Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 15-16
Chương 15
Oshima trèo vào chiếc Miata thể thao và bật đèn pha. Khi anh dận ga, những hòn sỏi bắn lên, gại vào gầm xe. Anh lùi xe, rồi quành lại, hướng ra đường cái. Anh giơ tay chào tạm biệt và tôi cũng làm như thế. Bóng tối nuốt chửng ánh đèn hậu, tiếng máy nổ nhỏ dần rồi tắt hẳn và rừng cây trở lại lặng tờ.
Tôi quay vào nhà và chốt cửa từ bên trong. Như thể nó đã rình sẵn, im lặng quây chặt lấy tôi một khi tôi chỉ còn một mình. Không khí ban đêm lạnh đến nỗi khó mà tin là chỉ mới vào hè, nhưng đốt lò thì đã quá muộn. Đầu tôi hơi mụ mẫm vì thiếu ngủ và cơ bắp ê ẩm vì xóc nẩy người trên xe suốt chặng đường dài. Tôi vặn nhỏ đèn. Những cái bóng trong bốn góc phòng sẫm thêm. Ngại thay đồ phiền phức, tôi cứ mặc nguyên cả quần jeans và áo khoác ngoài chui vào túi ngủ.
Tôi nhắm mắt lại nhưng không thể ngủ ngay: thân thể thì thèm nghỉ muốn chết, nhưng đầu óc lại tỉnh như sáo. Thi thoảng, một con chim phá vỡ im lặng đêm. Nhiều tiếng động khác cũng lọt vào mà tôi không xác định được – một cái gì giẫm trên lá rụng; một cái gì nặng nề khua lách cách những cành cây; một âm thanh tựa như một hơi thở sâu; thi thoảng, tiếng cọt kẹt của những bậc thềm gỗ ngoài hiên. Nghe như ở cạnh nhà. Như thể cả một đạo quân gồm những sinh vật vô hình đang bao vây tôi.
Và tôi cảm thấy như có người đang theo dõi tôi. Da tôi nhoi nhói dưới những tia nhìn phóng vào mình. Tim tôi đập thình thịch. Mấy lần, từ trong túi ngủ, tôi hé mắt ngó quanh căn phòng lờ mờ sáng để yên trí rằng không có ai khác ở đó. Cửa trước đã chốt chặt bằng chiếc then to gộc và những tấm rèm dày đã che kín các cửa sổ. Vậy là ổn cả, tôi tự nhủ, chỉ có mình mày trong phòng, làm gì có ai dòm ngó mày qua cửa sổ.
Thế nhưng tôi vẫn không rũ bỏ được cái cảm giác mình đang bị theo dõi. Cổ họng tôi khô rát và tôi thấy khó thở. Tôi cần phải uống chút nước, nhưng nếu uống thì sẽ phải đi giải, có nghĩa là phải ra ngoài. Tôi phải cầm cự đến sáng thôi. Co ro trong túi ngủ, tôi khẽ lắc đầu.
Cậu giỡn tớ đấy hả? Cậu như một thằng nhóc nhát gan, thấy im lặng và bóng tối là sợ mất vía. Cậu sắp lộ rõ bản chất yếu đuối ra trước mắt tớ chăng? Xưa nay cậu vẫn tưởng mình kiên cường, nhưng cháy nhà ra mặt chuột, giờ nom cậu như sắp sửa khóc òa lên. Nhìn kìa, tớ cuộc là cậu sắp tè ra quần rồi!
Phớt lờ thằng cu tên là Quạ, tôi nhắm nghiền mắt, kéo phéc-mơ-tuya túi ngủ đến tận dưới mũi và xua mọi ý nghĩ ra khỏi đầu. Bất cứ cái gì cũng không làm tôi mở mắt – dù là tiếng cú rúc hay vật gì rơi đánh thịch bên ngoài. Ngay cả nếu tôi cảm thấy có gì di chuyển trong nhà. Mình đang trải qua thử thách, tôi tự nhủ. Dạo bằng tuổi mình, Oshima cũng đã qua nhiều ngày một mình ở đây. Chắc anh ấy cũng đã sợ mất vía như mình. Anh ấy nói cô đơn cũng có nhiều kiểu nghĩa là thế đấy. Oshima biết đích xác cảm giác của mình khi phải đơn độc ở đây ban đêm, vì anh ấy đã trải qua cảnh ấy cùng những xúc động ấy. Ý nghĩ đó giúp tôi thư giãn một chút. Tôi cảm thấy nhưạm vào những cái bóng của quá khứ và hình dung bản thân mình như một bộ phận của quá khứ ấy. Tôi thở thật sâu rồi ngủ thiếp đi lúc nào không biết.
Tôi thức giấc sau sáu giờ sáng. Không khí đầy tiếng chim chóc gọi nhau. Chúng bận rộn chuyền từ cành này sang cành khác, gọi nhau the thé. Thông điệp của chúng tuyệt nhiên không bợn chút dư vang nặng nề và hàm ẩn hãi hùng của những tiếng động đêm qua. Khi tôi kéo những rèm cửa ra, toàn bộ bóng tối bao quanh căn lều đêm qua đã biến mất không sót lại mảnh nhỏ nào. Tất cả đều lấp lánh trong một ánh vàng óng mới nhen. Tôi đốt lò, đun sôi một chút nước khoáng, pha một tách trà hoa cúc rồi mở một hộp bánh quy giòn và ăn mấy cái cùng với phó mát. Sau đo, tôi đánh răng, rửa mặt.
Tôi mặc áo gió và bước ra ngoài. Ánh ban mai rọi qua hàng cây cao tràn xuống khoảng trống trước căn lều, giữa những tia nắng lan khắp, dập dờn mấy mảng sương như những linh hồn mới sinh. Không khí tinh khiết theo mỗi hơi thở xuyên vào phổi tôi. Tôi ngồi xuống một bậc thềm, nhìn lũ chim bay liệng từ cây này sang cây khác, nghe tiếng chúng gọi nhau. Phần lớn bay từng cặp, luôn luôn kiểm tra xem bạn mình đang ở đâu, không ngừng líu lo để giữ liên lạc.
Tôi lần theo tiếng nước róc rách và tìm ngay ra con suối ở gần đấy. Ở một chỗ, giữa những tảng đá quây tròn, nước tràn vào thành vũng, xoáy tít từng vòng trước khi ào ra trở lại dòng chính. Nước suối trong và đẹp. Tôi lấy tay vốc, uống thử – mát tuyệt – rồi thả tay xuống dòng nước chảy xiết.
Trở về lều, tôi rán giăm bông với trứng trong chảo, nướng bánh bằng vỉ sắt và đun sữa trong xoong. Ăn xong, tôi kéo ghế ra ngoài hiên, gác chân lên lan can, đọc cả buổi sáng. Tủ sách của Oshima đầy ự sách – hàng mấy trăm quyển. Chủ yếu là sách kinh điển, chỉ có một số tiểu thuyêt. Phần lớn là sách về triết học, xã hội học, lịch sử, địa lý, khoa học tự nhiên, kinh tế học – rất nhiều đề tài, đủ mọi lĩnh vực. Oshima đã nói là anhấy theo học ở trường chẳng được mấy, cho nên đây hẳn là cách anh ấy tự trau dồi văn hóa.
Tôi lấy một cuốn về vụ án Adolf Eichmann. Tôi mang máng biết hắn là một tên Đức quốc xã tội phạm chiến tranh, nhưng không đặc biệt quan tâm đến hắn. Cuốn sách chỉ tình cờ bắt mắt tôi, vậy thôi. Tôi bắt dầu đọc và được biết tên trung tá SS có đầu óc cực kỳ thực tế, đeo cặp kính gọng kim loại và mái tóc lưa thưa này, ngay sau khi chiến tranh bùng nổ đã được tổng hành dinh Đức quốc xã giao cho thiết kế một “giải pháp cuối cùng” dành cho dân Do Thái – có nghĩa là hủy diệt. Và hắn đã nghiên cứu cách tốt nhất để thực hiện “giải pháp” này. Rõ ràng hắn chẳng mấy bận tâm đến vấn đề đạo lý của công việc hắn làm. Điều duy nhất hắn quan tâm là làm sao để thực hiện tốt nhất, nhanh nhất và đỡ tốn kém nhất việc thủ tiêu những người Do Thái. Theo tính toán của hắn, thì số người Do Thái ở châu u cần xoá sổ lên tới khoảng mười một triệu [3].
Eichmann nghiên cứu xem có thể lèn bao nhiêu người Do Thái vào một toa xe lửa, bao nhiêu phần trăm có thể chết vì những nguyên nhân “tự nhiên” trong khi vận chuyển, số nhân viên tối thiểu cần thiết để tiến hành nhiệm vụ này, phương pháp rẻ nhất để tiêu hủy các xác chết – hỏa thiêu, hay chôn, hay hòa tan bằng hóa chất. Ngồi ở bàn giấy, Eichmann suy đi tính lại những con số ấy. Một khi hắn đưa vào thực thi, mọi sự đều diễn ra đúng như kế hoạch. Trước khi chiến tranh kết thúc, sáu triệu người Do Thái (hơn một nửa chỉ tiêu hắn đề ra) dã bị thủ tiêu. Kỳ lạ thay, hắn không hề cảm thấy ăn năn. Ngồi sau tấm kính chống đạn, giữa tòa án Tel Aviv, Eichmann có vẻ hết sức ngỡ ngàng không sao hiểu nổi duyên cớ gì mà hắn lại bị đưa ra xét xử, hoặc vì sao toàn thế giới đều chú mục vào hắn. Hắn nhấn đi nhấn lại rằng hắn chỉ là một kỹ thuật viên đã tìm ra giải pháp hiệu quả nhất cho nhiệm vụ hắn được giao. Chẳng phải hắn đã làm đúng những gì mà mọi viên chức tốt đều phải làm đó ư? Vậy tại sao hắn lại bị tách riêng ra để kết tộ
Ngồi trong cánh rừng tĩnh mịch với tiếng chim ríu rít xung quanh, tôi đọc câu chuyện của con người có “đầu óc thực tế” ấy. Ở cuối sách, trên một trang giấy trắng, có một đoạn ghi bằng bút chì của Oshima. Nét chữ anh ta rất dễ nhận: Tất cả vấn đề là ở trí tưởng tượng. Trách nhiệm của chúng ta bắt đầu với khả năng tưởng tượng. Đúng như Yeats nói: Trách nhiệm bắt đầu từ trong mơ. Đảo ngược lại, ta có thể nói không có khả năng tưởng tượng thì không thể phát sinh trách nhiệm. Đúng như ta thấy ở trường hợp Eichmann.
Tôi hình dung Oshima ngồi trên chiếc ghế này, ta cầm cây bút chì vót nhọn quen thuộc, ngẫm lại nội dung cuốn sách và ghi cảm tưởng. Trách nhiệm bắt đầu từ trong mơ. Câu dẫn thật trúng.
Tôi gấp sách lại, để trên lòng và nghĩ về trách nhiệm của chính mình. Tôi không thể không nghĩ. Chiếc áo phông trắng của tôi đẫm máu tươi. Tôi đã giặt sạch máu bằng đôi bàn tay này, nhiều máu đến nỗi đỏ cả bồn rửa. Tôi tưởng tượng mình sẽ bị buộc trách nhiệm về sự đổ máu này. Tôi cố hình dung mình bị xử ở một phiên tòa, những người bên nguyên nằng nặc kết tội tôi, phẫn nộ chỉ mặt tôi và quắc mắt nhìn tôi. Tôi cố cãi rằng không thể buộc trách nhiệm ột người về một điều mà anh ta không nhớ nổi. Tôi hoàn toàn không biết điều gì đã thực sự xảy ra, tôi nói với họ thế. Nhưng họ vặn lại như thế này: “Ai là người đầu tiên mơ thấy thế, điều đó không quan trọng. Nhưng anh cũng mơ đúng như thế, vậy thì anh phải chịu trách nhiệm về bất cứ điều gì diễn ra trong giấc mơ ấy. Giấc mơ ấy đã theo hành lang tăm tối của tâm hồn anh mà luồn lách vào trong anh đó.”
Hệt như Adolf Eichmann mặc nhiên vướng vào những giấc mơ vĩ cuồng quái đản của một người tên là Hitler vậy.
Tôi đặt sách xuống, đứng dậy vươn vai. Tôi đã đọc khá lâu và cần đứng dậy, đi quanh quanh một chút. Tôi xách cái xô nhôm cạnh bồn rửa ra suối múc nước. Sau đó, tôi ôm một ôm củi từ lán sau vào để cạnh bếp lò.
Ở góc hiên, có một sợi dây nilông để phơi quần áo. Tôi lấy mớ quần áo ẩm trong balô ra, vuốt cho phẳng và đem phơi. Tôi lôi tất cả những thứ khác ra khỏi balô, rải lên giường rồi ngồi vào bàn ghi nhật ký. Tôi dùng một cái bút ngòi nhỏ ghi lại bằng chữ rất nhỏ tất cả những gì đã xảy đến với tôi trong mấy ngày qua. Tôi không biết liệu mình có thể nhớ mọi chi tiết được bao lâu, cho nên tốt nhất là cứ ghi lại càng sớm càng tốt. Tôi lục soát trí nhớ. Nào là tôi đã bất tỉnh rồi tỉnh lại trong rừng đằng sau một miếu thờ như thế nào. Đêm tối và cái áo phông đẫm máu. Nào là gọi điện cho Sakura, qua đêm ở chỗ cô, trò chuyện với nhau, và cô làm cái ấy cho tôi như thế nào.
Cô ấy nói: Mình không hiểu đấy. Cậu không việc gì phải nói với mình điều ấy. Tại sao cậu không mặc nhiên tưởng tượng cái gì cậu thích? Cậu không cần phải xin phép mình. Làm sao mình có thể biết được cái gì ở trong đầu cậu?
Nhưng cô ấy hiểu trật. Điều tôi tưởng tượng có thể là rất quan trọng. Vô cùng quan trọng trên đời.
Chiều hôm đó, tôi quyết đi vào rừng. Oshima bảo đi quá sâu vào trong rừng là nguy hiểm. Phải giữ sao cho căn lều bao giờ cũng ở trong tầm nhìn, anh ấy dặn tôi thế. Nhưng có lẽ tôi sẽ ở đây dăm bảy ngày, vậy tôi nên biết đôi chút về bức-tường-rừng-cây đồ sộ bao quanh tôi chứ. Tôi nghĩ biết một chút còn hơn không biết gì. Hai tay không, tôi chào tạm biệt quãng trống tươi nắng và dấn bước vào rừng rậm âm u.
Có một con đường mòn thô sơ tạo nên bởi bước chân người xuyên rừng, phần lớn nương theo địa hình, nhưng đây đó có lát những phíên đá phẳng cho dễ đi. Những chỗ bị xói mòn được gia cố bằng ván gỗ, nên ngay cả nếu cỏ dại mọc tràn lấn, vẫn không mất dấu con đường. Có lẽ anh trai của Oshima đã sửa sang dần con đường ngày một ngày hai, mỗi lần anh ấy lưu lại đây. Tôi theo con đường này vào rừng, thoạt đầu đầu lên dốc rồi xuôi xuống, lượn vòng một khối đá cao trước khi lại đi lên. Nói chung, đa phần là đi lên nhưng không đến nỗi dốc lắm. Hai bên là những cây cao thân xỉn với những cành to chĩa khắp ngả và vòm lá bên là xòe tán trên đầu. Phía dươi,sẽ đám cây bụi và dương xỉ ráng hết sức hấp thụ những tia nắng lọt xuống, được chừng nào hay chừng nấy. Ở những chỗ mặt trời không rọi đến, rêu lặng lẽ phủ đầy những tảng đá.
Như một người kể chuyện thoạt đầu thì hào hứng, rồi bí lời đâm ấp úng, con đường cứ hẹp dần khi tôi đi sâu thêm, nhường chỗ cho cây bụi lấn chiếm. Đến một quãng nào đó, thật khó mà nói đó có phải là một con đường đích thực hay chỉ là một cái gì giông giống một con đường. Cuối cùng, nó ngập chìm trong một biển cả dương xỉ. Có thể nó vẫn còn tiếp nối, nhưng tôi quyết định dành phần hai cuộc thám hiểm đến lần sau. Tôi hiện không mang trên mình loại quần áo thích hợp và chưa chuẩn bị đầy đủ để đi xa hơn.
Tôi dừng lại và quay đằng sau. Đột nhiên, mọi thứ trở nên xa lạ, không còn gì quen thuộc cho tôi bám vào nữa. Một đám nhằng nhịt những thân cây đầy đe doạ bịt kín tầm nhìn. Xung quanh mờ tối, không khí đẫm một màu xanh lục tù đọng, không một tiếng chim hót.
Tôi bỗng sởn da gà khắp người. Nhưng không việc gì mà sợ, tôi tự nhủ. Con đường ngay ở chỗ kia mà. Chừng nào tôi còn thấy nó, tôi vẫn có thể trở về với ánh sáng. Dán mắt xuống đất, tôi thận trọng dò từng bước lần theo lối cũ và sau một thời gian dài gấp bội thời gian bỏ ra để đi tới đây, cuối cùng, tôi mò được về tới trước căn lều. Khoảng trống đầy ánh nắng rực rỡ đầu hè, đầy tiếng chim lảnh lót gọi nhau đi tìm mồi. Mọi thứ đều y nguyên như khi tôi đi, ít nhất tôi cũng nghĩ là thế. Chiếc ghế tôi ngồi trước đó vẫn ở ngoài hiên. Cuốn sách tôi đọc dở vẫn úp sấp trên đó như tôi đã để nó như thế.
Giờ thì tôi biết đích xác khu rừng này có thể nguy hiểm đến mức nào. Và tôi hy vọng mình sẽ không bao giờ quên điều đó. Đúng như gã thanh niên tên là Quạ đã nói, thế giới này đầy những thứ mà tôi không biết rõ. Chẳng hạn, tất cả những cây cối ở đây. Tôi không bao giờ tưởng tượng được là lại có những loại cây kỳ quái, dễ sợ đến thế. Tôi muốn nói, cho đéế nay, những cây duy nhất tôi đã thấy tận mắt, sờ tận tay đều là loại cây thành phố, được chăm sóc và tỉa gọn ghẽ, mượt mà. Nhưng cây ở đây – những cái cây sống ở đây – thì hoàn toàn khác. Chúng có sức mạnh vật thể, hơi thở của chúng làm trầy da bất cứ người nào tình cờ đi ngang, tia nhìn của chúng chĩa vào kẻ đột nhập như thể phát hiện thấy con mồi. Tựa hồ chúng có những sức mạnh tiền sử thần bí, đen tối. Giống như những sinh vật ở đáy sâu biển cả ngự trị đại dương, trong rừng, cây là thống soái. Nếu rừng muốn, nó có thể vứt bỏ tôi, hoặc nuốt chửng tôi gọn một miếng. Tốt nhất là nên biết kính sợ nó.
Tôi trở về lều, lấy chiếc la bàn trong ba lô ra, kiểm tra cho chắc là kim vẫn chỉ đúng hướng Bắc. Tôi bỏ nó vào túi phòng khi cần đến là có ngay. Tôi ra hiên ngồi, nhìn rừng cây, nghe Cream và Duke Ellington qua chiếc Walkman, những ca khúc tôi ghi lại từ một bộ đĩa CD của thư viện. Tôi nghe đi nghe lại bài Crossro mấy lần. m nhạc làm tôi nguôi dịu, nhưng tôi không thể nghe thật lâu: ở đây không có điện, chả cách nào sạc pin được, nên khi nào pin dự trữ cạn thì âm nhạc cũng rắt luôn.
Tôi tập một chút trước khi ăn tối. Hít đất, nhún, ngồi dậy từ từ thế nằm, trồng cây chuối, mấy loại bài tập vươn duỗi khác nhau từ tư thế nằm, trồng cây chuối, mấy loại bài tập vươn duỗi khác nhau để giữ ph không cần máy móc hoặc thiết bị. Kể cũng chán, tôi công nhận, nhưng giữ được nếp tập luyện nghiêm chỉnh. Một huấn luyện viên ở phòng tập thể dục đã dạy tôi cách tập ấy. “Tù nhân biệt giam thích nhất kiểu tập này,” ông ta giải thích, gọi đó là “cách tập luyện cô đơn nhất thế giới.” Tôi tập trung vào điều mình đang làm, tập quay vòng mấy đợt cho đến khi áo sơ mi ướt đẫm mồ hôi.
Sau một bữa tối đơn giản, tôi ra hiên, nhìn lên bầu trời lấp lánh sao – hàng triệu ngôi sao vãi tung tóe. Ngay cả trong một cung thiên văn, cũng không có nhiều sao như thế. Một số ngôi nom thật to và rõ, tưởng như nếu với hết tầm tay sẽ chạm tới được. Quang cảnh đẹp đến nao lòng.
Không chỉ đẹp mà thôi, những ngôi sao còn sống động và thở dạt dào như đám mây trong rừng. Và chúng đang quan sát cô. Những gì tôi đã làm cho tới nay, những gì tôi sắp làm, chúng biết tất. Không gì lọt khỏi con mắt cảnh giác của chúng. Trong khi tôi ngồi đó, dưới trời đêm lung linh, một nỗi sợ mãnh liệt lại xâm chiếm tôi. Tim tôi đập với tốc độ một dặm/phút và tôi hầu như không thở được. Tất cả bao nhiêu triệu ngôi sao kia đều đang nhìn xuống tôi, vậy mà trước nay, tôi chưa bao giờ dành cho chúng nhiều hơn một ý nghĩ thoáng qua. Không chỉ các ngôi sao, còn biết bao thứ khác trên đời tôi không để ý tới, không mảy may biết đến? Đột nhiên tôi cảm thấy đơn côi, hoàn toàn bất lực. Và tôi biết mình sẽ không bao giờ thoát được cái cảm giác sợ hãi ấy.
Trở vào trong lều, tôi xếp củi vào lò rất cẩn thận, vo tròn mấy tờ báo cũ, nhóm lò và kiểm tra cho chắc là củi đã bén lửa. Hồi ở trường tiểu học, tôi đã đi trại hè và học được cách nhóm lửa. Tôi ghét cái trạm hè ấy, nhưng tôi nghĩ ít nhất nó cũng mang lại là một điều tốt. Tôi mở tấm chắn gió cho khói thoát ra. Lúc đầu chỉ lom dom, nhưng khi một thanh củi bắt lửa, nó lan nhanh sang các thanh khác. Tôi đóng cửa lò, kéo một chiếc ghế đến trước lò, đặt một cây đèn bên cạnh và đọc tiếp cuốn sách về Eichmann. Khi lửa bốc to dần, tôi đặt một siêu n lên và một lúc sau, nước bắt đầu reo vui.
Trở lại câu chuyện của Eichmann. Dĩ nhiên, dự án của hắn không phải bao giờ cũng tiến triển đúng như kế hoạch. Điều kiện ở các địa điểm làm chậm công việc. Khi điều đó xảy ra, hắn đã phản ứng như một con người, ít nhất là hơi giống con người: hắn nổi cáu. Hắn điên tiết với những yếu tố bất trắc đã làm đảo lộn giải pháp tuyệt vời của hắn. Xe lửa chạy chậm rì rì. Tệ quan liêu bàn giấy cản trở tiến độ công việc. Có những thay thế trong đám phụ trách và quan hệ với những người kế nhiệm không tốt. Sau khi mặt trận phía Đông bị vỡ, bọn lính gác ở các trại tập trung bị điều đi chiến đấu. Tuyết rơi đầy trời. Điện bị cúp. Hơi độc không đủ. Đường sắt bị oanh tạc. Eichmann ghét chính chiến tranh – cái yếu tố bất trắc đã làm hỏng kế hoạch của hắn.
Tại phiên tòa xử hắn, Eichmann mô tả mọi tình huống đó, mặt trơ trơ không mảy may xúc động. Trí nhớ của hắn thật đáng kinh ngạc. Cuộc đời hắn hoàn toàn được tạo nên bởi những chi tiết thực dụng đó.
Đến mười giờ, tôi đặt sách xuống, đi rửa mặt, đánh răng. Lửa bếp lò nhuộm căn phòng một ánh da cam và hơi ấm dễ chịu đã làm nguôi dịu nỗi sợ và căng thẳng của tôi. Tôi chui vào túi ngủ, mặc độc chiếc áo phông và quần đùi. So với đêm qua, tôi nhắm mắt tương đối dễ dàng. Tôi thoáng nghĩ đến Sakura.
“Mình đang nghĩ, giá mình là chị gái cậu thì hay biết mấy,” cô ấy đã nói thế.
Thôi, đêm nay không nghĩ lung tung nữa. Phải ngủ cho sâu. Một thanh củi đổ rụi trong lò, một con cú rúc bên ngoài. Và tôi rơi vào một giấc mộng mông lung.
Ngày hôm sau cũng như thế. Chim chóc đánh thức tôi dậy sau sáu giờ một chút. Tôi đun nước, pha một tách tràăn điểm tâm. Ngồi đọc ngoài hiên, nghe nhạc, xách xô ra suối múc nước. Và đi vào rừng, lần này mang theo la bàn, chốc chốc lại giở ra xem để xác định vị trí của căn lều. Tôi nhìn thấy một cái rìu trong lán và dùng nó để đánh dấu vào thân cây, đồng thời phạt bớt bụi râm ven đường cho dễ đi.
Cũng như hôm qua, rừng vẫn âm u và sâu thẳm, những cây cao vòi vọi họp thành hai bức tường dày ven đường. Tôi cảm thấy một cái gì lẩn khuất giữa đám cây rừng như hình một con vật trong phim nổi, đang quan sát từng cử động của tôi. Nhưng nỗi sợ đã làm tôi rùng mình giờ không còn nữa. Tôi đã tự đặt ra ình những quy tắc và một khi tuân thủ những quy tắc đó, tôi sẽ không bị lạc. Ít nhất thì, tôi cũng hy vọng thế.
Tôi đến chỗ đã dừng lại hôm qua và dấn tới nữa, bước vào cả một biển dương xỉ. Sau một thôi dài, con đường lại hiện ra. Một lần nữa, tôi lại bị bao quanh bởi bức tường cây. Tôi tiếp tục đẵn vào thân cây để đánh dấu. Đâu đó, ở một cành cao trên đầu tôi, một con chim lớn vỗ cánh, nhưng khi nhìn lên thì tôi không thấy nó. Miệng tôi khô se lại.
Tôi đi tiếp một thôi nữa và tới một quãng trống tròn tròn với những cây cao quây quanh, nom như đáy một cái giếng khổng lồ. Nắng tuôn xuống qua những cành cây như ánh đèn sân khấu rọi sáng mặt đất dưới chân tôi. Tôi cảm thấy chỗ này khá đặc biệt, theo một cách nào đó. Tôi ngồi xuống dưới ánh nắng, để cho hơi ấm lan tỏa khắp người, lấy trong ba lô ra một thanh sô-cô-la, thưởng thưc vị ngọt của nó. Một lần nữa nhận ra ánh mặt trời quan trọng như thê snào đối với con người, tôi trân trọng từng giây của nguồn sáng quý giá đó. Cái cảm giác cô đơn và bất lực cao độ khi nhìn triệu triệu vì sao trên bầu trời đêm qua đã biến mất. Nhưng rồi giờ khắc qua đi, góc chiếu của mặt trời thay đổi và ánh sáng tắt dần Tôi đứng dậy và trở ngược con đường, về lều.
ến chiều, những đám mây đen đột ngột nhuộm bầu trời một sắc độ bí ẩn và mưa bắt đầu trút xuống dữ dội, gõ trống trên mái và các ô cửa sổ của căn lều. Tôi cởi quần áo, chạy ra ngoài, lấy xà phòng rửa mặt và xát khắp mình mẩy chân tay. Cảm giác thật tuyệt vời. Trong niềm vui, tôi nhắm mắt lại và la lớn những câu bâng quơ vô nghĩa trong khi những hạt mưa to tướng táp vào má, mí mắt, ngực sườn, dương vật, chân và mông tôi – nhoi nhói đau như một lễ thu pháp tôn giáo hay một cái gì tương tự. Cùng với cái đau, là một cảm giác thân cận, như thể lần đầu tiên trong đưòi, tôi được thế giới đối xử một cách thỏa đáng. Tôi cảm thấy phấn khích, như thể đột nhiên được giải phóng. Tôi ngửa mặt lên trời, dang rộng tay, há to miệng hớp ừng ực những hạt mưa đang rơi.
Trở vào lều, tôi lấy khăn lau khô người, ngồi xuống giường và ngắm của quý của mình – một cái dương vật trẻ tráng, lành mạnh, trắng trẻo. Quy đầu còn hơi rát vì mưa táp. Hồi lâu tôi trân trân nhìn cái bộ phận kỳ lạ này của cơ thể tôi: phần lớn thời gian, nó chỉ hoạt động theo ý nó và nuôi những ý nghĩ mà bộ não tôi không chia sẻ.
Tôi tự hỏi không biết Oshima, hồi bằng tuổi tôi và ở đây, có phải đấu tranh với những thèm muốn tình dục hay không. Chắc có, nhưng tôi không hình dung nổi anh ấy tự làm ình sướng. Anh ấy tự chủ có thừa, đâu có làm thế.
“Mình khác tất cả mọi người,” anh ấy nói thế. Tôi không hiểu ý nghĩa cụ thể của câu nói đó, nhưng tôi dám chắc anh ấy không khoa trương phét lác. Cũng không phải là anh ấy giữ kẽ hay làm ra vẻ bí mật.
Tôi định “xúc lọ” nhưng lại thôi. Trận mưa ào ào quất vào mình mẩy đem lại một cảm giác tinh khiết kỳ lạ mà tôi muốn níu giữ lâu hơn chút nữa. Tôi mặc quần đùi vào, thở mấy hơi thật sâu rồi bắt đầu tập nhún rồi chuyển sang ngồi dậy từ tư thế nằm, mỗi động tác một trăm lần, lần lượt tập trung vào từng nhóm cơ bắp. Tập xong, đNu óc tôi sáng sủa hẳn lên. Mưa đã tạnh, mặt trời bắt đầu lấp lánh qua khoảng trống giữa những đám mây và chim chóc lại bắt đầu líu lo.
Nhưng sự yên tĩnh này sẽ không kéo dài, cậu biết đấy. Những con thú vẫn truy đuổi cậu khắp nơi, không biết mệt. Tận trong rừng sâu, chúng xồ ra, dai như đỉa, liên tục, tàn bạo, không biết mệt, không bao giờ bỏ cuộc. Có thể bây giờ cậu tự chủ được, không thủ dâm, nhưng rồi chung cuộc, chúng sẽ dụ được cậu dưới hình thức mộng tinh. Cậu sẽ mơ thấy cậu cưỡng hiếp chị gái mình, mẹ mình. Đó là một cái gì cậu không cách chi kiểm soát nổi. Đó là một quyển lực ngoài tầm của cậu, và cậu không thể làm gì khác ngoại trừ chấp nhận nó.
Cậu sợ tưởng tượng. Và thậm chí còn sợ chiêm bao nữa. Sợ hãi trách nhiệm khởi đầu từ giấc mơ. Nhưng cậu phải ngủ và chiêm bao là một bộ phận của giấc ngủ. Khi tỉnh, cậu có thể dẹp được tưởng tượng. Nhưng cậu không thể dẹp được chiêm bao.
Tôi nằm xuống giường, và nghe Prince qua tai nghe, tập trung vào chất nhạc trì tục kỳ lạ này. Đến giữa bài Little Red Corvette thì hết pin và âm nhạc biến mất như bị bãi sa lầy nuốt chửng. Tôi bỏ tai nghe ra và lắng tai. Và phát hiện ra rằng im lặng là một cái gì ta có thể nghe thấy thực sự.
Chương 16
Con chó đen đứng dậy và dẫn Nakata ra khỏi phòng, theo hành lang tới nhà bếp, ở đây chỉ có một cửa sổ hẹp và tối om. Mặc dù rất sạch và ngăn nắp, nơi này vẫn có một cái gì đơ đơ vô cảm giống như một phòng thí nghiệm khoa học ở nhà trường. Con chó dừng trước một cái tủ lạnh to tướng, quay lại và phóng vào Nakata một tia nhìn lạnh lùng, nhọn như mũi khoan.
Mở cánh cửa bên trái ra, nó ra lệnh bằng một giọng trầm trầm. Nakata biết đó không phải là lời của con chó, mà là Johnnie Walker nói với lão thông qua nó. Nhìn lão bằng đôi mắt nó.
Nakata làm theo lời chỉ bảo. Cái tủ lạnh màu xanh cao quá đầu lão và khi lão mở cánh cửa bên trái, độ điều nhiệt tự động khởi động đánh thịch một cái, động cơ bắt đầu chạy ro ro. Một làn hơi trắng như sương phả ra. Mé này của tủ lạnh là một ngăn đá đặt khá thấp.
Bên trong, xếp gọn một dãy khoảng hai chục vật tròn tròn giống như trái cây. Không có gì khác nữa. Nakata cúi xuống nhìn chăm chăm vào những vật đó. Khi làn hơi tan đi, lão thấy ra đó không phải là trái cây, mà là những cái đầu mèo bị chặt. Những cái đầu bị chặt đủ màu, đủ cỡ, xếp trên ba cái giá, như cam ở một quầy bán rau quả. Những cái mặt mèo đông lạnh nhìn thẳng phía trước. Nakata nuốt khan.
Nhìn cho kỹ đi, con chó ra lệnh. Hãy kiểm tra bằng chính mắt mình xem có Goma trong số đó không.
Nakata làm theo, xem xét số đầu mèo từng cái một. Lão không cảm thấy sợ, đầu óc chỉ tập trung vào việc tìm con mèo nhỏ mất tích. Nakata thận trọng kiểm tra từng cái đầu, xác định rằng Goma không có trong đám này. Không nghi ngờ gì nữa – không thấy hoa văn mai rùa nào. Những cái mặt mèo lìa khỏi thân có một vẻ trống trơn kỳ lạ, không thấy dấu hiệu nào chứng tỏ chúng đã đau đớn. Ít nhất thì điều đó cũng khiến Nakata thở phào nhẹ nhõm. Một số con nhắm mắt, nhưng phần lớn thao láo nhìn đờ đẫn vào một điểm nào đó trong không gian.
“Lão không thấy Goma ở đây,” Nakata nói, giọng dứt khoát. Lão đằng hắng và đóng cửa tủ lạnh lại.
Bác có hoàn toàn chắc chắn không?
“Có, lão chắc chắn.”
Con chó đứng dậy và dẫn Nakata trở lại thư phòng. Johnnie Walker vẫn ngồi ở chiếc ghế xoay chờ lão. Khi Nakata bước vào, y đưa tay lên vành mũ ra ý chào và hòa nhã mỉm cười. Rồi y vỗ tay hai cái thật to và con chó ra khỏi phòng.
“Tôi là người đã chặt đầu tất cả lũ mèo ấy,” y nói, nhấc ly whisky lên và tợp một ngụm. “Tôi đang làm bộ sưu tập đầu mèo.”
“Vậy ra ngài là người bắt mèo ở bãi trống và giết chúng?”
“Đúng thế. Johnnie Walker Kẻ Giết Mèo khét tiếng.”
“Nakata này không hiểu rõ lắm, vậy vô phép ngài cho lão hỏi một câu, được không?”
“Xin mời,” Johnnie Walker nói, lại nhấc ly rượu lên. “Bác cứ thoải mái hỏi bất cứ câu gì. Tuy nhiên, để tiết kiệm thời gian, nếu bác không phiền, tôi có thể đoán điều đầu tiên bác muốn biết là tại sao tôi lại giết tất cả lũ mèo ấy. Tại sao tôi lại sưu tầm đầu mèo. Đúng không?”
“Vâng, đúng thế. Đó là điều Nakata này muốn biết.”
Johnnie Walker đặt ly xuống bàn và nhìn thẳng vào mặt Nakata. “Đây là một bí mật rất quan trọng mà tôi không muốn nói cho ai biết. Riêng với bác, bác Nakata, tôi làm một ngoại lệ, nhưng tôi không muốn bác kể lại với ai khác. Vả chăng, nếu bác có nói, cũng chẳng ai tin.” Y cười khúc khích.
“Bác nghe đây, tôi giết mèo không chỉ để mua vui. Tôi đâu có bệnh hoạn đến mức coi đó là trò vui,” y nói tiếp. “Tôi cũng không phải là một gã amatơ thừa thì giờ. Đi gom lại và giết ngần nấy con mèo tốn nhiều thì giờ và công sức lắm. Tôi giết chúng để gom hồn chúng lại làm thành một loại sáo đặc biệt. Và khi tôi thổi cây sáo ấy, nó sẽ giúp tôi gom được những hồn lớn hơn. Rồi tôi gom những hồn lớn để tạo một cây sáo lớn hơn nữa. Có thể cuối cùng, tôi sẽ làm được một cây sáo lớn đến mức ngang tầm vũ trụ. Nhưng đầu tiên hẵng là mèo đã. Gom hồn chúng là điểm xuất phát của toàn bộ dự án này. Mọi việc đều phải tuân theo một trình tự cốt yếu. Làm mọi điều theo đúng trình tự là một cách bày tỏ sự tôn trọng đối với trật tự tự nhiên của vạn vật. Đó là điều cần làm khi xử lý với các linh hồn khác. Những gì tôi phải xử lý ở đây không phải là dứa hay dưa, bác đồng ý không?”
“Vâng,” Nakata đáp. Nhưng thực ra lão chẳng hiểu mô tê gì. Sáo ư? Sáo ngang hay sáo dọc? nó sẽ phát ra âm thanh như thế nào? Và y nói hồn mèo nghĩa là thế nào? Tất cả những cái đó vượt qua năng lực nhận thức của lão. Nhưng có một điều mà Nakata hiểu: đó là phải phát hiện thấy Goma và cứu nó ra khỏi đây.
“Điều bác muốn là mang Goma về nhà”, Johnnie Walker nói, như đọc được ý nghĩ của Nakata.
“Đúng thế. Nakata này muốn đưa Goma về nhà nó.”
“Đó là sứ mệnh của bác,” Johnnie Walker nói. “Chúng ta ai cũng có sứ mệnh phải hoàn thành trong cuộc đời. Cái đó là tự nhiên thôi. Tôi đồ rằng bác chưa bao giờ nghe nói đến một cây sáo làm bằng hồn mèo, phải không?”
“Phải, chưa bao giờ.”
“Dĩ nhiên là thế. Bác không thể nghe nó bằng tai được.”
“Một cây sáo mà người ta không nghe được?”
“Đúng. Cố nhiên, tôi thì nghe được,” Johnnie Walker nói. “Nếu tôi mà không nghe được thì còn ra quái gì nữa. Tuy nhiên, người thường thì không thể nghe ra. Ngay cả nếu họ nghe được thì họ cũng không nhận ra. Có thể trong quá khứ, họ đã nghe thấy, nhưng họ không nhớ nữa. Rành là một cây sáo kỳ lạ. Nhưng, bác Nakata, có thể – tôi nói có thể thôi – bác nghe được n45;y. Nếu như lúc này, tôi có một cây sáo như thế trong tay, thì ta có thể thử luôn, nhưng tiếc rằng tôi chưa có.” Rồi như chợt nhớ ra điều gì, y giơ thẳng một ngón tay lên. “Trên thực tế, tôi đang chuẩn bị chặt đầu lũ mèo tôi vừa bắt được. Đây là mùa gặt mà. Tôi đã tóm hết những con có thể quây được ở bãi trống đó và đã đến lúc tiếp tục. Con mèo mà bác đang tìm, con Goma, ở trong số đó. Dĩ nhiên nếu tôi chặt đầu nó, bác sẽ không thể mang nó về cho nhà Koizumi, phải không nào?”
“Đúng thế,” Nakata nói. Lão không thể mang về cho gia đình Koizumi cái đầu bị chặt đứt của con Goma. Nếu hai con bé trông thấy, chúng sẽ bỏ ăn cả đời.
“Tôi muốn chặt đầu Goma, nhưng bác thì không muốn điều đó xảy ra. Sứ mệnh và lợi ích của hai chúng ta xung đột nhau. Điều đó luôn luôn xảy ra trên thế gian. Cho nên tôi đề nghị thế này: chúng ta hãy thương lượng. Tôi muốn nói là nếu bác làm cho tôi một việc, tôi sẽ đáp lễ bằng cách trao trả Goma lành lặn nguyên vẹn cho bác.”
Nakata đưa tay lên vò mái tóc muối tiêu thật lực, cái động tác quen thuộc của lão khi bối rối. “Điều đó tôi có thể làm được chứ?”
“Tôi nghĩ chuyện này chúng ta đã giải quyết rồi mà”, Johnnie Walker nói với một nụ cười giễu cợt.
“Vâng, vâng,” Nakata nói, chợt nhớ ra. “Đúng thế. Chúng ta đã giải quyết chuyện này rồi. Lão xin lỗi.”
Chúng ta không có nhiều thì giờ, vậy hãy để tôi đi thẳng vào vấn đề, nếu bác không phiền. Việc bác có thể làm cho tôi là giết tôi. Nói cách khác là lấy mạng tôi.”
Tay vẫn vò đầu, Nakata trân trân nhìn Johnnie Walker hồi lâu. “Ngài muốn Nakata này giết ngài?”
“Chính thế,” Johnnie Walker nói. “Tình thật, tôi mệt mỏi và ớn cái cuộc đời này lắm rồi. Tôi đã sống quá, quá lâu rồi. Thậm chí tôi không còn nhớ mình bao nhiêu tuổi nữa. Và tôi cảm thấy không muốn sống thêm nữa. Tôi mệt và chán giết mèo lắm rồi, nhưng chừng nào tôi còn sống, đó là việc tôi phải làm – hạ sát mèo và thu gom hồn chúng. Tiến hành mọi việc theo đúng trình tự, từ bước một đến bước mười, rồi lại quay lại bước một. Một sự lặp đi lặp lại bất tận. Và tôi đã phát ớn! Không ai tôn trọng việc tôi đang làm, nó không làm ai sung sướng. Nhưng tất cả đều đã thiết định, tôi không thể dùng một cái nói thôi và dừng phắt việc mình đang làm. Và tự lấy mạng mình không phải là một phương án. Cái đó cũng đã được quy định. Trong cái cuộc này, có đủ các thứ lệ luật. Nếu tôi muốn chết, tôi phải nhờ được một người khác giết tôi. Bác chính là người thích hợp. Tôi muốn bác phải sợ tôi, căm ghét tôi ghê gớm, rồi mới hạ sát tôi. Đầu tiên, bác sợ tôi. Rồi bác ghét tôi. Và sau cùng, bác giết tôi.”
“Nhưng tại sao… tại sao lại nhờ tôi? Nakata này xưa nay chưa từng giết ai bao giờ. Đó không phải là loại công việc phù hợp với lão.”
“Tôi biết. Bác chưa bao giờ giết ai và không muốn giết ai. Nhưng hãy nghe tôi nói đây: trong cuộc đời, có những lúc những kiểu lý do như thế là không đủ. Có những tình huống mà người ta bất cần xét xem anh có phù hợp với công việc trước mắt hay không. Bác cần hiểu điều đó. Chẳng hạn điều đó thường xảy ra trong chiến tranh. Bác có biết chiến tranh là gì không?”
“Có, lão có biết. Khi Nakata ra đời thì đang có một cuộc chiến tranh lớn. Lão có nghe nói về cuộc chiến tranh ấy.”
“Khi một cuộc chiến tranh nổ ra, người ta buộc phải trở thành lính. Họ phải mang súng ra tiền tuyến và phải giết những người lính ở phía bên kia. Giết càng nhiều càng tốt. Không ai cần biết anh có thích giết người khác hay không. Đó là việc anh phải làm, thế thôi. Bằng không, anh sẽ là kẻ bị giết.” Johnnie Walker chĩa ngón tay trỏ vào ngực Nakata. “Đòm!” Y nói. “Lịch sử loài người tóm gọn trong một tiếng
“Có phải ngài Tỉnh trưởng định xung Nakata này vào lính và ra lệnh cho lão giết người không?”
“Phải, đó chính là điều ngài Tỉnh trưởng sẽ làm: ra lệnh cho bác phải giết ai đó.”
Nakata suy nghĩ nhưng không thể vỡ lẽ ra tại sao ngài Tỉnh trưởng lại làm thế.
“Bác phải nhìn nhận vấn đề theo cách này: giả sử đây là chiến tranh. Bác là một người lính và bác phải làm một quyết định: hoặc là tôi giết lũ mèo, hoặc là bác giết tôi. Một trong hai cách bác phải lựa chọn ngay lập tức, tại chỗ. Có thể bác cảm thấy đây là một lựa chọn quá quắt, nhưng hãy ngẫm mà xem: mọi lựa chọn chúng ta phải quyết định trong đời đều quá quắt.” Johnnie Walker khẽ chạm vào chiếc mũ lụa như để chắc chắn rằng nó vẫn ở đó.
“Điều bù lại duy nhất cho bác ở đây – nếu quả thật bác cần cái đó – là việc tôi muốn chết. Tôi đã nhờ bác giết tôi, cho nên bác khỏi phải chịu lương tâm cắn rứt. Bác làm đúng tâm nguyện của tôi. Không phải như bác giết một người không muốn chết. Thực tế, bác đang làm một điều thiện.”
Nakata gạt mấy giọt mồ hôi đọng ở chân tóc. “Nhưng Nakata này không cách nào có thể làm được một việc như thế. Ngay cả nếu ngài bảo lão giết ngài, lão cũng không biết xoay sở ra sao.”
“Tôi hiểu”, Johnnie Walker nói, vẻ thán phục. “Bác chưa từng giết ai bao giờ, nên bác không biết xoay sở ra sao. Được, vậy thì để tôi bày cho bác nhé. Bí quyết của việc giết ai đó, bác Nakata ạ, là không do dự. Phải tập trung vào định kiến của mình đối với kẻ đó và hành động thật nhanh, đó là phương cách hiệu quả để đạt mục đích. Tôi có một thí dụ tuyệt hảo ở ngay đây. Đối tượng không phải là con người, song nó có thể giúp bác tham khảo.”
Johnnie Walker đứng dậy, lấy một cái túi da lớn từ dưới gầm bàn, đặt lên chiếc ghế y vừa ngồi và mở ra. Như thể biểu diễn một trò ảo thuật, y vừa vui vẻ huýt sáo vừa lôi ra một con mèo. Nakata chưa từng thấy nó bao giờ, một con mèo đực vằn xám vừa đến tuổi trưởng thành. Toàn thân nó mềm rũ, nhưng mắt nó vẫn mở và còn tỉnh. Miệng vẫn huýt sáo theo điệu “Heigh-ho” của bảy chú lùn trong phim Nàng Bạch Tuyết của Walt Disney, Johnnie Walker giơ cao con mèo lên như phô một con cá y vừa bắt được.
“Trong cái túi này có năm con mèo, tất cả đều từ cái bãi trống ấy. Một mẻ tươi nguyên, vừa mới cất lưới, có thể nói thế. Tôi đã tiêm cho chúng một liều thuốc gây liệt. Gây liệt chứ không phải gây tê – chúng không ngủ và có thể cảm thấy đau, nhưng cả bốn chân lẫn đầu đều không cử động được. Tôi làm thế để giữ cho chúng khỏi giãy giụa. Điều tôi sắp làm là lấy dao rạch ngực con mèo này, moi quả tim còn đập của nó và chặt đầu nó. Ngay trước mắt bác. Nó sẽ đổ rất nhiều máu và sẽ đau đớn kinh khủng. Bác thử tưởng tượng xem nếu ai đó rạch ngực, moi tim bác thì sẽ đau biết chừng nào. Với mèo cũng thế – tất phải đau thôi. Tôi ái ngại cho những con vật bé bỏng tội nghiệp. Tôi không phải là một tên bạo tàn hung ác, lạnh lùng, nhưng tôi không thể làm khác được. Cần phải có sự đau đớn. Đó là quy tắc. Ở đây, chỗ nào cũng đầy quy tắc”. Y nháy mắt với Nakata. “Công việc là công việc. Mỗi người phải hoàn thành sứ mệnh của mình. Tôi sắp giết lần lượt từng con một và kết thúc bằng con Goma. Cho nên bác còn thì giờ để quyết định xem mình nên làm gì. Hãy nhớ lấy: hoặc là tôi giết lũ mèo, hoặc là bác giết tôi. Không có lựa chọn nào khác.”
Johnnie Walker đặt con mèo mềm nhũn lên mặt bàn, mở một ngăn kéo và bằng cả hai tay, lôi ra một gói to tướng màu đen. Y mở gói và bày những thứ trong đó lên bàn – một cái cưa điện nhỏ, dao mổ các cỡ và một con dao phay rất to, tất cả đều bóng loáng như vừa mới mài. Trong khi xếp chúng thành một hàng trên mặt bàn, Johnnie Walker âu yử độ sắc của từng lưỡi. Tiếp đó, y lấy mấy cái khay kim loại từ một ngăn kéo khác và cũng bày lên bàn. Rồi đến một cái túi plastic lớn từ một ngăn kéo thứ ba. Trong cả thời gian đó, vẫn huýt gió điệu “Heigh-ho”.
“Như tôi đã nói, bác Nakata ạ, mọi sự đều phải có quy củ,” Johnnie Walker nói. “Không thể nhìn quá xa về phía trước. Nếu nhìn quá xa, anh sẽ bỏ lãng cái trước mắt và sẽ vấp. Xin lưu ý, tôi không nói là chỉ nên tập trung vào những chi tiết trước mắt. Phải nhìn xa hơn cái trước mắt một chút, kẻo sẽ đâm sầm vào một cái gì. Phải theo đúng trình tự đồng thời để mắt tới những gì ở phía trước. Đó là điều cốt tử, bất kể anh làm việc gì.”
Johnnie Walker him mắt lại và khẽ vuốt đầu con mèo. Y lướt đầu ngón trỏ dọc theo bụng con vật, rồi dùng tay phải cầm lấy một con dao mổ và, không hề báo trước, rạch một nhát thẳng giữa bụng. Tất cả diễn ra trong một khoảnh khắc. Bụng mở toang và ruột đỏ quạch phòi ra. Con mèo cố kêu nhưng hầu như không ra tiếng. Lưỡi nó liệt cứng và miệng hầu như không há ra được. Nhưng đôi mắt lộn tròng của nó đủ nói lên nỗi đau khủng khiếp. Và Nakata có thể hình dung được nó đau đớn biết nhường nào. Lát sau, máu ộc ra, ướt đẫm hai tay Johnnie Walker và ròng ròng trên áo ghi-lê của y. Vậy mà y không hề để ý; miệng vẫn huýt sáo điệu “Heigh-ho”, y thọc tay vào bụng con vật, và với một con dao mổ cỡ nhỏ, cắt rời quả tim bé xíu.
Y đặt cái cục máu me ấy lên lòng bàn tay và chìa cho Nakata xem. “Nhìn thử coi. Nó còn đập đấy.”
Rồi như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời, y bỏ tọt trái tim mèo vào mồm và lặng lẽ nhai, ung dung tận hưởng vị của nó. Mắt y long lanh như một đứa trẻ đang khoan khoái ăn một cái bánh gatô mới ra lò.
Y lấy mu bàn tay chùi máu ở mồm và liếm môi liếm mép thật sạch. “Tươi, nóng và vào trong miệng vẫn còn đập.”
Nakata trố mắt nhìn cảnh diễn ra trước mặt, không nói nên lời. Lão không thể ngoảnh đi được. Mùi máu tươi tràn ngập phòng.
Vẫn huýt gió tiếp điệu nhạc vui, Johnnie Walker bắt đầu cưa đầu con mèo. Hàng răng cưa nghiến vào xương ken két đến đứt rời. Động tác của y có vẻ rất chuyên nghiệp. Xương cổ không dày lắm, nên toàn bộ công việc kết thúc nhanh chóng. Nhưng cái tiếng ken két kia nghe nặng nề lạ lùng. Johnnie Walker âu yếm đặt cái đầu vừa cưa đứt lên một chiếc khay kim loại. Như thể đang thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật, y nheo mắt đăm đăm nhìn. Y ngừng huýt sáo một giây, lấy móng tay nậy một mảnh nhỏ giắt trong kẽ răng, rồi lại bỏ vào mồm và nhấm nháp ngon lành trước khi nuốt gọn, rồi chép môi một cách thỏa mãn. Sau đó, y mở cái túi plastic đen, quẳng cái xác mèo vào như thể vứt mớ giấy lộn vào sọt rác.
“Xong một con,” Johnnie Walker vừa nói vừa xòe hai bàn tay đầy máu ra trước mặt Nakata. “Một công việc thổ tả, bác có nghĩ thế không? Được quả tim tươi giãy đành đạch kể cũng khoái khẩu, nhưng xem này, bao nhiêu là máu… Không, bàn tay này có thể làm hồng ngàn con sóng biển, nhuộm đỏ đại dương xanh. Đó là một câu trong vở kịch Macbeth. Đây không đến nỗi không tẩy sạch được như bàn tay Macbeth, nhưng tổng số hóa đơn tẩy khô tôi phải thanh toán lên đến mức bác không tin được đâu. Xét cho cùng, đây là một bộ đồ đặc biệt. Lẽ ra tôi nên mặc blouse và găng tay mổ, nhưng tôi không được phép. Đó lại là một quy tắc nữa.”
Nakata không nói gì, tuy nhiên, một cái gì đó bắt đầu ngọ nguậy trong đầu lão. Căn phòng tanh nồng mùi máu, và âm điệu của bài “Heigh-ho” vẫn vang vang trong tai lão.
Johnnie Walker lôi con mèo tiếp theo ra khỏi túi, một con cái lông trắng không còn trẻ lắm, chóp đuôi hơi vẹo. Cũng như lần trước, y vuốt đầu con mèo một lúc, rồi ung dung vạch ướm một đường kẻ vô hình trên bụng nó. Rồi cầm một con dao mổ lại rạch nhanh một vệt, mở toang ngực nó ra. Phần còn lại cũng y như với con trước – tiếng kêu thét câm lặng, cái thân co giật, ruột phòi ra, moi quả tim nhầy nhụa máu, phô với Nakata, bỏ tọt vào mồm, thong thả nhai. Nụ cười thỏa mãn. Lấy mu bàn tay quệt máu. Tất cả với tiếng huýt gió điệu “Heigh-ho” làm nhạc nền.
Nakata ngồi thụt hẳn vào chiếc ghế bành và nhắm mắt lại, hai tay ôm đầu, những ngón tay ấn sâu vào thái dương. Rành là một cái gì đang dâng lên bên trong lão, một thứ hỗn loạn khủng khiếp đang làm thay đổi chính bản thể của lão. Lão thở gấp, và một cơn đau nhói giần giật trong cổ lão. Con mắt nhìn của lão thay đổi quyết liệt.
“Bác Nakata,” Johnnie Walker tươi tỉnh nói, “chớ vội bỏ cuộc như thế. Giờ mới sắp tới phần chính. Kia mới chỉ là màn dạo đầu, một bước khởi động thôi. Giờ chúng ta sẽ đến với những gương mặt quen thuộc mà bác từng biết. Cho nên bác hãy mở to mắt mà nhìn cho kỹ. Đây là đoạn hay ho nhất! Tôi hy vọng bác sẽ đánh giá được những cố gắng cật lực của tôi để mang lại cho bác cuộc tiêu khiển này.”
Huýt gió tiếp bài “Heigh-ho”, y lôi con mèo tiếp theo ra. Ngồi lút trong ghế bành, Nakata mở mắt ra nhìn nạn nhân sắp tới. Đầu lão trống trơn hoàn toàn. Thậm chí lão không đứng dậy nổi.
“Tôi tin rằng hai bên đã biết nhau,” Johnnie Walker nói, “tuy nhiên tôi vẫn xin làm nhiệm vụ giới thiệu. Bác Nakata, đây là cậu Kawamura. Cậu Kawamura, bác Nakata,” Johnnie Walker ngả mũ vơi một dáng điệu rất kịch, thoạt tiên chào Nakata, rồi đến con mèo bị tiêm thuốc liệt.
“Giờ hai bên đã chào hỏi nhau rồi, tôi e rằng chúng ta lại phải nói lời vĩnh biệt ngay tức khắc. Gặp mặt, phân ly! Đời người là những cuộc phân ly dài dài, như những cánh hoa tung tóe trong gió. (Y mơn man cái bụng mềm của Kawamura). Bác Nakata, nếu bác muốn chặn tôi lại thì bây giờ là đúng lúc đấy. Thời gian đang trôi và tôi sẽ không do dự đâu. Trong từ điển của Johnnie Walker Kẻ-Giết-Mèo khét tiếng, không cừ do dự đâu.”
Và quả vậy, không mảy may do dự, y rạch toang bụng Kawamura. Lần này, có thể nghe thấy tiếng kêu. Có lẽ lưỡi của nó chưa liệt hoàn toàn hoặc giả đó là một thứ tiếng kêu đặc biệt mà chỉ Nakata nghe thấy được. Một tiếng kêu ghê rợn lạnh sống lưng. Nakata nhắm mắt lại và đưa hai tên lên ôm mái đầu run rẩy.
“Bác phải nhìn!” Johnnie Walker ra lệnh. “Đó lại là một quy tắc nữa của chúng tôi. Nhắm mắt lại cũng chẳng thay đổi được gì. Chẳng có gì biến đi chỉ vì anh không nhìn thấy những gì đang diễn ra. Trên thực tế, tình hình thậm chí sẽ còn xấu đi khi anh mở mắt trở lại. Chúng ta đang sống trong một thế giới như thế đó, bác Nakata ạ. Hãy mở to mắt ra. Chỉ có kẻ hèn nhát mới nhắm mắt lại. Nhắm mắt, bịt tai đâu có thể làm cho thời gian ngừng lại được.”
Nakata làm theo lời chỉ bảo và mở mắt ra.
Một khi đã chắc chắn là Nakata đang mở mắt, Johnnie Walker liền trình diễn tiết mục ăn tim Kawamura, nhai thủng thẳng hơn lần trước để thưởng thức. “Vừa mềm vừa ấm. Y như món gan lươn ấy,” Johnnie Walker bình luận. Rồi y đưa một ngón tay trỏ đẫm máu lên miệng mút chùn chụt. “Khi đã phải mùi rồi sẽ đâm nghiện. Nhất là cái chất máu lầy nhầy ấy.”
Y chùi máu ở dao mổ, vẫn vui vẻ huýt gió như mọi khi và cưa đầu Kawamura. Những răng nhỏ sắc của lưỡi cưa nghiến qua xương và máu tràn khắp.
“Ngài Johnnie Walker, lão xin ngài, Nakata này không chịu đựng được nữa.”
Johnnie Walker ngừng huýt sáo, ngừng công việc đang làm và gãi dái tai. “Thế này thì không ổn rồi, bác Nakata. Tôi rất tiếc là bác cảm thấy khó ở, thành thực rất tiếc, nhưng tôi không thể đơn giản nói Thôi được và ách chuyện này lại. Tôi đã nói với bác đây là chiến tranh mà. Thật rất khó mà ách một cuchiến tranh lại một khi nó đã bắt đầu. Một khi gươm đã rút ra khỏi vỏ thì máu phải đổ. Chuyện này hoàn toàn không liên quan gì với lý thuyết, hay với lô-gích, hay thậm chí với cái tôi của tôi. Đó chỉ thuần túy là một quy tắc. Nếu bác không muốn con mèo nào bị giết nữa, thì bác phải giết tôi. Hãy đứng dậy, tập trung chí căm thù của bác và hạ thủ tôi. Và phải làm ngay lập tức. Hãy làm thế và mọi chuyện sẽ kết thúc. Chấm hết.”
Johnnie Walker lại bắt đầu huýt sáo. Y cưa nốt đầu Kawamura và vứt cái xác không đầu vào túi rác. Giờ đây, đã có ba cái đầu xếp thẳng hàng trên chiếc khay kim loại. chúng đã đau đớn đến thế mà mặt chúng vẫn vô cảm lạ lùng, y hệt những cái đầu xếp trong tủ lạnh.
“Sau đây đến lượt con mèo xiêm”, Johnnie Walker vừa nói vừa lôi từ trong túi ra một con mèo Xiêm người mềm nhũn. Tất nhiên đó chính là Mimi. “Vậy bây giờ ta đến với Mi Chiamano Mimi (Người ta gọi tôi là Mimi). Vở nhạc kịch của Puccini. Quả thực con mèo nhỏ này có cái vẻ đỏm dáng sang trọng ấy, phải không? Bản thân tôi là người cực kỳ hâm mộ Puccini. m nhạc của Puccini là… Tôi nên nói thế nào nhỉ? … Vĩnh viễn mâu thuẫn với thời đại. Người ta có thể cãi lại rằng đó chỉ đơn thuần là giải trí bình dân, nhưng nó không bao giờ già cỗi. Một thành quả nghệ thuật tuyệt vời.”
Y huýt sáo một nét giai điệu trong Mi Chiamano Mimi.
“Nhưng, bác Nakata này, tôi phải nói với bác là tôi phải rất kỳ công mới bắt được Mimi đấy. Nó rất thông minh và thận trọng và nhanh cực kỳ. Không thuộc loại dễ lừa. Một vị khách hàng khó chơi. Nhưng con mèo có thể thoát khỏi tay Johnnie Walker Kẻ-Bắt-Mèo vô song chưa sinh ra đời. Tôi nói vậy không phải để khoe khoang đâu. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh là bắt nó khó khăn biết nhường nào. Dù sao đi nữa, voilà[14]! Cô bạn Mimi của bác! Mèo Xiêm là loại cực kỳ yêu thích của tôi. Bác không biết, chứ tim mèo Xiêm thực sự là một của quựa như nấm hương vậy. Hảo, hảo, tiểu thư Mimi! Đừng sợ – Johnnie Walker đây! Sẵn sàng thưởng thức trái tim âm ấm xinh xẻo của tiểu thư. A… Tiểu thư đang run này!”
“Ngài Johnnie Walker.” Thu hết nghị lực từ đáy lòng mình, Nakata bật ra được mấy tiếng đó bằng một giọng nhỏ bặt. “Tôi xin ngài hãy dừng lại. Nếu không, Nakata này sẽ điên mất. Lão cảm thấy không còn là mình nữa.”
Johnnie Walker đặt Mimi lên bàn và như mọi lần, từ từ lướt ngón tay dọc theo bụng nó. “Vậy bác không còn là bác nữa,” y nói, thận trọng và bình tĩnh. “Điều này rất quan trọng đấy, bác Nakata ạ. Một con người không còn là mình nữa.” Y cầm lên một con dao mổ y chưa dùng tới và lấy đầu ngón tay kiểm tra độ sắc của nó. Rồi, như để thực tập, y liếc liếc mũi dao trên mu bàn tay. Một lát sau, máu rỉ ra, nhỏ giọt xuống bàn và mình Mimi. Johnnie Walker cười rinh rích. “Một con người không còn là mình nữa,” y nhắc lại. “Bác không còn là bác nữa. Thế là đúng sách đấy, bác Nakata ạ, tuyệt vời! Điều quan trọng nhất trong tất cả. Ôi, đầu ta đầy những bọ cạp! Lại một lời thoại trong Macbeth.”
Không một lời, Nakata đứng dậy. Không ai, kể cả Nakata, có thể ngăn được lão. Bằng những sải chân dài, lão bước tới bàn và vớ lấy một cái gì đó giống như dao thái thịt. Nắm chắc cái chuôi gỗ, lão cắm ngập lưỡi dao vào bụng Johnnie Walker, xuyên qua lớp gi-lê đen, rồi tiếp tục đâm vào một chỗ khác. Lão nghe thấy một cái gì, một âm thanh lớn mà thoạt đầu, lão không biết là cái gì. Nhưng rồi lão hiểu ra: Johnnie Walker đang cười. Bị đâm trúng bụng và ngực, máu trào ra, y vẫn tiếp tục cười.
“Đó mới là bản lĩnh chứ!” y la to. “Bác đã không do dự. Làm tốt lắm!” Cười ngặt nghẽo như thể đây là câu đùa ngộ nghĩnh nhất y từng nghe. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc, tiếng cười chuyển thành tiếng nấc. Máu ùng ục trong cuống họng y nghe như một ống dẫn nước vừa được mở nút. Một cơn co giật dữ dội làm người y oằn oại và máu t miệng y ộc ra cùng với những cục đen đen lầy nhầy: những miếng tim mèo y vừa ăn. Máu tung tóe trên bàn, trên cả chiếc sơ mi golf của Nakata. Cả hai người đều bê bết máu và Mimi nằm trên bàn cũng vậy.
Johnnie Walker gục xuống dưới chân Nakata. Y nằm nghiêng co quắp như một đứa trẻ trong đêm lạnh. Y chết hẳn rồi, không còn nghi ngờ gì nữa. Tay trái y áp chặt vào cổ họng, tay phải giơ thẳng ra như muốn với lấy một cái gì đó. Đã dứt cơn co giật và dĩ nhiên cả tiếng cười nữa. Tuy nhiên, vẫn còn dấu vết của một nụ cười giễu cợt ở khóe môi. Máu đọng thành vũng trên sàn gỗ và chiếc mũ lụa đã lăn vào một góc. Tóc ở phía sau đầu Johnnie Walker thưa, có thể nhìn rõ da đầu. Không có cái mũ, nom y già hơn, yếu hơn.
Nakata buông con dao và tiếng nó rơi xuống sàn nghe như tiếng khởi động của một cỗ máy lớn ở đằng xa. Nakata đứng cạnh cái xác hồi lâu. Mọi thứ trong phòng như đã ngưng đọng lại. Chỉ có máu là tiếp tục lặng lẽ chảy tràn, cái vũng từ từ lan khắp mặt sàn.
Cuối cùng, Nakata định thần lại và bế Mimi từ trên bàn lên. Ấm và mềm lả trong tay Nakata, mình nó đầy máu, nhưng rõ ràng nó không bị thương. Mimi ngước mắt như muốn nói với ông già điều gì, nhưng thuốc liệt khiến nó không há miệng được.
Sau đó, Nakata tìm thấy Goma trong cái túi lớn và nhấc nó ra ngoài. Tuy mới chỉ nhìn thấy nó trong ảnh, nhưng lão vẫn thấy lòng nao nao nhớ như thể gặp lại một người bạn xa lâu. “Goma…” Lão thì thầm. Hai tay ôm hai con mèo, Nakata ngồi xuống chiếc ghế bành. “ta về nhà thôi,” lão bảo chúng thế, nhưng không đứng dậy nổi.
Từ một nơi nào đó, con chó đen đã xuất hiện trở lại và ngồi xuống cạnh xác chủ nó. Có thể nó đã liếm hết vũng máu, nhưng Nakata không nhớ chắc lắm. Đầu lão nằng nặng và mù mờ. Lão hít một hơi thật sâu và nhắm mắt lại. Tâm trí lão bắt đầu nhòa nhòa và chìm vào bóng tối lúc nào không biết.