Đọc truyện Những kẻ điên rồ phải chết – Chương 15: phần 3
Tất nhiên là, có những người anh em mà bạn sẽ không yêu cầu giữ tiền hộ vì họ sẽ giữ luôn cho bạn do vì quá nhiệt tình, sợ bạn sẽ bị hư hỏng bởi tiền bạc. Tôi nghĩ đến một người khác – Culli. Tôi sẽ hỏi anh ta về cách tốt nhất để cất giấu tiền bạc, khi anh đến đây lần tới. Culli sẽ biết bởi vì đó là ngón sở trường của anh ta. Và tôi phải giải quyết vấn đề. Tôi có linh cảm rằng tiền bạc sắp chảy vào càng lúc càng nhanh hơn.
Tuần sau, tôi đưa Jeremy Hiller vào anh sách quân dự bị mà không gặp trở ngại nào và ông Hiller rất biết ơn đến nỗi ông ân cần mời tôi đến chỗ đại lí của ông để thay bộ vỏ ruột mới cho chiếc Dodge của tôi. Tự nhiên tôi nghĩ đây là do lòng biết ơn và tôi vui vì ông ta là một doanh nhân. Trong lúc tay thợ cơ khí thay bộ săm lốp mới vào chiếc xe tôi, ông Hiller đưa ra một đề nghị mới với tôi.
Ông ta khởi động bằng cách dọn ra vài món khai vị dễ chịu. Với một nụ cười ngưỡng mộ, ông ta khen tôi khôn ngoan, trung thực và tuyệt đối đáng tin cậy. Làm ăn với tôi thật dễ chịu và nếu có khi nào tôi thôi làm cho nhà nước, ông sẽ dành cho tôi một việc làm tốt. Tôi nuốt ngon lành những “món nhắm” quá ư “bắt mồi” kia, bởi trong đời tôi ít được ai khen, quá ít! Ngoại trừ ông anh Artie của tôi và vài tay điểm sách chưa mấy nổi danh. Tôi còn không đoán được cả điều gì sắp xảy ra nữa là.
– Tôi có một người bạn thân đang cần anh giúp vô cùng, – Ông Hiller nói. – Ông ấy có cậu con rất cần được đăng kí đầu quân vào chương trình sáu tháng của quân dự bị.
– Chắc là được thôi, – Tôi nói. – Gửi cậu ta đến gặp tôi và bảo cậu ta nhắc tên ông.
– Song le, có một vấn đề lớn, – Ông Hiller nói. – Cậu ta đã nhận giấy gọi nhập ngũ.
Tôi nhún vai:
– Nếu vậy thì cu cậu hết dịp may rồi. Nói với bố mẹ cậu ta hãy hôn tạm biệt con họ trong hai năm.
Ông Hiller cười:
– Anh có chắc rằng một chàng trai khôn khéo như anh lại không làm được điều gì cả sao? Anh mà cũng chịu bó tay à? Khối tiền đấy. Bố cậu ấy là một nhân vật, rất ư quan trọng.
– Không, tôi chịu. Những quy định của quân đội rất rõ. Một khi chàng trai nhận được giấy gọi nhập ngũ thì anh ta không còn đăng kí vào chương trình sáu tháng của quân dự bị được nữa. Đám quan chức ở Washington đâu có ngốc nghếch đến thế. Nếu không mọi người ai cũng đợi có giấy gọi nhập ngũ rồi mới đăng kí vào quân dự bị.
Ông Hiller nói:
– Ông này mong muốn được gặp anh. Ông ta muốn vận dụng mọi khả năng, anh biết tôi muốn nói gì chứ?
– Không còn điểm nào có thể chen vào được. Tôi chịu, không có cách gì giúp ông ấy được.
Lúc đó ông Hiller hơi nghiêng người về phía tôi và nói:
– Anh cứ đến gặp ông ta giùm tôi, – Ông nói.
Và tôi hiểu. Tôi chỉ cần đến gặp ông kia thôi, ngay dầu tôi có từ chối, thì ông Hiller cũng là người hùng đối với ông ta. Được rồi, vì bốn bộ săm lốp mới, tôi có thể bỏ nửa giờ để nói chuyện với một ông nhà giàu, dù rằng chuyện sẽ chẳng đến đâu.
– Ok, – Tôi đáp.
Ông Hiller viết trên một mẩu giấy nhỏ và đưa cho tôi. Tôi nhìn vào. Tên người đó là Eli Hemsi và có số phôn. Eli Hemsi là tên tuổi lớn nhất trong ngành công nghiệp may mặc ở Mỹ, hay gặp rắc rối với công đoàn, có dính líu đến giới tội phạm có tổ chức. Nhưng ông ta cũng là một trong số những nhân vật sáng chói của thành phố. Một người mua các chính trị gia, một trụ cột nâng đỡ những công cuộc từ thiện. Nếu như ông ta quả là cái nhân vật to đùng đó thì hà cớ gì mà sư tử lại phải nhờ đến chuột nhắt (là cái thằng tôi bé tí tẹo này). Tôi đặt câu hỏi đó với ông Hiller.
– Bởi vì ông ấy khôn lắm, – Ông Hiller nói. – Ông ta là dân Do Thái Sephardic, những kẻ tinh khôn nhất trong đám Do Thái vốn vẫn được coi là tinh khôn khó ai bì. Ngoài cái gốc Do thái, giống này còn mang các dòng máu Ý, Tây Ban Nha và Arập và sự pha trộn này đã tạo ra họ là những sát thủ ghê hồn ngoài chuyện họ là những kẻ tinh khôn quá cỡ? Thế nên lão Eli Hemsi không muốn để con trai mình thành con tin ột tay chính trị gia cáo già nào có thể kì kèo với ông ta những khoản ân huệ quá lớn. Vậy nên, lão nghĩ đến với anh sẽ được “rẻ, đẹp, bền” hơn. Vả chăng, tôi cũng có hót với lão rằng anh hết ý, rất đáng tin cậy. Chơi bài lật ngửa luôn, tôi có thể nói thẳng với anh rằng hiện nay anh là người duy nhất có thể giúp ông ta. Còn những tay tai to mặt lớn lại rất ngại bước vào lãnh vực quân đội, bởi đó là “miền đất dữ,” rất nhạy cảm. Mấy tay chính trị gia ớn lắm, không muốn dây vào.
Tôi nghĩ đến tay đại biểu quốc hội đã đến văn phòng tôi. Vậy là lão ấy có bùa “gươm đâm không thủng, đạn bắn đi lệch” hay sao? Hay có lẽ lão đã đến cuối sự nghiệp chính trị rồi nên đếch cần giữ kẽ nữa? Ông Hiller vẫn đang nghía tôi cẩn thận.
– Đừng hiểu lầm tôi, – Ông nói. – Tôi cũng gốc Do Thái. Nhưng với dân Do thái Sephardic anh nên rất tiểu tâm nếu không họ sẽ lấn lướt anh. Những kẻ “khôn ăn người” mà! Vậy nên khi anh đến gặp lão ấy, nhớ động não, hết công suất nhé!
Ông tạm ngưng và hỏi tôi, vẻ lo lắng.
– Anh không phải dân Do Thái chứ?
– Tôi cũng không rõ, – Tôi nói.
Lúc đó tôi nghĩ đến mình cảm nhận như thế nào về thân phận trẻ mồ côi. Chúng tôi đều bất bình thường. Không biết về cha mẹ mình, chúng tôi không bao giờ nghĩ ngợi chuyện mình gốc Do Thái hay Ireland hay là gốc quái quỷ gì.
***
Ngày hôm sau tôi gọi ông Eli Hemsi nơi văn phòng ông Giống như những vị đàn ông có vợ khi liên lạc chuyện làm ăn, những ông bố của các khách hàng của tôi chỉ cho tôi số điện thoại nơi làm việc. Nhưng họ cần có điện thoại riêng của tôi, phòng trường hợp họ phải tiếp xúc với tôi ngay. Tôi đã nhận rất nhiều cú điện thoại khiến Vallie ngạc nhiên. Tôi bảo nàng đó là những cuộc gọi liên quan đến chuyện cá độ và những bài viết cho tạp chí.
Ông Hemsi yêu cầu tôi đến văn phòng ông trong giờ ăn trưa và tôi đến. Đó là một trong các tòa cao ốc của trung tâm may đo trên đại lộ số bảy chỉ cách kho quân nhu mười phút chạy xe. Một cuộc dạo chơi dễ chịu trong không khí mùa xuân.
Trong tòa nhà, người tiếp tân dẫn tôi đi qua những showrooms trưng bày những kiểu quần áo mới ùa tới. Rồi tôi được đưa qua một cánh cửa nhỏ đi vào dãy văn phòng ông Hemsi. Cô tiếp tân chuyển giao tôi cho cô thư kí của ông Hemsi, một phụ nữ trung niên nghiêm túc, phục sức rất lịch sự. Bà ta đưa tôi vào phòng trong.
Ông Hemsi trông khôi ngô tuấn vĩ như một kị sĩ Cô-dắc với bộ comple cắt may thật vừa khéo, áo sơ mi trắng loại cực sang với cà vạt đỏ sẫm. Nét mặt ông rất sắc sảo nhưng tia nhìn lại nhuốm vẻ buồn man mác. Trông ông có dáng dấp quý tộc và vẻ bề thế của một bậc trưởng thượng khả kính. Ông đứng lên từ bên kia bàn giấy và nắm cả hai bàn tay tôi trong đôi tay ông để chào đón tôi. Ông nhìn sâu vào mắt tôi. Ông sát người vào tôi và nói rất nghiêm trang:
– Ông bạn tôi nói đúng, anh có một trái tim nhân hậu. Tôi biết anh sẽ giúp tôi.
– Thực sự tôi không thể giúp ông đâu. Tôi muốn lắm, nhưng tôi không có khả năng, – Tôi nói.
Và tôi giải thích toàn bộ về quy định tuyển quân cho ông nghe như tôi đã nói với ông Hiller. Tôi có vẻ lạnh lùng hơn là tôi muốn nói. Tôi không thích những người nhìn sâu vào mắt tôi.
Ông ngồi đó, gục gặc đầu một cách trang nghiêm. Rồi làm như không hề nghe tôi nói một lời nào, ông ta cứ nói tiếp, giọng ông thực sự buồn bã.
– Bà vợ đáng thương của tôi hiện nay sức khỏe rất kém. Bây giờ mà phải xa con chắc bà ấy chết mất. Bà ấy sống chỉ vì thằng con đó. Nếu nó phải đi xa cả hai năm dằng đẵng, chắc bà không sống nổi. Ông Merlin, ông phải giúp tôi. Nếu ông làm việc này cho tôi, tôi sẽ làm cho ông được hạnh phúc suốt phần đời còn lại.
Không phải điều đó thuyết phục tôi. Không phải tôi tin vào một lời nào của ông. Nhưng câu chót của ông tác động đến tôi. Chỉ có vua chúa mới có thể nói với một người nào đó: “Ta sẽ làm cho người được hạnh phúc suốt phần đời còn lại.” Ông ta tin vào quyền lực của mình quá Nhưng tất nhiên lúc đó tôi nhận ra rằng ông ta đang nói về tiền bạc.
– Để tôi suy nghĩ xem, – Tôi nói. – May ra có thể tôi tìm được diệu kế gì chăng.
Ông Hemsi gục gặt đầu một cách thật trầm trọng:
– Tôi biết anh sẽ cố. Tôi biết anh có một trí tuệ thông minh và tấm lòng nhân hậu, – Ông nói. – Anh đã có con chứ?
– Vâng, có, – Tôi đáp.
Ông hỏi tôi có mấy đứa chúng bao lớn, trai hay gái. Ông hỏi thăm vợ tôi, hỏi nàng mấy tuổi. Ông xử sự kiểu thâm tình như một ông chú ông bác. Rồi ông hỏi địa chỉ và điện thoại nhà riêng của tôi để có thể liên lạc trực tiếp khi cần.
Khi tôi từ biệt, ông đích thân tiễn tôi đến thang máy. Tôi thử nghĩ mình đã làm xong việc. Tôi không có ý tưởng nào về việc gỡ cậu con ông ta khỏi cái lưỡi câu của bên động viên quân chính quy.
Và ông Hemsi nói đúng tôi thực sự có một tấm lòng nhân hậu. Tôi có trái tim khá trung thực để không tìm cách đánh lừa nỗi lo lắng của ông và bà vợ ông để rồi không làm được chuyện gì. Và tôi có một cái đầu khá thông minh để không vướng vào một con cá đã dính câu bên quân đội. Cậu ta đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ và sẽ đi vào quân đội chính quy trong tháng tới. Mẹ cậu sẽ phải sống không có cậu.
Ngay ngày hôm sau Vallie gọi điện thoại cho tôi lúc tôi đang làm việc. Giọng nàng rất hồ hởi phấn khởi.
Nàng bảo tôi là nàng vừa nhận được một phần hàng đặc biệt với năm thùng quần áo mới toanh. Quần áo đủ loại cho đám nhóc ùa thu đông sắp tới, đẹp khỏi chê. Cũng có một thùng riêng cho nàng. Toàn thứ đắt tiền chúng tôi chưa từng bao giờ có thể mua nổi.
– Có một danh thiếp. – Nàng bảo. – Từ ông Hemsi. Ai vậy? Merlin, quà đẹp lắm. Tại sao ông ấy cho anh quà đó?
– Anh viết mấy tập giới thiệu doanh nghiệp của ông ấy, – Tôi nói. – Tiền bạc không bao nhiêu nhưng ông có hứa gửi cho lũ trẻ nhà mình ít quà. Nhưng anh nghĩ không có gì nhiều.
Tôi nghe được vẻ hài lòng trong giọng nói của Vallie:
– Ông ấy thật khả ái. Toàn bộ các thùng quà chắc phải đáng giá hơn cả ngàn đô.
– Tuyệt quá. – Tôi nói. – Tối nay anh sẽ nói với em rõ hơn.
Sau khi gác máy, tôi kể với Frank về những chuyện đã xảy ra về ông Hiller, nhà buôn xe Cadillac.
Frank lác mắt nhìn tôi:
– Cậu mắc câu rồi đó, – Anh nói. – Ông ta chờ đợi cậu làm điều gì đó cho ông ta. Cậu làm thế nào để gỡ rối đây?
– Biết làm quái gì đây, – Tôi nói. – Tôi không thể nghĩ ra tại sao tôi lại đồng ý đi gặp lão ta.
– Tại vì những chiếc Cadillac mà cậu đã thấy nơi phòng trưng bày của Hiller, – Frank nói. – Cậu cũng giống như mấy thanh niên da màu kia. Bọn chúng sẵn sàng quay về những căn chòi xác xơ ở châu Phi nếu chúng có thể ngồi vào chiếc Cadillac chạy loanh quanh vài vòng.
Tôi nhận ra một chút trục trặc trong diễn từ của anh. Hầu như anh đã định nói “bọn da đen” nhưng đã kịp chuyển sang “đám da màu.” Tôi tự hỏi phải chăng vì anh thấy xấu hổ khi nói ra những từ thô lỗ hay vì anh nghĩ tôi có thể cảm thấy bị xúc phạm. Nhưng anh nói đúng về chuyện những chiếc Cadillac khiến tôi mắc câu. Đó là lí do tại sao tôi đã đồng ý gặp Hemsi theo lời Hiller. Trên đường về, đầu óc tôi đã mơ màng nghĩ đến có lúc mình sẽ chễm chệ ngự trên một trong những chiếc xe bóng loáng, sang trọng đó.
Đêm đó, khi tôi về nhà, Vallie đã tổ chức một màn trình diễn thời trang với đám nhóc cho tôi thưởng lãm.
Năm thùng quần áo khổng lồ để cho nàng và lũ trẻ tha hồ phô diễn mọi kiểu y trang lộng lẫy. Vallie hồ hởi, rạng rỡ như đã từ lâu tôi chưa từng thấy. Lũ trẻ hài lòng nhưng không quá quan tâm đến quần áo ở tuổi chúng, ngay cả con gái tôi. Có lẽ tôi cần kiếm một nhà sản xuất đồ chơi có con trai sắp phải tòng quân, để đem lại niềm vui cho đám con của tôi hơn.
Nhưng rồi Vallie chỉ ra rằng nàng phải có những đôi giày mới cho tương thích với những bộ quần áo mới.
Tôi bảo nàng hãy nán lại một thời gian và tôi ghi sổ để nhớ kiếm một cậu con trai của ông chủ xưởng giày.
Bây giờ, điều lạ lùng là có lẽ tôi đã cảm thấy rằng ông Hemsi đang bảo trợ cho tôi nếu như quần áo ông cho chỉ thuộc loại thường. Có lẽ tôi sẽ cảm thấy sự tủi thân của người nghèo nhận đồ cũ của người giàu. Đàng này quà tặng của ông toàn là thứ hàng “xịn” với chất lượng thượng hảo hạng mà tôi sẽ không bao giờ dám mua sắm, dù tôi có vơ vét được tiền hối lộ đến bao nhiêu đi nữa. Số quà này đáng giá cỡ năm ngàn đô, chứ không phải một ngàn như vợ tôi tưởng đâu. Tôi liếc qua tấm danh thiếp đính kèm. Đó là một thiếp doanh nhân với tên họ Eli Hemsi và chức vụ Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc cùng tên hiệu của hãng xưởng với địa chỉ và số phôn. Ngoài ra không có dòng chữ viết nào. Ông Hemsi thật khôn ngoan đúng mực. Không có một bằng chứng trực tiếp nào rằng chính ông ta gửi lô hàng đó cho tôi và tôi không có gì để phải phiền ông ta cả.
Khi đến văn phòng, tôi đã nghĩ rằng có lẽ tôi nên gửi trả lô quà lại cho ông Hemsi. Nhưng sau khi thấy Vallie vui sướng đến như thế nào với các thùng quà, tôi biết rằng ý định kia là bất khả thi? Tôi nằm thao thức đến ba giờ sáng, cố nghĩ ra những cách nào giúp cho con trai ông Hemsi thoát khỏi vòng lưới của luật động viên.
Ngày hôm sau, khi đi vào văn phòng, tôi quyết định: sẽ không thực hiện cái gì trên giấy tờ có thể lưu lại dấu vết để hồi tố tôi một hoặc hai năm sau. Chuyện này mà để vướng là rối lắm đấy. Bởi vì ăn tiền để đưa một thanh niên lên đầu danh sách cho chương trình sáu tháng là một chuyện, còn vớt anh ta ra khỏi lưới động viên sau khi anh ta đã nhận lệnh gọi nhập ngũ, lại là một chuyện khác.
Vì thế, việc đầu tiên tôi làm là gọi đến trung tâm nhập ngũ của Hemsi. Tôi gặp một thư kí ở đó, một anh chàng làm công việc đại khái giống như tôi. Tôi tự giới thiệu lí lịch nhân thân và kể cho anh ta nghe câu chuyện tôi mới nghĩ ra. Tôi nói với anh ta rằng Paul Hemsi đã đăng kí vào danh sách của tôi cho chương trình sáu tháng và rằng tôi đã ghi tên anh ta hai tuần trước rồi nhưng tôi đã gửi thư cho anh ta mà lại ghi nhầm địa chỉ. Rằng chuyện này hoàn toàn là lỗi của tôi và tôi cảm thấy bức rứt về điều đó và rằng có thể tôi gặp rắc rối trong công việc nếu gia đình cậu ta làm om sòm lên vụ này. Tôi hỏi anh ta xem bên động viên có thể hủy bỏ thông báo nhập ngũ để tôi có thể ghi danh anh ta không? Tôi sẽ gửi mẫu chính thức thông thường cho bên trung tâm nhập ngũ, chửng tỏ rằng Paul Hemsi đã đăng kí vào chương trình sáu tháng của quân dự bị và họ có thể lấy anh ta ra khỏi sổ đăng kí nhập ngũ. Tôi đã vận dụng, theo tôi nghĩ một giọng nói của một người đàng hoàng tử tế cố gắng để điều chỉnh một sơ sót. Trong khi diễn màn kịch ứng tác này, tôi bóng gió gợi ý rằng nếu anh ta có thể giúp tôi chuyện này thì tôi sẽ giúp đưa một người bạn của anh ta vào chương trình sáu tháng.
Cái mánh lới tân kì này tôi vừa mới nghĩ ra trong đêm trước, lúc nằm thao thức không ngủ được. Tôi hình dung ra rằng những tay thư kí bên trung tâm động viên có lẽ được tiếp xúc bởi những thanh niên đang quýnh lên vì sắp bị gọi nhập ngũ và chắc là bọn họ nhận được nhiều lời đề nghị. Và tôi nghĩ rằng nếu một tay thư kí có thể đưa một khách hàng vào chương trình sáu tháng ắt là sẽ được đền ơn đến cả ngàn đô-la chứ không ít.
Nhưng anh chàng bên trung tâm động viên xử lí chuyện này có vẻ rất bình thường, vô tư, đến nỗi tôi không nghĩ là anh ta bắt được cái ý là tôi đang đề nghị một áp-phe với anh ta. Anh ta nói được thôi, anh ta sẽ rút giấy báo nhập ngũ, rằng chuyện đó không thành vấn đề lắm và bỗng nhiên tôi có cảm tưởng rằng có những kẻ tinh khôn hơn tôi đã từng tung hứng màn xiếc kĩ xảo này.
Dẫu sao, ngày hôm sau, tôi cũng nhận được bức thư báo từ bên trung tâm động viên và tôi gọi cho ông Hemsi, bảo ông gửi cậu con đến văn phòng tôi để đăng kí.
Mọi chuyện diễn ra xuôi chèo mát mái. Paul Hemsi là một chú nhóc dễ thương, ăn nói nhỏ nhẹ, rất rụt rè, cả thẹn, hay là cậu ta tỏ ra như thế với tôi. Tôi bảo cậu ta tuyên thệ, chuẩn bị giấy tờ cho đến khi có lệnh gọi. Tất cả được thực hiện suôn sẻ, êm thắm, không gặp trở ngại nào. Quả thật tôi đã gặp hên khi nuốt trôi được cái món “quá hớp” này.
Giờ đây tôi nhận ra rằng toàn bộ hành động này đang trở nên khá nóng và liên quan đến nhiều nhân vật thế lực. Nhưng đâu phải vô cớ mà tôi là pháp sư Merlin?
Tôi đội chiếc mũ đầy sao lên và bắt đầu suy nghĩ kĩ về mọi chuyện. Một ngày nào đó toàn bộ những chuyện này sẽ bể mánh hết! Lúc đó thì chưa biết cái thân phận thằng tôi rồi sẽ như thế nào? Tôi đã thủ một vỏ bọc khá kĩ, trừ tiền bạc còn cất trong nhà. Tôi phải đem giấu tiền chỗ khác. Đó là việc cần kíp trước tiên. Và rồi tôi phải chứng tỏ những nguồn thu nhập khác để có thể công khai tiêu tiền.
Tôi có thể đem tiền gửi cho Culli ở Las Vegas.
Nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu Culli chơi trò láu cá hay giở quẻ với tôi? Hay là anh ta bất đắc kì tử? Còn để hợp pháp hóa tiền bạc, tôi đã từng có những chào mời viết những bài điểm sách và bài cho các tạp chí, nhưng tôi vẫn từ chối. Tôi là một người kể chuyện thuần túy, một nhà văn hư cấu. Đối với tôi và đối với nghệ thuật của tôi, thì viết bất kì cái gì khác cũng có vẻ như là tự hạ mình? Nhưng bây giờ thì khác. Tôi đã là một kẻ móc ngoặc thì còn có cái gì dưới mình nữa đâu?
Frank yêu cầu tôi đi ăn trưa với anh và tôi đồng ý. Trông anh ta phởn phơ hứng chí lắm. Đúng dáng điệu một con người đang ăn nên làm ra, vồ đâu trúng đấy!
Anh ta vừa qua một tuần thắng độ liên tiếp và tiền bạc vẫn vô đều đều. Chẳng chút bận tâm chi đến những gì tương lai có thể mang lại, anh ta cứ tin rằng mình vẫn sẽ tiếp tục thắng và rằng toàn bộ cái mưu đồ ăn hối lộ sẽ cứ vận hành trơn tru mãi mãi. Dù không nghĩ mình là một pháp sư nhưng anh ta vẫn tin vào một thế giới ma thuật, huyền ảo.