Những kẻ điên rồ phải chết

Chương 14phần 2


Đọc truyện Những kẻ điên rồ phải chết – Chương 14: phần 2

Thế nên tôi bèn kín đáo thi thố một “chiêu” nhỏ mà họ không thể biết được. Tôi khuyên chú nhóc vào ngành M.O.S (Military Occupational Specialty), một chuyên ngành của quân đội mà hắn sẽ được huấn luyện.
Tôi khuyên cậu ta đăng kí vào một trong những chuyên ngành điện tử của đơn vị. Thật ra tôi tin chắc rằng thằng nhóc này sẽ là một trong những chàng lính dự bị đầu tiên được gọi vào hàng ngũ chiến đấu một khi sơn hà nguy biến. Đó là một cú bắn tầm xa nhưng đâu có ai nhận ra.
Viên thiếu tá bước ra kêu thằng nhóc vào, bảo hắn lặp lại lời thề tận trung báo quốc của người chiến sĩ. Rồi mọi người bắt tay nhau. Thằng nhóc cố giữ tự chủ cho đến khi hắn và lão đại biểu quốc hội bắt đầu bước ra khỏi văn phòng tôi. Lúc đó thằng nhóc nở nụ cười chúm chím với lão kia.
Đó là nụ cười của đứa bé khi thực hiện một trò rắn mắt hay ma mãnh và qua mặt được người lớn, một nụ cười khó ưa trên khuôn mặt của một kẻ hậu sinh khả ố.
Nhất là trong tình huống này. Tôi hiểu rằng nụ cười đó thực ra không làm hắn trở thành một kẻ xấu xa, nhưng nụ cười đó đã xá tội cho tôi về việc đã đưa hắn vào cái bẫy chuyên ngành quân sự.
Frank Alcore đã nhìn toàn bộ sự việc từ bàn giấy của anh ta, phía bên kia của căn phòng. Anh ta không để phí chút thời gian nào.
– Bao giờ cậu mới thôi làm một thằng thủ dâm tinh thần? – Frank hỏi. – Lão đại biểu ấy móc mất một trăm đô-la từ túi của bạn. Và chỉ có Trời biết lão hưởng được bao nhiêu trong vụ áp phe lính kiểng này. Tầm cỡ lão ít ra cũng phải được đấm mõm dăm ba ngàn đô. Thằng nhãi đó mà lọt vào tay tớ, ít ra là tớ cũng bóp nặn được năm con ong mật. Để vụt mất một con bò sữa quá béo bở thật phí của giời?
Anh nổi giận một cách tích cực! Khiến tôi phì cười.
– A, cậu không chịu nhìn sự việc một cách nghiêm chỉnh đúng mức, – Frank nói. – Cậu có thể vồ được những món tiền khơ khớ, rất khỏe mà cũng rất an toàn, để giải quyết bao nhiêu chuyện nhức đầu cho cậu để cho vợ con cậu mặt tươi lên một tí, nếu cậu chịu nghe lời tớ.
– Không, tôi dứt khoát không, – Tôi nói.
– Thôi được, thôi được, – Frank nói. – Nhưng cậu làm ơn làm phước giúp ình nhé. Mình cần một khe trống. Cậu có thấy cái thằng nhóc tóc đỏ ở bàn mình không? Nó sẽ chi năm trăm. Nó đang chờ giấy gọi thi hành nghĩa vụ quân sự bất cứ ngày nào. Một khi đã có giấy báo, hắn không còn có thể đăng kí vào chương trình sáu tháng được nữa. Như vậy là trái quy định. Vì thế mình phải đăng kí cho cu cậu ngay hôm nay. Và mình không còn khe nào trong các đơn vị của mình nữa. Mình muốn cậu ghi tên hắn vào các đơn vị của cậu và mình sẽ cưa đôi khoản này với cậu. Mong cậu giúp ột lần này thôi!
Anh nài nỉ với vẻ tuyệt vọng vì thế tôi động lòng và nói:
– Thôi được, gửi thằng nhóc đến cho tôi. Nhưng tiền thì anh cứ giữ hết. Tôi không muốn lấy.
Frank gật đầu:
– Cám ơn. Tôi sẽ giữ luôn phần của cậu. Khi nào cậu đổi ý cứ thẳng thắn cho tôi biết.
Đêm hôm đó, khi tôi về nhà, Vallie cho tôi ăn món xúp và tôi chơi đùa với lũ trẻ trước khi chúng đi ngủ. Sau đó Vallie bảo nàng cần một trăm đô-la để mua quần áo, giày dép cho lũ nhóc vào dịp lễ Phục Sinh. Nàng chẳng nói gì về chuyện sắm sửa cho nàng, mặc dầu cũng giống như mọi tín đồ Công giáo việc sắm một bộ quần áo mới trong dịp lễ Phục Sinh đối với nàng cũng hầu như là một nghĩa vụ tôn giáo.
Sáng hôm sau, tôi vào văn phòng và nói với Frank:
– Nghe đây, tôi đã đổi ý. Tôi lấy nửa của tôi.
Frank vỗ vai tôi:
– Cậu không còn trẻ con nữa. Thế mới phải chứ, – Anh nói.

Anh khoèo tôi vào phòng vệ sinh nam và rút ví ra, đếm năm tờ năm mươi đô-la trao tay tôi.
– Mình sẽ có khách hàng khác trước cuối tuần.
Tôi không trả lời anh.
Đó là lần duy nhất trong đời tôi mà tôi đã làm một chuyện thực sự không tử tế. Và tôi đã không cảm thấy có gì ghê gớm cho lắm. Và ngạc nhiên thay tôi lại thực sự cảm thấy hứng thú. Tôi vui như sáo sậu và trên đường về nhà tôi mua quà cho Vallie và đám nhóc. Khi đến nhà và đưa cho Vallie một trăm đô-la để mua sắm quần áo mới cho lũ trẻ, tôi có thể thấy nàng có vẻ nhẹ người vì sẽ không phải xin tiền bố mẹ. Đêm đó tôi ngủ ngon giấc như chưa từng có trong bao năm rồi.
Sau đó tôi độc lập tác chiến, không cần dựa vào Frank nữa. Toàn bộ nhân cách của tôi bắt đầu thay đổi.
Thật là một ám ảnh thường xuyên khi làm kẻ chịu móc ngoặc. Chuyện kiếm chác bất chính đó đã lấy đi những gì tốt đẹp nhất nơi tôi. Tôi bỏ cả việc viết văn; trong thực tế tôi đã mất hứng thú đối với quyển sách mới mà tôi đang sáng tác. Lần đầu tiên trong đời, tôi tập trung vào công việc chính quyền.
Tôi bắt đầu nghiên cứu những bộ sách dày cộm về các luật lệ và quy định trong quân đội, tìm kiếm tất cả những kẽ hở pháp lí qua đó những ai đang phục vụ dưới cờ có thể thoát khỏi quân đội. Một trong những điều đầu tiên tôi học được đó là những tiêu chuẩn giám định y khoa để phân loại sức khỏe cho thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự được hạ thấp hay nâng ột cách khá tùy tiện. Một chàng trai trong đợt khám tháng này có thể được coi là thiếu sức khỏe để phục vụ quân đội nhưng sáu tháng sau lại được xếp hạng “chiến đấu vì sức khỏe tốt.”
Tất cả tùy thuộc vào chỉ tiêu tuyển quân do Washington đưa ra. Và có thể còn tùy thuộc cả vào sự phân bổ ngân sách. Có những điều khoản quy định rằng những ai đã từng qua trị liệu sốc vì rối loạn tinh thần thì không thể được tuyển mộ vào quân đội. Nhưng kẻ đồng tính ái cũng vậy. Hay là nếu anh ta đang làm công việc với chuyên môn kĩ thuật cao, nếu cho làm lính thì quá phí phạm nhân tài.
Rồi tôi nghiên cứu các khách hàng của tôi. Họ ở trong độ tuổi từ mười tám tới hai mươi lăm và những “món nóng sốt” thường ở độ tuổi hăm hai, hăm ba, vừa tốt nghiệp cao đẳng hay đại học và kinh hoàng với ý nghĩ phí phạm hai năm tuổi trẻ trong quân ngũ. Họ cuống cuồng đi đăng kí vào quân dự bị và chỉ phải thi hành sáu tháng nghĩa vụ tích cực.
Những kẻ này đều có tiền hoặc xuất thân từ những gia đình giàu có hoặc ít ra cũng khá giả. Họ đều được đào tạo để đi vào những ngành nghề chuyên môn. Một ngày nào đó, họ sẽ là giai cấp trung lưu lớp trên, nhưng kẻ giàu sang, những người lãnh đạo trong những lãnh vực khác nhau của đời sống Mỹ. Trong thời chiến tranh, họ sẽ tìm cách để vào trường sinh viên sĩ quan. Bây giờ họ đang mong muốn được vào làm thợ nướng bánh hay sửa quần áo hay bảo trì cơ khí ô tô trong quân đội. Một người trong bọn họ ở tuổi hai mươi lăm đã có địa vị nơi thị trường chứng khoán New York; một người khác là chuyên gia ngành bảo hiểm. Vào thời đó, thị trường chứng khoán Wall Street đang sôi động với những cổ phiếu mới vừa được phát hành đã tăng vọt lên mười điểm và đám này phất lên nhanh chóng. Tiền bạc luân lưu thông suốt. Họ trả tiền tôi và tôi trả cho anh Artie số tiền mấy ngàn đô-la mà tôi nợ anh. Anh ngạc nhiên và hơi tò mò. Tôi bảo anh là tôi gặp hên trong bài bạc. Tôi quá xấu hổ để nói sự thật cho anh biết và đó là một trong những lần hiếm hoi mà tôi nói dối anh.
Frank trở thành nhà tư vấn của tôi:
– Hãy trông chừng mấy thằng nhãi ranh này, – Anh nói. – Chúng là một bọn chạy chọt xoay sở. Phải tỏ ra cứng cựa để chúng nể nang cậu.
Tôi nhún vai. Tôi không hiểu những phân biệt đạo đức tế nhị của anh.
– Chúng đều la một lũ khóc nhè, – Frank nói. – Tại sao chúng không thể đi quân dịch trong hai năm để phục vụ tổ quốc thay vì chạy chọt để vào cái trò nhảm sáu tháng này? Cậu và tớ, bọn mình đều đã tham chiến, đã chiến đấu vì xứ sở và bọn mình chẳng có được gì vẫn nghèo rớt năm bảy hạt mồng tơi. Còn bọn đó, xứ sở này đã ưu đãi chúng rất nhiều. Gia đình chúng giàu sang, quyền thế. Chúng được những chỗ làm ngon lành, tương lai xán lạn. Thế mà, cái lũ khốn đó còn trốn tránh nghĩa vụ đối với Tổ quốc. Thế có phải là bất công hay không?
Tôi ngạc nhiên về cơn giận của anh, bởi vì thường thì anh rất dễ tính, cởi mở, không nói tiếng nặng với ai.
Và tôi biết lòng ái quốc của anh là thành thật, chứ không phải lên gân hay giả tạo.
Trong những tháng tiếp theo, tôi chẳng mấy khó khăn để tạo ra số khách hàng ình. Tôi lập hai danh sách: Một là danh sách phân công chờ chính thức; còn cái kia là danh sách riêng của tôi về những kẻ lo lót. Tôi cẩn thận không quá tham lam. Và tôi kiếm thêm ngàn đô-la mỗi tháng một cách trôi chảy êm xuôi trót lọt. Trong thực tế là các khách hàng của tôi phải tranh nhau, phải đấu thầu và tôi nâng giá lên ba trăm đô-la mỗi cậu em.
Nhưng mặt khác tôi cũng “chiếu cố” ột số em trong “diện chính sách”: các em nghèo mà ngoan, các chàng văn, thi, nhạc sĩ, nói chung là giới văn nghệ sĩ. Đó là phần thuế nộp cho “giáo hội văn nghệ” mà tôi tự định ra ình, bởi vì từ lâu tôi đã ngưng viết lách, không còn cảm thấy sự thúc đẩy phải viết nữa, đồng thời lại bứt rứt thấy mình có tội khi trốn chạy nghiệp dĩ. Trong thực tế, tôi đang đùn cao tội lỗi lên cũng nhanh như đang đùn cao tiền bạc. Và cố cứu chuộc tội lỗi của mình theo cách cổ điển của người Mỹ, đó là “hành thiện.” Dầu tôi không biết, nhưng tôi đã tạo ra được nhiều bạn bè tốt trong các đơn vị mà về sau chính họ sẽ cứu mạng cho tôi.
Frank cằn nhằn tôi về việc thiếu bản năng kinh doanh. Anh cho rằng tôi quá hiền lành, rằng tôi cần phải cứng rắn hơn, nếu không mọi người sẽ lợi dụng tôi, sẽ lấn lướt tôi. Nhưng anh lầm. Tôi không quá hiền lành dễ thương như anh nghĩ, hay như bao người khác vẫn nghĩ.
Bởi vì tôi đang nhìn về phía trước. Chỉ cần huy động chút thông minh tối thiểu, tôi đủ biết rằng chuyện làm ăn này thế nào cũng có ngày “bể mánh.” Có quá nhiều người dính líu vào. Hàng trăm công chức dân sự làm công việc giống tôi đang ăn hối lộ. Hàng ngàn lính dự bị đang đăng kí vào chương trình sáu tháng chỉ sau khi trả một khoản phí đầu quân. Đó là một điều vẫn còn chọc ngứa tôi, khi thấy thiên hạ hăng hái tranh nhau chi tiền để được vào làm lính!

Một ngày nọ, có ông kia khoảng độ ngũ tuần đến với con trai. Ông ta là một doanh gia giàu có và cậu con là một luật sư tập sự. Ông bố ôm theo một bó thư giới thiệu, gởi gắm, của các chính trị gia. Ông ta nói chuyện với ông thiếu tá, rồi ông ta trở lại vào cái đêm họp mặt các đơn vị và gặp vị đại tá quân trừ bị. Họ rất lịch sự với ông ta nhưng chỉ ông ta qua tôi với chỉ tiêu thông thường.
Thế là ông bố dẫn cậu con đến bàn giấy của tôi để ghi tên chú nhóc vào danh sách chờ chính thức. Tên ông ta là Hiller và tên cậu con là Jeremy.
Ông Hiller chuyên doanh về xe hơi, ông có một tổng đại lí xe Cadillac. Tôi bảo cậu con điền vào bảng phỏng vấn thông thường và chúng tôi tán gẫu với nhau.
Cậu con không nói gì, trông cậu có vẻ bối rối. Ông Hiller nói:
– Cháu nó phải đợi bao lâu trên danh sách này!
Tôi dựa ngửa vào lưng ghế và buông ra câu trả lời thường lệ:
– Sáu tháng!
– Cháu sẽ được gọi nhập ngũ trước thời hạn đó, – Ông Hiller nói. – Tôi rất trân trọng nếu như anh có thể làm được gì để giúp cháu.
Tôi đáp lửng lơ:
– Tôi chỉ là một thư kí văn thư. Những người duy nhất có thể giúp ông là những sĩ quan mà ông đã nói chuyện với họ rồi đó. Hay là ông có thể thử bàn với ông đại biểu quốc hội xem.
Ông ta nhìn thật lâu, xoáy sâu vào tôi rồi lấy ra danh thiếp đưa cho tôi:
– Nếu có khi nào anh mua xe hơi, hãy đến gặp tôi. Tôi sẽ tính giá vốn cho anh.
Tôi nhìn tấm thiếp của ông và cười:
– Ngày nào tôi mua được xe Cadillac thì chắc là tôi không cần phải làm việc ở đây nữa đâu.
Ông Hiller trao đến tôi một nụ cười hữu hảo.
– Tôi cũng áng chừng là như thế, – Ông nói. – Nhưng nếu anh có thể giúp tôi, thì thật quý hóa quá.
Ngày hôm sau tôi nhận được cú phôn của ông Hiller.
Ông ta có sự vồn vã dễ làm thân của một người chào hàng kiêm nghệ sĩ. Ông ta hỏi thăm sức khỏe của tôi, hỏi tôi có vui không và nhận xét rằng hôm nay thật là đẹp trời Và rồi ông ta nói ông ta rất có ấn tượng với sự lịch thiệp của tôi, hiếm thấy nơi một viên chức chính quyền khi tiếp xúc với công chúng. Rất ấn tượng và đầy lòng biết ơn nên khi ông nghe nói có một chiếc Dodge, chạy mới một năm, đem chào bán ông đã mua nó và sẵn lòng để lại cho tôi với giá vốn. Tôi có vui lòng gặp ông dùng bữa trưa và bàn chuyện đó?
Tôi nói với ông Hiller rằng tôi không thể gặp ông để cùng đi ăn trưa nhưng tôi sẽ ghé phòng trưng bày xe của ông trên đường về nhà sau giờ làm việc. Ông ta ở Roslin, Long Island, không hơn nửa giờ chạy xe từ khu chung cư của tôi ở Bronx. Và trời vẫn còn sáng khi tôi đến đó. Tôi đậu xe và đi loanh quanh nhìn các chiếc xe Cadillac và tôi bị tác động mạnh bởi thói ham muốn của giai cấp trung lưu. Nhưng chiếc Cadillac với kiểu dáng đẹp thuôn lài, bóng mượt và vững chãi; chiếc thì sơn màu vàng sẫm, chiếc khác màu trắng kem, màu xanh đậm hay màu đỏ như lửa. Tôi nhìn vào bên trong và thấy phần trang trí lộng lẫy với những chiếc ghế ngồi sang trọng. Tôi chưa bao giờ quan tâm nhiều đến xe cộ, nhưng vào lúc ấy, tôi thèm thuồng một chiếc Cadillac vô cùng.

Tôi đi về dãy nhà xây tường gạch và đi qua một chiểc Dodge màu xanh trứng chim két. Một chiếc xe rất xinh xắn mà có lẽ tôi đã thích ngay nếu như trước đó tôi không đi nghía các em Cadillac đẹp mê hồn kia. Tôi nhìn vào trong xe. Ghế nệm cũng tiện nghi, êm ái đấy nhưng không sang mấy. Quá xoàng!
Nói tóm lại là, tôi đang phản ứng theo phong cách của một anh mới phất, giàu xổi nhờ của hoạnh tài. Có điều gì đó thật buồn cười đã xảy ra trong tôi từ mấy tháng qua. Lúc lấy món hối lộ đầu tiên, tôi rất áy náy, sượng sùng. Tôi đã nghĩ tôi sẽ bớt tập trung về mình; tôi vẫn luôn quá tự hào là mình chẳng bao giờ gian dối. Vậy rồi tại sao tôi lại quá vui với vai trò kẻ ản hối lộ lẻ tẻ, kẻ xoay sở linh tinh?
Sự thật là tôi trở nên một người hạnh phúc bởi vì tôi đã trở nên một kẻ phản bội đối với xã hội. Tôi thích lấy tiền để phản bội lại niềm tin của mình như một viên chức chính quyền. Thích xoay xở với đám nhóc đến gặp tôi. Tự che giấu, giả vờ, lừa phỉnh với sự thích thú ranh ma. Nhiều đêm nằm thao thức, nghĩ ra những mưu thuật trá ngụy mới, tôi cũng ngạc nhiên về sự thay đổi ấy nơi mình. Và hình dung ra là tôi đang báo thù phục hận cho việc mình đã bị khước từ việc trở thành một nghệ sĩ, rằng đang được bù trừ cho cái di sản vô giá trị của tôi như một đứa trẻ mồ côi. Cho sự kiện mình chẳng làm nên công nghiệp gì để lưu danh với đời. Phải chăng vì tài bất cập chí, lực bất tòng tâm, hay chỉ vì sinh bất phùng thời, đầu thai nhầm thế kỉ!
Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng đã tìm được cái gì đó mà mình có thể làm tốt; cuối cùng đã thành công như một người lo được cho vợ cho con. Và cũng khá kì lạ, tôi đã trở nên một người chồng, người cha tốt hơn. Tôi hướng dẫn cho các con làm bài tập ở nhà. Và bây giờ vì đã thôi viết lách, tôi có nhiều thời giờ dành cho Vallie hơn. Đi xem xi-nê, xem kịch, có thể thuê một người giữ trẻ và trả tiền gia nhập các câu lạc bộ. Mua quà tặng nàng. Tôi bảo Vallie rằng tôi kiếm được thêm nhờ cộng tác với vài tạp chí. Thực ra thì năm khi mười họa tôi mới đăng được một bài với tiền nhuận bút rất tượng trưng nhưng cứ nói phóng lên.
Tôi là một tên trộm cắp hạnh phúc, nhưng sâu thẳm trong tâm hồn, tôi vẫn biết rằng sẽ có một ngày phải tính sổ lại. Thế là tôi từ bỏ mọi ý tưởng mua chiếc Cadillac và thu xếp việc mua chiếc Dodge màu trứng két.
Ông Hiller có một văn phòng rộng với những bức hình chụp vợ con trên bàn giấy. Không có cô thư kí nào và tôi hi vọng rằng đó chỉ vì ông ta đủ khôn ngoan, đã tìm cớ để cô ta đi chỗ khác để cô ta không thấy tôi. Tôi thích bàn việc với những kẻ khôn ngoan. Tôi rất ngại những kẻ ngu.
Ông Hiller bảo tôi ngồi xuống và rút một điếu xì gà và hỏi han sức khỏe của tôi. Rồi ông đi vào vấn đề:
– Anh đã thấy chiếc Dodge màu xanh ấy chưa? Xe đẹp đấy chứ? Kiểu dáng hoàn hảo. Tôi có thể để anh mua nó. Hiện anh đang lái chiếc gì vậy?
– Một chiếc Ford đời 1950, – Tôi nói.
– Tôi để anh sử dụng nó như một trao đổi bù thêm tiền, – Ông Hiller nói. – Anh có thể lấy chiếc Dodge với năm trăm đô-la tiền mặt và chiếc Ford của anh.
Tôi giữ vẻ mặt thẳng thắn. Rút năm trăm đô-la từ ví ra, tôi nói:
– Tôi nhất trí với đề nghị của ông.
Ông Hiller nhìn, hơi có vẻ ngạc nhiên:
– Anh chắc là giúp được con tôi, anh hiểu chứ.
Ông thực sự hơi lo là tôi không nắm bắt được ý ông. Lại một lần nữa tôi ngạc nhiên, thích thú biết bao với những vụ giao dịch làm ăn nho nhỏ này. Tôi biết mình có thể bắt lão nhượng bộ. Rằng có thể lấy chiếc Dodge chì bằng cách đổi chiếc Ford cũ mèm của mình. Thực sự trong cuộc đổi các này tôi được lợi cả ngàn đô-la ngay dù có bù thêm cho lão năm trăm. Nhưng tôi thấy không nên mặc cả riết róng quá, kiểu vắt chày ra nước, khó lưu lại được chút tình cảm. Tôi vẫn còn chút máu anh hùng lục lâm, nghĩa khí giang hồ kiểu Robin Hood trong người.
Tôi vẫn nghĩ về mình như một kẻ chỉ lấy tiền từ người giàu vì đã làm được điều gì đáng với đồng tiền của họ.
Nhưng điều làm tôi thích thú nhất là nét lo lắng trên khuôn mặt ông ta, sợ tôi không nắm bắt được cái ý rằng đây là một vụ hối lộ chứ không phải chuyện mua bán bình thường. Vì thế tôi nói rất thản nhiên không cười, rất thực tiễn:
– Con trai ông sẽ được ghi vào danh sách chương trình sáu tháng, trong vòng tuần này.
Vẻ nhẹ nhõm và tôn trọng lộ rõ trên mặt ông Hiller.
Ông nói:
– Tối nay chúng tôi sẽ hoàn tất mọi giấy tờ và tôi sẽ lo biển số lưu thông. Mọi chuyện cứ thế tiến hành.
Ông ta nghiêng người tới trước để bắt tay tôi.
– Tôi đã nghe nói về anh nhiều lắm, – Ông nói. – Mọi người đánh giá anh cao.

Tôi hài lòng. Tất nhiên tôi biết ông ta có ý nói gì.
Rằng thì là tôi có được cái “danh thơm tiếng tốt” là một kẻ móc ngoặc lương thiện. Xét cho cùng, đó cũng là một cái gì sáng giá đấy chứ? Một thành tựu đáng tự hào!
Trong khi các loại giấy tờ được đám thư kí thảo ra, ông Hiller tán gẫu với tôi song có chủ ý. Ông cố khám phá xem coi tôi độc lập tác chiến hay nằm trong dây chuyền của đại tá và thiếu tá. Ông ta khôn lanh lắm. Hẳn là do bẩm sinh nhưng cũng có do công việc rèn luyện, tôi đoán thế. Trước tiên ông ta khen tôi thông minh nhạy bén nắm bắt nhanh chóng mọi chuyện. Rồi ông bắt đầu đặt những câu hỏi. Ông e ngại rằng nhị vị sĩ quan có thể nhớ mặt con ông.
– Họ có nhớ mặt cháu nó không? Họ có sẽ hỏi tại sao thằng bé lại nhảy vào danh sách quá nhanh gọn vậy không? – Ông Hiller thắc mắc.
Ông điểm đúng huyệt, nhưng tôi hóa giải dễ dàng:
– Tôi có hỏi ông câu nào về chiếc xe Dodge đâu? – Tôi vặn lại.
Ông Hiller mỉm cười thân mật với tôi:
– Tất nhiên rồi, – Ông nói. – Anh biết rõ công việc của anh. Nhưng đấy là con tôi. Tôi không muốn thấy nó bị dính vào chuyện lôi thôi do những gì tôi làm.
Tâm trí tôi bắt đầu phiêu du. Tôi đang nghĩ đến Vallie sẽ vui mừng biết bao khi nàng thấy chiếc Dodge màu xanh: nàng thích màu xanh và nàng ghét chiếc xe Ford cà tàng, cũ rích.
Tôi cố gắng buộc mình phải suy nghĩ về câu hỏi của ông Hiller. Tôi nhớ cậu con Jeremy của ông để tóc dài và mặc một bộ comple cắt rất khéo với chiếc áo gi-lê, sơ mi, cà vạt đúng mốt.
– Ông bảo Jeremy chịu khó cắt tóc ngắn và mặc quần áo thể thao khi tôi gọi cậu ta vào văn phòng, – Tôi nói. – Họ sẽ không nhớ cậu ấy.
Ông Hiller có vẻ nghi ngờ:
– Jeremy chắc không thích làm như vậy, – Ông nói.
– Vậy thì cậu ta không phải làm thế, – Tôi nói. – Tôi không tin vào chuyện bảo người khác làm những gì mà họ thấy không thích. Tôi sẽ lo chuyện đó. – Tôi nói cho xong chuyện vì hơi sốt ruột.
– Thế thì tốt quá, – Ông Hiller nói. – Tôi phó thác chuyện đó vào tay anh.
Khi tôi lái chiếc xe mới về nhà, Vallie rất vui sướng và tôi chở nàng với lũ nhóc dạo một tua quanh phố phường.
Chiếc Dodge lướt êm như mơ và chúng tôi bật radio lên. Chiếc Ford cũ của tôi không có radio. Chúng tôi dừng xe, ghé vào quán ăn bánh pizza, uống nước giải khát, bây giờ đối với chúng tôi là chuyện quá thường nhưng là điều trước đây chúng tôi ít khi làm từ khi lập gia đình, vì chúng tôi phải dè xẻn từng xu. Rồi chúng tôi dừng nơi một cửa hàng bánh kẹo, dùng kem soda, mua một con búp bê cho con gái và đồ chơi chiến tranh cho hai cậu con trai. Và tôi mua cho Vallie một hộp chocolate Schraff. Tôi là ông hoàng Aga Khan và như thể tôi vừa tặng cho nàng một viên kim cương lớn bằng viên kim cương Ritz.
Tôi nhớ lại những ngày tôi phải đem cầm cố chiếc máy đánh chữ để cầm cự qua tuần. Nhưng đó là trước khi tôi bỏ đi Las Vegas. Từ lúc ấy thời vận tôi đã đổi thay.
Không còn phải làm cùng lúc hai việc nữa; hai mươi ngàn đô-la cất trong những kẹp bản thảo cũ, để dưới đáy tủ quần áo. Một cuộc làm ăn thịnh vượng có thể tạo nên cả một sản nghiệp cho tôi, trừ phi toàn bộ guồng máy bị tháo tung hoặc một thỏa hiệp toàn cầu khiến các siêu cường không cần phải tốn nhiều tiền đến thế cho quân đội nữa.
Lần đầu tiên tôi hiểu được tính toán và công việc của những ông chủ công nghiệp chiến tranh và các ông tướng cảm thấy thế nào. Sự đe dọa của một thế giới ổn định có thể dìm tôi trở lại cảnh cùng khổ. Không phải là tôi mong muốn có một cuộc đại chiến mới nhưng không thể không mỉm cười khi nhận ra rằng tất cả những cái gọi là thái độ tự do của tôi đang hòa tan trong niềm hi vọng rằng Nga với Mỹ sẽ không quá hữu nghị với nhau, ít ra là trong lúc này.
Vallie hơi ngáy nhẹ, điều đó không làm phiền tôi. Nàng phải vất vả với đám nhóc, lo chăm sóc nhà cửa và chăm sóc cho cả tôi nữa. Nhưng thật lạ là tôi luôn thức khuya dầu tôi có mệt mỏi đến đâu. Nàng vẫn luôn ngủ trước tôi. Đôi khi tôi thức dậy viết mấy trang cho quyển tiểu thuyết của mình trong nhà bếp và tự nấu món gì đó để ăn và chỉ quay lại giường lúc ba hay bốn giờ sáng.
Nhưng bây giờ tôi không viết tiểu thuyết nữa, vì vậy tôi không có việc gì để làm. Tôi mơ hồ nghĩ rằng tôi nên bắt đầu viết trở lại. Xét cho cùng, tôi đã có thời giờ và tiền bạc. Nhưng sự thật là tôi thấy đời mình quá hứng khởi, quay cuồng với việc thương lượng và nhận hối lộ và lần đầu tiên có quyền tiêu tiền cho những chuyện điên rồ nho nhỏ.
Nhưng vấn đề lớn là tìm nơi đâu để cất giấu an toàn số tiền mặt của tôi, đề phòng trường hợp bị nghi ngờ, khám xét. Tôi không thể cất ở nhà. Tôi đã nghĩ đến ông anh Artie. Anh có thể gửi vào ngân hàng, trong tài khoản của anh và anh sẽ nhận lời nếu tôi yêu cầu anh làm chuyện đó. Nhưng tôi không thể. Vì anh trung thực một cách gắt gao. Anh sẽ hỏi tôi tiền đâu tôi có và tôi sẽ phải nói rõ cho anh biết. Anh chưa từng bao giờ làm điều gì bất lương để vụ lợi ình hay cho vợ con. Anh thực sự liêm chính, đúng mực. Anh sẽ làm cho tôi, nhưng anh sẽ không bao giờ cảm nhận về tôi như trước nữa. Và tôi không thể chịu đựng điều đó. Có những việc bạn không thể làm hoặc không nên làm. Và yêu cầu Artie giữ tiền cho tôi là một trong những việc đó. Đây sẽ không phải là hành động của một người anh em hay một người bạn.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.