Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 13-14
Chương 13
Đã quá mười hai giờ. Tôi đang ăn bữa trưa và nhìn ra vườn thì Oshima đi tới ngồi xuống bên cạnh tôi. Hôm nay, cả thư viện chỉ có mình tôi. Như mọi khi, bữa trưa của tôi vẫn là hộp cơm trưa rẻ nhất mua ở cái tiệm nhỏ gần ga xe lửa. Chúng tôi nói chuyện một hồi rồi Oshima ép tôi nhận nửa phần xăng-uých của anh.
“Hôm nay mình lấy thừa ra để mời cậu,” anh gặng. “Đừng hiểu sai ý mình, nhưng nom cậu cứ như chẳng ăn gì ấy.”
“Em đang cố tập tạ cho dạ dày nhỏ lại,” tôi giải thích.
“Cậu cố tình?”
Tôi gật đầu.
“Cậu làm thế để tiết kiệm tiề
Lại gật.
“Mình có thể hiểu điều đó, nhưng ở tuổi này cậu phải ăn và hễ có dịp là ăn cho no. Cậu cần chất dinh dưỡng.”
Chiếc xăng-uých anh mời tôi trông thật ngon lành. Tôi cảm ơn anh và bắt đầu ăn. Cá hồi hun khói, cải xoong, củ cải đỏ và rau diếp kẹp giữa hai lát bánh mì trắng cùi giòn ruột mềm phết đẫm bơ.
“Anh làm đấy à?”
“Chẳng có ai làm hộ thì phải làm lấy thôi,” anh nói.
Anh rót cà phê đen từ chiếc phích của mình vào một cái cốc, trong khi tôi uống sữa từ hộp các tông.
“Mấy hôm nay cậu đọc gì?”
“Toàn tập Natsume Soseki,” tôi đáp. “Còn mấy cuốn tiểu thuyết của ông ấy, em chưa đọc, đây là dịp để đọc nốt.”
“Cậu thích ông ta đến mức muốn đọc tất cả những gì ông viết ư?” Oshima hỏi.
Tôi gật đầu.
Hơi bốc lên từ cốc cà phê nơi tay anh. Ngoài trời u tối và đầy mây, nhưng ít nhất thì cơn mưa cũng đã tạnh.
“Cậu đã đọc cuốn tiểu thuyết nào của ông ấy từ hôm đến đây?”
“Em đã đọc hết Người thợ mỏ và hiện đang đọc Hoa anh túc.”
“Người thợ mỏ hả?” Oshima nói, rõ ràng đang ôn lại nội dung cuốn sách mà anh còn nhớ mang máng. “Đó là câu chuyện một sinh viên ở Tokyo, rốt cuộc đi làm trong một hầm mỏ, phải không? Và sau bao đận gay go gian khổ cùng các thợ mỏ khác, cuối cùng anh ta trở về với thế giới bên ngoài? Một cuốn tiểu thuyết với độ dài trung bình, theo như mình nhớ. Cốt truyện không như nngười đọc tthường chờ đợi ở Soseki và văn vẻ cũng không trau chuốt lắm. Không phải là một trong những tác phẩm hay nhất của ông ta. Cậu thích gì ở cuốn đó?”
Tôi cố diễn đạt bằng những cảm nghĩ của mình về cuốn tiểu thuyết, nhưng tôi cần sự giúp đỡ của Quạ. Và gã liền xuất hiện (chẳng biết từ đâu chui ra), xòe rộng đôi cánh và tìm ra những từ chuẩn xác cho tôi.
“Nhân vật chính thuộc một gia đình giàu có,” tôi nói, “nhưng anh ta mắc vào một chuyện tình ngang trái, đâm chán chường và bỏ nhà đi. Anh đang lang thang thì cái nhân vật mờ ám nọ tiếp cận anh, dỗ vào làm việc ở mỏ. Anh nhắm mắt theo hắn ta rồi một hôm thấy mình trong mỏ đồng Ashio, làm việc dưới sâu trong lòng đất, nếm trải đủ mọi điều anh không bao giờ có thể tưởng tượng nổi. Chàng trai nhà giàu ngây thơ bỗng thấy mình lăn lê bò toài giữa đám cặn bã của xã hội.”
Tôi nhấp một ngụm sữa, cố sắp xếp đầu đuôi ngọn ngành phần còn lại của những điều muốn nói. Phải mất một lúc Quạ mới trở lại, nhưng Oshima vẫn kiên nhẫn chờ.
“Những điều anh ta kinh qua trong hầm mỏ là những trải nghiệm sống còn. Cuối cùng, anh thoát ra khỏi và trở về với cuộc sống cũ. Nhưng trong cuốn tiểu thuyết, không hề thấy chỉ ra rằng anh ta đã học được gì từ những trải nghiệm ấy, rằng cuộc đời anh ta đã thay đổi, rằng giờ đây anh ta đã suy nghĩ sâu xa về ý nghĩ của cuộc đời hoặc bắt đầu đặt ra những câu hỏi về xã hội loài người, hay bất cứ cái gì. Ta cũng không cảm thấy là anh ta trưởng thành. Ta gấp sách lại với một cảm giác kỳ lạ như đang tự hỏi Soseki định nói gì vậy. Dường như cái đọng lại trong lòng người đọc chính là không-biết-tác-giả-thực-sự-ịnh-nói-gì. Em không thể cắt nghĩa được điều ấy.”
“Vậy cấu trúc của Người thợ mỏ hoàn toàn khác với loại Bildungsroman[11] hiện đại của cậu, thí dụ như Sanshiro của Soseki chứ gì?”
Tôi gật đầu. “Em không biết gì về loại ấy, nhưng có thể anh nói đúng. Trong truyện, Sanshiro lớn lên, gặp những trở ngại, suy ngẫm sự đời, vượt qua khó khăn, phải không? Nhưng nhân vật chính trong Người thợ mỏ thì khác. Anh ta chỉ nhìn sự việc xảy đến và chấp nhận tất. Thật ra, đôi khi anh ta cũng đưa ra ý kiến riêng, nhưng chẳng có gì sâu sắc lắm. Đằng này, anh ta chỉ nghiền ngẫm về cuộc tình của mình. Anh ta ra khỏi mỏ cũng gần gióng như khi anh ta vào trong đó. Anh ta không hề ý thức rằng đó là điều mà bản thân anh ta đã quyết định làm hoặc rằng anh ta đã có thể lựa chọn. Có vẻ như anh ta hoàn toàn bị động. Nhưng em nghĩ trong cuộc đời thực, người ta cũng thế. Không dễ gì để tự mình lựa chọn.”
“Cậu có thấy mình giống giống nhân vật chính trong Người thợ mỏ không?”
Tôi lắc đầu. “Không, em không bao giờ nghĩ thế.”
“Nhưng người ta cần bấu víu vào một cái gì chứ,” Oshima nói. “Họ cần phải vậy để tồn tại. Cậu cũng làm thế mặc dù cậu không nhận ra. Như Goethe đã nói: Tất thảy đều là ẩn dụ.”
Tôi ngẫm nghĩ một lát về ý đó.
Oshima nhấp một ngụm cà phê. “Dù sao đó cũng là một quan điểm thú vị về Người thợ mỏ. Nhất là vì nhân vật chính trong đó và cậu, cả hai đều bỏ nhà đi. Điều đó làm mình muốn đọc lại nó.”
n hết chiếc xăng-uých, tôi bóp bẹp hộp sữa bằng các tông ném vào sọt rác. “Anh Oshmia à,” tôi nói, quyết định đặt thẳng vấn đề, “em đang gặp thế bí và anh là người duy nhất em có thể vấn kế.”
Anh xòe rộng cả hai tay, vẻ khuyến khích: Cứ nói đi!
“Đây là một câu chuyện dài, nhưng trước mắt, em không có chỗ nào trú chân đêm nay. Em có một cái túi ngủ, nên em không cần giường hoặc nệm hay bất cứ cái gì. Chỉ cần một mái nhà trên đầu thôi. Anh có biết chỗ nào như thế quanh đây không?”
“Tôi đoán cậu không nghĩ đến khách sạn hay lữ quán đấy chứ?”
Tôi lắc đầu. “Tiền cũng là một vấn đề. Nhưng chủ yếu là em không muốn bị để mắt tới.”
“Tôi chắc cậu ám chỉ ban vị thành niên của cảnh sát?”
“Vâng.”
Oshima nghĩ một lát rồi nói: “Được, cậu có thể ở lại đây.”
“Trong thư viện ư?”
“Nhất định rồi. Có một mái nhà nhé, lại có một phòng trống, ban đêm không ai dùng đến.”
“Nhưng theo anh, thế liệu có được không?”
“Tất nhiên là trước hết ta sẽ phải thu xếp một số việc. Nhưng có thể được. Hay nói đúng hơn, không phải là không thể được. Tôi dám chắc là tôi có thể lo ổn chuyện này.”
“Bằng cách nào?”
“Cậu thích đọc sách hay, thích tự mình nghĩ ra những ý này nọ. Coi bộ có thể lực tốt và thuộc loại có tinh thần độc lập. Cậu thích sống quy củ và cậu giàu ý chí, kể cả ý chí muốn làm cho dạ dày mình bé lại, phải không nào? Tôi sẽ bàn với Miss Saeki về chuyện lấy cậu làm phụ việc cho tôi và để cậu ở căn phòng trống ở đây, ngay trong thư viện.”
“Anh muốn em phụ việc cho anh?”
“Cậu sẽ không phải làm gì nhiều,” Oshima nói. “Cơ bản là giúp tôi mở và đóng cửa thư viện. Những việc nặng – dọn dẹp, lau chùi – hay nhập dữ liệu vào máy tính, chúng tôi đã thuê những người chuyên nghiệp làm. Công việc còn lại chả nhiều nhặn gì. Cậu có thể tha hồ muốn đọc gì thì đọc. Nghe ngon lành đấy chứ?”
“Vâng, tất nhiên rồi…” tôi không biết nên nói gì. “Nhưng em không nghĩ là Miss Saeki sẽ đồng ý. Em mới mười lăm tuổi, lại là một đứa bỏ nhà đi và Cô chẳng biết gì về em cả.”
“Nhưng Miss Saeki… Nói thế nào nhỉ?” Oshima ngập ngừng (điều hiếm thấy ở anh), tìm lời để diễn tả cho chính xác. “Cô hơi khác người.”
“Khác người là thế nào?”
“Cô có cách nhìn sự vật không giống mọi người.”
Tôi gật đầu. Một cách nhìn khác? Điều đó nghĩa là thế nào? “Anh muốn nói Cô là một người dị thường?”
Oshima lắc đầu. “Không, mình không muốn nói thế. Nếu nói dị thường thì phải là mình đây. Cô chỉ là không bảo thủ thôi.”
Tôi vẫn cố hình dung ra sự khác nhau giữa khác và dị thường, nhưng rồi quyết định thôi không hỏi thêm gì nữa. Tạm thời trong lúc này.
Sau một lát, Oshima nói: “Tuy nhiên, ở lại đây đêm nay thì chưa được. Tôi sẽ đưa cậu đến một chỗ khác ở tạm vài hôm cho đến khi chúng tôi thu xếp ổn thỏa. Cậu không phiền chứ? Chỗ ấy hơi xa một chút.”
“Không thành vấn đề,” tôi nói.
“Năm giờ thư viện đóng cửa,” Oshima nói, “tôi phải thu dọn mọi thứ, vậy khoảng năm rưỡi chúng ta đi. Tôi sẽ chở cậu bằng xe riêng của tôi. Hiện không có ai ở chỗ đó. Đừng lo – chỗ đó có một mái nhà trên đầu mà.”
“Em rất cảm ơn.”
“Cậu có thể cảm ơn tôi sau khi chúng ta tới đó. Có thể không như cậu tưởng tượng đâu.”
Tôi trở lại phòng đọc và đọc tiếp cuốn Hoa anh túc từ chỗ bỏ dở lúc nãy. Tôi không phải là một người đọc nhanh. Tôi thích kề cà trên mỗi câu, thưởng thức văn phong của tác giả. Nếu không khoái cách viết là tôi bỏ liền. Ngay trước năm giờ, tôi đọc hết cuốn sách, đặt trả về trên giá rồi quay lại ngồi trên chiếc sofa, nhắm mắt lại, nghĩ về những gì xảy ra trong đêm hôm trước. Về Sakura. Về căn phòng của cô. Về những gì cô làm với tôi. Về tất cả những ngoắt ngoéo trong dòng sự kiện.
Đến năm rưỡi, tôi ra ngoài thư viện chờ Oshima. Anh dẫn tôi đến bãi đậu xe ở đằng sau và chúng tôi lên chiếc xe thể thao màu xanh lá cây của anh. Một chiếc Mazda Miata bỏ mui được. Ba lô của tôi to quá bỏ vào cốp xe không vừa, phải cột chặt vào giá để hàng phía sau.
“Một cuốc dài đấy, cho nên ta sẽ dừng ăn tối dọc đường,” Oshima nói và xoay chìa khoá, khởi động xe.
“Chúng ta đi về hướng
“Kochi,” anh đáp. “Đến đó bao giờ chưa?”
Tôi lắc đầu. “Bao xa?”
“Chạy xe mất độ hai tiếng rưỡi. Về phía Nam, bên kia dãy núi.”
“Anh không phiền khi phải đưa em đi xa thế chứ?”
“Không sao. Đường thẳng băng và trời hãy còn sáng mà. Với lại, mình vừa đổ đầy bình xăng.”
Xe chạy qua những đường phố tranh sáng tranh tối, rồi ra xa lộ, hướng về phía Tây. Oshima chuyển làn ngọt xớt, lách giữa các xe khác, sang số êm ru. Mỗi lần như thế, tiếng máy ro ro chỉ hơi khác đi một tí. Cuối cùng, anh dận hết ga và chiếc xe nhỏ nhanh chóng vượt qua tốc độ chín mươi km/giờ.
“Xe này đã được chỉnh đặc biệt nên gia tốc oách lắm. Không như loại Miara thông thường. Cậu có biết nhiều về xe hơi không?”
Tôi lắc đầu. Xe hơi rõ ràng không phải chuyên môn của tôi.
“Anh khoái lái xe lắm hả?” tôi hỏi.
“Bác sĩ bắt mình từ bỏ mọi môn thể thao nguy hiểm. Cho nên mình chuyển sang lái xe để bù lại.”
“Anh bị làm sao?”
“Tên y học dài lê thê, nhưng gọi nôm na là bênh máu không đông,” Oshima xuề xoà nói. “Cậu có biết nó ra thế nào không?”
“Em cũng biết sơ sơ,” tôi nói. “Em có được học qua trong giờ sinh học. Ai mắc chứng ấy, hễ chảy máu là không cầm lại được. Cái đó thuộc về gien, nó làm áu không đông
“Đúng thế. Có đủ dạng bệnh máu không đông và cái loại mình bị là khá hiếm. Nó không tệ hại lắm, nhưng mình phải cẩn thận đừng để bị thương. Hễ mình bị chảy máu là phải đi bệnh viện lền. Với lại, dạo này, lượng máu dự trữ ở các bệnh viện đang có vấn đề. Chết dần chết mòn vì AIDS không phải là một lựa chọn ình. Cho nên mình bắt mối với một số nơi trong thành phố để cung cấp máu sạch, đề phòng trường hợp phải tiếp máu. Vì có bệnh nên mình không đi du lịch được. Trừ những lần đi kiểm tra định kỳ tại bệnh viện đại học Hiroshima, mình chả mấy khi ra khỏi thành phố. Tuy nhiên cũng chẳng đến nỗi tệ – dù sao mình cũng không máu mê du lịch hay thể thao gì cho lắm. Mình không được dùng dao bếp, nên chuyện nấu nướng bị loại trừ, kể cũng đáng tiếc.”
“Lái xe cũng là một môn thể thao khá nguy hiểm đấy chứ,” Tôi nói.
“Nhưng đó là một loại nguy hiểm khác. Hễ ngồi vào sau tay lái là mình ráng phóng nhanh hết mức có thể. Nếu bị tai nạn vì phóng nhanh thì mình sẽ không chỉ đứt một ngón tay mà thôi. Nếu mất rất nhiều máu, sẽ không có sự khác nhau giữa một người mắc chứng máu không đông với bất kỳ ai khác. Thế là hòa cả làng, cơ may sống sót là ngang nhau. Sẽ không phải lo lắng về những chuyện như máu đông hay không đông hay bất cứ cái gì, như vậy có chết thì cũng chết thanh thản, không có gì phải tiếc.”
“Em hiểu.”
“Đừng lo,” Oshima cười lớn. “Mình sẽ không gây tai nạn đâu. Mình lái cẩn thận lắm và không hề liều lĩnh. Mình cũng bảo quản xe rất tốt. Với lại, khi nào chết, mình muốn chết một mình và thật yên tĩnh cơ.”
“Vậy kéo theo một người khác cùng chết cũng không phải là một lựa chọn.””Cậu hiểu đúng đấy.”
Chúng tôi ghé vào một nhà hàng ở một trạm dừng xe dọc đường để ăn tối. Tôi ăn xa-lát gà, còn anh gọi món hải sản nấu cà ri và xa-lát. Gọi là nhét đầy dạ dày thôi. Oshima trả tiền và chúng tôi lại lên xe. Trời đã tối hẳn. Anh dận ga và kim đồng hồ chỉ tốc độ vọt lên.
“Mình bật tí nhạc nhé, cậu có phiền không?” Oshima hỏi.
“Tất nhiên là không,” tôi đáp.
Anh bấm nút CD và một khúc nhạc piano cổ điển bắt đầu. Tôi nghe một lát, cố đoán tác giả. Tôi biết đó không phải là Beethoven, cũng không phải Schumann. Có lẽ đâu đó ở quãng giữa hai vị đó.
“Có phải Schubert?” tôi hỏi.
“Chính xác,” anh đáp. Tay đặt trên vô lăng theo tư thế kim đồng hồ chỉ mười giờ, anh liếc qua tôi. “Cậu thích Schubert không?”
“Không thích lắm,” tôi nói.
“Khi lái xe, mình thích những bản xô-nát viết cho piano của Schubert, mở với âm lượng lớn. Cậu biết tại sao không?”
“Không.”
“Bởi vì chơi những xô-nát cho piano của Schubert cho hay là một trong những điều khó nhất trên đời. Đặc biệt là bài này, bài xô-nát cung Rê trưởng[12]. Rất khó làm chủ được nó. Một số nghệ sĩ piano có thể chơi hoàn hảo một hay hai chương, nhưng nếu nghe cả bốn chương như một tổng thể thì, theo ý mình, chưa có ai thành công. Nhiều nghệ sĩ pian đã thử nhận thách thức ấy, nhưng hình như bao giờ cũng thiêu thiếu một cái gì. Chưa bao giờ có ai thể hiện tới mức mà ta có thể nói: Đúng, thật là hoàn hảo! Cậu biết tại sao không?”
“Không,” tôi đáp.
“Tại vì bản xô-nát này không hoàn hảo. Robert Schumann rất hiểu các xô-nát của Schubert và ông ta dán cho bản này cái nhãn là “tẻ nhạt tuyệt trần”.
“Nếu nhạc phẩm này không hoàn hảo, tại sao nhiều nghệ sĩ piano lại cố làm chủ nó đến thế?”
“Câu hỏi hay đấy,” Oshima nói và ngừng lại để âm nhạc lấp đầy im lặng. “Mình không biết giải thích thế nào cho thỏa đáng, nhưng mình có thể nói điều này: những tác phẩm có chút bất cập đó lại có một sức hấp dẫn chính vì lý do đó, hay ít nhất, nó hấp dẫn một số loại người. Cũng như cuốn Người thợ mỏ của Soseki hấp dẫn cậu vậy. Có một cái gì đó trong đó lôi cuốn cậu hơn là những cuốn tiểu thuyết hoàn thiện hơn như Kokoro hay Sanshiro. Cậu phát hiện thấy trong tác phẩm ấy một cái gì làm tim mình xao động – hay có thể nói tác phẩm ấy phát hiện ra cậu. Bản xô-nát cung rê trưởng của Schubert thuộc loại như vậy.”
“Để trở lại câu hỏi,” tôi nói, “tại sao anh thích nghe những bản xô-nát của Schubert? Nhất là khi lái xe?”
“Những xô-nát của Schubert, nhất là bản này, nếu chơi nguyên xi, đó không phải là nghệ thuật. Như Schumann đã chỉ ra, nó dài lê thê và quá nhiều chất đồng quê, lại quá đơn giản về mặt kỹ thuật. Nếu chơi y xì như nguyên bản, nó sẽ bèn bẹt, vô vị, chỉ là một thứ đồ cổ bụi bặm. Vì thế nên mỗi nghệ sĩ piano thể hiện nó đều thêm vào một cái gì của riêng mình, một thứ phụ gia. Như đoạn này này – cậu có nghe thấy tay ấy cấu âm quãng này như thế nào không? Thêm rubato[]. Điều chỉnh nhịp độ, chuyển gam, bất kỳ. Nếu không, tổng thể sẽ không trụ vững. Tuy nhiên phải rất cẩn thận, kẻo những ngón phụ gia ấy sẽ phá huỷ tính chất của tác phẩm. Như vậy sẽ không còn là Schubert nữa. Mỗi một nghệ sĩ piano chơi bản xô-nát này đều phải vật lộn với nghịch lý ấy.”
Anh lắng nghe tiếng nhạc, âm ư giai điệu rồi nói tiếp:
“Chính vì thế mà mình thích nghe Schubert trong khi lái xe. Như mình đã nói, mọi diễn tấu đều không hoàn hảo. Sự thiếu hoàn hảo, nếu đậm đặc chất nghệ thuật, sẽ kích thích ý thức và giữ cho ta tỉnh táo. Nếu mình nghe một nhạc phẩm kịch kỳ hoàn hảo được diễn tấu một cách cực kỳ hoàn hảo trong khi lái xe, mình sẽ có thể muốn nhắm lại và chết luôn. Như
ng nghe bản Rê trưởng, mình có thể cảm nhận được giới hạn của khả năng con người – rằng một dạng hoàn hảo nào đó chỉ có thể thực hiện được qua một sự tích lũy vô hạn của cái không hoàn hảo. Và riêng mình, mình thấy điều đó đầy khích lệ. Cậu có hiểu ý mình không?”
“Hơi hơi…”
“Xin lỗi, Oshima nói, “mình dễ bốc khi bàn về đề tài này.”
“Nhưng có đủ mọi dạng và cấp độ không hoàn hảo, đúng không?” tôi nói.
“Tất nhiên rồi.”
“So sánh các cách diễn tấu bản xô-nát cung Rê trưởng, anh thấy ai chơi hay nhất?”
“Hỏi khó đấy,” Oshima nghĩ một lát. Anh giảm tốc độ, chuyển làn, mau lẹ vượt qua một chiếc xe đông lạnh kếch sù mười tám bánh, tăng tốc để trở về làn đường của mình mình. “Mình không có ý làm cậu hốt, nhưng ban đêm, xe Miata xanh là loại khó thấất trên xa lộ. Nó đã thấp lại xanh nên dễ lẫn vào đêm tối. Nhất là cánh lái xe tải ngồi trong cabin cao lại càng khó nhìn thấy nó. Nếu không chú ý thì rất nguy hiểm, đặc biệt trong đường hầm. Quả thật, xe thể thao đáng ra nên là màu đỏ thì mới nổi bật lên. Vì vậy, phần lớn xe Ferrari đều màu đỏ. Nhưng khốn nỗi mình lại thích màu xanh, cho dù nó có thể gây nguy hiểm. Xanh là màu của rừng cây. Còn đỏ là màu của máu.”
Anh liếc nhìn đồng hồ và lại âm ư theo điệu nhạc. “Nói chung, mình nghĩ Brendel và Ashkenazy là những người diễn tấu hay nhất, tuy nhiên họ không làm mình xúc động. m nhạc của Schubert thách thức và đập tan các cung cách của thế gian. Đó là cốt lõi của chủ nghĩa lãng mạn và âm nhạc của Schubert là sự đúc kết của dòng này.”
Tôi tiếp tục lắn gnghe bản xô-nát.
“Cậu thấy thế nào? Hơi chán hả?”
“Vâng, hơi chán,” tôi thừa nhận.
“Phải tự rèn luyện mới thấy được giá trị của Schubert. Mình cũng thế, lần đầu nghe ông, mình thấy chán ốm. Cái đó là tự nhiên đối với lứa tuổi cậu. Với thời gian, cậu sẽ vỡ dần ra. Người ta nhanh chóng mệt mỏi với những thứ không chán, thế nhưng lại không mệt mỏi với những gì mới đầu tưởng là chán. Nghĩ mà xem. Mình có thể rỗi hơi mà chán, nhưng không bao giờ mệt mỏi với những gì mình yêu thích. Phần đông người đời không phân biệt được hai cái đó.”
“Anh nói anh là người khác thường. Có phải là tại cái chứng máu không đông ấy không?”
“Có phần thế đấy,” anh nói với một nụ cười ma mãnh. “Nhưng không phải chỉ vậy thôi, còn có cái gì đó khác nữa.”
Khi bản xô-nát dài “tẻ nhạt tuyệt trần” của Schubert kết thúc, chúng tôi không nghe thêm gì nữa. Chúng tôi lặng thinh, mỗi người lấp đầy im lặng bằng những ý nghĩ lang bang của mình. Tôi lơ đãng nhìn những biển báo vùn vụt qua. Tới một ngã tư, chúng tôi rẽ vào một ngả đường hướng Nam đi về phía núi, xuyên hết đường hầm này đến đường hầm khác. Oshima hết sức tập trung mỗi khi anh vượt một xe khác. Chúng tôi vượt một số xe tải chạy chậm rì rì và mỗi lần như thế, lại nghe thấy tiếng rít viu víu của không khí như thể một linh hồn vừa thoát xác. Thi thoảng tôi ngoái nhìn lại để yên trí rằng chiếc ba lô của mình vâẫ đường cột chặt an toàn ở đó.
“Chỗ bọn mình đến nằm sâu trong núi, chắc chắn không phải là căn nhà khang trang nhất thế giới,” Oshima nói. “Mình chắc cậu sẽ không gặp ai khác trong thời gian cậu ở đó. Không có radio, tivi hay điện thoại gì hết. Chắc cậu không phiền chứ?”
“Không,” tôi đáp.
“Cậu đã quen với cô đơn,” Oshima bình luận.
Tôi gật đầu.
“Nhưng cô đơn cũng có ba bảy loại. Cái thứ cô đơn đang chờ đợi cậu có thể là hơi bất ngờ đấy.”
“Bất ngờ như thế nào?”
Oshima đẩy cái cầu gọng kính trên sống mũi lên. “Quả thực mình chả biết tả thế nào, cũng có thể nó sẽ thay đổi, do ở cậu.”
Chúng tôi ra khỏi xa lộ và theo con đường liên tỉnh nhỏ. Đi một quãng ngắn, tới một thị trấn nhỏ ven đường, Oshima dừng ở một cửa hàng mở cửa ban đêm, mua đủ thứ thực phẩm đến độ hầu như cả h chúng tôi không mang hết – rau quả, bánh quy giòn, sữa, nước khoáng, đồ hộp, các túi thực phẩm ăn liền, phần lớn là những thứ không đòi hỏi mất nhiều công nấu nướng. Tôi định rút ví ra nhưng anh lắc đầu, giành phần trả tiền tất cả.
Quay về chiếc xe thể thao, chúng tôi đi xuôi đường liên tỉnh. Tôi ôm những bịch không cho vào cốp xe được. Ra khỏi thị trấn nhỏ, tất cả đều tối đen xung quanh chúng tôi. Không có nhà cửa gì cả, họa hoằn mới gặp một chiếc xe, đường thì hẹp đến nôỗ hai xe khó mà vượt nhau được.Oshima bật pha hết cỡ, tiếp tục lao tới, hết hãm phanh lại dận ga, liên tục sang số từ hai lên ba, rồi lại từ ba xuống hai. Vẻ mặt anh im sững vì tập trung lái, môi mím chặt, mắt nhìn trân trân vào một điểm phía trước trong bóng tối, tay phải giữ chắc vô lăng, tay trái đặt trên cần sang số trong tư thế sẵn sàng.
Một vách đá dốc đứng xuất hiện bên trái chúng tôi. Có vẻ như ở bên dưới có một khe suối. Các khúc cua trở nên gấp hơn, đường trơn hơn và một đôi lần, phần sau xe bị trượt bánh, nhưng tôi quyết định không bận tâm lo lắng về điều đó: đối với Oshima, để xảy ra tai nạn ở đây chắc chắn không phải là một lựa chọn.
Đồng hồ tôi chỉ gần chín giờ. Tôi hạ kính cửa sổ cho khí lạnh ủa vào. Ở đây, mọi âm vang đều khác. Chúng tôi đang ở giữa vùng núi và còn đi sâu vào nữa. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi, cuối cùng, con đường tách ra xa bờ vực và rẽ vào một khu rừng. Những ngọn cây cao vút như bóng ma trên đầu chúng tôi. Ánh đèn pha lần lượt liếm vào từng thân cây bật sáng. Đường quãng này không rải nhựa và bánh lốp làm những viên sỏi bắn lên va vào gầm xe. Bộ giảm xóc nhún lên nhún xuống trên mặt đường gồ ghề. Trời không trăng không sao. Những giọt mưa nhỏ thi thoảng táp vào tấm kính chắn gió.
“Anh có hay đến đây không?” tôi hỏi.
“Dạo trướơ. Bây giờ mắc công việc và bận bịu linh tinh, mình không đến luôn được. Anh trai mình là vận động viên lướt sóng, anh ấy sống ở ven biển, tỉnh Kochi. Anh ấy có một cửa hàng bán dụng cụ luớt sóng và làm ván lướt. Thỉnh thoảng anh ấy cũng đến đây. Cậu có chơi lướt sóng không?”
“Em chưa bao giờ thử.”
“Nếu có dịp, cậu nên nhờ anh trai mình dạy cho. Anh ấy lướt sóng rất cừ,” Oshima nói. “Nếu cậu gặp anh ấy, cậu sẽ thấy anh ấy chả giống mình tí nào. Anh ấy to con, da ngăm ngăm, ít nói, không thích giao du lắm và khoái bia. Và chẳng biết Schubert khác Wagner thế nào. Nhưng hai anh em mình rất hợp nhau.”
Chúng tôi tiếp tục đi sâu vào rừng rậm và cuối cùng, tới đích. Oshima hãm phanh nhưng vẫn để nổ máy, xuống xe, mở khóa một thứ cổng rào lưới sắt, đẩy ra rồi trở lại xe, lái vào trong, đi tiếp trên một con đường ngoằn ngoèo, gồ ghề cho tới một chỗ quang cuối đường. Oshima dừng xe, thở trút ra, đưa cả hai tay vuốt tóc ra đằng sau rồi tắt máy và cài phanh tay.
Quạt gió vẫn chạy ro ro để làm nguội động cơ quá nhiệt, trong khi một làn hơi bốc lên từ capô, nhưng vì máy đã tắt nên lúc này một im lặng nặng nề bao trùm chúng tôi. Tôi nghe tiếng nước róc rách từ một con suối nhỏ gần đâu đây. Trên cao, gió rì rào mơ hồ. Tôi mở cửa xe, bước ra ngoài. Những mảng sương giá lạnh lơ lửng trong không trung. Tôi kéo lên tận cổ phéc-mơ-tuya của chiếc áo khoác không thấm nước mà tôi vừa mặc ra ngoài áo phông.
Trước mặt chúng tôi là một căn nhà nhỏ. Trời tối quá, không nhìn rõ, nhưng có vẻ đây là một cái lều gỗ. Chỉ thấy một đường viền đen chờn vờn trên nền của rừng cây. Đèn pha đầu xe vẫn bật sáng, Oshima từ từ lại gần căn lều, tay cầm đèn pin, bước lên bậc thềm, lấy ra một chiếc chìa khóa, mở cửa, vào trong và đánh diêm châm đèn. Rồi cầm đèn, bước ra ngoài hiên, trịnh trọng thông báo: “Chào mừng đế tệ xá!” Cứ như từ một bức vẽ minh họa truyện cổ tích bước ra vậy.
Tôi bước lên bậc thềm vào nhà. Oshima thắp một chiếc đèn treo lớn dòng từ trần xuống. Căn nhà gỗ gồm độc một phòng lớn hình hộp. Một chiếc giường nhỏ kê trong góc, một cái bàn ăn với hai ghế gỗ, một cái sofa cũ kỹ, một tấm thảm bạc phếch – vẻ như một mớ đồ đạc cũ không ai màng, vơ quàng vơ quấy để dùng tạm. Một cái giá gỗ chật cứng sách, những cuốn sách bìa đã xác xơ vì đọc đi đọc lại bao lần. Còn có một cái tủ cũ để đựng quần áo. Và một gian bếp đơn sơ với một quầy, một cái bếp ga nhỏ và một bồn rửa nhưng không thấy vòi nước. Thay vào đó là một cái xô nhôm chắc để đựng nước. Một cái xoong và một ấm đun nước trên giá, một cái chảo treo trên tường. Và giữa phòng, một cái bếp lò đun củi màu đen.
“Anh trai mình làm cái nhà này gần như một mình. Nguyên nó là một cái lều gỗ của thợ rừng, anh ấy đã cải tạo lại hoàn toàn. Anh ấy rất khéo tay. Dạo ấy mình còn bé, chỉ giúp việc vặt, giữ cho khỏi xây chân đứt tay. Phương tiện thì rất thô sơ. Điện không, nước máy không, toa-lét cũng không. Tiện nghi duy nhất là khí prôpan để đun nấu.” Oshima đổ chút nước khoáng vào ấm và bắt đầu đun.
“Vùng đất núi này trước kia là tài sản của ông nội mình. Cụ là một phú hộ ở Kochi, sở hữu rất nhiều tài sản. Cụ mất cách đây mười mấy năm và hai anh em mình được thừa kế toàn bộ khu đất núi này. Không ai trong họ muốn nó cả, vì quá hẻo lánh và chẳng đáng giá là bao. Nếu muốn khai thác lâm sản thì phải thuê người tốn kém lắm.”
Tôi vén tấm rèm che cửa sổ. Chỉ thấy một bức tường bóng tối mịt mùng.
“Hồi mình trạc tuổi cậu,” Oshima nói tiếp, bỏ mấy túi trà hoa cúc vào bình, “mình rất hay đến đây sống một mình. Không gặp ai khác, không trò chuyện với ai. Anh trai như ép mình làm thế. Thông thường, với một người mắc cái bệnh giống mình, người ta không làm như vậy – ở một mình giữa nơi hoang vắng thế này là quá nguy hiểm cho họ. Nhưng anh mình bất cần.” Anh ngả người dựa vào quầy, chờ cho nước sôi. “Anh ấy không tìm cách gò mình vào kỷ luật hay gì hết mà chỉ nghĩ rằng đó là cái mình cần. Nhìn lại, mình thấy đó là một trải nghiệm tốt, đúng là cái mình cần thật. Mình có điều kiện đọc rất nhiều, suy ngẫm mọi sự. Nói thật tình, sau một thời gian, mình gần như không thể đi học được nữa. Giữa trường học và mình có một thứ quan hệ ghét bỏ nhau. Mình khác mọi người. Do hảo tâm, người ta để ình tốt nghiệp trung học, và sau đó, về cơ bản, mình tự thân vận động. Y như cậu vậy. Mình đã kể với cậu mọi chuyện đó chưa nhỉ?”
Tôi lắc đầu. “Có phải vì thế mà anh tốt với em như vậy không?”
“Có phần thế,” anh nói rồi ngừng một lát. “Nhưng lý do không phải chỉ có vậy.”
Oshima đưa tôi một tách trà và nhấp nhấm nháp tách của mình. Thần kinh tôi căng thẳng sau chuyến đi dài và vị hoa cúc đúng là cái tôi cần để thư giãn.
Oshima liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Mình sắp phải đi, nên hãy để mình giải thích mọi thứ. Có một con suối lành gần đây, cậu có thể lấy nước ở đó mà dùng. Nó chảy từ đầu nguồn nên cậu có thể uống nguyên như thế, tốt hơn nước khoáng đóng chai nhiều. Có củi chất sau nhà, nên cậu có thể dùng bếp lò nếu cậu thấy lạnh. Nơi này rét đáo để. Thậm chí vào tháng Tám, mình đã phải dùng tới bếp lò vài lần. Nếu cậu cần dụng cụ gì khác hoặc bất cứ cái gì thì cứ lục cái kho ở sau nhà. Và cứ thoải mái mặc bất kỳ đồ cũ nào của ông anh mình mà cậu thấy trong tủ quần áo. Anh ấy chẳng bận tâm đâu, ai mặc đồ của anh ấy cũng được.”
Oshima đứng chống nạnh, đảo mắtkhắp căn lều. “Chắc chắn đây không phải là một nơi ở ẩn lãng mạn. Nhưng để sống đạm bạc thì ổn đấy. Có một điều mình phải cảnh cáo cậu: chớ có đi sâu quá vào trong rừng. Rừng ở đây thực sự rậm rạp và không có đường ra đường xuyên suốt đâu. Phải giữ sao cho căn lều bao giờ cũng ở trong tầm nhìn. Nếu cậu đi xa hơn sẽ rất dễ lạc và khó mà tìm thấy đường về. Mình đã một lần nếm mùi ấy, thật dễ sợ. Mình chỉ đi cách đây khoảng hai trăm mét mà mà mất đứt nửa ngày đi lòng vòng. Cậu có thể nghĩ Nhật Bản là một nước nhỏ, không thể lạc trong rừng được. Nhưng hãy tin mình đi, một khi mạo hiểm sâu vào những cánh rừng này, cậu sẽ lạc là cái chắc.”
Tôi ghi điều này vào bộ nhớ để tham chiếu sau này.
“Và trừ trường hợp thật khẩn cấp, đừng có xuống núi một mình. Mọi nhà đều ở cách rất xa. Cứ đợi ở đây, trong vòng vài ngày, mình sẽ quay lại đón cậu. Cậu có đủ cái ăn để cầm cự cho đến lúc đó. À, cậu có điện thoại di động không nhỉ?”
“Em có,” tôi nói, tay chỉ vào ba lô.
Anh nhoẻn cười với tôi. “Cứ giữ nó ở trong ba lô. Ở đây không dùn được đâu: ngoài tầm phủ sóng. Và tất nhiên, đài phát thanh cũng thế. Cậu bị cắt rời khỏi thế giới. Như vậy cậu sẽ có ối thì giờ mà đọc.”
Tôi chợt nghĩ đến một vấn đề rất thực tế. “Không có toa-lét thì em đi vệ sinh ở đâu?”
Oshima dang rộng cánh tay: “Cậu có cả một khu rừng, muốn cho ra đâu chả được.”
Chương 14
Cuối mỗi ngày Nakata đều ghé qua nhà những người đã thuê lão, báo cáo tình hình tìm kiếm: lão đã đi những đâu, lượm được những thông tin gì. Mỗi ngày, lão được trả công khoảng ba nghìn yen. Chẳng ai chính thức định giá như thế, nhưng người ta cứ truyền tai nhau rằng trong vùng có lão Nakata là tổ sư tìm mèo, muốn nhờ thì cứ xì ra mỗi ngày chừng nấy. Bao giờ họ cũng muốn cho lão thêm chút gì ngoài tiền công – đồ ăn thức uống, có khi cả quần áo nữa. Và khi tìm thấy con mèo mất tích, lão còn được nhận một khoản mười nghìn yen tiền thưởng nữa.
Không phải lúc nào cũng có người thuê Nakata tìm mèo lạc, cho nên số tiền công lão gom góp được mỗi tháng chẳng nhiều nhặn gì. Người lớn nhất trong số em trai lão thanh toán các khoản dịch vụ công cộng, lấy từ phần thừa kế khiêm tốn mà cha mẹ Nakata để lại, và lão sống bằng những món tiền để dành còm cõi cộng với một khoản trợ cấp hàng tháng của thành phố cho người già khuyết tật. Lão xoay sở chỉ ăn uống sinh hoạt bằng số trợ cấp trên, để có thể tiêu xài tiền công tìm mèo theo ý riêng, và đối với lão đó là một món khá sộp. Tuy nhiên, đôi khi lão không nghĩ ra được ý nào khác hơn là thưởng thức món ăn ưa thích của mình – lươn nướng. Ra ngân hàng hay lập sổ tiết kiệm thì phải điền nhiều mục vào tờ khai mà lão lại không biết đọc biết viết, nên còn lại bao nhiêu tiền lão giấu béng dưới chiếc chiếu tatami trong phòng.
Khả năng nói chuyện được với mèo là một bí mật của Nakata mà chỉ riêng lão và lũ mèo biết. Người ta sẽ tưởng lão điên nếu lão nói ra điều đó, nên lão cứ ngậm tăm. Ai nấy đều biết lão chẳng thông minh sáng láng gì, nhưng đần độn và điên rồ lại là chuyện hoàn toàn khác.
Đôi khi có người đi ữa lúc lão đang mải mê trò chuyện với một con mèo nào đó, nhưng chẳng ai buồn để ý. Xét cho cùng, thấy một ông già nói chuyện với súc vật như với người đâu phải chuyện gì quá khác thường. Nhưng nếu có ai chợt bình luận về cái tài tìm mèo của lão và nói đại loại như thế này: “Bác Nakata, làm sao bác có thể rành những thói quen của loài mèo đến thế? Cứ như là bác có thể nói chuyện với chúng vậy”, thì lão chỉ tủm tỉm và cho qua thôi. Nakata bao giờ cũng nghiêm túc và lễ phép, với một nụ cười hòa nhã, và rất được các bà nội trợ trong khu quý mến. Một phần cũng vì vẻ bề ngoài sạch sẽ gọn gàng của lão. Nghèo xác xơ, nhưng Nakata năng tắm giặt và những bộ quần áo mới toanh các khách hàng thường cho lão càng khiến bộ dạng lão thêm tươm tất. Một số, như chiếc sơ mi đánh golf mang nhãn Jack Nicklaus chẳng hạn, không hợp với lão, nhưng Nakata bất cần chừng nào nó sạch sẽ tinh tươm.
Nakata đang đứng ở cửa trước, ngập ngừng báo cáo với bà Koizumi khách hàng mới của lão về tình hình tìm kiếm con mèo Goma của bà ta.
“Cuối cùng Nakata này đã có đôi chút thông tin về bé Goma,” lão mào đầu. “Một ông tên là Kawamura nói rằng mấy hôm trước ông ta đã trông thấy một con mèo giống Goma ở bãi trống đằng kia, cái bãi có tường bao quanh ở khối 2 ấy. Bãi cách đây hai phố lớn và theo ông ta tả thì nó cũng cùng tuổi, cùng màu lông như Goma và cũng có cái đai cổ chống rận như thế. Nakata này bèn quyết định canh chừng ở bãi trống, ngày ngày tới đấy ăn trưa tại chỗ, ngồi lì từ sáng đến lúc mặt trời lặn. Không, bà đừng băn khoăn về chuyện đó, tôi có ối thời gian rảnh rỗi, nên tôi chẳng thấy phiền gì hết, trừ phi trời đổ mưa lớn. Nhưng nếu bà nghĩ tôi không cần phải rình nữa thì xin cứ bảo. Lão xin thôi ngay.”
Lão không nói với bà rằng cái ông Kawamura ấy không phải là một người, mà là một con mèo vằn. Lão nghĩ nói thế chỉ tổ rắc rối vấn đề.
Bà Koizumi cảm ơn lão. Hai đứa con gái nhỏ của bà rầu rĩ suốt từhi con vật yêu của chúng mất tích, không thiết ăn nữa. Mẹ chúng không tài nào giải thích cho chúng hiểu rằng giống mèo thường vẫn thỉnh thoảng biết mất đột ngột một thời gian. Nhưng dù thương con, bà cũng không có thì giờ đi khắp thành phố tìm mèo cho chúng. Cho nên bà rất mừng khi kiếm được một người làm hết sức mình để tìm cho ra Goma, như Nakata. Nakata là một lão già kỳ dị, có cách nói khác thường, nhưng thiên hạ đồn rằng lão là một thiên tài trong việc tìm mèo. Bà biết mình nghĩ vậy là không phải, nhưng quả thật coi bộ lão chẳng đủ thông minh để lừa ai. Bà đưa cho lão tiền công ngày đựng trong một chiếc phong bì kèm theo một hộp cơm nắm và khoai môn bà vừa nấu.
Nakata cúi rạp đầu nhận hộp cơm, đưa lên mũi hít hít và cảm ơn. “Đa tạ bà. Khoai môn là một trong những món ưa thích của Nakata này.”
“Chúc cụ ngon miệng,” bà Koizumi đáp.
Một tuần đã qua kể từ khi lão bắt đầu dò dõi bãi hoang này. Trong thời gian đó, Nakata đã thấy rất nhiều mèo lui tới đây. Kawamura, con mèo vằn màu nâu, mỗi ngày ghé thăm vài lần. Nakata chào nó, chuyện gẫu linh tinh: mưa nắng, chợ cấp… Lão vẫn không nắm được nó nói những gì.
“Kawara gặp rắc rối, nằm rạp trên đường”, Kawamura nói. Hình như nó muốn truyền đạt điều gì với Nakata, nhưng lão già không hiểu và lão bảo nó thế.
Con mèo có vẻ bối rối vì thế và nhắc lại – có lẽ vẫn điều đó, nhưng diễn tả cách khác. “Kawara bị trói, la hét.” Nakata lại càng hoang mang.
Đáng tiếc là Mimi không có đây giúp mình, lão nghĩ. Nếu có đây ắt Mimi sẽ cho nó cái tát vào mõm để nó nói cho gẫy gọn. Mimi thật là một con mèo thông minh. Nhưng Mimi không bao giờ xuất hiện ở một nơi như thế này vì sợ bị lây rận từ bọn mèo hoang.
Sau khi xổ ra những câu mà Nakata chẳng hiểu gì, Kawamura hơn hớn bỏ đi.
Những con mèo khác lẻ tẻ ra ra vào vào. Thoạt đầu chúng còn đề phòng khi phát hiện thấy Nakata, gườm gườm nhìn lão từ xa, nhưng sau khi thấy lão chỉ ngồi đấy, chẳng làm gì, chúng liền quên phắt lão đi. Theo cái cách thân ái điển hình của lão, Nakata tìm cách gợi chuyện. Lão cất tiếng chào và tự giới thiệu, nhưng hầu hết giả ngây giả điếc không buồn nghe hoặc chỉ trừng trừng nhìn lão. Lũ mèo ở đây đặc biệt thạo môn phớt lờ người. Chắc chúng đã nếm mùi điêu đứng trong quan hệ với con người. Nakata hiểu là mình chẳng có quyền đòi hỏi gì ở chúng và không hề trách chúng về thái độ lạnh lùng ấy. Lão hiểu rất rõ rằng trong thế giới loài mèo, bao giờ lão cũng chỉ là một kẻ ngoài rìa.
Duy nhất có một con trong đám mèo ở bãi hoang tỏ ra rất tò mò muốn làm quen với Nakata. Nó đã mấy lần đáp lại lời chào của lão.
“Vậy ra bác biết nói tiếng mèo hả?” cuối cùng, chú mèo mướp nhị thể đen trắng rách tai vừa ngập ngừng hỏi vừa đưa mắt nhìn quanh. Giọng nói cộc cằn, nhưng xem ra khá hồ hởi.
“Phải, chút ít thôi,” Nakata đáp.
“Dù sao thế cũng oách rồi,” mèo mướp bình luận.
“Tên lão là Nakata,” Nakata tự giới thiệu. “Còn cậu tên gì?”
“Tôi làm gì có tên,” mèo mướp cấm cảu.
“Vậy Okawa nghe thế nào? Lão gọi cậu là Okawa được không?”
“Gì cũng được.”
“Vậy thì cậu Okawa này,” Nakata nói, “để đánh dấu cuộc gặp gỡ của chúng ta, cậu không từ chối vài con cá mòi khô chứ?”
“Nghe hấp dẫn đấy, cà mòi là một món ưa thích của tôi.”
Nakata lấy từ trong bị ra một con cá mòi bọc giấy bóng kính, mở ra cho Okawa. Lão luôn mang theo mấy con cá mòi, phòng khi cần đến. Okawa ngấu nghiến con cá từ đầu đến đuôi, rồi liếm mép.
“Thật đúng lúc, buồn ngủ gặp chiếu manh. Đa tạ. Nếu bác thích, tôi sẽ liếm cho bác bất kỳ ở chỗ nào.”
“Không, không cần đâu. Nakata này cám ơn nhã ý của cậu, nhưng ngay bây giờ lão chả cần được liếm ở chỗ nào cả, dù sao cũng cám ơn. Thật ra, có một con mèo bị mất tích, chủ nó nhờ lão tìm hộ. Một con mèo cái lông mai rùa tên là Goma.” Nakata lấy từ trong túi ra tấm hình màu của Goma, đưa cho Okawa xem. “Có người nói đã thấy nó ở bãi hoang này. Cho nên Nakata này mới đến ngồi đây mấy ngày liền, chờ Goma xuất hiện. Không biết cậu có tình cờ gặp nó không?”
Okawa liếc nhìn tấm ảnh và sa sầm nét mặt. Những nếp nhăn hiện ra giữa đôi mày cau lại và nó chớp mắt liên hồi. “Xin thật lòng cám ơn về con cá mòi. Nhưng xin đừng hiểu lầm, tôi không thể nói về chuyện này, kẻo sẽ mang vạ vào thân.”
Nakata ngớ ra. “Cậu sẽ mang vạ vào thân nếu nói ra ư?”
“Đó là một vụ việc nguy hiểm, tai ác. Tôi nghĩ tốt hơn là bác nên quên con mèo ấy đi. Và nếu bác biết cái gì là tốt ình thì hãy tránh xa nơi này. Tôi không muốn bác lâm nạn. Rất tiếc đã không giúp được bác, nhưng xin hãy coi lời cảnh báo này như một cách cảm ơn bác đã cho ăn.”
Nói rồi, Okawa đứng dậy, nhìn quanh rồi biến vào một bụi rậm.
Nakata thở dài, lấy chiếc phích ra và chậm rãi nhấp mấy ngụm trà. Okawa nói là ở đây nguy hiểm, nhưng Nakata không hình dung được mối nguy hiểm đó ra sao. Tất cả những gì lão đang làm chỉ là tìm một con mèo bị lạc. Làm sao cái đó lại có thể nguy hiểm được? Có thể là nguy hiểm đến từ gã bắt mo đội cái mũ kỳ dị mà Kawamura đã mô tả. Nhưng Nakata này là người chứ đâu phải mèo. Vậy tại sao lão lại phải sợ một gã bắt mèo?
Nhưng thế giới này đầy những thứ mà Nakata không mong gì thấu hiểu nổi, cho nên lão thôi không nghĩ về điều đó nữa. Với một bộ óc như lão thì nghĩ chỉ tổ đau đầu. Nakata nhấp ngụm trà cuối cùng, vặn nắp phích lại, bỏ phích trở vào trong bị.
Sau khi Okawa biến vào trong bụi rậm, hồi lâu không thấy con mèo nào khác xuất hiện. Chỉ thấy những cánh bướm dập dờn trên cỏ. Một đàn chim sẽ bay vào chỗ đất trống, tản ra nhiều phía, tụ trở lại rồi bay đi. Nakata ngủ chập chờn vài lần, rồi lại giật mình tỉnh dậy. Bằng vào vị trí của mặt trời, lão ang áng biết lúc này là mấy giờ.
Vào khoảng gần tối thì con chó ấy xuất hiện trước mặt lão.
Đó là một con chó đen kếch sù, nó đột ngột chui ra từ bụi rậm, lặng lẽ lặc lè đi tới. Từ chỗ Nakata ngồi, nom nó giống một con bê hơn một con chó. Chân dài, lông ngắn, cơ bắp cuồn cuộn rắn như thép, tai nhọn như mũi dao, không có đai cổ. Nakata không thạo mấy về các giống chó, nhưng vừa thoáng nhìn lão đã biết đây là loại dữ, hay ít nhất cũng có thể trở nên dữ khi cần thiết. Loại chó người ta dùng trong quân đội hay cảnh sát.
Mắt nó hoàn toàn vô cảm và lớp da quanh mồm nó cuộn lên, để lộ những chiếc nanh trắng nom thật gớm. Cái lưỡi đỏ tươi thè lè giữa hai hàm răng như một ngọn lửa. Con chó đứng đó, không động đậy, im lặng, trân trân nhìn Nakata hồi lâu. Nakata cũng im lặng. Lão không biết nói chuyện với chó, chỉ biết tiếng mèo thôi. Mắt con chó đơ đơ vô hồn như nước ao tù đông đặc.
Nakata thở gằn, khẽ khàng, nhưng lão không sợ. Lão biết mình đang đối mặt với một con vật hung hãn, thù địch (lão không hiểu tại sao lại thế). Nhưng lão không đẩy ý nghĩ đó xa hơn đến độ tự coi là mình đang bị đe dọa. Cái khái niệm chết nằm ngoài khả năng tưởng tượng của lão. Và đau đớn thể xác là một cái gì trừu tượng đối với lão cho đến khi lão thực sự có cảm giác ấy. Còn ở dạng khái niệm thì đau đớn chả có nghĩa gì sất. Do đó, lão chẳng sợ, cho dù con chó quái đản ấy cứ gườm gườm nhìn lão. Lão chỉ bối rối thôi.
Đứng lên! Con chó nói.
Nakata nuốt khan đánh ực. Con chó đang nói! Không hẳn là nói, vì miệng nó không hề động đậy, mà chính xác ra là nó đang truyền đạt bằng một phương tiện khác ngoài ngôn ngữ.
Đứng lên và đi theo tôi! Con chó ra lệnh.
Nakata làm theo lời nó, lồm cồm đứng dậy. Lão toan cất tiếng chào nó, nhưng nghĩ thế nào lại thôi. Ngay cả nếu đôi bên có thể trò chuyện, thì cũng chả ích gì lắm. Hơn nữa, lão cũng không cảm thấy muốn trò chuyện với con chó này, càng không muốn đặt tên cho nó. Có mất bao nhiêu thời gian cũng chẳng biến nó thành bạn được.
Một ý nghĩ thoáng hiện trong đầu lão. Có thể con chó này có chút liên quan đến ông Tỉnh Trưởng, ông ta phát hiện ra là lão đang kiếm tiền bằng nghề tìm mèo, nên muốn cắt chợ cấp của lão. Nếu con chó cảnh sát này là của ông tỉnh trưởng thì cũng chả có gì là lạ, lão nghĩ thầm. Và nếu sự tình ra như thế thì mình gặp rắc rối to rồi!
Khi Nakata đứng dậy rồi, con chó bèn bắt đầu đi. Nakata khoác bị lên rồi đi theo nó. Dưới cuống cái đuôi ngắn của nó thò lò hai hòn dái to tướng.
Con chó cắt ngang bãi đất trống và lách qua một chỗ hổng ở hàng rào gỗ ra ngoài. Nakata ra theo và con chó không hề ngoái nhìn lại lấy một lần. Chắc hẳn nghe tiếng chân của Nakata, nó biết là lão đang ở đằng sau nó. Khi đến gần khu buôn bán, phố xá đông đúc hơn, phần lớn là các bà nội trợ đi mua sắm. M nhìn thẳng về phía trước, con chó bước tiếp, tư thế oai nghiêm. Trông thấy con thú khổng lồ, dữ tợn ấy, mọi người vội né sang bên, thậm chí vài người còn xuống xe đạp, dắt sang bên kia đường để tránh phải đối mặt với nó.
Đi sau con quái vật ấy khiến cho Nakata có cảm giác là mọi người tránh xa mình. Có thể họ nghĩ là lão dắt chó đi dạo mà không cần dây xích. Và quả thật, một số người bắn vào lão những tia nhìn trách móc. Điều đó làm cho lão buồn. Tôi làm thế không phải vì tôi muốn thế, lão những muốn phân trần với họ, Nakata này đang bị con chó này dắt đi. Nakata này không phải là một người mạnh, mà là một kẻ yếu.
Lão đi cách con chó một quãng xa. Cả hai qua mấy ngã tư và ra khỏi khu phố buôn bán. Con chó phớt lờ đèn tín hiệu giao thông ở các ngã tư. Đường phố không rộng lắm, xe cộ chạy không nhanh, nên qua đường khi đang đèn đỏ cũng chẳng mấy nguy hiểm. Các lái xe dận phanh gấp khi thấy con vật to đùng ấy trước mũi xe. Còn nó thì nhe nanh, nhìn chòng chọc vào người tài xế và tiếp tục lững thững qua đường với vẻ thách thức. Nakata cảm thấy rõ con chó thừa biết đèn giao thông có nghĩa là thế nào, nhưng nó cố tình phớt lờ đi. Con vật này đã quen thói chỉ làm theo ý mình.
Nakata không còn biết mình đang ở đâu nữa. Lúc đi ngang qua một khu nhà ở thì lão nhận ra nơi đó thuộc quận Nakano quen thuộc, nhưng rồi khi rẽ vào một phố khác thì lão mù tịt. Nakata cảm thấy lo lo. Ngộ nhỡ lạc và không tìm thấy đường về thì lão biết làm sao đây? Lão biết là đây không còn là địa bàn quận Nakano nữa. Lão vươn cổ cò, cố tìm những điểm mốc quen thuộc, nhưng chẳng thấy. Đây là một khu phố lão chưa từng đặt chân tới.
Tỉnh bơ, con chó vẫn đi tiếp, giữ một nhịp mà nó biết Nakata có thể theo kịp, đầu cất cao, tai vểnh, hai hòn dái lủng lẳng như cái quả lắc đồng hồ.
“Này, đây có còn là quận Nakano không?” Nakata
Con chó không trả lời, cũng chẳng buồn ngoảnh lại.
“Cậu làm việc cho ông tỉnh trưởng phải không?”
Vẫn không có câu trả lời.
“Nakata này chỉ muốn tìm một con mèo lạc thôi. Một con mèo mai rùa, tên là Goma.”
Vô công.
Chẳng ăn thua gì và lão thôi không hỏi nữa.
Đến một khu cư xá yên tĩnh, nhiều nhà to nhưng không người qua lại, con chó mạnh bạo đi qua hai cánh cửa mở của một cái cổng lớn kiểu cổ dẫn vào một ngôi nhà có tường đá cũ bao quanh. Một chiếc xe hơi lớn đậu ở một ga-ra trống – nó cũng to và đen bóng như con chó. Cửa trước của ngôi nhà cũng mở. con chó vào thẳng bên trong, không chút do dự. trước khi bước vào theo, Nakata cởi đôi giầy vải cũ, xếp gọn gàng bên ngoài cửa, nhét cái mũ giang hồ vào bị và phủi những lá cỏ bám trên quần. con chó đứng đấy, chờ Nakata sửa lại y phục cho chỉnh tề rồi theo một hành lang lát gỗ bóng loáng dẫn lão đến một nơi có vẻ là phòng khách hay thư viện.
Căn phòng tối om. Mặt trời đã sắp lặn hẳn, tấm rèm dày nặng ở cửa sổ nhìn ra vườn đã kéo lại. Không có ngọn đèn nào bật sáng. Ở cuối phòng là một bàn giấy lớn và hình như có ai ngồi cạnh đó. Nakata biết mình phải đợi cho quen mắt mới nói chắc được, còn lúc này chỉ thấy vật vờ một bóng đen giống như hình cắt giấy thôi. Khi Nakata vào trong phòng, cái bóng, ngồi trên một chiếc ghế xoay – từ từ quay lại phía lão. Nhiệm vụ đã hoàn thành, con chó dừng lại, nằm phịch xuống sàn, nhắm mắt lại.
“Xin chào,” Nakata nói với cái bóng đen.
Người kia không nói gì
“Tên tôi là Nakata, xin lỗi vì đã quấy rầy, nhưng không phải là tôi đột nhập.”
Vẫn không thấy trả lời.
“Con chó này bảo tôi đi theo nó, cho nên tôi tới đây. Xin thứ lỗi, nhưng tại con chó cứ xồng xộc vào, và tôi vào theo nó. Nếu ngài cho phép thì tôi xin đi ngay thôi.”
“Hãy ngồi vào chiếc ghế kia nếu bác muốn,” người kia nói, giọng nhỏ nhẹ nhưng hách dịch.
“Vâng, tôi xin ngồi,” Nakata nói và ngồi xuống chiếc ghế bành. Ngay cạnh lão, con chó nằm im như một pho tượng. “Ngài có phải là tỉnh trưởng không ạ?”
“Đại khái thế,” người kia nói từ trong bóng tối. “Nếu nghĩ vậy làm bác thấy thoải mái hơn thì cứ việc tin là thế đi. Cái đó không quan trọng.”
Y xoay người, kéo một sợi dây để bật một ngọn đèn sàn. Một ánh sáng vàng, kiểu đèn thời cổ, yếu ớt nhưng vừa đủ cho căn phòng.
Trước mặt lão là một người đàn ông cao, gầy, đội một cái mũ lụa màu đen. Y ngồi trên một chiếc ghế xoay bọc da, hai chân bắt tréo trước mặt. Y mặc một cái áo đuôi tôm màu đỏ vừa khít bên ngoài một chiếc vest đen, một chiếc quần trắng như tuyết bó sát và đi ủng àu đen. Một tay y đưa lên vành mũ như đang lễ phép ngả mũ chào một công nương. Tay trái y cầm một chiếc can màu đen với núm đầu dát vàng. Nhìn chiếc mũ, Nakata chợt nghĩ: đây hẳn là kẻ bắt mèo.
Nét mặt người này không đến nỗi dị thường như trang phục của y. cách nào đó, y là một thứ trung dung – giữa trẻ và già, giữa đẹp và xấu. lông mày rậm và sắc, má hồng hào, mặt nhẵn thín không chút râu ria. Bên dưới đôi mắt him him, một nụ cười lạnh lùng phảng phất trên môi y. một loại mặt khó nhớ, t là vì trang phục kỳ dị của y mới chính là cái bắt mắt. hẳn là người ta sẽ không nhận ra y trong một bộ đồ khác.
“Bác biết tôi là ai chứ?”
“Không, thưa ngài,” Nakata nói.
Y có vẻ hơi chưng hửng.
“Có chắc không?”
“Chắc ạ. Tôi quên không thưa rằng Nakata này chẳng thông minh sáng láng gì.”
“Bác chưa từng gặp tôi bao giờ ư” y đứng dậy khỏi ghế, đến cạnh Nakata, một chân nhấc lên như kiểu đang bước đi. “Không gợi nhớ chút gì ư?”
“Không, xin lỗi, tôi không sao nhận ra ngài.”
“Tôi hiểu. Vậy có lẽ bác không phải là dân nghiện whisky.”
“Đúng thế. Nakata này không uống rượu cũng không hút thuốc. Tôi nghèo, sống nhờ chợ cấp, lấy đâu ra tiền mà rượu chè.”
Người kia ngồi trở lại, hai chân bắt tréo. Y nhấc một chiếc ly trên bàn, tợp một ngụm whisky. Những cục đá lanh canh trong ly. “Vô phép bác.”
“Không dám. Xin ngài cứ tự nhiên.”
“Cám ơn,” y nói, mắt đăm đăm dõi vào Nakata. “Vậy bác thực sự không biết tôi là ai?”
“Xin lỗi, nhưng quả tình tôi không biết.”
Người kia khẽ nhếch môi. Trong một thoáng nụ cười lạnh lùng hiện trên môi y như một gợn sóng làm nhăn mặt nước, biến mất rồi lại hiện lên. “Bất cứ ai khoái whisky ắt sẽ nhận ra tôi ngay lập tức, nhưng không sao. Tên tôi là Johnnie Walker. Johnnie Walker. Hầu như mọi người đều biết tôi. Không phải khoe, chứ tôi nổi tiếng khắp thế giới. Có thể nói là một gương mặt biểu tượng. Tất nhiên tôi không phải là Johnnie Walker thật. Tôi chẳng có liên quan gì với cái công ty sản xuất rượu ấy của nước Anh. Tôi chỉ mượn cái mã ngoài và tên của ông ta thôi. Con người ta phải có tên, cái mã chứ, đúng không?”
Im lặng bao trùm căn phòng, Nakata không hiểu người kia nói những gì, điều duy nhất lão nắm được là cái tên Johnnie Walker.
“Thưa ngài Johnnie Walker; ngài có phải là người ngoại quốc không ạ?”
Johnnie Walker nghiêng đầu. “Nếu nghĩ vậy khiến bác thoải mái thì xin cứ tin là thế. Hoặc không phải là thế. Bởi vì cả hai đằng đều đúng.”
Nakata hoang mang. Khác nào nói chuyện với con mèo Kawamura. “Vậy ngài vừa là người ngoại quốc, vừa không phải là người ngoại quốc. Có phải ngài muốn nói thế không?”
“Chính xác.”
Nakata không tiếp tục hỏi sâu về điểm đó nữa. “Vậy có phải ngài sai con chó này dẫn tôi đến đây không?”
“Phải,” Johnnie Walker trả lời gọn lỏn.
“Có nghĩa là… ngài có điều muốn hỏi tôi?”
“Đúng hơn là, bác có điều cần hỏi tôi,” Johnnie Walker đáp rôi nhấp một ngụm whisky nữa. “Theo tôi hiểu, bác đã trực ở cái bãi trống ấy nhiều ngày, chờ tôi xuất hiện.”
“Vâng, đúng thế. Tôi quên bẵng mất! Nakata này chẳng thông minh sáng láng gì và mau quên lắm. Đúng như ngài nói, tôi đã chờ ngài ở bãi đất trống ấy để hỏi về một con mèo mất tích.”
Johnnie Walker đập đập chiếc can đen vào cạnh chiếc ủng, tiếng bồm bộp khô khốc vang lên trong phòng, làm con chó khẽ ngọ nguậy đôi tai. “Mặt trời đang lặn, thủy triều đang xuống. Vậy tại sao ta không đi thẳng vào vấn đề,” Johnnie Walker nói. “Bác muốn gặp tôi vì con mèo ấy?”
“Vâng, đúng thế. Bà Koizumi nhờ Nakata này tìm nó. Và trong khoảng mười ngày qua, tôi đã tìm Goma khắp nơi. Ngài có biết Goma không?”
“Tôi biết nó rất rõ.”
“Và ngài có biết liệu nó đang ở đâu không?”
“Quả là tôi có biết.”
Môi hơi hé, Nakata dán mắt vào cái mũ lụa rồi nhìn xuống bộ mặt bên dưới. Đôi môi mỏng của Johnnie Walker mím chặt với vẻ tự tin.
“Nó có ở gần đây không?”
Johnnie Walker gật đầu mấy cái liền. “Có, rất gần.”
Nakata nhìn quanh phòng, nhưng chẳng thấy con mèo nào. Chỉ có cái bàn giấy, cái ghế xoay Johnnie Walker đang ngồi, cái ghế bành chính lão đang ngồi, hai cái ghế tựa khác, ngọn đèn sàn và một bàn cà phê. “Vậy tôi có thể mang con Goma về được không?” Nakata hỏi.
“Điều đó hoàn toàn tùy thuộc ở bác.”
“Tùy thuộc ở Nakata này?”
“Đúng. Tất cả tùy thuộc ở bác,” Johnnie Walker nói, một bên lông mày hơi nhướn lên. “Nếu bác quyết định làm theo yêu cầu, bác có thể mang Goma về nhà và làm cho Koizumi cùng các con gái bà ta sung sướng. Hoặc là bác sẽ chẳng bao giờ mang được nó về và do đó làm tan nát trái tim họ. Tôi đoán bác không muốn làm thế.”
“Không. Nakata này
“Tôi cũng vậy. Tôi cũng không muốn làm họ thất vọng.”
“Vậy tôi phải làm gì?”
Johnnie Walker xoay xoay chiếc can. “Tôi muốn bác làm cho tôi một việc.”
“Liệu Nakata này có làm nổi không?”
“Tôi không bao giờ yêu cầu điều bất khả thi. Làm thế chỉ tổ mất thì giờ, bác đồng ý không?”
Nakata nghĩ một lát. “Tôi đồ là thế.”
“Có nghĩa, điều tôi yêu cầu là một việc bác có thể làm được.”
Nakata lại ngẫm nghĩ. “Vâng, có lẽ là thế.”
“Thông thường, mọi luận thuyết đều có phản chứng.”
“Tôi không hiểu,” Nakata nói.
“Mỗi luận thuyết đều có phản chứng – nếu không, khoa học không thể tiến bộ được,” Johnnie Walker nói lại đập can vào ủng với vẻ thách thức. con chó lại vểnh tai lên. “Dứt khoát không thể tiến bộ được.”
Nakata im lặng.
“Nói thật tình, từ lâu tôi đã tìm kiếm một người như bác,” Johnnie Walker nói. “Nhưng không dễ gì kiếm được đúng người. Tuy nhiên, hôm nọ, tôi trông thấy bác nói chuyện với một con mèo và tôi chợt nhận ra: đây đích thị là người mình đang tìm. Chính vì thế mà tôi đã cho rước bác đến tận đây. Tôi cảm thấy áy náy để bác phải vất vả, tuy nhiên…”
“Đâu có vất vả gì, Nakata này có ối thì giờ rảnh rỗi mà.”
“Tôi đã chuẩn bị vài luận thuyết về bác,” Johnnie Walker nói. “Và dĩ nhiên là kèm theo nhiều phản chứng. Nó giống như một cuộc chơi. Phải, tôi chơi một trò chơi tinh thần. Nhưng đã chơi thì phải có bên thắng, bên thua. Trong trường hợp cụ thể này, sự thắng, thua sẽ xác định luận thuyết nào đúng, luận thuyết nào trật. Nhưng tôi nghĩ là bác không hiểu tôi đang nói gì.”
Nakata lặng lẽ gật đầu.
Johnnie Walker đập chiếc can vào ủng hai cái, hiệu lệnh cho con chó đứng dậy.