành phố
Làm khúc hát một mình
Buổi chiều chưa ngã xuống
Bóng đêm còn viễn chinh…”
Cố Toàn mời cả Giáo xứ đồng ca bài “Hò lơ” của nhạc sĩ Phạm Duy, một bản nhạc ca ngợi miền Nam của một người Bắc di cư 54; song ca Duy Khánh – Thái Thanh và song ca Việt Dzũng – Nguyệt Ánh trình bày ca khúc trên rất hay.

“Hò lơ, hò lơ, lắng tai nghe tiếng ai đang hò lơ…”
Ban đầu tiếng hát còn nhỏ xíu, sau càng lúc càng lớn hơn vì các Giáo dân đồng lòng hát bè cho các Cha và Hội đồng Mục vụ:
“…!Miền Nam đất giàu nước sang
Có một miền quê xóm làng thơm ngát
Đời ta tuy thiếu xa hoa
Đức Tin vẫn là mối tình trong lòng
Tình là ánh sáng tự do
Đời là áo ấm, miệng no
Hò lơ! Hò lơ! Lắng tai nghe tiếng ai đang hò lơ…”
Thầy Dự chợt nhớ nhạc sĩ Y Vân có một bài hát viết tặng dân Bắc di cư 54 tên là “Anh đến bên tôi”, ca – nhạc sĩ Duy Khánh đã trình bày bản nhạc này trong băng nhạc “Trường Sơn 9”.

Dàn loa phát thanh có chút trục trặc nên màn văn nghệ của xóm Đạo phải tạm ngừng.

Trong lúc chờ đợi, một nữ xướng ngôn viên lên sân khấu kể chuyện góp vui:
Truyện ngụ ngôn đó như vầy:
Có một thằng khờ đi chăn bò mướn cho người ta.

Mỗi ngày nó lùa mười con bò ra đồng từ khi sớm mơi, tới chừng nắng tắt thì lùa về.

Bữa đó nó đang chăn bò, thì bỗng nhiên thấy thiếu một con.

Nó đếm đi đếm lại thì vẫn thấy chỉ có chín con.

Nó sợ quá, bèn bỏ ăn cơm trưa, rông ruổi hết cánh đồng này qua cánh đồng khác mà chẳng thấy con bò đó đâu.

Tới chừng tối mịt, nó vừa lùa mấy con bò còn lại vừa khóc lóc om sòm.

Nhác thấy chủ đang đứng chống nạnh đợi mình ở cổng, nó sấn tới chắp tay xá và mếu máo xin lỗi.

Chủ nó hỏi, “Lỗi gì mà mày xin?” Nó thưa, “Con làm mất hết một con bò rồi.

Mong ông chủ đừng bắt đền con.” Ông chủ trợn mắt hỏi, “Vậy chớ mày đang cỡi con gì?”
Đợi cho tiếng cười lắng xuống, xướng ngôn viên kể câu chuyện thứ hai:
Có một bà vợ sau khi chết được lên Thiên Đường, mới gặp một vị Thần gác cổng.

Vị này nói rằng mỗi người đều có một cái đồng hồ chỉ mức độ nói dối; ai nói nhiều thì quay nhiều, ai nói ít thì quay ít.

Bà vợ mới hỏi còn cái của chồng tôi ra sao.

Vị Thần trả lời rằng, “Của ổng hả? Tôi đem làm quạt trần rồi.”
Dàn loa đã được sửa xong, một người thanh niên ăn bận như tài tử bước lên sân khấu trình bày một ca khúc rất ít ai biết của nhạc sĩ Phạm Duy và người hát thành công trước năm 75 là ca – nhạc sĩ Duy Khánh, sau này là ca sĩ Tuấn Vũ, hễ mỗi lần anh giới thiệu bản nhạc trên là lại nhớ về một người.

Biết sức chịu đựng của bà con đã quá giới hạn, anh liền nói:
– Tôi xin phép được trình bày ca khúc “Vùng đất cấm” của nhạc sĩ Phạm Duy, đã được giọng ca Cố Đô Duy Khánh biểu diễn rất tuyệt vời.

Bữa tiệc tàn vào lúc ba giờ chiều.

Sau khi giúp nhau thu gom và quét dọn, bà con chia tay nhau ra về.

Ignacio Cường tới thăm Stephen Đoàn vào lúc năm giờ chiều.

Căn phòng đã được trang hoàng đẹp đẽ và bày biện đâu ra đó.

Cái tủ lạnh hư đã được các Giáo dân ủng hộ Cha Mỹ hùn tiền mua cho anh ta cái mới; thể tích vừa lớn mà màu sắc cũng đẹp hơn cái cũ.

Chủ nhân của căn phòng đó đang nằm dài trên giường.

Máy đọc đĩa than đang phát những bài ca Giáng Sinh du dương và hoài cổ, nhờ vậy mà Ignacio Cường có thêm sự lựa chọn cho ca đoàn nhỏ của Giáo xứ mình.

– Anh có thương ai không anh Mỹ?
– Không.

Chỉ tự trách bản thân tại sao lại tới đó làm chỗ lánh đời.

Cái keo tóp mỡ đã giúp chàng Linh mục họ Huỳnh phát hiện điểm bất thường trong lời ăn tiếng nói của anh bạn đồng tu.

Song Ignacio Cường không nhiều chuyện sấn tới hỏi han.

Tấm áo gió đã bạc phếch vẫn được máng trên cái giá gỗ.

Cái áo đó mua ở chợ đêm trên Đà Lạt, nhân một lần viếng thăm Giáo xứ ở miền đất này.

– Chắc anh và Vũ bị những người ủng hộ tôi gây phiền nhiễu lắm phải không?
Ignacio Cường khó xử gật đầu.

– Cho tôi thay mặt những người đó xin lỗi anh và Vũ.

Ignacio Cường rủ người bạn đồng tu đi dạo một vòng xóm Đạo.

Stephen Đoàn đã thông thuộc từng góc cây, ngọn cỏ nơi đây nên không còn mấy hứng thú với chuyện tản bộ, song vì nể lời của Đức Cường nên đồng ý đi dạo.

Chỗ mà Ignacio Cường dẫn tới là nơi phát hiện tử thi nữ không rõ danh tính.

Vì nằm gần bãi tha ma nên không có ai dựng đất cất nhà; Cha Thành có nói nếu không ai chịu ở thì Cha sẽ đón một gia đình vô gia cư sống dưới gầm cầu về đây sinh sống.

– Ăn ổi hôn?
Stephen Đoàn gật đầu:
– Cho tôi xin một trái.

Cây ổi xá-lị này là ổi rừng, nó có từ trước khi Giáo xứ được thành lập.

Bạn bè cùng giống với nó còn sót lại mười mấy cây.

Xen kẽ với những cây ổi là những bụi cây sả, bạc hà, nghệ, lá dứa, lá cách, tía tô, riềng, sả, nghệ, ngải bún, gừng,…!
Hai người đang ăn ổi và tán gẫu vui vẻ, chợt thấy một nhà bảy người ăn bận lem luốc, đen đúa như vừa mới đi tản cư.

Đoán được đây là đại gia đình mà Cha Thành đề cập nên hai vị Linh mục đón tiếp rất nồng hậu.

Ông lão ngậm ngùi kể:
– Tụi tôi cũng có nhà chứ? Nhưng bị chúng cướp mất rồi.

Còn con trai và con dâu thì bị chúng làm cho mất sở làm nên phải ra ngoài ngoải ở.

Con trai cụ chắp tay thưa:
– Dạ, tụi tôi hứa sẽ trả góp tiền nhà, chứ hổng có ý đồ ở đậu rồi chiếm đất luôn.

Ignacio Cường chống cằm hỏi:
– Sao hồi nãy có tiệc mà quý gia đình hổng vô ăn uống cho vui?
Bà lão phân trần:
– Dạ, tụi tôi hôi hám, dơ dáy như vầy, vô ngồi chung sẽ khiến quý bà con mất vui.

Theo sự sắp xếp của Cha Thành, đại gia đình sẽ sống ở ký túc xá trong khi chờ đợi xây xong ngôi nhà cấp Bốn có gác lửng và sân vườn thoáng đãng.

Cụ không bắt ép nguyên nhà phải theo Đạo, bởi cụ nhớ tới lời Cha Vincent Trung dặn, “Hãy để cho họ tìm về với Chúa một cách tự nhiên.”
Sau khi tắm rửa xong xuôi, đại gia đình được dượng Bảy thết đãi một bữa cơm thịnh soạn.

Hai người thầy của trường Tiểu Học ở gần Giáo xứ giúp mấy đứa nhỏ làm thủ tục nhập học trường mới; còn ba mẹ của tụi nó thì được một ông chủ tới tận nơi phỏng vấn, cái gốc của ổng là “cây đa”, “cây đề” nên chẳng sợ ai hăm he, đe dọa.

Trở lại với Ignacio Cường và Stephen Đoàn, hai người đang đi về phía cổng Tây.

Nơi đây sung túc nhứt trong Giáo xứ, bà con toàn ở nhà lầu và đi xe hơi sang trọng, hàng quán cũng đông vui hơn ba khu còn lại.

Từ tiệm hớt tóc bên đường đang phát bản “Mùa Đông sắp đến trong thành phố” do Ngọc Lan ca, một sáng tác của ca – nhạc sĩ Đức Huy; Lâm Nhật Tiến, Don Hồ và tác giả trình bày cũng rất hay.

– Chúng ta vẫn sẽ có lúc ngã lòng phải không anh Mỹ?
– Có thể có, có thể không…!
Ignacio Cường đưa mắt nhìn khuôn mặt không có nét nào dễ coi của người bạn đồng tu, rồi cúi nhìn một bông mười giờ ngủ ngoan trên lề đường.

Cũng từ tiệm hớt tóc đó, tiếng ca của Lê Uyên trong bản “Bài tình ca mùa Đông” của nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng vẳng đến chỗ hai người.

“…!Để rồi sắp gặp nhau, mới biết em không đợi nữa
Trời lại thêm mùa Đông, để tuyết than trên đầu non…”
– Ca sĩ Ngọc Lan, Thanh Hà, Kiều Nga, Khánh Ly, Lệ Thu hát bài này cũng hay lắm anh Mỹ.

Rồi chàng tu sĩ họ Huỳnh kể cho anh bạn Linh mục nghe về giai thoại sáng tác nên tình khúc sầu mông này: Số là vầy, hồi trẻ cụ Thiêng có yêu một người tên là Đỗ Thái Tần, nhưng bị gia đình đàng gái ngăn cản vì không môn đăng hộ đối với nhà họ.

Sau khi bà Tần lỡ một lần đò và có hai mặt con, họ mới tương phùng.

Nhưng loan phụng hòa minh chưa được bao lâu thì năm 75 ập đến, cụ Thiêng ở lại Việt Nam, còn bà Tần cùng các con sang Mỹ.

Vì quá nhung nhớ người thương mà cụ đã sáng tác bản “Mười năm yêu em”, để kỷ niệm mười năm xa cách nhau.

Sau này, cụ được ca sĩ Thanh Thúy bảo trợ sang Mỹ định cư.

Cụ bèn về ở chung với nhạc sĩ Nhật Ngân, cùng nhau san sẻ tiền nhà.

Cho tới một ngày nọ, bà hay tin cụ đã sang đây nên ghé nhà thăm hỏi.

Lúc đó, nhạc sĩ Nhật Ngân đang ở nhà, thấy vậy mới viện cớ rời nhà đi chỗ khác đặng lánh mặt cho hai người tự nhiên tâm sự.

Trong lúc cụ đang khấp khởi nối lại tình xưa thì hỡi ôi, bà cho cụ hay rằng bà đã đi thêm bước nữa…!Từ nỗi đau ly tan này mà cụ sáng tác ra bản nhạc “Bài tình ca mùa Đông”.

– “Có những chuyện tình không là trăm năm”, nhạc sĩ Việt Dzũng phổ nhạc từ thơ của thi sĩ Quang Dũng.

Trên đời này có muôn vạn mối tình kết cục giống như tựa bài hát.

Điển hình như chuyện tình của cô Lê Uyên và chú Phương chẳng hạn.

Nghe Stephen Đoàn nói vậy, Ignacio Cường gật đầu đồng tình.

Trời lại muốn chuyển mưa.

Những áng mây đen lũ lượt kéo về đây và giăng kín bầu trời trong xanh.

Gió thổi cuốn bụi cát bay mù.

Hai người phải ghé quán cà-phê gần đó lánh cơn mưa dông.

Nắng vàng hắt những tia sáng mỏng manh xuyên qua thảm mây dày đặc; biến không gian trở nên u ám, ma quái khôn cùng.

oOo
– Thưa tổng thống, gia đình chúng tôi đã có mặt.

– Xin cụ hãy gọi con bằng tên riêng “Khánh”, đừng gọi con theo kiểu cách kính ngữ của cụ Petrus Ký.

– Không, xin tổng thống hãy để gia đình chúng tôi gọi như vậy.

Hác Đăng Khánh đỡ ông lão sắp chín mươi ngồi xuống ghế, rồi làm động tác mời những người trong gia đình cụ ông vào chỗ.

Dù đã từng đi du lịch nhiều nước và ăn ở những nơi sang trọng, nhưng đây là lần đầu tiên nguyên nhà được thưởng thức bữa cơm có đủ phẩm lẫn chất.

Kể sơ có các món như sau: Bò bít-tết nướng ngũ vị, súp tôm hùm, cá tầm áp chảo, cà-ri đỏ vịt quay, rau củ đút lò, gỏi dưa leo,…!
– Thưa tổng thống…!
– Chuyện chi xin cụ hãy trình bày cho con nghe.

– Liệu rằng cháu tôi có được bảo đảm an toàn sau khi cung cấp tin tức cho quý cơ quan điều tra không?
– Không chắc chắn, thưa cụ.

Con và phía cơ quan điều tra đang tìm mọi cách để bảo đảm an toàn cho cậu ấy và đại gia đình của cụ.

Sau câu nói ấy, những người trưởng thành im lặng ăn uống.

Chú thì đang lựa lời ăn tiếng nói sao cho không làm cho đại gia đình đó bị tổn thương; còn bên kia thì suy tính nói sao cho tánh mạng đứa cháu trai được gìn giữ.

Duy chỉ có cô cháu gái và hai cháu nhỏ hơn thì vẫn vui cười ăn uống, giỡn hớt với nhau.

Ước chừng hai mươi phút sau, cha của cậu ta rụt rè lên tiếng:
– Thưa tổng thống…!
Hác Đăng Khánh cười hỏi:
– Chuyện chi vậy anh?
Người đàn ông đã qua tứ tuần đó cười gượng gạo, rồi khổ sở giãi bày:
– Tổng…!Anh Khánh có khi nào giận hay trách cứ con tôi vì những lời lẽ nó đã tuôn ra trên mạng không?
– Không, nó vẫn còn là một đứa trẻ ham chơi – muốn có tiền lẹ nên tôi không biết vịn vô đâu để trách nó.

– Vịn vô tôi được không? Con hư tại mẹ mà anh Khánh.

– Không, xin chị đừng nghĩ như vậy.

Con hư hay không phần đông là do bản chất của nó…!
Cụ Chủ Nhà kết thúc màn tranh cãi bằng cách giao chứng cứ tường tận về nhân dạng của những kẻ nghi là thuộc thành viên nhóm chửi thuê mà cháu mình tham gia.

Cụ không quên bổ sung những chi tiết mà mình nghĩ có thể giúp ích cho cơ quan điều tra và giữ mạng cho đứa cháu trai.

Nghe xong, chú có cảm tưởng bản thân bị đèo thêm cái nghề điều tra viên; có vẻ như ông cụ đó không tin tưởng nổi cơ quan điều tra và tố tụng Nước Nhà nên mới tới tận đây “méc” với mình.

Chiếc USB này sẽ là công cụ cứu chuộc hay đồ sát đây?
Sực nhớ chuyện xảy ra ở tòa soạn Canh Tân, cụ Chủ Nhà hấp tấp thuật hết những gì mình biết cho tổng thống nghe.

Chú hỏi lại để xác nhận địa điểm:
– Tòa soạn Canh Tân?
Tòa soạn “Canh Tân” là nơi làm việc của ký giả Sương Tuyết, người bạn điên của thầy chú.

Cách đây mấy tuần, có một băng du đãng kéo tới tòa soạn quậy phá; Tuyết và những người bạn đồng nghiệp nam đã tả xung hữu đột để bảo vệ phái nữ và tài sản tòa soạn.

Vừa dùng dao xắt miếng thịt bò, con trai cụ ông vừa bình phẩm:
– Có người chửi thuê – khóc mướn giùm chủ quanh năm suốt tháng mà không dư ra một đồng lận lưng để đi ăn bò bít-tết ở chỗ sang như khứa chủ.

– Thằng cháu tôi nó được chiều riết sinh hư.

Có một lại đòi ba, thấy người ta có cái gì là bất chấp thủ đoạn kiếm tiền để mua cho bằng được.

Mà mấy cái đồ đó xài chừng mấy tháng là qua thời – hạ giá như hàng tôm, cá ế ngoài chợ, chứ có phải báu bở, hiếm lạ gì mà xúm nhau làm giàu cho thiên hạ.

Hác Đăng Khánh gật đầu, không phải là đồng tình với người ông đáng thương mà là xác nhận chú đang lắng nghe.

– Xin tổng thống cứu mạng cháu trai tôi.

Chú cười khổ mà thưa rằng:
– Con sẽ ráng hết sức, thưa cụ.

Nhưng nếu như tâm tánh cậu ta không thay đổi, thì coi như con đành phụ rẫy lòng tin tưởng của cụ và đại gia đình.

– Nó học ai mà ăn nói mất dạy, hàm hồ như vậy chứ?
– Chẳng học ai hết.

Tự bản thân cậu ta sinh ra tánh nết như vậy.

Thử thời bắt cụ Petrus Ký chửi tục, cụ chắc chắn sẽ không làm.

Cụ Chủ Nhà hỏi:
– Có bao giờ con giận hay trách những người đã phỉ nhổ, lăng mạ, đơm đặt hay hãm hại mình không??
– Khi mình không có làm gì sai hết, thì chẳng cần sợ lời đặt điều hay sự rình rập hãm hại của bất kỳ ai.

Con tin Trời cao có mắt, và hồn thiêng sông núi Nước Nam anh linh lắm…!
Hác Đăng Khánh mời đại gia đình cụ Chủ Nhà ăn vài món tráng miệng.

Chú nhờ “ba ông đầu rau” chuẩn bị các thức ăn chơi như sau: Chè Thái, dâu nhúng chocolate và trái cây dĩa; chú còn sợ cụ ông răng yếu nhai không được mạnh miệng nên đã nhờ bếp trưởng nấu thêm món rau câu Ngũ Phúc Tinh..


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.