Bạn đang đọc Nếu Gặp Người Ấy Cho Tôi Gửi Lời Chào: Chương 6
chap 6
Lúc nào cũng vậy, hễ tan học là tôi lại men theo con đường dọc bờ kênh hướng đến bãi rác. Giữa đường tôi ghé vào Đầm Quả Bầu hớt rong đuôi chó. Một tuần trước tôi đã nài nỉ bố và được mua ột bể thủy tinh rộng 60 xentimet. Tôi bắt cá sóc thả vào đó nhưng để có thể tạo cho chúng một môi trường sống tốt thì cần thiết phải có thủy sinh. Tôi nhét chúng vào bao ni lông đã chuẩn bị sẵn, cột chặt và cất vào cặp sách.
Tôi lại quay trở ra con đường nhỏ trong rừng. Sau khi chắc chắn không có bóng dáng đội bóng chày, tôi tiến sâu vào rừng.
Đã sang mùa mưa nhưng bầu trời vẫn sáng rõ, bóng nắng chiếu qua kẽ lá được tạo khung bởi những đường viền rõ nét.
Con Trash ra đón tôi trước bãi rác. “Huýt?”
Trên lưng nó mọc lên một thứ gì đó trông như mầm cây.
“Ngoan lắm, ngoan lắm!” Tôi cúi xuống, thọc tay vào dưới cằm nó. Nhìn kỹ lại lần nữa, quả nhiên là mầm cây. Chắc là có hạt giống nào dính vào và đã nảy mầm trong khi con Trash đi lại. Chưa biết chừng trong đám lông dài của con Trash còn chứa đầy dinh dưỡng và nước cũng nên.
Nghĩ đến mới nhớ, mấy ngày gần đây trời mưa suốt. Nhỡ đâu thân cây nhân đó sẽ dài ra, mọc lá và trổ hoa? Chẳng may đây mà là mầm cây thủy sam thì sẽ ra sao? Chắc nó đi lại sẽ khó khăn lắm.
Tôi theo chân con Trash rẽ lối vào sâu trong đống rác. Yuji đã ở đó. Cậu ta không ngồi trong phòng khách quen thuộc mà ở cạnh núi rác mới được tạo nên, cổ đeo một thứ gì đó như tấm bảng, mặt cúi gằm xuống và tay đang hí hoáy.
“Yuji!”
Nghe tôi gọi, cậu ta từ từ ngẩng mặt lên.
“Cậu đang làm gì thế?” Tôi vừa ghé tới gần vừa hỏi.
“Tranh đấy.” Cậu ta nói bằng giọng the thé. “Tớ đang vẽ tranh.”
Tôi đứng phía sau cậu ta, nhòm xuống đôi bàn tay.
Thứ tồn tại ở chỗ đó là 600cc ngạc nhiên. Có nghĩa là tôi đã hớp khoảng chừng ấy không khí vì ngạc nhiên quá đỗi. Một tiếng “Hử” thoát ra khỏi miệng.
Ví thử như, một người bạn cực kỳ thân quen bảo rằng “Tớ phải làm thủ công cho bài tập về nhà kỳ nghỉ hè này,” đoạn khoe sản phẩm đó, nếu sản phẩm là “động cơ vĩnh cửu” thì sự ngạc nhiên lúc đó hẳn cũng bằng sự ngạc nhiên lúc này của tôi.
Sự chênh lệch ghê gớm giữa dự đoán và thực tế. Tranh cậu ta vẽ vượt xa trình độ của một cậu thiếu niên mười ba tuổi. Cậu ta ở vị trí gần với các danh họa vĩ đại như Rembrandt hay Rubens[1] hơn là đám học sinh trung học cơ sở vẫn còn đang băn khoăn vì mụn trứng cá hay chỗ lông mu mới mọc (lúc ấy tôi đã nghĩ như vậy).
[1] Peter Paul Rubens (1577-1640), họa sĩ lỗi lạc người Vlaanderen.
Đó là một bức tiểu họa được vẽ bằng mực đen. Vật mẫu là chiếc xe nôi vừa bị vứt trước đó mấy ngày. Cái mái che màu gỗ đã bị rách, ở chỗ ghế ngồi không hiểu sao lại đặt một chiếc cải bắp rất to.
Yuji vẽ lại hình ảnh đó một cách tỉ mỉ. Trên tờ giấy manila rẻ tiền được đặt trên khung tranh là một bức vẽ thật đến mức có thể nhầm là một tấm ảnh. Cậu vẽ toàn bộ, không hề bỏ sót, bất cứ hình ảnh gì thu được vào tầm mắt. Không giản lược, cũng chẳng thêm thắt. Không chứa đựng một thâm ý hay biện pháp ẩn dụ nào. Chỉ là cảnh tượng đầy chân thực không cần đến những diễn giải triết học.
Sau đó tôi có cơ hội được từ từ ngắm bức vẽ đó, nhìn kỹ thì đến cả những tiểu tiết của chiếc xe nôi như đinh tán hay rãnh vít cũng được vẽ cẩn thận. Rãnh vít thì mười cái như một đều được mô tả một cách tỉ mỉ. Thậm chí đến cả phần bản mạch cơ bản trong thiết bị điện tử nào đó được chất phía sau xe nôi cũng được vẽ vào.
Mặc dầu vậy, thế giới này rõ ràng là đang méo mó. Chiếc xe nôi thì bị cong, cây bắp cải thì bị vẽ to hơn so với thực tế. Chắc chắn là do mắt cậu ta, hoặc cặp kính Costello đó có vấn đề.
Nếu lúc nào cậu ta cũng nhìn thế giới theo kiểu này có lẽ sẽ tương đối tai hại. Tôi đã từng chỉ trích như vậy nhưng Yuji làm bộ không thèm nhận ra.
Đầu tiên cậu ta tiến sát gần vật mẫu, ngắm một lúc, sau đó cậu ta rút về chỗ ban đầu đoạn lia bút một mạch. Cây bút là loại bút thủy tinh từ thế hệ trước. Cậu ta đặt bút bên cạnh lọ mực, nhúng đầu bút rồi bắt đầu vẽ. Khuôn mặt cậu ta ghé sát tưởng chừng như dính vào tờ giấy manila. Tùy theo góc nhìn mà có thể tưởng lầm cậu ta đang gục đầu vào khung tranh ngủ gật.
“Cậu không ghé sát mắt vào như thế thì không nhìn được hả?”
Phải đến hai giây sau, Yuji mới ngẩng mặt lên nhìn tôi.
“Hả, cậu vừa bảo gì cơ?”
Tôi bảo thôi, không có gì, đoạn bỏ mặc cậu và đi vào trong.
Karin đang ở trong “phòng khách”. Trời đã nóng dần lên mà cô nàng vẫn vận chiếc áo quân đội đó.
“Chào,” cô nàng giơ tay.
Tôi đánh mắt về chỗ vừa đi qua, bảo Karin, “Yuji giỏi thật.”
“Vẽ tranh ấy hả?”
“Ừm. Cực kỳ giỏi.”
“Chắc chắn sẽ thành họa sĩ nổi tiếng. Không lẫn đi đâu được.”
“Phải đấy. Tớ không biết cậu ấy có tài như thế.”
Tôi ngồi xuống ghế, đối diện với cô nàng qua cái bàn. Đây là cái ghế đọc sách vẫn còn mới, vừa bị vứt khoảng mười ngày trước.
“Nhà Yuji có rất nhiều tranh cậu ấy vẽ từ trước tới giờ. Hôm nào đến đó nhé,” Karin rủ. “Đến nhà sẽ được gặp cả bố cậu ấy nữa.”
“Bố Yuji?”
Ừ, cô nàng gật đầu, “Ông ấy là một tiểu thuyết gia. Viết những tiểu thuyết không bán được.”
“Không bán được?”
“Không bán được. Trên đời này chắc chỉ có khoảng năm người hiểu được những gì ông ấy viết thôi. Làm sao mà bán được phải không?”
“Thế thì vất vả nhỉ?”
“Vất vả gì cơ?”
“Cuộc sống, tiền bạc chẳng hạn.”
“Chắc vậy. Thế nhưng, họ vẫn xoay xở được. Nhà lại chỉ có mỗi hai người.” Cô nàng nhoẻn miệng cười vu vơ. Bộ nẹp răng mạ chì sáng lấp lánh dưới ánh mặt trời.
“Mẹ cậu ấy thì sao?”
“Bỏ nhà đi rồi. Từ hồi cậu ấy học lớp năm. Hình như vậy.”
“Bỏ luôn Yuji?”
“Phải. Bà ấy không chịu được nghèo đói. Kéo theo Yuji chẳng phải cái nghèo vẫn đeo đuổi sao?”
“Biết thế nhưng mà…”
“Nếu không vướng bận, bà ấy có thể kiếm được người đàn ông giáu có. Dù phải đi làm thì cũng vẫn nhẹ gánh.”
“Không biết Yuji nghĩ thế nào nhỉ?”
“Nghe bảo lúc dứt áo ra đi bà đã hứa, rằng bao giờ nhiều tiền sẽ về đón cậu. Yuji tin đấy.”
“Thế thì chắc một lúc nào đó…”
“Chẳng biết nữa,” Karin đảo mắt. “Tin hay không là quyền của mỗi người thôi.”
Sau đó cô nàng lôi trong túi áo khoác ra một cuốn sách rồi bắt đầu đọc.
“Cậu đọc gì thế?”
“Cái này á?” Karin hỏi, giơ cuốn sách lên.
“Phải.”
“Đậu phộng.”
“Đậu phộng á?”
Cô nàng vươn hẳn cằm ra, gật đầu, “Truyện tranh đấy. Snoopy và Charlie Brown.”
“A a, Snoopy thì tớ biết.”
“Lúc nào tớ cho cậu mượn.
“Cảm ơn cậu.”
Một lát sau Yuji đi vào.
“Cậu vẽ xong rồi hả?”
Nghe tôi hỏi, Yuji nói, “Vẫn chưa. Tớ bị đau đầu nên nghỉ giải lao một lát.”
Ghé sát mặt mà vẽ như vậy thì ai mà chẳng bị đau đầu cơ chứ.
Ngẩng mặt lên khỏi cuốn sách. Karin nói, “Lúc nào cậu ấy cũng thế, luôn tập trung quá mức.” Và gọi Yuji, “Lại đây.” Yuji mặt mày xanh lét, ngồi xuống bên cạnh theo lời Karin. Cậu ta bỏ gặp kính to đùng, nắm hai tay dụi dụi mắt. Không có kính, khuôn mặt Yuji trông trẻ con hơn hẳn. Đến mức vết chai do mút tay trên ngón tay cái cũng không trở nên kỳ quặc.
Karin xoa bóp vai và cổ Yuji với đôi tay thành thạo.
“Cứng như đá ấy. Làm ngón tay tớ cũng đau theo.”
Yuji vẫn nhắm nghiền mắt, gật gù.
“Lâu lắm họ mới vứt nhiều rác thế này, vậy nên tớ lỡ tập trung quá mức.”
Sực nhận ra, tôi hỏi, “Chẳng lẽ cậu toàn vẽ tranh về rác hả?”
“Phải đấy,” Karin trả lời thay. “Yuji chỉ vẽ tranh về rác thôi.”
“Vì sao?”
Yuji từ từ mở mắt, ánh nhìn lừ đừ như vừa ngủ dậy, “Vì tớ thích rác. Đừng hỏi tớ tại sao. Vì bản thân tớ cũng không biết được đâu.”
Đại khái “thích” là như vậy. Như tôi thích pasta, nếu bị hỏi lý do tôi cũng chỉ trả lời được rằng “Vì nó ngon”. Trong trường hợp đó thì từ “thích” được thay bằng từ “ngon” nhưng nó cũng chẳng thể thành lý do được. Bởi thế tôi gật đầu, “Đúng vậy. Không biết nhưng mà thích nhỉ!”
“Ừ.”
“Cậu giỏi thật đấy. Tớ ngạc nhiên lắm.”
“Vậy hả? Bản thân tớ cũng không hiểu lắm. Vì tớ chỉ vẽ theo ý thích thôi.”
“Không phải cậu học ở đâu hả?”
“Hoàn toàn không,” cậu ta nói. “Suốt từ nhỏ tớ đã vẽ tranh một mình. Chủ nghĩa cá nhân toàn diện đấy.”
“Cậu giỏi thật, ngưỡng mộ cậu rồi đấy.”
Yuji toét miệng cười sung sướng. Chiếc răng khểnh to đùng chìa ra khỏi mặt, “Sau này lớn lên tớ có thành họa sĩ được không nhỉ?”
“Được chứ.” Karin khẳng định bằng giọng mạnh mẽ. “Nhất định Yuji sẽ trở thành họa sĩ nổi tiếng. Tớ đảm bảo đấy.”
“Tớ cũng nghĩ thế.”
Yuji hơi đỏ mặt trước lời nói của hai chúng tôi, “Nếu được thì tớ vui lắm. Vì đó là ước mơ của tớ.”
“Ừ, ước mơ đó chắc chắn sẽ thành hiện thực.”
Nghe tôi nói vậy, Karin bèn hỏi, “Satoshi thì sao? Ước mơ của cậu là gì? Cho bọn tớ biết đi.”
Tôi chỉ có một ước mơ duy nhất, đó là dù lớn đến đâu, tôi vẫn muốn sống chung với các sinh vật vùng sông nước như bây giờ. Có vài nghề nghiệp liên quan, nhưng vào năm mười ba tuổi tôi đã chọn được một ngả.
“Ước mơ của tớ là trở thành ông chủ của cửa hàng cá nhiệt đới.”
“Quả nhiên,” Karin nói. “Tớ cũng nghĩ như vậy.”
Và cô nàng nhìn tôi với ánh mắt thoáng nét dịu dàng.
“Giấc mơ của hai cậu thành hiện thực thì tốt quá.”
“Karin thì sao?” Yuji hỏi. “Giấc mơ của Karin là gì?”
“Tớ à?”
Ừ ừ, hai chúng tôi gật đầu. Tôi cực kỳ hứng thú. Tôi có cảm giác rằng cô nàng sẽ nung nấu một ước mơ vĩ đại không thể tưởng tượng nổi. Cô nàng mà muốn thì chắc có thể lên đến cả sao Hỏa. Karin ngừng tay trên vai Yuji, nheo mắt rồi nhìn lên bầu trời. Gò má trắng xanh ánh lên như chòm sao Chức Nữ ngập đầy ánh trăng tháng Sáu.
“Ước mơ của tớ là trở thành người bạn thân nhất của họa sĩ lẫy lừng và ông chủ cửa hàng cá nhiệt đới tài giỏi.”
“Rồi sao nữa?” Misaki hỏi. “Ước mơ của ba người có thành hiện thực không?”
Chúng tôi đang ngồi cạnh nhau trên ghế ngoài công viên.
Hàng ghế gỗ kê rải rác dọc theo lối đi bộ uốn lượn nhẹ nhàng như lá của loài quyết ấp đá. Ngoài ghế của chúng tôi, các ghế khác tịnh không một bóng người. Hai bên lối đi bộ được viền bằng hoa lệ đường và mơ trân châu tuyệt đẹp. Trước mặt chúng tôi là một cái hồ lớn, chu vi ước chừng một dặm, nơi gặp gỡ của một vài mạch nước ngầm. Trên mặt hồ, vịt cổ xanh và vịt đồng đang thư giãn khoan khoái.
“Không biết thế nào nhỉ?” Tôi nói. “Bây giờ anh đã làm chủ một cửa hàng thủy sinh, hai người còn lại hiện đang làm gì ở đâu, anh hoàn toàn không hay biết.”
“Thân thiết như vậy cơ mà?!”
“Phải, thân thiết như vậy mà…”
Màu sắc của sự thất vọng hiện lên xung quanh cặp lông mày với dáng rất đẹp của nàng. Biểu hiện như thể nàng không thể tin được sự thật rằng tình bạn năm mười ba tuổi không phải là vĩnh cửu.
“Tiếc thật đấy!” Nàng nhận xét. “Em đã muốn gặp hai anh chị ấy.”
“Ừ. Nếu gặp, anh nghĩ mọi người sẽ thân nhau đấy. Về cơ bản họ đều tốt tính mà.”
Tôi tưởng tượng ra hình ảnh Karin lọt thỏm trong chiếc áo quân đội quá khổ và chìa tay về phía Misaki. (Rất vui được gặp em. Bạn của Satoshi thì cũng là bạn của chị.)
“Nếu đến thị trấn anh ở hồi đấy thì có gặp được anh chị ấy không?” Misaki hỏi.
“Không,” tôi lắc đầu. “Bọn anh có viết thư cho nhau mấy năm liền. Rồi Yuji là người đầu tiên đột nhiên biến mất. Sau đó Karin cũng cùng bố mẹ rời khỏi thị trấn. Anh cũng chuyển chỗ ở liên tục. Cứ như vậy dần dần bọn anh xa cách nhau.”
“Không biết hai người đó bây giờ ở đâu?”
“Chắc chắn là,” tôi nói. “Ở đâu đó trên trái đất này.”
“Đúng đấy. Chắc chắn là như vậy.”
Sang mùa mưa, chúng tôi làm trần nhà cho “phòng khách”. Chúng tôi bao bốn phía bằng kệ sách hoặc chạn bát cao, bên trên phủ bạt xanh và cố định bằng dây phơi quần áo. Vào những buổi tan học trời mưa, chúng tôi ngồi dưới trần nhà màu xanh đó chờ đến khi hửng nắng. Karin đọc sách, tôi và Yuji chơi cờ. Bàn cờ và các quân cờ là đồ nhặt được từ bãi rác. Cờ backgammom chỉ có mười ba quân đen, hai quân còn lại chúng tôi thay bằng cờ Othello[2]. Có cả cờ vua nhưng mất khá nhiều quân. Chúng tôi thay con mã bằng cây kẹo pez cắm hình đầu vịt Donald, thay con tịnh bằng lọ nước hoa Dior. Dĩ nhiên cái nào cũng là đồ nhặt ngoài bãi rác. Với quân tốt không đủ bộ, chúng tôi thay bằng nắp chai nhựa.
[2] Backgammon là một trong những board game cổ nhất cho hai người chơi, trong đó các quân cờ được di chuyển theo số xúc xắc. Người chơi chiến thắng bằng cách di chuyển tất cả các quân về bên mình. Cờ Othello hay còn gọi là reverse, cũng là một loại board game với những quân cờ trắng đen. Người thắng cuộc là người có số quân cờ nhiều hơn trên bàn cờ sau khi hai bên lần lượt đi.
Con Trash tuyệt nhiên không tỏ vẻ gì là để ý đến trời mưa, nó chạy vòng quanh đống rác, mình mẩy ướt nhẹp (đương nhiên là cái mầm của loài thực vật nào đó đã được giật ra).
Khi cơn mưa ngớt, Yuji lại vẽ phần tiếp theo của cái xe nôi, tôi thì đi dạo quanh một vòng thăm đám thủy sinh mọc hoang.
Còn Karin… Cô nàng là một ẩn số.
Mà, nói cho cùng, đối với một thiếu niên mười ba tuổi thì một người cùng tuổi khác giới tính chẳng là gì ngoài một ẩn số. Tôi không biết gì về cuộc sống bên ngoài “phòng khách” của Karin. Tôi có hỏi Yuji nhưng cậu ta cũng ù ù cạc cạc. Đôi khi ba ngày liền tôi không nhìn thấy bóng dáng cô nàng đâu cả. Tôi hỏi “Cậu ở đâu thế?” thì cô nàng trả lời với thái độ lạnh lùng rằng “Con gái ấy mà, có rất nhiều việc phải làm.” Tôi từng nghe một người bạn cùng lớp kể rằng từng nhìn thấy Karin đi ra từ một bệnh viện ở thành phố bên cạnh, nhưng tôi cũng không định hỏi thẳng cô nàng chuyện đó. Vì tôi cảm giác rằng nếu cô nàng không tự nói ra thì không nên hỏi làm gì.
Tôi cũng từng nghe mọi người nói là trên lớp lúc nào Karin cũng uể oải, khác hẳn trạng thái tràn trề năng lượng sau giờ học. Hoặc là thường xuyên lơ mơ, thầy giáo có gọi cũng chẳng nhận ra. Karin mà tôi biết (tức là sau giờ học) hầu như luôn trong tình trạng khỏe mạnh, đầy năng lượng, nên tôi chưa bao giờ thử suy nghĩ sâu xa về điều đó.
Chúng tôi đến thăm nhà Yuji vào tuần thứ ba của tháng Bảy, khi kỳ một sắp kết thúc. Đó là một khu nhà trọ chỉ có hai phòng một căn, tám căn hộ với cấu trúc giống hệt nhau bị nhét vào một khoảnh đất nhỏ hẹp.
Thật ngạc nhiên là bố của Yuji khá cao. Và cực kỳ gầy. Đó là một người đàn ông gợi lên liên tưởng đến một cây bụi khô. Ông đeo cặp kính gọng nhựa màu đen giống của Yuji, mái tóc to xù, khô cứng rũ lung tung xuống trán.
Khi chúng tôi vào phòng, ông đang vịn một cánh tay vào song cửa sổ mở ra phía vườn, ngắm nhìn phong cảnh bên ngoài. Trên tay kia là cốc cà phê. Tôi nhìn theo ánh mắt ông, chỉ thấy bức tường nứt nẻ của ngôi nhà bên cạnh và đám hoa cúc sữa mọc chen chúc trên một khoảnh đất nhỏ.
“Bố!”
Nghe Yuji gọi, ông từ từ quay mặt lại.
“Bạn con lần đầu tiên đến chơi, cậu ấy tên là Toyama.”
“Cháu chào bác ạ.” Tôi cúi đầu nói.
“Mời cháu vào nhà,” bố Yuji đáp bằng giọng trầm trầm, vang xa, không hề phù hợp với thân hình mảnh khảnh ấy. Đinh ninh sẽ phải nghe một giọng nói thiếu sinh lực trả lời, tôi hơi giật mình.
“Cháu chào bác.” Karin có vẻ đã khá thân thiết với bố Yuji.
“Ô, Karin à.”
“Tiểu thuyết mới của bác vẫn đang tiến triển chứ ạ?”
Nghe cô nàng hỏi vậy, bố Yuji nheo mắt nở nụ cười hiền hậu. Một vài nếp nhăn hằn sâu phía đuôi mắt.
“Bác mà nói nó đang tiến triển thì nó đang tiến triển.” Ông bảo. “Còn bác bảo không thì nghĩa là không.”
“Là đằng nào ạ?”
“Chí ít là bác vẫn chưa đắp được chút nào cho phần sườn của bản thảo.”
“Thế thì, là vẫn chưa tiến triển chứ ạ?”
Ông chớp chớp vài lần đôi mắt tròn rất giống với Yuji, “Nghĩ như thế này thì sao nhỉ?” Nói đoạn ông hất ngược tóc mái ra sau. Một mái tóc dày, đen tuyền. “Tiểu thuyết là thứ giống như nước mắt.”
“Nước mắt?”
“Phải,” ông gật đầu. “Nước mắt là biểu hiện của tâm hồn. Là khái niệm ngang hàng với cảm xúc nội tâm.”
“Khái niệm ngang hàng?”
“Cháu sửa thành ‘vật ngang hàng về mặt thị giác’ cũng được”
“Thế thì sao ạ?”
“Có nghĩa là nước mắt là thứ tuy có thể nhìn thấy bằng mắt thường nhưng không ai có thể nhìn thấy quá trình nội tâm dẫn đến nó cả.”
“Dạ.”
“Chỉ cần cháu nghĩ nước mắt chính là từ ngữ lấp đầy khung sườn của bản thảo là được.”
“À, ra vậy.”
Karin hiểu cặn kẽ cách diễn đạt lạ thường của tiểu thuyết gia này. Dĩ nhiên tôi thì chẳng hiểu đầu cua tai nheo gì hết. Tuy nhiên ở bên cạnh Karin, tôi cũng gật đầu tỏ vẻ rằng mình đã hiểu.
“Thế nên mặc dù chưa lấp đầy khung sườn của bản thảo nhưng ‘quá trình nội tâm’ không thể nhìn thấy bằng mắt thường đã tiến triển đúng không ạ?”
“Đúng. Chính thế.” Bố Yuji gật đầu, thấy vậy tôi lại vội vã gật đầu theo. “Nếu vượt qua được điểm tới hạn nằm ở đâu đó thì từ ngữ sẽ tự khắc mà lấp đầy vào thôi. Cũng giống nước mắt, một khi đã bắt đầu trào ra thì sẽ không thể ngăn lại được.”
Sau đó tôi len lén nói với Yuji, “Bố Yuji là một người cực kỳ thông minh đấy nhỉ?”
Tôi nghĩ đó là sự thực tuyệt đối không thể lung lay, thế mà Yuji lại tỏ vẻ bất ngờ, “Thông minh á?”
“Ừ. Tiểu thuyết gia có khác.”
Yuji nghiêng đầu, đoạn nói bằng giọng như thể nó đã quá rõ ràng với cậu, “Nếu bố tớ hoạt động trí óc chí ít được như những người bình thường thì có lẽ tớ đã không phải sống cuộc sống nghèo khổ như thế này, và nếu biết suy nghĩ sâu xa một chút thì tớ nghĩ mẹ tớ đã không bỏ nhà ra đi.”
Tôi rất bất ngờ, bởi vì lời Yuji không phải là không đúng.
“Hễ nhắc đến bố, mẹ lại bảo ‘Con người này là gã ngốc hết thuốc chữa’.”
Và xem ra Yuji cũng chung ý kiến với mẹ. Nói thế nào nhỉ, tôi có cảm giác giống như khi biết bọn con trai trong lớp chê bai hết lời cô bạn mà tôi thấy dễ thương nhất quả đất (chuyện này đã xảy ra trong thực tế. Kiểu như “Con bé đấy không ra gì. Đã gầy trơ xương lại còn đeo cả kính cận,” vân vân…).
Thế nghĩa là, tùy theo quan điểm, luôn có những cách bình luận khác nhau về cùng một vấn đề.
Sau đó chúng tôi vào căn phòng của Yuji ở phía trong cùng, ở đó chúng tôi xem những bức tranh cậu ta vẽ. Bức nào bức nấy đều được vẽ bằng loại bút thủy tinh trên giấy manila màu hơi cháy nắng. Những bức vẽ đó dường như ngay từ đầu đã lược bỏ toàn bộ quá trình phát triển và mang phong cách hoàn thiện. Kiểu như Pablo Picasso bắt đầu vẽ với trường phái lập thể mà bỏ qua thời kỳ xanh hay thời kỳ hồng[3].
[3] Blue period, Rose period và Cubism (thời kỳ xanh, thời kỳ hồng, trường phái lập thể) là ba khái niệm tượng trưng cho các thời kỳ trong các tác phẩm của Pablo Picasso (1881-1973).
Toàn bộ đều được khắc họa đến từng tiểu tiết với lòng nhiệt huyết có thể gọi là điên cuồng. Nếu Yuji có được đồ nghề như ý và được trời phú cho đôi mắt tinh, có khi cậu ta còn vẽ cả hạt cơ bản cấu thành vật chất cũng nên.
“Đây là bức tớ vẽ từ lâu rồi.” Cậu nói. “Hình như hồi chín tuổi thì phải.”
Đó dĩ nhiên cũng là một bức tranh về rác. Là ma nơ canh bán thân mà các nhà thiết kế thời trang sử dụng. Hình nhân không đầu ấy mặc một chiếc áo da màu đen. Yuji hồi lên chín đã thể hiện tinh tế đến cả chất liệu bằng da đã bị bạc màu.
Tất cả những thứ mà Yuji vẽ đều bị tổn thương, sầu muộn, và đơn độc.
Một chiếc xe ba bánh với tay lái cong queo, han gỉ. Phần phía sau yên xe có chữ “tricycle” nhưng nhạt màu và đang dần biến mất. Hay là một chú khỉ nhồi bông đang chuẩn bị đánh chũm chọe bỗng nhiên dừng lại. Miệng chú ta vẫn còn đang há hốc, nhe cả lợi ra như thách thức thế giới. Có lẽ chú ta chẳng bao giờ có thể quay trở lại biểu hiện nhã nhặn được nữa.
Thậm chí có cả bức vẽ như thế này. Nó có vẻ như là phòng ngủ của ai đó, cửa sổ treo một tấm rèm đăng ten, trong phòng có một cái hòm và một cái tủ kiểu hay thấy ở các gia đình nông thôn. Chính giữa căn phòng kê một chiếc giường có màn che nhưng nằm song soài trên đó lại là xác chết của một con chuột hoang. Chắc nó đi lạc đến ngôi nhà búp bê của một bé gái nào đó và trút hơi thở cuối cùng ở đấy. Tình cảnh có hơi hướm của một câu chuyện ngụ ngôn nhưng lại sống động đầy chân thực, khác hẳn những câu chuyện của Aesop.
“Cậu giỏi quá!” Tôi nói, hoàn toàn bị áp đảo bởi vẻ yên bình đầy nặng nề của những “đồ vật” bị vứt tràn lan trên sàn nhà rộng chừng tám mét vuông. “Nói thế nào nhỉ…”
Ấy vậy nhưng tôi không biết nên nói gì.
“Giỏi quá.” Tôi lặp lại. “Thật đấy.”
Sau lần đó tôi thường xuyên đến thăm nhà Yuji, nhưng hễ hỏi thăm thì tiểu thuyết của bố cậu ta vẫn trong tình trạng chưa xê dịch chút nào khỏi “quá trình nội tâm”. Có lẽ điểm tới hạn đã chạy đến một tương lai xa vời nào rồi, khiến ông không thể chạm tay tới được.
Tôi và Misaki rời khỏi ghế gỗ và đi bộ trên con đường nhỏ dọc bờ hồ. Vỏ cây bách và các mảnh vụn xào xạc dưới chân. Mùi hương thoang thoảng.
“Thơm quá!” Tôi nói. “Cảm giác dễ chịu thật đấy.”
“Trong tinh dầu thiên nhiên cũng có mùi này đấy.” Nàng hướng ánh mắt xuống đầu ngón tay mình và nói giọng ôn tồn. “Đây là tinh dầu cây hoàng đàn, gọi là tinh dầu bách.”
“Cây hoàng đàn?”
“Đúng vậy.” Nàng gật đầu, ngước mắt lên nhìn tôi. Tôi chậm rãi đón nhận ánh mắt đó. Nàng nhoẻn miệng cười rồi lại đảo mắt trông ra trước mặt.
Thấy sao? Trong thâm tâm, tôi phổng mũi hướng về phía Morikawa Suzune.
“Tên khoa học của cây bách có nghĩa là ‘Sống vĩnh hằng’.” Misaki vừa nhìn tôi vừa nói. (Trông nàng thật nhỏ nhắn và dễ thương.) “Người ta liên tưởng như vậy vì lá của nó quanh năm đều xanh.”
“Sống vĩnh hằng à…”
Tôi ngước lên bầu trời, cảm nhận được ánh mắt nàng dừng ở gáy mình. Bầu trời nhuốm một màu xanh ngăn ngắt như thể ai đó dùng bình xịt phủ một lớp sơn lên, chỉ còn sót một điểm duy nhất chưa được sơn là vầng trăng màu trắng giờ chính ngọ.
“Misaki có muốn thử được sống vĩnh hằng không?”
Tôi hạ ánh mắt và nhìn vào mắt Misaki. Nàng đang nghĩ ngợi với vẻ mặt nghiêm túc. Sau đó nàng nghiêng đầu, nhún vai tỏ vẻ không biết, “Câu hỏi khó quá. Để em từ từ nghĩ đã.”
“Ừ.”
“Em sẽ dùng cả cuộc đời để suy nghĩ.”
“Thật hả?”
“Dạ. Khi nào em có câu trả lời, anh lại hỏi em nữa nhé?”
“Được thôi.”
Tôi trả lời ngay mà không hề suy nghĩ, chợt thấy nàng thoáng đỏ mặt cúi gằm đầu xuống, tôi mới ngớ người nhận ra. Tôi có cảm giác câu nói vừa rồi chứa đựng ý nghĩa nào đó cực kỳ sâu xa.
Thế nghĩa là gì nhỉ?
“Anh có những người bạn thật tuyệt vời.”
“Hả?”
Thế có nghĩa là, nàng đã cố tình không cho tôi khoảng lặng để đào sâu suy nghĩ về những lời nàng nói.
Thế cho nên?
“Chị Karin và anh Yuji.”
“À ừ, đúng vậy.”
“Em cũng muốn nhập vào nhóm của ba người. Cuộc sống hồi trung học cơ sở của em thực sự vô vị và chán ngắt.”
“Vậy hả?”
“Vậy đấy.” Nàng khẽ gật đầu. “Hệt như Jungle Cruise trong Disneyland ấy.”
“Như vậy chẳng vui hay sao?”
“Mọi người xung quanh thì như vậy.” Nàng giơ tay phải che nắng. “Em thì chỉ nhìn thôi. Thậm chí còn không thể lại gần. Em chỉ tiến lên dần theo các khóa học đã được định sẵn.”
“Ra thế.”
“Anh thấy chưa?”
“Công nhận.”
Chẳng mấy chốc con đường đầy vỏ cây len lỏi vào rừng sồi và thông. Dù giữa ban ngày nhưng trời mờ tối, không khí se lạnh.
“Này anh. Anh kể cho em nghe nữa đi, chuyện của ba người ấy.”
“Được thôi.”
Con đường nhỏ hẹp, tay tôi chạm tay nàng đang đi bên cạnh. Vờ như không để ý, tôi vô tư kể. “Đại loại là như vậy, chẳng mấy chốc bước vào kỳ nghỉ hè nhưng ba người bọn anh vẫn luôn cạnh nhau.”
“Thêm một con vật nữa chứ?”
“Phải, thêm một con vật nữa.”
“Và,” tôi hồi tưởng. “Sang mùa hè, thủy sinh ở đầm nước và bờ kênh bắt đầu sinh trưởng rất nhanh.”
“Chắc đẹp lắm nhỉ?!”
“Đẹp lắm. Nhiều là thủy đầu, rồi sau đó là cỏ thìa, huệ nước, tiếp nữa là thủy khổ mai, thủy phỉ. Cả cải xoong nữa.”
“Em có biết cải xoong.”
“Thật hả?”
“Dạ,” nàng gật đầu.
“Đó là thảo dược. Được dùng trong cả thuốc bắc nữa.”
“Loại trông như cỏ dại mọc ở mọi nơi đấy hả?”
“Trông như cỏ dại mọc ở mọi nơi nhưng mà đúng vậy đấy.”
Nàng khẽ cười. Tôi cũng cười, cảm giác như chúng tôi lại trở nên thân thiết hơn một chút.
“Vì thế,” tôi tiếp tục. “Vào mùa hè ba đứa anh thường đi lấy thủy sinh và nhờ một cửa hàng cá nhiệt đời quen biết bán hộ. Mặc dù không được là bao.”
“Cả cải xoong cũng bán được ạ?”
Tôi cười gượng, lắc đầu, “Cái đấy thì không. Trong những loài vừa nói đến, ở cửa hàng người ta chỉ bán cỏ thìa và thủy phỉ. Diệp tài hồng nữa.”
“Diệp tài hồng ạ?”
“Đúng vậy. Tên khoa học của nó là Ludwigia Ovalis.” Tôi cứ ngờ ngợ là mình vừa nhắc đến cái tên này dạo gần đây thôi, nhưng chưa nhớ ra ngay được là lúc nào.
“Có một cái đầm thả đầy diệp tài hồng. Những cây diệp tài hồng mọng nước mọc san sát nhau dọc theo viền ao. Chỗ đó cũng trở thành nơi yêu thích của Karin.”
“Nơi đấy chắc phải tuyệt lắm nhỉ?”
“Ừ. Những ngày hè nóng nực mà ra đầm ngâm chân thì đúng là thiên đường. Ở đó còn có nhiều bóng cây, ngủ trưa thì tuyệt vời.”
“Có vẻ vui nhỉ!” Misaki nói rồi ngước nhìn tôi với ánh mắt lấp lánh. Những tia nắng xuyên qua tán cây đang nhảy nhót trên mặt nàng.
“Ừ vui lắm. À, thế nhưng cái đầm sâu đó nguy hiểm hơn anh nghĩ. Yuji bảo có lần suýt chết đuối ở đấy.”
“Anh ấy không sao đúng không?”
“Ừ, hình như là hồi Yuji mới học lớp ba thì phải. Thân hình bé tí bé tẹo. Nhờ vậy mà một cậu lớp năm đi ngang qua, dù hơi nhỏ người nhưng cậu ta cũng xoay xở kéo được Yuji lên bờ.”
“Nhỏ người cũng có lợi đấy nhỉ?”
“Dĩ nhiên.”
Nhìn tôi nói với vẻ khẳng định chắc nịch, Misaki cười vui sướng.
“Đấy chuyện là như thế. Nhưng Yuji uống khá nhiều nước và bất tỉnh…”
Bấy giờ cậu đã gặp một giấc mơ kỳ lạ. Yuji người ướt nhẹp đang khóc bên cạnh đầm nước, không biết đường về nhà, không biết phải làm sao, cậu trở nên bất an. Bỗng một cô bé đã xuất hiện trước mặt tự bao giờ. Cô bé xấp xỉ tuổi cậu. Xinh xắn với làn da trắng. Cô bé hỏi, “Này, cậu không biết đường về nên khóc phải không?”
Yuji gật đầu lia lịa, thấy vậy cô bé đưa tay ra đỡ cậu đứng dậy, “Đằng này. Chúng ta đi thôi.”
Cậu cứ thế để cô bé dắt tay đi, chẳng mấy chốc đã tới lối ra vào của khu vành đai xanh quen thuộc.
“Phía trước là đường về nhà cậu đấy. Cậu có đi được một mình không?” Yuji gật đầu, cô bé bèn buông tay và ấn nhẹ vào vai cậu. “Tạm biệt nhé! Cậu không được quay lại đây nữa đâu.”
Yuji cảm ơn rồi bước chân về phía khu rừng mờ tối. Ngoảnh mặt lại, cô bé vẫn đứng ở đó. Với ánh sáng làm viền xung quanh, trông cô như một thiên thần. Yuji kể với tôi, “Khi mở mắt ra, tớ thấy mình đang ở trong bệnh viện. Họ bảo tớ đã bất tỉnh khá lâu. Bố vừa ôm tớ vừa khóc.” Rồi cậu tiếp tục, “Vào lớp năm, lần đầu tiên tớ với Karin học chung một lớp. Trông thấy Karin, tớ đã vô cùng kinh ngạc. Bởi vì trông cô ấy giống hệt thiên thần mà tớ gặp hôm đó.”
“Thế Karin bảo sao?” Tôi hỏi.
“Cô ấy cười. Bảo rằng, ‘Nếu tớ mà là thiên thần thì thiên đình có lẽ thiếu nhân công trầm trọng. Nên mới đi thuê một đứa chua ngoa thô tục như tớ.’ ”
“Thế không biết thiên thần mà anh Yuji nhìn thấy là ai nhỉ?”
“Chà, vì là mơ nên ký ức cũng mờ nhạt lắm. Biết đâu ký ức lại biến tướng thành câu chuyện này cũng nên.”
“Chuyện nghĩ thiên thần là chị Karin ấy à?”
“Ừ.”
“Vậy chắc chị Karin phải xinh đẹp như thiên thần ấy nhỉ?”
Nói sao đây? Một cô bé mặc chiếc áo quân đội quá khổ với bộ nẹp răng lấp lánh liệu có thể gọi là thiên thần được không? Với tôi thì trông Misaki vẫn giống thiên thần hơn.
Hai chúng tôi tiến sâu vào rừng. Một ngôi nhà cũ kỹ dùng để nghỉ chân nằm yên lặng ở đó.
Trên chiếc bàn gõ có rất nhiều hình vẽ, chiếm phần lớn là hình ô đôi[4] vạch bằng nét bút nguệch ngoạc. Tính đến giờ đã có bao nhiêu cặp đôi ghé qua chỗ này nhi? Tất cả các cặp viết tên vào đây mà vẫn đang bên nhau thì tốt biết bao, tôi đã nghĩ như vậy.
[4] Là một kiểu vẽ thể hiện tình yêu, một chiếc ô được vẽ bằng các đường đơn giản rồi viết tên hai người vào hai bên.
Câu chuyện tiếp tục.
“Ban đêm thì bắt đom đóm. Đêm xuống, ba đứa anh sẽ tập trung ở đằng sau trường rồi cùng ra song nhỏ. Mang theo đèn pin.”
“Không sợ ạ?”
“Hơi hơi. Thế nhưng, nói sao nhỉ, đi trong đêm với hai người đó là trải nghiệm cực kỳ hồi hộp. Và hồi hộp đã chế ngự sợ hãi.”
Là nhờ có Karin, đi cùng cô nàng thì chẳng sợ gì bóng đêm, nhưng tôi chỉ giữ lại trong lòng, không dám nói ra.
“Đến đầm, bọn anh tắt đèn pin và ngồi xuống cỏ. Từ phía đầm có một con sông nhỏ chảy ra, xung quanh nhảy nhót rất nhiều ánh sáng. Là thứ ánh sáng mềm mại, dịu dàng. Trông như đang thở, thoắt biến mất rồi lại lấp lánh.”
“Nghe như bụi tuyết ấy nhỉ?”
“Bụi tuyết?”
Nàng “dạ” rồi nói tiếp, “Tên tác phẩm của Junichiro Tanizaki.”
“À tiểu thuyết hả? Anh chưa đọc bao giờ.”
“Không sao mà,” nàng trấn an. “Em chỉ nói thế thôi.”
Chúng tôi đi hết khu rừng, ra bờ hồ. Trong hồ có thả cá hồi. Tôi mua chai nước chanh có ga ở máy bán hàng tự động và ngồi xuống chiếc ghế dài màu đỏ ghi chữ Coco-cola.
Uống một ngụm nước, tôi chợt nhớ ra. “Đúng rồi, anh còn nhớ có chuyện như thế này nữa.”
Ngày 16 tháng Tám là sinh nhật Karin.
“Sinh nhật Karin chúng mình tặng gì?” Yuji hỏi tôi. Mặc độc chiếc quần đùi, chúng tôi đang nằm sấp phơi nắng bên cạnh Đầm Quả Bầu.
Hai đứa chúng tôi bôi cho nhau kem chống nắng coppertone, lọ kem vứt ngoài bãi rác đã lâu nên ngập mùi nước cốt dừa. (Sau đó cả hai đứa tôi đều bị viêm da đỏ ửng, khổ sở vô cùng, thậm chí Yuji còn sốt rồi ngủ li bì.)
“Karin thích cái gì nhỉ?”
Tôi vừa hỏi Yuji đã trả lời ngay lập tức.
“Những đồ đẹp.”
“Những đồ đẹp?”
“Ừ. Những thứ lấp la lấp lánh, hay những thứ có màu sắc sặc sỡ.”
“Ví dụ như?”
Xem nào, Yuji ngước nhìn lên phía không gian trước trán mình.
“Cậu ấy thích thủy tinh. Ví dụ như lọ nước hoa hay đồ trang trí nho nhỏ. Có thể cả hạt vòng nữa.”
“Thế thì cũng ra dáng con gái đấy chứ hả?”
Nghe tôi nói vậy, Yuji trầm ngâm một lát rồi đồng tình. “Công nhận nhỉ! Cũng giống con gái đấy chứ.” Rồi cậu ta tiếp tục, “Nhưng Karin là con gái cơ mà.”
“Ừ, biết là thế.”
Biết là thế nhưng lại bất ngờ. Cô nàng ăn vận như con trai, cử chỉ cũng như con trai. Vậy nên tôi đã nghĩ rằng cô nàng cũng phải là chủ nhân của những sở thích giống như một cậu con trai. Tuy nhiên khi nghe bảo cô nàng thích những thứ như một cô gái thực thụ, tôi cũng mang máng nhận ra rằng con người Karin có thể khác với vẻ bề ngoài. Thế giới không đơn giản như tôi nghĩ.
“Karin ấy, mang bộ dạng như vậy khoảng từ bao giờ?”
“Hình như là khoảng một năm trước thì phải.”
Yuji tháo cặp kính ra, giơ về phía ánh nắng. Vết hằn của gọng kính vẫn còn in trên mặt. Tôi chỉ cho cậu ta rằng nên bỏ kính ra. Yuji gật đầu đoạn đặt kính xuống bãi cỏ.
“Cậu ấy cắt tóc ngắn từ khi vào lớp sáu thì phải.” Yuji nói. “Trước đó là tóc dài. Cậu ấy còn mặc váy ngắn nữa cơ.”
“Karin mặc váy ngắn!?”
“Ừ, trông hợp lắm. Hồi đó chẳng mấy khi cậu ấy mở miệng.”
“Các cậu cùng lớp với nhau hả?”
“Ừ, cùng lớp năm và lớp sáu.”
“Thế thành bạn bè từ bao giờ?”
“Khoảng cuối lớp sáu. Có một tên đáng ghét. Karin đã nói chuyện với hắn giúp tớ.”
“Bằng lời?”
“Không, bằng chân tay.”
“Tớ cũng nghĩ vậy.”
Chúng tôi kéo chiếc quần đùi xuống để so sánh tình trạng cháy nắng. Vì cả hai đứa đều trắng nên phần cháy nắng bị nhuộm thành màu đỏ son đau rát.
“Kể từ lúc đó, bọn tớ bắt đầu ở bên cạnh nhau.”
Dù sao thì tôi cũng đã hiểu ra rằng không phải ngay từ lúc sinh ra Karin đã mặc áo quân đội. Cô nàng ăn mặc như vậy chắc có lý do.
“Vậy giờ sao nhỉ?” Yuji hỏi. “Tặng cái gì bây giờ?”
Có lẽ sẽ là một thứ lấp la lấp lánh, hay một thứ có màu sắc sặc sỡ, nhưng cụ thể nó sẽ là cái gì thì tôi chưa nảy ra ý tưởng nào hay ho.
Sau khi bị cái nóng luộc chín, chúng tôi nhảy xuống nước làm mát toàn thân, rồi mặc quần áo và bỏ lại Đầm Quả Bầu phía sau. Mặt cả hai đỏ bừng đến phát ghê.
Ngày hôm sau không thấy bóng dáng Yuji ở Đầm Quả Bầu. Cũng chẳng phải hẹn trước nên tôi không bận tâm, về sau hỏi Yuji thì nghe bảo lúc đó cậu ta đang sốt, rên ư ử. “Tớ gặp trận sốt khủng khiếp lắm.”
Cuối cùng ba ngày sau tôi cũng gặp Yuji, trông mặt cậu gầy rộc.
“Tớ không bao giờ dám phơi nắng nữa đâu,” cậu ta kêu ca. “Cậu bảo rám nắng ở chỗ nào? Đúng là chẳng được tác dụng gì cả.”
Sau đó cậu ta nói “Đây,” và đưa cho tôi cái túi ni lông. “Đây là thứ lấp lánh. Quà sinh nhật của Karin.”
Tôi nhìn vào bên trong túi, quả nhiên trong đó đựng đầy những thứ lấp lánh.
“Hầu hết là bi ve. Tớ sưu tầm mãi đấy.”
“Cái này là gì?” Tôi nói rồi nhặt khối đa diện trong suốt nằm lăn trong các viên bi ve lên xem.
“À, đó là thấu kính ngũ giác.”
“Thấu kính ngũ giác?”
“Ừ, có chiếc máy ảnh vứt ở bãi rác, tớ tháo tung ra xem thì nhặt được cái này. Đẹp đúng không? Tớ mài cũng khá kỹ đấy. Có cả thứ gì trông kỳ kỳ sơn lên đó tớ cũng cạo đi rồi.”
Tôi giơ khối đa diện ra ánh sáng.
“Thấu kính…”
“Hình ngũ giác. Bố tớ bảo tớ đấy.”
“Karin chắc sẽ vui lắm.”
“Nhất định là thế.”
“A!”
“Dạ? Gì cơ ạ?”
“Không, không có gì.”
Thế nhưng, không phải là không có gì.
Giờ tôi đã nhận ra. Cái khối đa diện mà Morikawa Suzune đeo trên cổ. Nó là thấu kính ngũ giác. Hôm trước nhìn kỹ nó, điều khiến tôi cảm thấy xao động chính là ký ức của mười lăm năm xa xôi.
Mà không… giờ mà khẳng định như thế vẫn còn sớm. Đúng là một khối đa diện rất giống nhưng cũng có khả năng đó là viên đá quý được cắt theo hình dạng như vậy. Trước hết là bởi, cô gái nào mà nói thấu kính ngũ giác là đồ vật quý giá rồi đem đeo vào cổ thì hẳn là dạng lập dị. Nếu là Karin thì còn có thế, nhưng cô ấy đã tự xưng tên là Morikawa Suzune, vả lại mọi người xung quanh cũng nói như vậy. Dù cho có là nghệ danh đi chăng nữa thì với tôi, cô ấy chắc chắn phải xưng tên thật chứ.
Một lần nữa, tôi thử nhớ lại ngày tôi và cô ấy gặp nhau. Suzune có đôi mắt màu sáng. Nhìn vào đôi mắt ấy, tôi cảm giác như đã biết cô. Tôi đã bỏ qua vì cho rằng đó là cảm giác “chưa gặp đã thấy quen”, nhưng có thật là như thế không?
Một khuôn mặt mang lại cảm giác thân quen. Cả kiểu chua ngoa đó nữa. Karin cũng khá chua ngoa. “Thế này đã là đỡ hơn nhiều rồi đấy,” Morikawa Suzune đã nói như vậy.
Không, nhưng mà…
“Có chuyện gì thế ạ?” Thấy tôi im ắng, Misaki bèn hỏi.
“À không, không có gì…”
“Rồi sao ạ?” Nàng hỏi. “Có tặng được quà không anh?”
“À, có. Tặng chứ. Ngày hôm sau, bọn anh gọi Karin ra bãi rác.”
Ngày hôm sau chúng tôi gọi Karin ra bãi rác.
Chúng tôi đến trước, sắp xếp hộp quà lên bàn. Chúng tôi bọc bằng giấy gói quà rất đẹp, lại còn thắt cả dây ruy băng.
Lát sau Karin xuất hiện. Vẫn dáng vẻ như mọi ngày. Cô nàng mặc chiếc áo quân đội quá khổ. Nhiệt độ đã lên đến gần ba mươi nhưng cô nàng vẫn tỏ ra vô cùng mát mẻ.
“Chào,” cô nàng nói. “Gì thế, có chuyện gì cơ?”
Lấy câu đó làm tín hiệu, hai chúng tôi bắt đầu hát. Bài hát sinh nhật. Chúng tôi cố gắng hát chứa chan tình cảm, hệt như Marilyn Monroe hát Mr.President. Yuji hát bằng giọng giả thanh và lo hòa âm, hai chúng tôi còn song ca nhiệt tình kèm thêm màn khoa chân múa tay. Karin cười lăn cười bò trước bài hát sinh nhật lạc nhịp của hai đứa tôi.
Cuối cùng chúng tôi nói “Chúc mừng sinh nhật cậu, Karin” rồi giơ cây pháo hoa giấy giấu sau lưng lên trời, kéo dây ra. Pang! Một âm thanh khô khốc tan vào bầu trời xanh.
“Vui quá! Cảm ơn hai cậu.” Karin nói và đưa hai tay áp vào lồng ngực.
“Bọn tớ có cả quà nữa đấy,” Yuji nói và trỏ cái bọc trên bàn. “Cậu thử mở ra đi.”
Karin vẫn áp tay vào ngực, lần lượt nhìn hai đứa chúng tôi rồi hướng ánh mắt về phía gói quà được cột ruy băng.
“Cho tớ à?”
Dĩ nhiên rồi, chúng tôi gật đầu.
“Từ từ thôi. Từ từ thôi nhé.”
Nghe lời Yuji, Karin cởi dải ruy băng một cách cẩn trọng. Rồi nhẹ nhàng mở cái gói. Thứ hiện ra là một bể cá vàng ngập nước.
Lá xanh rồi hoa màu vàng nổi lên trên mặt nước, trải dưới đáy là mười viên bi ve và viên thấu kính ngũ giác.
“Cái này…”
“Cậu nghĩ là gì?” Tôi hỏi, Yuji bổ sung. “Bọn tớ đang hỏi về những viên thủy tinh trải dưới đáy nhé.”
Karin dùng hai tay nâng bể lên và nhìn xuống đáy.
“Cái này là…” Cô hướng ánh mắt trở lại chúng tôi. “Là viên bi thủy tinh trong nước chanh phải không?”
“Ừ, ừ,” Yuji gật đầu. “Cả thấu kính ngũ giác nữa.”
“Phải, là thấu kính ngũ giác đấy.” Tôi phụ họa.
“Thấu kính ngũ giác?”
“Một bộ phận của máy ảnh.”
“Cái hình có năm cạnh đấy hả?”
“Phải. Đẹp không?”
“Đẹp quá,” cô nàng nói bằng giọng thì thầm. Rồi sau đó, ôm cái bể vào lòng. “Tớ rất thích những thứ đẹp.”
Yuji nhìn tôi với vẻ mặt như muốn nói. “Đấy, thấy chưa?”. Tôi gật đầu kiểu “Ừ, có vẻ thế nhỉ”.
“Loài hoa đó đến ba giờ là héo đấy.” Tôi nhắc. “Cuộc đời của nó chỉ kéo dài trong một ngày thôi.”
“Ồ,” Karin thốt lên rồi nhìn xuống cái bể đang ôm trong lòng. “Thế thì tao sắp phải tạm biệt mày rồi.” Cô nàng bắt chuyện với bông hoa nhỏ nổi trên mặt nước. “Rất vui vì được gặp mày.”
Sau đó Karin khẽ khàng đặt cái bể lên bàn, khoác tay qua vai chúng tôi, kéo đầu hai đứa sát lại.
Mùi hương thật dễ chịu. Mùi hương của cô gái vừa sang tuổi mười bốn.
“Cảm ơn hai cậu.” Cô nàng thì thầm. “Tớ sẽ giữ gìn nó cẩn thận. Suốt đời.”
Cô nàng ghì mạnh hai cánh tay, má của chúng tôi chạm nhau. Làn da trông như tờ giấy Kent cao cấp, chạm vào quả nhiên có cảm giác như chạm vào tờ giấy Kent cao cấp.
“Giờ,” cô nàng nói rồi thả cánh tay ra.
Yuji chỉnh lại cặp kính bị tuột trở về đúng vị trí, bộ dạng bồn chồn.
“Tớ phải mang cái này về nhà. Làm sao chở về được nhỉ?”
“Không sao đâu. Tớ có xe đạp mà.”
Tôi đã chở bể cá vàng từ nhà đến đây bằng xe đạp. Chiếc xe tôi thừa hưởng từ bố ấy có cấu tạo cục mịch, thực dụng. Sau khi trút bớt quá nửa nước khỏi bể, tôi bọc nó lại trong giấy gói quà rồi đặt lên giỏ xe. Tôi dắt xe, Karin và Yuji theo sau.
Nhà cô nàng nằm trong khu vực những người nhập cư đầu tiên của thị trấn này. Nhập cư nghĩ là di dân từ nơi khác về, còn những người sống ở đây từ ngày xưa được gọi là “dân bản xứ”. Hàng cây mọc đều tăm tắp trên ngọn đồi là một không gian khác lạ trong thị trấn. Quy hoạch tổng thể được trau chuốt, kiểu cách, có chủ ý. Trông nhà nào cũng đơn giản, cấu trúc bình thường nhưng đều toát ra sự tinh tế. Khác hẳng kiểu nhà xây hàng loạt để bán, cái nào cũng giống cái nào, kiểu như nhà tôi.
Chúng tôi leo lên một con dốc thoai thoải. Karin rất cao hứng, cô nàng ngân nga suốt bằng giọng mũi.
“Cảm ơn các cậu.” Đi đến giữa con dốc, Karin dừng lại và nói. “Đến đây là được rồi.”
Cô nàng nhấc cái bọc bể cá vàng từ giỏ xe ra, ôm vào người. “Hôm nay là ngày sinh nhật tuyệt vời nhất của tớ. Nhờ có hai cậu.”
Chúng tôi nhìn nhau, nở nụ cười ngượng ngùng.
“Vậy hẹn gặp lại các cậu nhé.” Karin nói.
“Ừ, chào cậu.”
“Vậy nhé.” Cô nàng gật đầu, quay lưng về phía chúng tôi rồi bắt đầu bước đi. Tôi và Yuji đứng một lúc nhìn theo bóng Karin xa dần.
Giọng ngân nga của cô nàng vẫn còn vọng lại.
Phải rồi, tôi đã nhớ ra.
Bài hát mà cô nàng ngân nga là bài Funiculi Funicula.
Tôi trở về cửa hàng vào lúc mười giờ kém.
Ngoài cửa treo tấm bảng “Đóng cửa”, điện bên trong đã tắt. Tôi bước vào trong, chỉ còn duy nhất ngọn đèn ở quầy tính tiền đang bật, Morikawa Suzune ở đó. Cô đang cầm cốc nước uống gì đó như thuốc, nhưng thoáng thấy bóng tôi, cô vội giấu vào chiếc túi màu trắng trên quầy.
“Anh về rồi đấy à?” Cô chào.
“Tôi về rồi.”
Tôi dùng ngón tay trỏ cởi cà vạt, đoạn ngồi xuống cầu thang dẫn lên tầng hai.
Tôi đang phân vân không biết có nên hỏi về việc tôi vừa nhìn thấy hay không, tuy nhiên trước khi tôi kịp quyết định thì cô đã mở miệng trước. “Buổi hẹn của anh thế nào?”
“Vui lắm,” tôi trả lời. “Chúng tôi còn uống cả rượu Vintage nữa cơ mà.”
“Ái chà chà,” cô bảo. “Trẻ em mà uống rượu sẽ bị la đấy nhé.”
“Không sao. Vì tất cả mọi người trên thế gian này đều ở tuổi teen mà.”
“À, đúng vậy nhỉ.”
“Anh uống trà không?” Cô hỏi.
“Được đấy. Trà ô long quế hoa nhỉ?”
“YES,” cô nói đoạn với tay tới cái bình đặt trên bàn cà phê phía sau lưng. Vừa rót vào cốc, cô vừa nheo mắt nói, “Thơm quá”
“À nhắc đến mùi thơm mới nhớ.” Tôi lấy từ trong túi áo ra một lo thủy tinh sẫm màu. “Tinh dầu thiên nhiên Misaki tặng đấy. Bảo là cho Karin.”
“Hả? Vì sao?”
“Hôm trước, lúc quyết định ngày giờ hẹn hò tôi đã nói chuyện với cô ấy. Tôi bảo có một cô nhân viên mới vào, cô ấy thích mùi hoa hồng.”
“Anh đã nói chuyện về tôi ấy hả?”
“Ừ thì… giấu cũng không hay mà.”
Cô cầm cốc trà trên tay rồi tiến về phía tôi. Tôi đưa cho cô lọ tinh dầu đổi lấy trà.
“Thấy cô ấy bảo là hoa hồng Bulgaria.”
Cô vừa ngắm nhìn chăm chú lọ thủy tinh màu xanh cô ban vừa mỉm cười vẻ vui sướng. “Đẹp quá. Những đồ đựng bằng thủy tinh như thế này là những thứ tôi thích.”
“Cô ngửi mùi thử xem.”
Gật đầu bảo ừ, cô mở chiếc nắp màu hồng, đưa lại gần mũi. “Ôi, mùi hương tuyệt quá. Ngọt ngào lắm.” Cô nhắm mắt, đắm chìm trong mùi hương hoa hồng Bulgaria. Rồi đột ngột mở mắt nhìn tôi. “Vừa nãy anh nói gì cơ?”
“Vừa nãy?”
“Tinh dầu thiên nhiên Misaki tặng đấy… Sau đó là gì?”
Tôi nhìn cô với khuôn mặt như muốn nói à-chuyện-đó-hả, “Tôi bảo là, để cho Karin.”
“Là ai vậy?”
“Là cô. Vừa nãy cô đâu có phủ định phải không nào?”
Cô chăm chú nhìn vào mặt tôi khoảng mười giây. Lúc đầu tôi nở nụ cười gượng gạo, cuối cùng vì xấu hổ, tôi cúi mặt xuống.
“Cuối cùng cậu đã nhận ra.” Cô nói.
Phải, cuối cùng tôi đã nhận ra. Cô nhân viên của cửa hàng tôi là người tôi đã trao nụ hôn đầu.
“Cậu nhận ra khi nào?” Nghe kỹ, đó đúng là giọng của Karin.
“Tớ kể cho Misaki nghe chuyện hồi trung học cơ sở.” Tôi nói. “Lúc đó, câu chuyện chuyển sang món quà tặng cho Karin ngày sinh nhật.”
Cái này nhỉ? Karin nói rồi lấy từ ngực ra viên thấu kính ngũ giác.
“Thì ra đúng là như vậy.”
“Đúng mà. Cả mấy viên bi ve tớ vẫn còn giữ cẩn thận.”
“Rồi tiếp đến là bài hát Funiculi Funicula.”
“Funiculi Funicula là sao?”
“Là bài hát lúc nào cậu cũng hát đấy. Cậu ngân nga khi tâm trạng tốt.”
“À, cậu bảo thế tớ mới để ý. Chiếc quần của con ma phải không?”
“Ừ ừ.”
Cô nàng khoanh tay, khom lưng đoạn tiến sát vào mặt tôi. “Mà, cho dù thế đi nữa thì cậu cũng đúng là một kẻ lạnh lùng.”
“Lạnh lùng gì cơ?”
“Gì cơ à, chẳng phải cậu quên sạch mọi chuyện về tớ sao?”
“Thì tại cậu chẳng nói gì cả.”
“Tại tớ nghĩ không cần phải nói.”
“Cậu lại còn bảo cậu xem thông tin tuyển dụng.”
“À, cái đó thì là thật. Tớ đến thăm thì cậu đang tuyển người. Cả chuyện tớ bỏ nghề người mẫu cũng là thật.”
“Lúc ấy cậu tự nói ra có tốt không.”
“Thì tớ cũng cứng đầu mà. Cậu hoàn toàn chẳng nhớ gì cả. Tớ đã nghĩ thế này thì đi luôn cho rồi.”
“Biết là vậy nhưng mà…” Giọng tôi nhỏ dần. “Cả cách nói chuyện của cậu cũng khác so với hồi trước.”
“Thế thì, tớ phải nói như thế này hả?” Cô nàng thả tay ra đoạn duỗi thẳng lưng. “Ê Satoshi, lâu lắm không gặp cậu. Cậu chẳng thay đổi tí nào cả.”
“Phải. Chính là nó.”
“Hừm,” Karin khịt mũi. “Trông thế này thôi, tớ cũng là tiểu thư đấy chứ. Sao có thể ăn nói kiểu đàn ông đó được.”
“Chà,” tôi buột miệng buông tiếng thở dài. “Thân thương quá. Một Karin không lẫn vào đâu được.”
Cô chùi bàn tay phải vào áo sơ mi đoạn chìa ra phía tôi. “Lại lần nữa nhé!” Karin nói. “Lâu lắm rồi không gặp cậu.”
Tôi nắm lấy tay Karin. “Lâu quá rồi. Tớ nhớ cậu lắm.”
Karin nhận xét, “Cứ như trở lại điểm xuất phát ấy. Bỏ nghề người mẫu, tớ có nhiều thời gian hơn, hay mình thử quay lại nơi mình đã từ đó ra đi, tớ đã nghĩ như thế.”
“Cậu tìm chỗ tớ giỏi nhỉ?”
“Cũng khá vất vả. Cậu chuyển nhà những năm lần cơ mà. Cậu còn vay tiền tín dụng đen nữa hả?”
Bắt chước Karin, tôi thử nhướn lông mày bên trái lên. Tỏ vẻ như muốn nói rằng làm-gì-có-chuyện-đó.
“Mà thôi, bỏ qua.” Cô nói. “Cuối cùng tớ cũng tìm được tới nơi, cậu không có ở nhà. Đợi dài cả cổ, rốt cuộc đến lúc gặp cậu cũng chẳng nhớ ra.”
Karin buông tiếng thở dài thườn thượt và nhìn tôi với ánh mắt hăm dọa. Tôi không hề run sợ mà mỉm cười với cô. “Mười lăm năm rồi mà. Con người thay đổi mà ký ức cũng mờ nhạt đi.”
“Tớ thay đổi?” Cô hỏi.
“Có lẽ. Hàm răng cậu đẹp hơn, cậu còn cao hơn nữa chứ.”
Cô vẫn im lặng nhìn chăm chăm vào tôi như ngụ ý “Còn câu gì nữa cơ mà”.
“À, thêm nữa là cậu còn trở thành một thiếu nữ duyên dáng.”
“Cảm ơn.” Cô cúi đầu đầy khách sáo rồi nói với tôi bằng giọng chẳng có vẻ gì là biết ơn.
“Thế là đủ rồi còn gì?” Tôi nói. “Xin lỗi vì tớ đã không thể nhớ được, nhưng nói dối suốt từ đầu tới giờ là cậu đấy nhé.” Và bổ sung, “Lại còn đổi cả tên nữa.”
“Morikawa là họ bên mẹ tớ.” Cô nói. “Còn Suzune là tên chị gái tớ.”
“Chị gái? Karin là con một cơ mà?”
“Tớ có chị. Chị tớ mất hồi tớ lên chín.”
À, vậy hả, tôi lẩm bẩm trong miệng.
“Bố mẹ tớ ly dị, vậy nên tớ xưng họ mẹ. Rồi tớ mượn tên của chị và lấy tên đó làm nghệ danh.”
“Có nhiều chuyện xảy ra quá.”
“Đời là vậy mà.”
“Ừm, biết là thế.”
Karin hỏi tôi có uống thêm trà không, tôi nhờ cô rót thêm một cốc nữa. Cô vừa rót trà vừa nói, “Cậu hoàn toàn chẳng thay đổi gì nhỉ! Nhìn một cái là nhận ra ngay. Hệt như ngày xưa.”
“Tớ đang được khen đấy à?”
“Cậu nghĩ thế hả?”
“Không không.”
“Vậy thì, không phải là thế hay sao?”
Tôi lấy lại tách trà, Karin ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi đưa tách trà vừa nhận lại lên miệng.
“Thế…” tôi hỏi, “thực sự thì dự định của cậu thế nào?”
“Không có gì đặc biệt. Trước hết là gặp cậu, tớ muốn lấy lại những cảm xúc ngày xưa.”
“Thế thì, cậu vẫn ở đây thêm một thời gian nữa chứ?”
“Đúng vậy. Là nhân viên cửa hàng thủy sinh cảm giác khá mới lạ và vui. Tớ định ở đây thêm một thời gian nữa,” cô nàng nói.
“Yuji thì sao?” Tôi hỏi.
Karin khẽ lắc đầu, “Biệt tăm biệt tích. Tớ đã thử tìm nhiều rồi.”
“Muốn gặp cậu ấy thật đấy. Không biết giờ cậu ấy có vẽ tranh nữa không nhỉ?”
“Tớ cũng đã thử tìm theo hướng đó, tìm các họa sĩ chuyên nghiệp hay những người vẽ tranh minh họa. Nhưng không tìm thấy.”
“Hay cậu ấy cũng dùng một cái tên khác giống như Karin?”
“Cũng có thể.”
“Bởi lẽ,” tôi nhận xét. “Tài năng của Yuji nhất định sẽ được mọi người công nhận.”
“Đúng vậy,” Karin gật đầu. “Tớ cũng nghĩ thế.”
Cả hai im lặng một lúc, tôi nghe được cả tiếng ro ro của máy nén khí khi thổi ô xy vào bể thủy sinh. Xung quanh phảng phất thứ mùi như mùi của khu rừng vừa tạnh mưa.
“Này, Satoshi.”
Karin gọi tên tôi. Tôi có cảm giác như chỗ mỏng nhất của lớp da bao bọc trái tim bị rách toác, một thứ gì đó vừa được giải phóng ra.
“Gì vậy?” Giọng tôi run run.
“Gặp được cậu tớ vui lắm. Tớ chỉ muốn nói vậy thôi.”
Tôi không thể đáp lại câu đó. Những lời bộc bạch với người con gái đã đưa tôi qua một ngưỡng khác của cuộc đời mười năm trước đang sống lại bên tai tôi.
“Em đang đi tìm. Một người con gái duy nhất trong đời.”
“Đến bây giờ em vẫn không thể nào quên được người con gái em đã trao nụ hôn đầu.”
Như cảm nhận được vẻ khó xử trong sự im lặng của tôi, Karin hơi ngượng ngùng tiếp lời, “Này, tớ phải nói trước là hành động, lời nói của tớ dễ bị hiểu lầm lắm đấy nhé.”
“Công nhận.” Tôi đáp.
Karin thả lỏng vai như trút được gánh nặng, đoạn nói tiếp, “Tớ chỉ buông lời chua ngoa với những ai tớ thực sự thấy thoải mái thôi.”
“Tớ biết rồi. Tớ là người đặc biệt với cậu chứ gì?”
Cô đỏ mặt trước câu nói của tôi.
“Chà, cậu đỏ mặt rồi kìa.”
Nghe tôi trêu, Karin giơ hai tay tỏ ý đầu hàng, “Hóa ra hồi trước cậu tức tối cũng không phải vô lý quá nhỉ?”
“Cậu hiểu cảm giác rồi hả?”
“Thấm thía luôn.”
Tôi gật đầu bao dung rồi chuyển chủ đề, “Thế rồi sao? Từ đó đến nay cậu sống thế nào?”
Karin nhìn chăm chăm vào ngọn đèn mờ bên quầy, nheo mắt như đang lật lại cuốn nhật ký cũ.
“Lần cuối cùng bọn mình viết thư cho nhau là hồi mười bảy tuổi phải không?”
“Tầm đó. Karin đi Paraguay phải không nhỉ?”
“Ừm,” Karin gật đầu.
“Tớ tới đất nước ấy không lâu sau đó.”
Ở bức thư cuối cô nàng viết rằng. “Vì công việc của bố, nhà tớ phải chuyển đến Nam Mỹ xa xôi.”
“Tớ đã viết địa chỉ mới rõ ràng vậy mà kể từ hồi đó chẳng có lá thư nào tới.”
Đó cũng là điều tôi đã muốn nói bấy lâu nay. “Tớ có gửi mà. Mấy lá liền.”
Mở to mắt như lên án “nói dối”, và rồi cô nàng bật ra, “Nói dối.”
“Vậy nhưng tất cả đều bị gửi trả lại.”
“Kỳ lạ quá. H