Kafka bên bờ biển

Chương 17-18


Bạn đang đọc Kafka bên bờ biển: Chương 17-18

Chương 17
Đây là đêm thứ ba của tôi ở căn nhà gỗ này. Mỗi ngày qua đi, tôi lại quen hơn với im lặng và bóng tối thăm thẳm. Ban đêm không làm tôi sợ nữa, ít nhất cũng thôi làm tôi chết khiếp. Tôi chất củi đầy bếp lò, ngồi trấn trước đó và đọc. Khi nào mệt, tôi chỉ ngồi thần ra, trân trân nhìn lửa cháy. Tôi không bao giờ chán nhìn lửa. Những ngọn lửa đủ các hình dạng và màu sắc, chuyển động linh hoạt như những vật sống – chúng sinh ra, tụ lại, rời nhau và chết.
Khi trời quang mây, tôi ra ngoài, nhìn lên bầu trời. Những ngôi sao không đem lại cho tôi cảm giác bất lực như trước nữa và tôi bắt đầu cảm thấy gần gũi chúng. Mỗi ngôi sao phát ra ánh sáng đặc biệt của riêng mình. Tôi nhận ra một số ngôi và quan sát chúng lấp lánh trong đêm. Thi thoảng, chúng bùng sáng hơn như thể chợt nhớ ra điều gì. Vầng trăng treo lơ lửng, trắng và sáng vằng vặc; nếu nhìn kỹ, dường như tôi có thể nhận thấy địa hình lởm chởm trên bề mặt. Tôi chẳng bận óc nghĩ suy gì mạch lạc, chỉ ngây ngất ngắm bầu trời.
Không nghe nhạc được vì máy hết pin không phải là một thiếu vắng trầm trọng như tôi đã tưởng. Có biết bao âm thanh khác thay thế nó – tiếng chim líu lo, tiếng kêu của đủ loại côn trùng, tiếng róc rách của con suối, tiếng lá xào xạc. Mưa rơi, một vật gì trườn trên mái lều, đôi khi một tiếng động bí ẩn không tả nổi. Trước đây, tôi không hề biết thế giới lại đầy những âm thanh tự nhiên đẹp và nhiều đến thế. Cả đời, cho đến tận bây giờ, tôi đã bỏ qua chúng. Tôi ngồi ngoài hiên hàng giờ, mắt nhắm nghiền, không động đậy, lắng nghe không bỏ sót tiếng động nào quanh mình.
Rừng cũng thôi không làm tôi sợ đến độ khiếp vía như trước và tôi đã bắt đầu cảm thấy hồ như gần gũi với nó,ậm chí kính trọng nữa. Tuy nhiên, tôi không mạo hiểm quá xa căn nhà gỗ và chỉ đi theo con đường mòn sẵn có mà thôi. Chừng nào tôi tuân thủ những quy tắc đó, sẽ không có bất trắc gì quá đáng. Đó là điều quan trọng – hãy tuân thủ các quy tắc, rừng sẽ lặng lẽ chấp nhận anh, chia sẻ với anh phần nào sự yên bình và nét đẹp của nó. Nhưng nếu vượt qua ranh giới, những con thú rình núp trong im lặng sẽ chộp gọn anh trong những móng sắc như dao của chúng.
Tôi thường nằm dài trong khoảng trống nhỏ hình tròn, để cho nắng tãi lên khắp người. Mắt nhắm nghiền, tôi thả mình cho nắng mơn man, tai dỏng lên đón tiếng gió rít qua các ngọn cây. Bao bọc trong hương rừng đằm ngát, tôi lắng nghe tiếng chim vỗ cánh, tiếng lá dương xỉ lao xao. Tôi thoát khỏi trọng lực, bồng bềnh bên trên mặt đất (chút xíu thôi) và trôi trong không trung. Tất nhiên, trạng thái này không kéo dài. Đó chỉ là một cảm giác thoáng qua – mở mắt ra là nó tan biến. Dẫu sao, đó vẫn là một trải nghiệm ngây ngất: có thể trôi bồng bềnh trên không.
Có đôi ba lần mưa to nhưng không kéo dài, và lần nào tôi cũng trần truồng lao ra tắm mưa. Đôi khi tập vã mồ hôi, tôi cởi quần áo, tắm nắng ngoài hiên. Tôi uống rất nhiều trà, tập trung vào đọc sách, khi ngồi ngoài hiên, lúc bên bếp lò. Đọc đủ các loại: lịch sử, khoa học, truyện dân gian, huyền thoại, xã hội học, tâm lý học, cả Shakespeare nữa… Thay vì ngốn thẳng một mạch đến hết, tôi thường đọc đi đọc lại những đoạn tôi nghĩ là quan trọng nhất kỳ cho đến khi thật hiểu để từ đó thu hoạch được một cái gì cụ thể. Từng tí một, đủ các loại kiến thức thẩm thấu vào óc tôi. Tôi nghĩ giá có thể ở lại đây bao lâu tùy thích thì tuyệt biết mấy. Có bao nhiêu là sách trên các giá mà tôi muốn đọc và đồ ăn thức uống thì vẫn còn ê hề. Nhưng tôi biết đây chỉ là nơi tạm trú, chẳng bao lâu sẽ phải rời đi. Chốn này thật quá yên tĩnh, quá tự nhiên, quá hoàn hảo. Tôi không xứng đáng với nó. Ít nhất là chưa phải bây giờ.
Đến ngày thứ tư, Oshima xuất hiện vào cuối buổi sáng. Tôi nằm ườn trên ghế ngoài hiên, trần truồng, lơ mở ngủ dưới nắng nên không nghe thấy anh tới. Tôi không nghe thấy tiếng xe của anh. Vai khoác ba lô, anh bước đi trên con đường dẫn tới đây. Anh lặng lẽ bước lên các bậc thềm, chìa tay ra và khẽ xoa đầu tôi. Giật mình, tôi chồm dậy và cuống quít quờ tay tìm một chiếc khăn để che thân, nhưng không có cái nào trong tầm tay.
“Đừng ngại,” Oshima nói. “Hồi mình ở đây, mình vẫn trần truồng tắm nắng thường xuyên. Phơi những chỗ kín ra ánh mặt trời là một cảm giác thật dễ chịu.”
Trần như nhộng trước mặt anh, tôi cảm thấy trơ trẽn với cả bộ tam sự xồm xoàm lông lá phô ra. Tôi không biết nên làm gì. Đã quá muộn để che đậy.
“À anh,” tôi nói, cố lấy giọng thản nhiên. “Anh leo bộ lên à?”
“Trời hôm nay đẹp quá nên mình quyết định để xe ở dưới cổng,” anh với một chiếc khăn vắt trên lan can, đưa cho tôi. Tôi quấn nó quanh mình và cuối cùng mới cảm thấy đỡ ngượng.
Anh vừa nấu nước vừa hát nho nhỏ, rồi lấy bột, trứng và sữa từ ba lô ra, đánh lộn lên làm bánh kếp, rồi láng bơ và xi-rô lên chốc. Rồi anh lôi ra nào rau diếp, nào cà chua, nào hành, dùng dao bếp thái nhỏ tất cả rất cẩn thận để làm món nộm. Đó là bữa trưa của chúng tôi.
“Vậy cậu thấy thế nào qua ba ngày ở đây?” anh hỏi, tay cắt bánh kếp.
Tôi kể với anh về những giờ khắc tuyệt vời tôi đã sống ở đây. Tôi bỏ qua đoạn đi vào rừng: tốt hơn là đừng nhắc đến chuyện đó.
“Mình lấy làm mừng,” Oshima nói. “Mình đã hy vọng nơi này sẽ làm cậu thích
“Nhưng chúng ta sẽ quay về thành phố bây giờ, phải không?”
“Phải. Đã đến lúc trở về rồi.”
Chuẩn bị sẵn sàng để lên đường, chúng tôi nhanh chóng dọn dẹp mọi thứ trong lều. Rửa bát đĩa, xếp lên giá, lau chùi bếp lò, đổ nước trong xô, đóng van bình ga, cho những đồ ăn để lâu được vào chạn, còn bao nhiêu vứt đi, quét sàn, lau bàn ghế, đào một cái hố bên ngoài lều để vùi rác.
Trong khi Oshima khóa cửa, tôi quay lại nhìn căn lều một lần cuối. Một phút trước, tôi còn cảm thấy nó rất thật, nhưng giờ đây nó lại có vẻ hư ảo. Chỉ vài bước thôi là đủ cho tất cả những gì gắn liền với nó mất hết tính chất thực tại. Và tôi – người đã từng ở đấy cho tới giây phút trước – lúc này tôi cảm thấy chính mình cũng hư ảo nốt. Từ đây đến chỗ Oshima đậu xe, đi bộ mất ba mươi phút và trên đường xuống núi, chúng tôi hầu như không trao đổi với nhau một lời nào. Oshima âm ư một giai điệu, còn tôi để mặc tâm trí phiêu diêu.
Dưới chân núi, chiếc xe thể thao nhỏ màu xanh quyện lẫn vào nền cây lá của rừng. Oshima đóng cổng chính để ngăn người lạ đột nhập vào, quấn hai vòng xích và bấm ống khóa móc. Như lần trước, tôi cột chiếc ba lô vào giá để hành lý đằng sau xe. Mui xe đã hạ sẵn.
“Về thành phố,” Oshima nói.
Tôi gật đầu.
“Mình dám chắc cậu khoái sống một mình với thiên nhiên như thế, nhưng thật không dễ gì sống ở nơi đó một thời gian dài,” Oshima nói. Anh đeo kính râm và thắt dây an toàn.
Tôi ngồi xuống cạnh anh và dây an toàn.
“Về lý thuyết thì không phải không thể sống như thế và cố nhiên đã có những người làm thế. Nhưng trên thực tế, cách nào đó, tự nhiên lại có phần phi tự nhiên. Và thư giãn có khi lại trở thành mối đe dọa thực sự. Phải từng trải và có chuẩn bị mới có thể thực sự sống được với những mâu thuẫn đó. Cho nên, tạm thời ta hẵng quay về thành phố cái đã. Trở về với văn minh.”
Oshima dận ga và xe bắt đầu xuống núi. Lần này, anh không vội và lái nhẩn nha, vừa đi vừa ngắm cảnh và hóng gió thổi tung mái tóc. Hết đoạn đường đất, xe bắt đầu vào một đoạn đường nhựa hẹp, băng qua làng xóm, cánh đồng.
“Nhân nói đến mâu thuẫn,” Oshima đột nhiên nói, “hôm đầu tiên gặp cậu, mình đã cảm thấy một cái gì mâu thuẫn nơi cậu. Cậu đang tìm kiếm một cái gì, đồng thời lại chạy trốn cái đó bằng mọi giá.”
“Em đang tìm kiếm cái gì?”
Oshima lắc đầu. Anh liếc vào gương chiếu hậu và cau mày, “Mình chẳng biết. Mình chỉ nói rằng mình có cảm giác như thế thôi.”
Tôi không trả lời.
“Theo kinh nghiệm bản thân mình, khi ta có công tìm kiếm một cái gì thì chẳng mấy khi thấy được. Và khi ra sức trốn chạy một cái gì thì nó thường bắt kịp ta. Tất nhiên, mình chỉ khái quát hóa thôi.”
“Vậy nếu áp dụng vào trường hợp của em, thì điều gì sẽ xảy ra nếu như cùng một lúc, em vừa tìm kiếm vừa trốn tránh một điều gì?”
“Một câu hỏi hắc búa đấy,” Oshima mỉm cười. Một lát sau anh mới nói tiếp. “Nếu phải trả lời thì mình sẽ nói như sau: bất kể cậu đang tìm kiếm điều gì, nó cũng sẽ đến dưới dạng cậu chờ đợi.”
“Kiểu như một lời tiên đoán gở.”

“Như trong Cassandra.”
“Cassandra?”
“Một vở bi kịch Hy Lạp. Cassandra là công chúa thành Troy có tài tiên tri. Nàng vào đền làm nữ tu sĩ và được Apollo ban cho khả năng đoán trước số mệnh. Đổi lại, Apollo ép nàng ngủ với mình, nhưng nàng từ chối và vị thần đã hô thần chú ếm nàng. Các vị thần Hy Lạp mang nhiều tính chất huyền thoại hơn là tôn giáo. Nghĩa là họ cũng có những khuyết điểm giống như con người: cũng nổi nóng, cũng thèm khát tình dục, cũng ghen tuông, cũng lú lẫn, tật gì cũng có.”
Anh lấy từ hộc đựng găng một hộp kẹo chanh, bỏ một viên vào miệng. Anh ra dấu mời tôi và tôi cũng lấy một viên.
“Thần chú như thế nào?”
“Thần chú yểm Cassandra ấy à?”
Tôi gật đầu.
“Là mọi tiên đoán của nàng đều ứng, nhưng sẽ không có ai tin nàng cả. Hơn nữa, mọi tiên đoán ấy đều nhằm chuyện gở: phản bội, tai nạn, chết chóc, đất nước suy vong. Đại loại như thế. Người ta chẳng những không tin mà còn bắt đầu khinh ghét nàng. Nếu cậu chưa đọc kịch Euripdes và Aeschylus[15], thì mình khuyên cậu nên đọc đi. Tác phẩm của họ nêu nhiều vấn đề cốt tử mà thậm chí tới nay, chúng ta vẫn còn phải đương đầu. Thông qua các koros
“Koros là cái gì?”
“Đó là dàn đồng ca trong các bi kịch Hy Lạp. Họ đứng đằng sau sân khấu, đồng thanh giải thích các tình huống hoặc bình luận những diễn biến nội tâm nhân vật. Thậm chí đôi khi còn khuyên bảo nhân vật. Đó là một thủ pháp rất tiện lợi. Đôi khi mình ước sao có riêng một dàn đồng ca đứng đằng sau mình.”
“Anh có khả năng tiên tri không?”
“Mình đâu có cái may mắn ấy,” anh tủm tỉm cười. “Khốn thay – hay may thay – mình lại không có cái năng lực ấy. Nếu như mình có vẻ như luôn luôn tiên đoán những điều gở, đó là vì mình là một thằng thực dụng. Mình dùng phương pháp lập luận suy diễn để khái quát hóa, và mình đồ rằng kết quả suy luận của mình đoi khi nghe những dự báo điều chẳng lành. Cậu biết tại sao không? Bởi thực tại chỉ là sự tích tụ của những dự báo gở trở thành hiện thực. Cậu chỉ việc giở một tờ báo bất kỳ ngày nào ra và bắc lên bàn cân một bên là tin tốt và bên kia là tin xấu, cậu sẽ rõ mình muốn nói gì.”
Đến một vòng cua, Oshima đều thận trọng giảm tốc độ, sang số nhẹ như không. Chỉ nhận ra ở tiếng động cơ hơi thay đổi.
“Tuy nhiên, mình có một tin tốt cho cậu đây,” anh nói. “Chúng tôi đã quyết định nhận cậu. Cậu sẽ là một nhân viên của Thư viện Tưởng niệm Komura. Mình nghĩ cậu đủ tiêu chuẩn đấy.”
Bất giác tôi liếc nhìn anh. “Anh muốn nói là em sẽ làm việc ở thư viện?”
“Chính xác hơn, từ nay trở đi, cậu sẽ thuộc về thư viện. Cậu sẽ ở ngay trong thư viện, sống tại đó. Cậu sẽ mở cửa và đóng cửa thư viện đúng giờ quy định. Như mình đ trước đây, cậu có vẻ là người có kỷ luật tự giác và khá khỏe mạnh, nên mình nghĩ công việc sẽ không quá vất vả đối với cậu. Cả Miss Saeki lẫn mình về thể chất đều không khỏe lắm, có cậu thêm chân thêm tay, sẽ đỡ đần chúng mình rất nhiều. Ngoài ra, cậu sẽ chỉ giúp vào những công việc vặt hàng ngày thôi. Không có gì đáng kể đâu: pha cà phê ngon ình, đi mua sắm giúp bọn này. Chúng mình đã chuẩn bị một căn phòng ở khu nhà phụ của thư viện cho cậu. Đó trước là phòng của khách, nhưng không có khách nào nghỉ lại qua đêm, nên đã lâu không dùng đến. Cậu sẽ ở đó. Cậu có thể tắm vòi hoa sen ngay trong phòng. Điều hay nhất là cậu sẽ ở luôn trong thư viện, nên có thể đọc bất cứ cái gì cậu thích.”
“Nhưng tại sao…” tôi mở đầu nhưng không nói hết câu.
“Tại sao bọn mình làm thế chứ gì? Tất cả đều dựa trên một nguyên lý rất đơn giản. Mình hiểu cậu và Miss Saeki hiểu mình. Mình chấp nhận cậu, còn Miss Saeki chấp nhận mình. Cho nên mặc dù cậu là một thiếu niên mười lăm tuổi bỏ nhà và xa lạ, cũng không thành vấn đề. Vậy cậu nghĩ thế nào?”
Sau một lát suy nghĩ tôi nói: “Tất cả những gì em kiếm tìm là một mái nhà che đầu. Lúc này đây, chỉ có cái đó là quan trọng. Em không thật sự hiểu thuộc về thư viện nghĩa là thế nào, nhưng nếu nó có nghĩa là em có thể ở đấy, thì em rất hàm ơn. Ít nhất em cũng sẽ không phải đi đi lại lại hằng ngày bằng xe lửa nữa.”
“Vậy là ngã ngũ nhé,” Oshima nói. “Ta hãy đến thư viện. Để cậu có thể trở thành một bộ phận thuộc về nó.”
Chúng tôi theo xa lộ, qua một số thị trấn, qua một panô to tướng quảng cáo ột công ty tín dụng, một trạm xăng với những trang trí lòe loẹt, một cửa hàng ăn uống với những phòng kính, một khách sạn ái tình bắt chước kiểu một lâu châu u, một cửa hàng cho thuê băng video đã phế bỏ còn trơ lại tấm biển, một phòng chơi pachinko[16] với bãi đỗ xe rộng mênh mông, một cửa hàng McDonalds, những siêu thị 7-Eleven, Yoshinoya, Dennys… Thực tại ồn ào bắt đầu bắt đầu bao quanh chúng tôi. Tiếng rít phanh hơi của những xe tải mười tám bánh, tiếng còi, tiếng xả khí. Tất cả những thứ mới vừa đây còn gần gũi với tôi: ngọn lửa trong bếp lò, những vì sao lấp lánh, cái tĩnh lặng của khu rừng… giờ biến mất tăm; thậm chí tôi thấy khó mà hình dung ra chúng.
“Có một đôi điều cậu cần biết về Miss Saeki,” Oshima nói. “Hồi nhỏ mẹ mình và Miss Saeki là bạn cùng lớp, rất thân nhau. Mẹ mình kể rằng bà là một nữ sinh xuất sắc, luôn đạt điểm cao, thuộc loại giỏi trong môn tập làm văn, thể dục thể thao và còn chơi dương cầm rất hay nữa. Làm bất cứ cái gì, bà cũng nhất. Lại xinh đẹp nữa. Tất nhiên, bây giờ, bà vẫn còn là một phụ nữ kiều diễm.”
Tôi gật đầu.
“Khi còn ở tiểu học, Miss Saeki đã có đã có người yêu. Con trai lớn của gia đình Komura – trên thực tế là có họ xa. Hai người cùng tuổi, rất đẹp đôi, y như Romeo và Juliet vậy. Hai nhà ở gần nhau, họ luôn xoắn xuýt bên nhau không rời. Và khi đến tuổi trưởng thành, họ yêu nhau thật sự, cả thể xác lẫn tâm hồn hòa làm một. Ấy là theo lời mẹ mình.”
Chúng tôi dừng xe trước một đèn đỏ và Oshima ngước nhìn trời. Khi đèn bật xanh, anh dận ga và chúng tôi vượt một chiếc xe chở xăng. “Cậu có nhớ những gì mình nói với cậu ở thư viện không? Về chuyện con người ta cứ loanh quanh đi tìm cái nửa kia của mình ấy?”
“Cái đoạn đực/đực, cái/cái và đực/cái ấy à?”
“Phải. Những điều Aristophanuốt đời, chúng ta long đong lận đận đi tìm cái nửa kia của chúng ta một cách tuyệt vọng. Nhưng Miss Saeki và chàng trai của mình thì không phải làm thế. Họ sinh ra đã có cái nửa kia ngay trước mặt mình.”
“Họ thật may mắn.”
Oshima gật đầu. “Đúng vậy. Đến một mức độ nào đó.”
Anh đưa tay xoa xoa cằm như để kiểm tra xem cạo có tốt không. Không có vết dao cạo nào trên làn da nhẵn như sứ.
“Năm mười tám tuổi, chàng trai lên Tokyo để vào đại học. Chàng đạt điểm cao và muốn theo một chuyên khoa. Chàng cũng muốn được tận mắt thấy thủ đô to đẹp như thế nào. Nàng thì vào một trường đại học của tỉnh nhà, học chuyên khoa piano. Đây là một địa phương bảo thủ và nàng lại xuất thân từ một gia đình truyền thống chủ nghĩa. Nàng là con một, cha mẹ nàng không muốn để con gái đi Tokyo. Vậy là lần đầu tiên trong đời, hai người xa nhau. Cứ như Thượng đế đã tách đôi họ bằng một lưỡi dao vậy.”
“Dĩ nhiên là ngày nào họ cũng viết thư cho nhau. Có thể việc chúng mình thử xa nhau thế này lại là tốt cũng nên, chàng viết cho nàng. Như vậy, chúng mình có thể thực sự hiểu chúng mình cần cho nhau đến độ nào. Nhưng nàng không tin thế. Nàng biết họ gắn bó keo sơn với nhau đến mức không cần phải thử thách quan hệ đó bằng một cuộc phân ly. Mối cơ duyên của họ là tiền định, cả triệu mới có một, không thể chia lìa. Nàng tuyệt đối tin chắc thế. Nhưng chàng thì không. Hoặc có thể chàng cũng tin thế, nhưng không chịu chấp nhận. Thế là chàng cứ đi Tokyo, chàng nghĩ rằng vượt qua một số trở ngại sẽ càng củng cố thêm tình yêu của họ với nhau. Đàn ông đôi khi vốn thế.”
“Năm mười chín tuổi, Miss Saeki viết một bài thơ, tự phổ nhạc và vừa hát vừa đệm piano. Đó là một giai điệu đẹp, buồn và ngây thơ. Mặt khác, ca từ lại mang tính chất tượng trưng, đầy suy tưởng và trừu tượng. Sự tương phản ấy khiến cho bài hát có hồn và có sức truyền cảm trực tiếp. Tất nhiên, toàn bộ bài hát, cả nhạc lẫn lời, thể hiện nỗi buồn nhớ người yêu phương xa. Cô có hát ột số người nghe dăm ba lần. Bình thường cô là người nhút nhát, nhưng cô thích hát và thậm chí đã từng tham gia một ban nhạc dân gian ở trường đại học. Có người cảm kích với bài hát, đã thu một băng demo gửi ột người bạn là giám đốc một công ty thu băng đĩa. Ông này rất thích bài hát, bèn mời cô lên studio của họ ở Tokyo để thu.
“Đó là lần đầu tiên cô đến Tokyo và cô đã có dịp gặp người mình yêu. Tranh thủ thời gian giữa những buổi thu, họ có thể yêu nhau như xưa. Theo mẹ mình, họ đã có quan hệ tình dục từ hồi mười bốn tuổi. Cả hai đều sớm phát triển tính dục, và cũng như nhiều đứa trẻ phát triển tính dục, họ khó có thể thành người lớn. Cứ như là họ vĩnh viễn ở tuổi mười bốn, mười lăm vậy. Họ quấn quýt với nhau và lại có thể cảm thấy tình yêu của họ mãnh liệt đến nhường nào. Cả hai đều chưa bị bất cứ ai khác hấp dẫn. Ngay cả khi họ xa nhau, cũng không có ai khác xen vào giữa được. Xin lỗi… mình có làm cho cậu chán với câu chuyện tình cổ tích này không?”

Tôi lắc đầu. “Em có cảm giác là sắp đến một bước ngoặt.”
“Đúng,” Oshima nói. “Cái hay của các câu chuyện là ở chỗ đó – một bước ngoặt, một xoay chuyển tình thế bất ngờ. Hạnh phúc thì chỉ có một loại, nhưng bất hạnh thì đến dưới mọi dạng, mọi cỡ. Như Tolstoy đã nói: hạnh phúc là ngụ ngôn, bất hạnh là chuyện đời. Dù sao đi nữa, đĩa hát được tung ra thị trường và thành công lớn. Số đĩa bán được liên tục tăng – một triệu, hai triệu, mình không nhớ chắc con số chính xác. Bất kể thế nào, đó là một con số phá mọi kỉ lục của thời bấy giờ. Hình của cô in trên bìa đĩa, một hình chụp cô ngồi trước một chiếc piano cánh dơi trong studio, mỉm cười với ống kính.
“Vì cô chưa sáng tác bài hát nào khác nên mặt B của đĩa vẫn là bài đó dưới dạng khí nhạc – piano và dàn nhạc. Tất nhiên, phần piano do cô đảm nhiệm. Một cuộc trình diễn xuất sắc. Đó là vào khoảng năm 1970 gì đó. Hồi đó, từ trung ương đến địa phương, đài nào cũng phát đi phát lại bài ấy. Dạo ấy, mình chưa đẻ, nên mọi chuyện đều do mẹ mình kể lại. Đó là bài hát duy nhất của cô với tư cách là ca sĩ chuyên nghiệp. Cô không cho ra thêm đĩa nào nữa.”
“Em không biết mình đã bao giờ nghe bài hát này chưa.”
“Cậu có hay nghe đài không?”
Tôi lắc đầu. Tôi hầu như không bao giờ nghe đài.
“Vậy thì chắc là cậu chưa bao giờ nghe bài hát ấy. Trừ phi trong một chương trình hồi cố. Nhưng đó là một bài hát tuyệt vời. Mình có bài ấy trong một đĩa CD và thỉnh thoảng vẫn nghe lại. Tất nhiên là vào những lúc không có mặt Miss Saeki. Bà ghét mọi thứ gợi nhớ đến nó. Bà không thích ai gợi lại quá khứ.”
“Tên bài hát là gì?”
“Kafka bên bờ biển.” Oshima nói.
“Kafka bên bờ biển?”
“Phải, Kafka Tamura. Cùng tên với cậu. Một sự trùng hợp kỳ lạ, phải không?”
“Nhưng Kafka không phải là tên thật của em. Tuy nhiên, Tamura thì đúng là họ của em.”
“Nhưng chính cậu đã chọn cái tên Kafk
Tôi gật đầu. Tôi đã quyết định từ lâu rằng đó sẽ là cái tên phù hợp với con người mới của tôi.
“Mình nghĩ đó là điểm mấu chốt đấy,” Oshima nói.
Người yêu của Saeki chết năm hai mươi tuổi. Oshima kể tiếp. Đúng vào lúc Kafka bên bờ biển trở thành một “hit”[17]. Trường đại học của anh bãi khóa trong thời kỳ sinh viên nổi loạn và phải đóng cửa. Một đêm, vào khoảng trước mười giờ, anh mang đồ tiếp tế đến ột người bạn ở chiến lũy. Các sinh viên chiếm giữ trường tưởng lầm anh là thủ lĩnh của nhóm đối lập (quả la rất giống người đó), liền bắt anh, trói vào một cái ghế và tra hỏi anh như tra hỏi một tên gián điệp. Anh cố giải thích rằng họ đã lầm, nhưng mỗi lần anh mở miệng, họ lại quát anh bằng một cây gậy hoặc một cái ống bằng thép. Khi anh gục xuống sàn, họ vẫn dùng ủng đá anh túi bụi. Anh chết vào lúc rạng sáng. Sọ hõm sâu, xương sườn gãy nát, rách cả hai lá phổi. Họ vứt xác anh ra ngoài phố như một con chó chết. Hai ngày sau, theo yêu cầu của nhà trường, lực lượng vệ binh quốc gia tới và trong vòng vài giờ, dẹp xong cuộc dấy loạn. Nhiều sinh viên bị bắt và kết tội giết người. Họ nhận tội và bị đưa ra xét xử. Nhưng vì đó không phải là hành động có mưu tính trước, nên hai trong số bọn họ bị khép tội giết người không chủ định và chỉ chịu án tù ngắn hạn. Thành thử cái chết của anh hoàn toàn vô nghĩa.
Saeki thôi hẳn không bao giờ hát nữa. Cô giam mình trong phòng và không muốn trò chuyện với ai, kể cả qua điện thoại. Cô không đến dự đám tang của anh và bỏ học luôn. Sau vài tháng, người ta đột nhiên nhận ra rằng cô không còn ở thành phố nữa. Không ai biết cô đi đâu hoặc làm gì. Cha mẹ cô từ chối không muốn nói đến chuyện này. Có lẽ họ cũng không biết cô đang ở đâu. Cô biến mất tăm. Ngay cả bạn thân nhất của cô, mẹ Oshima, cũng không nắm được manh mối nào. Người ta đồn rằng sau một lần tự tử không thành trong rừng sâu gần núi Fuji, cô đã được đưa vào một bệnh viện tâm thần. Một số người khác lại nói một người bạn của bạn họ đã trông thấy cô trên đường phố Tokyo. Theo người này, cô đã trở thành nhà văn hay gì gì đó ở Tokyo. Lại có tin đồn khác là cô đã lấy chồng và có một con. Tuy nhiên, tất cả những tin đó đều vô căn cứ, không có gì làm bằng. Hai mươi lăm năm[4] trôi qua.
Bất kể trong suốt thời gian ấy cô ở đâu hay làm gì, Saeki cũng không gặp khó khăn về tiền nong. Tiền tác quyền của về Kafka bên bờ biển được đưa vào một tài khoản ngân hàng và ngay cả sau khi nộp thuế vẫn còn lại một con số đáng kể. Mỗi lần bài hát được phát trên đài hay được đưa vào một chương trình hồi cố, cô đều được hưởng tác quyền. Cho nên cô có thể dễ dàng sống ẩn dật, xa hẳn chốn phồn hoa đô hội. Phải chăng, gia đình cô giàu có và cô lại là con một.
Đột nhiên, hai mươi lăm năm qua, Miss Saeki xuất hiện trở lại ở Takamatsu. Lý do bề ngoài là về chịu tang mẹ. (Cha bà đã mất năm năm trước đó, song bà đâu có về.) Bà làm một lễ cầu siêu nhỏ ẹ, rồi sau khi mọi chuyện êm xuôi, bán ngôi nhà nơi bà ra đời và lớn lên. Bà mua một căn hộ ở một khu yên tĩnh trong thành phố và dường như muốn định cư hẳn ở đó. Sau đó một thời gian, bà đã có những cuộc nói chuyện với gia đình Komura (Sau cái chết của người con trai cả, ý trung nhân của Saeki, chủ gia đình là người em trai kém anh ba tuổi. Không ai biết đích xác họ bàn với nhau những gì trong các cuộc nói chuyện tay đôi). Kết quả là Miss Saeki trở thành người đứng đầu Thư viện Komura.
Ngay cả giờ đây, bà vẫn mảnh dẻ, vẫn đẹp và vẫn có cái dáng vẻ thông minh, nền nã như ta thấy trên bìa bọc đĩa Kafka bên bờ biển. Duy chỉ thiếu nụ cười đẹp tươi, ngây thơ. Đành rằng thi thoảng bà vẫn mỉm cười, một nụ cười thật duyên dáng nhưng chỉ thoáng qua không bao giờ đậu lại. Một bức tường cao vô hình rào quanh bà, khiến mọi người phải đứng cách một sải tay. Sáng sáng bà lái chiếc Volkswagen Golf xám đến thư viện và tối lại lái về.
Trở về thành phố quê hương, Miss Saeki rất ít đi lại với bà con, bạn bè cũ… Nếu tình cờ gặp nhau, bà lịch sự tiếp chuyện, nhưng hiếm khi đi quá một vài đề tài vô thưởng vô phạt. Nếu thảng hoặc đụng chạm đến chuyện quá khứ, nhất là lại liên quan đến bản thân, lập tức bà khéo léo lái sang chuyện khác. Bà bao giờ cũng lịch sự, hòa nhã, nhưng lời lẽ không còn cái tò mò, háo hức thủa xưa. Tình cảm đích thực của bà – ví như điều đó vẫn còn – ẩn sâu tận đáy lòng. Trừ trường hợp cần có quyết định về một vấn đề thiết thực, bà không bao giờ phát biểu ý kiến cá nhân về bất cứ điều gì. Bà ít khi nói về bản thân mình, mà thường lắng nghe người khác nói và nhiệt thành gật đầu tán thưởng. Nhưng nhiều người đã bắt đầu cảm thấy không thoải mái khi nói chuyện với bà, như thể họ ngờ ngợ rằng mình đang làm phí thì giờ của bà, đột nhập vào thế giới riêng tư phong nhã và trang nghiêm của bà. Và về cơ bản, cảm giác ấy là đúng.
Vậy là ngay cả khi trở về định cư ở thành phố quê hương, bà vẫn là một ẩn số. Một phụ nữ phong nhã với một màn bí mật tinh tế bao quanh. Có một cái gì nơi bà khiến người ta khó tiếp cận. Ngay cả gia đình Komura, trên danh nghĩa là chủ của bà, cũng giữ một khoảng cách.
Cuối cùng, Oshima được tuyển vào làm việc ở thư viện và trở thành trợ lý của bà. Dạo ấy Oshima đã thôi học nhưng chưa đi làm, chỉ ở nhà đọc sách và nghe nhạc. Trừ một số người thường cùng anh trao đổi thư điện tử, Oshima hầu như không có bạn. Vì chứng bệnh máu không đông, anh mất khá nhiều thời gian đến khám chuyên khoa ở bệnh viện, hoặc dạo quanh thành phố trong chiếc Mazda Miata. Và trừ những lần khám định kỳ tại Bệnh viện Đại học ở Hiroshima và đôiần tới ở căn nhà gỗ trong vùng núi Kochi, anh không bao giờ ra khỏi thành phố. Chẳng phải là anh không bằng lòng với cuộc sống này. Một hôm, mẹ Oshima tình cờ giới thiệu anh với Miss Saeki và hai cô cháu lập tức quý mến nhau. Ý tưởng làm việc ở thư viện hấp dẫn Oshima. Chẳng bao lâu anh trở thành người duy nhất mà KS tiếp xúc hằng ngày và cùng trò chuyện.
“Nghe anh kể em có cảm giác như Miss Saeki trở về đây cốt để phụ trách thư viện,” tôi nói.
“Mình cũng nghĩ thế. Đám tang mẹ bà chỉ là cơ hội để bà trở về. Thành phố quê hương đầy những kỷ niệm chua xót, cho nên mình nghĩ việc trở về này hẳn là một quyết định khó khăn đối với bà.”
“Tại sao thư viện lại quan trọng đến thế với bà?”
“Người yêu của bà trước kia ở một căn nhà nằm trong khuôn viên thư viện. Ông là con cả trong gia đình Komura và vốn mê đọc sách từ trong máu. Ông thích sống một mình, đây cũng là một nét đặc trưng của gia đình. Cho nên lên trung học là ông nằng nặc đòi ở một căn tách biệt hẳn với ngôi nhà chính và hai cụ thân sinh chấp nhận. Cả gia đình đều mê đọc sách nên thông cảm với ý muốn của ông: nếu con muốn quanh mình toàn là sách thì cũng tốt thôi, đại loại các cụ nghĩ thế. Vậy là ông ở căn nhà phụ ấy một mình, không ai quấy rầy, chỉ quay về ngôi nhà chính vào những bữa ăn. Miss Saeki hầu như ngày nào cũng đến thăm ông ở đó. Hai người cùng học, cùng nghe nhạc và trò chuyện miên man. Và rất có thể là làm tình ở đó luôn. Nơi này là thiên đường riêng của họ.”
Cả hai tay đặt trên vô lăng, Oshima ngoái sang nhìn tôi. “Đó là nơi cậu sẽ ở, Kafka. Trong căn phòng ấy. Như mình đã nói, thư viện đã được tân trang, nhưng phòng đó vẫn để y nguyên.”
Tôi
“Cuộc đời Miss Saeki về cơ bản đã dừng lại ở tuổi hai mươi, khi người yêu của bà chết. Không, có lẽ không phải ở tuổi hai mươi, mà sớm hơn nhiều… Mình không rõ thật cụ thể, nhưng cậu cần biết điều này: những kim của chiếc đồng hồ chôn sâu trong lòng bà đã dừng lại vào thời điểm đó. Dĩ nhiên, thời gian bên ngoài vẫn tiếp tục trôi chảy, nhưng không tác động đến bà. Đối với bà, cái mà ta thường gọi là thời gian chẳng có nghĩa gì hết.”
“Không có nghĩa gì hết?”
Oshima gật đầu. “Như thể nó không hề tồn tại.”
“Anh muốn nói Miss Saeki hiện vẫn sống trong cái thời gian ngưng đọng ấy?”

“Chính xác. Nhưng không có nghĩa là bà là một thứ thi thể sống đâu. Khi nào cậu biết rõ hơn, cậu sẽ hiểu.”
Oshima đặt tay lên đầu gối tôi trong một cử chỉ hoàn toàn tự nhiên. “Kafka ạ, trong đời mỗi con người, đều có một điểm không-đường-trở-lui. Và trong một số rất ít trường hợp, lạ có một điểm không thể tiến thêm chút nào nữa. Và một khi ta tới điểm đó, ta chỉ còn một nước là lặng lẽ chấp nhận sự việc. Như thế mới tiếp tục sống được.”
Ngay trước lúc đi vào xa lộ chính, Oshima dừng xe, kéo mui lên và bỏ một đĩa xô-nát Schubert vào ổ CD.
“Còn một điều nữa mình muốn cậu nên biết,” Oshima nói thêm. “Miss Saeki có một trái tim bị thương. Thực ra, trong chừng mực nào đó, chúng ta đều thế, kể cả mình lẫn cậu. Nhưng ở Miss Saeki, đó là một vết thương cá nhân đặc biệt vượt quá cái nghĩa thông thường của từ ấy. Tâm hồn bà có những xáo động bí ẩn. Mình không nói bà là người nguy hiểm đừng hiểu sai ý mình. Thường ngày, bà xứng xử rất đúng mực, có lẽ còn chỉn chu hơn mọi người mình biết. Bà duyên dáng, sâu sắc, thông minh. Nhưng đừng lo lắng nếu thi thoảng cậu nhận thấy một điều gì kỳ dị ở bà.”
“Kỳ dị?” tôi không thể không hỏi.
Oshima lắc đầu. “Mình thực sự quý mến và kính trọng Miss Saeki. Mình dám chắc rồi đây cậu cũng sẽ chia sẻ những tình cảm ấy với mình.”
Đây không thực sự là một câu trả lời cho câu hỏi của tôi, song Oshima không nói thêm gì nữa. Anh sang số rất đúng lúc, dận ga và vượt một chiếc xe tải nhỏ trước khi đi vào một đường hầm.
Chương 18
Nakata tỉnh dậy thấy mình nằm ngửa trên một đám cỏ. Lão từ từ mở mắt. Đêm đã xuống, một đêm không trăng sao. Tuy nhiên, trời vẫn nhờ nhờ sáng. Lão ngửi thấy mùi cỏ mùa hè ngào ngạt và nghe thấy tiếng côn trùng ran ran xung quanh. Vẻ như lão đã trở về cái bãi hoang nơi lão đến thường phục hàng ngày. Cảm thấy có cái gì ram ráp, âm ấm cọ vào mặt, lão xoay đầu và thấy hai con mèo nồng nhiệt liếm cả hai má lão bằng cái lưỡi nhỏ xíu của chúng. Đó là Goma và Mimi. Lão chậm rãi ngồi dậy, đưa tay ra vuốt ve chúng. “Nakata này vừa ngủ phải không?”
Hai con mèo cùng kêu ra ý phàn nàn điều gì, nhưng Nakata không nắm rõ lời. Lão không hiểu chúng nói gì. Những gì lão nghe được chỉ là tiếng mèo kêu meo meo.
“Lão xin lỗi, nhưng lão không hiểu các bạn nói gì.” Lão đứng dậy và soát lại toàn thân cho chắc là không có gì bất bình thường. Lão không thấy đau ở chỗà chân tay vẫn cử động thoải mái. Mắt lão phải mất một lúc mới thích ứng được với bóng tối, nhưng một khi đã quen mắt, lão có thể thấy tay chân, quần áo mình không dính chút máu nào. Quần áo lão cũng không hề nhàu nát hay xộc xệch, nom vẫn chỉnh tề như lúc lão ra khỏi nhà. Cái bị vải bố đựng phích và suất ăn trưa ở ngay bên cạnh lão, và cái mũ trong túi quần, đúng chỗ của nó. Mọi thứ đều đâu vào đấy. Nakata không hình dung được điều gì đang diễn ra.
Để cứu hai con mèo lão đã đâm chết Johnnie Walker – kẻ hủy diệt mèo. Điều đó thì lão nhớ rất rõ. Lão vẫn có thể cảm thấy con dao trong tay mình. Đó không phải là một giấc mơ – máu đã phọt ra từ Johnnie Walker và y đã gục xuống sàn, nằm cong queo và chết. Nakata đã nằm vật trên sofa và bất tỉnh. Và điều tiếp theo lão biết là lão đang nằm đây giữa đám cỏ trong bãi trống này. Nhưng làm sao lão trở về đây được? Thậm chí lão không hề biết đường về. Và quần áo lão lại không hề dính tí máu nào. Việc Mimi và Goma ở bên cạnh lão chứng tỏ đó không phải là một giấc mơ, nhưng vì một lý do kỳ lạ nào đó, lão không hiểu một lời nào của chúng.
Nakata thở dài. Lão không thể nghĩ cho vỡ nhẽ. Nhưng không sao – rồi sau lão sẽ nghĩ ra thôi. Lão khoác bị lên vai, bế hai con mèo lên và rời khỏi bãi trống. Khi ra khỏi hàng rào, Mimi bắt đầu quẫy cựa như thể đòi được thả xuống.
Nakata thả nó xuống đất. “Mimi lão nghĩ cô có thể về nhà một mình được. Nhà cô gần đây mà.”
Đúng thế, cái đuôi vẫy vẫy của Mimi như muốn nói.
“Nakata này không hiểu chuyện gì đã xảy ra, nhưng vì một lý do nào đó, lão không nói chuyện với cô được nữa. Cơ mà lão đã tìm được Goma và tốt hơn hết là lão cứ mang cô ta về cho ông bà Koizumi đã. Cả nhà họ đang chờ. Cám ơn cô rất nhiều về mọi sự, Mimi.”
Mimi lại vẫy đuôi, kêu meo meo, rồi chạy đi và biến mất ở góc đường. Trên người nó cũng không có vết máu nào. Nakata quyết định phải ghi nhớ chi tiết này.
Gia đình Koizumi quá đỗi vui mừng với sự trở về của Goma. Đã hơn mười giờ đêm nhưng bọn trẻ vẫn còn thức, đang đánh răng trước khi đi ngủ. Bố mẹ chúng đang uống trà và xem tin tức trên tivi. Họ nồng nhiệt chào đón Nakata. Hai đứa con gái vận đồ ngủ tranh nhau ôm ấp con vật yêu quý và hối hả lấy sữa cùng thức ăn của mèo cho Goma. Nó vồ lấy ăn ngon lành.
“Lão xin lỗi đã đến vào lúc đêm hôm khuya khoắt thế này. Nakata này muốn đến sớm hơn, nhưng không thể.”
“Không sao,” bà Koizumi nói. “Xin bác đừng ngại chuyện ấy.”
“Bác đừng lo chuyện giờ giấc,” ông chồng nói. “Con mèo này như một thành viên trong gia đình. Tôi không sao tả xiết nỗi vui mừng của chúng tôi vì bác tìm thấy nó. Bác vào nhà làm một chén trà nhé?”
“Không, cảm ơn. Nakata này phải đi đây. Lão chỉ muốn mang Goma về cho nhà ta càng sớm càng tốt thôi.”
Bà Koizumi sang một phòng khác và trở lại với số tiền công của Nakata bỏ trong một phong bì. Ông chồng đỡ lấy chiếc phong bì đưa cho Nakata. “Chẳng nhiều nhặn gì, nhưng xin bác hãy nhận lấy, coi như đền đáp công sức của bác. Chúng tôi rất biết ơn.”
“Đa tạ. Cám ơn ông bà,” Nakata nói.
“Tuy nhiên, tôi lấy làm lạ là bác có thể tìm thấy nó trong đêm tối như thế này.”
“Vâng, đó là một câu chuyện dài. Nakata không thể kể hết được. Lão chả thông minh sáng láng gì và không thạo giải thích dài dòng.
“Thế là tốt lắm rồi. chúng tôi chịu ơn bác nhiều lắm, bác Nakata,” bà Koizumi nói, “Tôi xin lỗi, còn ít cà nướng và dưa chuột ngâm dấm, bác cầm về dùng tạm nhé.”
“Rất vui lòng. Cà nướng và dưa chuột ngâm dấm là những món ưa thích của Nakata này.”
Nakata nhét chiếc cặp lồng thức ăn và chiếc phong bì vào bị, ra khỏi nhà. Lão rảo bước đến một đồn cảnh sát gần khu phố buôn bán. Một viên cảnh sát trẻ ngồi ở bàn giấy trong đồn đang chăm chú viết một cái gì đó, mũ để trên bàn.
Nakata đẩy cánh cửa kính lùa ra. “Xin chào. Xin lỗi đã quấy rầy cậu,” lão nói.
“Chào,” viên cảnh sát trả lời. anh ta ngước mắt lên khỏi xấp giấy, nhìn Nakata từ đầu đến chân. Về cơ bản là một ông già hiền lành, vô hại, anh ta nhận định, chắc là ghé vào để hỏi đường.
Đứng ở cửa ra vào, Nakata bỏ mũ đút vào túi và móc ở túi kia ra một chiếc khăn tay, hỉ mũi. Lão gấp khăn tay lại, nhét trả vào túi.
“Có việc gì đấy bác?” viên cảnh sát hỏi.
“Vâng, có việc đấy. Nakata vừa giết một người.”
Viên cảnh sát buông rơi bút, há hốc mồm, giương mắt nhìn ông già. Anh ta ngớ ra một lúc, không thốt ra được tiếng nào. Cái quái quỷ gì…?
“Ờ… à… bác ngồi xuống đây đã,” anh ta nói, nghi nghi hoặc hoặc, tay chỉ một cái ghế trước mặt. Anh ta đưa tay kiểm tra lại cho chắc là khẩu súng lục, cây dùi cui và chiếc còng số tám vẫn ở trên người.
“Cám ơ và ngồi xuống. Lưng thẳng, tay đặt trong lòng, lão nhìn thẳng vào viên cảnh sát.
“Vậy bác vừa nói là… bác đã giết một ai đó?”
“Vâng. Nakata đã giết một người bằng một con dao. Mới cách đây một lúc thôi,” Nakata thành thực thừa nhận.
Viên cảnh sát trẻ lấy ra một tờ mẫu khai, liếc nhìn đồng hồ trên tường và ghi thời điểm chính xác của lời khai báo một vụ giết người bằng dao. “tôi cần ghi họ tên và địa chỉ của bác.”

“Họ tên lão là Satoru Nakata và địa chỉ là…”
“Khoan đã, tên bác viết thế nào?”
“Lão không biết chữ. Xin lỗi, Nakata này không biết viết, cũng chẳng biết đọc.”
Viên cảnh sát cau mày. “Bác nói là bác không biết đọc? Cả đến tên mình bác cũng không biết viết?”
“Đúng thế. Cho đến năm lên chín, lão vẫn còn biết đọc biết viết. Nhưng rồi sau một tai nạn, lão quên tiệt. Nakata này chẳng thông minh sáng láng gì.”
Viên cảnh sát thở dài, đặt bút xuống. “Tôi không thể ghi tờ khai nếu tôi không biết viết tên bác như thế nào.”
“Lão xin lỗi.”
“Bác có gia đình, bà con gì không?”
“Nakata này chỉ có một mình, không có gia đình, bà con nào, không cả việc làm. Lão sống bằng tiền chợ cấp của ngài Tỉnh trưởng cho.”
“Bây giờ đã khá muộn, tôi đề nghị bác hãy về nhà đi. Về nhà và ngủ một giấc thật đẫy, rồi mai, nếu bác nhớ ra điều gì thì trở lại gặp tôi. Lúc đó, ta sẽ có thể nói chuyện.”
Viên cảnh sát đã sắp hết phiên trực và muốn viết nốt báo cáo trước khi giao ca. Anh ta đã hẹn uống với đồng nghiệp ở một quán bar gần đấy sau khi xong việc, nên hoàn toàn không muốn lãng phí thời gian nói chuyện với một lão già lẩn thẩn.”
Nhưng Nakata nghiêm nghị nhìn anh ta và lắc đầu. “Không, thưa cậu, Nakata này muốn kể hết mọi chuyện trong khi còn nhớ. Nếu đợi đến mai, lão có thể quên một điều gì đó quan trọng. Nakata này lúc ấy đang ở cái bãi trống trong khu 2. Chả là ông bà Koizumi có nhờ lão tìm hộ con mèo Goma bị lạc. Thế rồi một con chó đen to tướng thình lình xuất hiện và dẫn lão đến một ngôi nhà. Một ngôi nhà to đùng với một cái cổng to đùng và một chiếc xe hơi màu đen. Lão không biết địa chỉ cụ thể. Trước nay, lão chưa từng đến khu vực đó bao giờ. Nhưng lão dám chắc đó là ở trong quận Nakano. Bên trong ngôi nhà có một người đàn ông tên là Johnnie Walker, đội một cái mũ đen nom rất ngộ. Một cái mũ cao lênh khênh. Bên trong cái tủ lạnh để trong bếp, có hàng dãy đầu mèo. Lão ước độ trên dưới hai mươi cái. Hắn ta đi bắt mèo gom lại, cưa đứt đầu chúng và ăn tim chúng. Hắn gom hồn mèo để làm một cây sáo đặc biệt. Rồi hắn sẽ dùng cây sáo ấy để gom hồn người. Ngay trước mặt Nakata này, Johnnie Walker đã dùng dao giết cậu Kawamura cùng mấy mèo khác. Hắn lấy dao rạch bụng chúng. Hắn sắp sửa giết cả Goma và Mimi. Nhưng Nakata này bèn dùng một con dao giết Johnnie Walker.”
“Johnnie Walker nói hắn muốn Nakata này giết hắn. Chứ Nakata này không tính giết hắn. Trước nay, lão chưa giết ai bao giờ. Lão chỉ muốn ngăn Johnnie Walker khỏi giết thêm nhiều mèo nữa. Cơ mà chân tay lão không nghe theo lão. Nó làm theo ý nó. Nakata này vớ lấy một trong những con dao để ở đó và đâm Johnnie Walker hai nhát. Johnnie Walker gục xuống, mình đầy máu và chết. Lúc ấy, Nakata này cũng đầy máu. Lão ngồi xuống cái ghế bành và hẳn đã ngủ thiếp đi. Khi lão tỉnh dậy thì đã nửa đêm và lão thấy mình lại ở bãi trống với Mimi và Goma ở bên cạnh. Và mới chỉ cách đây một lúc thôi. Nakata này bèn đưa Goma về, được bà Koizumi cho ít cà nướng và dưa chuột ngâm dấm, và đến thẳng đây luôn. Lão nghĩ là nên báo cáo ngay với ngài Tỉnh trưởng. Kể cho ngài nghe những gì đã xảy ra.”
Suốt trong thời gian thuật lại đầu đuôi câu chuyện, Nakata ngồi rất ngay ngắn và khi kể xong, lão thở dài đánh thượt. Cả đời lão chưa bao giờ nói một mạch dài thế. Lão cảm thấy hoàn toàn kiệt lực. “Vậy xin cậu hãy trình chuyện này lên ngài Tỉnh trưởng,” lão nói thêm.
Viên cảnh sát trẻ đã nghe toàn bộ câu chuyện với một vẻ lơ đãng và không mấy hiểu ý đồ của ông già. Goma? Johnnie Walker? “Tôi hiểu,” anh ta đáp. “Tôi sẽ trình để ngài Tỉnh trưởng biết, chắc chắn thế.”
“Lão hy vọng ngài sẽ không cắt chợ cấp của lão.”
Vẻ khó chịu, viên cảnh sát trẻ giả vờ điền vào một tờ khai. “Tôi hiểu, tôi sẽ ghi như thế này: Đương sự muốn trợ cấp của mình không bị cắt. Thế được chưa nào?”
“Vâng, tốt rồi. Đa tạ. Xin lỗi đã làm mất thì giờ của cậu. Và nhờ cậu cho lão gửi lời chào ngài Tỉnh trưởng.”
“Tôi sẽ chuyển. Vậy bác đừng lo, cứ về nghỉ thoải mái đi,” viên cảnh sát nói. Anh ta không thể không đưa thêm một nhận xét cá nhân: “Này quần áo bác nom khá sạch, đâu có vẻ là vừa giết người. Chả có vết máu nào cả.”
“Vâng, cậu nói hoàn toàn đúng. Tình thật, Nakata này cũng thấy cái đó rất kỳ lạ. Thật vô lý. Đáng nhẽ người lão phải đầy máu, thế nhưng khi lão tỉnh dậy nhìn lại thì đã biến mất ráo. Quả là rất kỳ lạ.”
“Kỳ lạ là cái chắc,” viên cảnh sát nói, giọng nhuốm vẻ của một ngày làm việc cật lực.
Nakata đẩy cánh cửa lùa ra và sắp sửa đi khỏi thì chợt dừng bước và quay lại. “Xin lỗi cậu, tối mai cậu có ở đây không ạ?”
“Có,” viên cảnh sát thận trọng đáp. “Tối mai, tôi trực ở đây. Bác hỏi làm gì?”
“Lão khuyên cậu nên mang theo ô, ngay cả nếu ban ngày trời nắng.”
Viên cảnh sát gật đầu. Anh ta quay lại nhìn đồng hồ trên tường. Người đồng nghiệp hẳn sắp gọi điện thoại. “được, tôi sẽ mang theo ô.”
“Sẽ có cá từ trên trời rơi xuống như mưa. Vô số cá. Lão nghĩ đa phần là cá mòi. Xen lẫn vài con cá thu.”
“Cá mòi và cá thu hả?” viên cảnh sát cười rộ. “Thế thì tốt nhất là quay ngược ô lại, hứng lấy mấy con cá về nấu dấm làm một bữa!”
“Cá thu nấu dấm là một món ưa thích của Nakata này,” Nakata nói, vẻ rất nghiêm trang. “Nhưng giờ này ngày mai, chắc lão đã đi xa rồi.”
Ngày hôm sau, khi một cơn mưa cá mòi và cá thu thật sự trút xuống một khu của Quận Nakano, mặt viên cảnh sát tái nhợt đi như tờ giấy. Không hề có chút dấu hiệu báo trước nào, khoảng hai nghìn con cá mòi và cá thu từ trên mây ào ào rơi xuống mặt đất. Phần lớn khi chạm đất đều nát bét, nhưng một số vẫn còn sống và giãy đành đạch trên đường ngay trước khu phố buôn bán. Lũ cá tươi nguyên còn nồng mùi biển. Cá rơi xuống mái nhà, xuống mui xe, xuống cả người, nhưng vì độ cao rõ ràng là không lớn lắm, nên không gây ra tổn thương nào nghiêm trọng. Đây chủ yếu là một cú sốc tâm lý hơn bất cứ gì khác. Một số lượng lớn cá đổ xuống như mưa đá – thực sự như là tận thế!
Cảnh sát đã điều tra vụ này nhưng không phát hiện ra điều gì khả dĩ giải thích được làm sao lại xảy ra chuyện như vậy. Không có chợ cá hay tàu đánh cá nào kêu mất cá mòi và cá thu với số lượng lớn. Không có máy bay nào, kể cả trực thăng, bay qua vào thời điểm ấy. Cũng không thấy thông báo về một cơn lốc nào. Khả năng đây là một trò đùa tinh vi cũng bị loại trừ – kẻ nào mà lại có thể làm một điều cực kỳ quái gở như vậy? Theo yêu cầu của cảnh sát, phòng y tế quận Nakano đã lượm một số đem về xem xét, nhưng chẳng thấy điều gì bất thường: đó chỉ là những con cá mòi và cá thu thông thường – tươi và trông có vẻ rất ngon. Tuy nhiên, do sợ những con cá bí hiểm kia có thể chứa một chất gì nguy hiểm, cảnh sát đã phái một chiếc xe phóng thanh đi khắp vùng lân cận cảnh báo dân chúng chớ nên ăn.
Đó là loại tin mà tivi vồ lấy ngay và những đoàn máy quay đổ xô đến. Phóng viên tới tấp quanh khu phố buôn bán và gửi tin về sự kiện kỳ lạ này đi khắp nước. Họ lấy xẻng xúc cá trước ống kính để minh họa điều đã xảy ra. Họ còn phỏng vấn một bà nội trợ bị một con cá thu rơi trúng đầu, vây nó làm bà toạc cả má. “May mà không phải là một con cá ngừ,” bà vừa nói vừa ấp khăn tay vào má. Bà nói nghiêm túc nhưng khán giả xem tivi đều cười. Một phóng viên táo tợn đã nướng và ăn thử mấy con tại chỗ. “Ngon tuyệt,” anh ta vênh vang nói. “Rất là tươi với chất béo vừa độ. Tiếc là không có củ cải đỏ và cơm nóng để ăn kèm.”
Viên cảnh sát trẻ hoang mang. Cái lão già lẩm cẩm kỳ quái ấy – tên lão ta là gì nhỉ – đã tiên đoán trận mưa cá đó. Cá mòi và cá thu, đúng như lời lão nói… Thế mà mình đã cười xòa gạt phắt đi, anh ta nghĩ thầm. Thậm chí mình còn không ghi tên và địa chỉ của lão nữa. Mình có nên báo cáo với sếp chuyện này không nhỉ? Đúng ra là phải làm thế, nhưng bây giờ thì còn ích gì? Không ai bị thương và không có gì chứng tỏ đây là một vụ liên quan đến hình sự. Chỉ là một cơn lốc cá từ trên trời trút xuống, thế thôi.
Nhưng liệu sếp có tin lời mình không? Giả dụ mình kể lại với ông ta toàn bộ câu chuyện – rằng đêm trước hôm xảy ra vụ này, một lão già kỳ quặc đã ghé vào đồn và tiên đoán rằng sẽ có một trận mưa cá. Ông ấy sẽ nghĩ rằng mình hoàn toàn mất trí. Và câu chuyện sẽ lan truyền khắp vùng, mỗi người kể lại đều thêm mắm thêm muối, và cuối cùng thành giai thoại để mọi người cười vào mũi mình.
Còn một điều nữa, viên cảnh sát nghĩ. Lão già đến để trình báo rằng lão đã giết một ai đó. Nói cách khác là tự nộp mình. Vậy mà mình không hề coi lời khai của lão là thật. Thậm chí cũng chẳng buồn ghi vào sổ trực nữa. Rõ ràng là vi phạm quy định, có thể bị cảnh cáo. Nhưng mà câu chuyện của lão thật quá phi lý. Ắt chẳng cảnh sát nào có thể coi lời lão là thật. Cái đồn cảnh sát này đôi khi bận bịu như điên, giấy tờ chất như núi. Thế giới này đầy những kẻ chập mạch và như thể thông đồng với nhau, vào lúc này lúc nọ, họ đều tìm đến đồn cảnh sát để tuôn ra những chuyện quàng xiên chẳng đâu vào đâu. Nếu lưu tâm đến tất cả đám điên ấy thì chính anh cũng sẽ hóa rồ.
Nhưng lời tiên đoán về trận mưa cá kia – mà đó cũng có vẻ là một tuyên bố điên rồ – lại ứng nghiệm thật sự, cho nên chưa biết chừng (chưa biết chừng thôi) câu chuyện lão kể là đã giết chết ai đó mà lão gọi là Johnnie Walker, có thể là thật cũng nên. Giả dụ đúng là vậy, thì sẽ là vấn đề lớn đây, bởi anh ta đã khước từ một kẻ đến thú tội giết người và thậm chí còn không viết báo cáo về việc đó nữa.
Cuối cùng, một xe rác tới hót hết những đống cá. Viên cảnh sát trẻ đứng ra điều hành giao thông, chặn lối vào khu buôn bán không cho xe hơi vào. Vẩy cá dính chặt trên mặt đường trước các cửa hàng, vòi nước phun mạnh thế nào cũng không gột đi được. Đường phố ướt sũng khiến mấy bà nội trợ đi xe đạp bị trượt ngã. Khu vực này taồng mùi cá nhiều ngày sau đó, khiến lũ mèo nhốn nháo cả lên. Viên cảnh sát trẻ bận bịu với việc dọn dẹp không còn thì giờ nghĩ đến ông già kỳ lạ nữa.
Tuy nhiên, ngày hôm sau trận mưa cá, viên cảnh sát suýt nghẹn vì sốc khi xác một người đàn ông bị đâm chết được phát hiện ở khu lân cận. Người chết là một nhà điêu khắc nổi tiếng và người phát hiện thấy xác ông ta là bà lao công cứ cách một ngày lại đến dọn vệ sinh giúp. Cái xác trần truồng nằm giữa một vũng máu. Ước đoán thời gian xảy ra án mạng là vào buổi tối hai hôm trước và hung khí là một con dao bếp. Trong cơn bàng hoàng, cuối cùng, viên cảnh sát trẻ buộc phải tin những gì ông già đã kể với anh ta. Trời, anh ta thầm nghĩ, mình đã dính vào một chuyện rắc rối nhường bao! Đáng ra mình phải gọi lên quận và đưa lão già vào phòng tạm giam. Lão đến thú tội giết người, vậy lẽ ra mình phải giao nộp lão lên cấp trên và để họ quyết định xem lão có điên hay không. Nhưng mình đã lẩn tránh nhiệm vụ. Giờ đã đến nước này thì tốt nhất là ngậm miệng và xem như chuyện đó không bao giờ xảy ra, anh ta quyết định.
Nhưng lúc này, Nakata đã không còn ở trong thành phố nữa.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.