Cuộc Sống Của Hai Người Ở Rừng Rậm

Chương 35: Cơm Trứng


Bạn đang đọc Cuộc Sống Của Hai Người Ở Rừng Rậm – Chương 35: Cơm Trứng


Sau một hồi kích động vừa khóc vừa cười, Hà Điền kéo Dịch Huyền vào nhà.
Chạm vào đôi bàn tay lạnh ngắt của anh, cô nhanh chóng túm lấy Lúa Mì bên chân đặt vào tay Dịch Huyền: “Cô ôm nó tạm đi! Tôi đi lấy ấm đun nước cho cô.”
Lúa Mì hừ hừ không tình nguyện, nó có phải là đồ ủ ấm tay đâu?!
Hà Điền lại nhóm lửa lên, đầu tiên cô cho một ít cỏ khô dính mỡ lấy từ kho thịt xông khói vào bếp lò, sau khi lửa bắt đầu cháy, cô lại cho thêm một ít vụn củi mỏng vào, chờ cho vụn củi cháy đều rồi thì thêm củi.
Ngay khi ngọn lửa bốc lên, căn nhà nhanh chóng trở nên ấm áp.
Dịch Huyền ngồi bên bếp lửa hơ tay, Hà Điền đặt một miếng gỗ sạch lên hai bên bếp lò, kêu anh cởi giày và vớ ra rồi đặt chân lên đó để hơ.
Anh vẫn giống như mọi khi, ngại ngùng một lúc rồi mới cởi giày ra.
“Cô…” Hà Điền muốn hỏi, sao cô lại trở về đây rồi? Nhưng khi những lời này vừa đến bên miệng, lại đổi thành: “Cô muốn ăn gì?”
Ai biết được rốt cuộc đã có chuyện gì xảy ra với Dịch Huyền, nên mới buộc cô ấy phải quay trở lại đây?
Hà Điền không ngốc.

Tại sao hôm qua Dịch Huyền cứ một mực phải che mặt? Tại sao khi nói về “đức chính*” của chủ thành mới cô ấy lại cười lạnh? Trong lòng Dịch Huyền có bí mật.
*Chính sự có ích cho dân.
Nếu như ngay cả chợ phiên ở thung lũng sông cũng có người canh gác, vậy thì rất khó để đảm bảo rằng bến thuyền và thị trấn không có người được cử đến.
Dường như Dịch Huyền biết cô muốn hỏi điều gì, anh vuốt ve đầu của chú chó con trong tay: “Tôi đã qua sông và đến thị trấn nhỏ, chuyến đi rất bình yên.”
Hà Điền tạm thời yên tâm.
Sắc mặt Dịch Huyền hơi ửng hồng, trầm giọng nói: “Vừa đến thị trấn nhỏ, tôi nghĩ, cái gì tôi cũng không biết, đến thành thị rồi, tôi nên tìm công việc gì đây? Tôi…” Anh nói xong, giọng càng nhỏ xuống: “Mấy tháng nay tôi chỉ học được đi săn, bắt cá và trượt xe trượt tuyết…!Ở thành thị chắc cũng không kiếm được công việc nào tương tự như vậy.

Hơn nữa ở các thành phố lớn chắc có nhiều kẻ xấu hơn.

Tôi nghe người dân trong thị trấn kể, sau khi hai thành phố hợp lại, chủ thành của các thành phố nhỏ gần đây đã bắt đầu bắt người đi làm công ích.

Nếu đến đó, tôi e rằng mình sẽ bị bắt đi chuyển gạch và lao động khổ sai.

Tôi suy nghĩ lại, hay là đợi cho đến khi yên bình hơn rồi lại đi cũng không muộn.”
Anh nhìn Hà Điền, lúc này lỗ tai cũng đỏ bừng: “Cô…!sẽ tiếp tục cưu mang tôi chứ?”
Hà Điền cuối cùng cũng có bạn đồng hành, cô vốn cũng không muốn để cho Dịch Huyền đi, Dịch Huyền còn cố tình nói những lời thăm dò e dè này, làm sao cô có thể nói rằng không thể đây!
“Ừ!”
Hà Điền mở rộng vòng tay ôm lấy Dịch Huyền.
Anh lại muốn né tránh, nhưng lại quên mất mình còn đang gác chân lên trên thanh gỗ, suýt chút nữa thì thò luôn chân vào bếp, không dám nhúc nhích nữa, bị Hà Điền ôm chặt.
Sau một đêm, Dịch Huyền lại được ngửi thấy mùi thơm thoang thoảng trên tóc của Hà Điền, ​​lập tức cảm thấy toàn thân không khỏi bồn chồn, cả bàn chân tê rần vì lạnh cũng trở nên ấm áp.
Những gì anh nói với Hà Điền có thật mà cũng có giả.
Anh thật sự đã đi đến thị trấn nhỏ.
Tuy nhiên, anh chạy về đây không phải vì sợ trên đường đi không yên ổn, cũng không phải vì khó có chỗ đứng trong thành phố lớn.

Cũng không như Hà Điền lo lắng, là thế lực của chủ thành đang tìm kiếm và muốn bắt giữ anh.
Dịch Huyền đi qua đám lau sậy theo hướng mà Hà Điền chỉ và đến được bến phà nhỏ, ở đó có một hàng liễu rủ thưa thớt, bảy tám thợ săn và người miền núi đang đứng đợi thuyền.
Hà Điền nói thị trấn nhỏ này có hơn hai trăm người sống bằng nghề đánh cá ở các hồ và đầm lầy lân cận.

Trong sông còn nuôi trai, tôm và ếch này nọ.

Trong thị trấn có nhà hàng, khách sạn và nhà tắm, quan trọng nhất là còn có bác sĩ.

Các dịch vụ này chủ yếu nhắm đến chủ xí nghiệp sử dụng người dân miền núi gần đó, chất lượng không cao nhưng nhiều thợ săn sau khi bán lông thú trở về đều thích trọ lại ở đây, an toàn và tiện nghi.
Các mặt hàng “giải trí” cũng đa dạng và rẻ hơn nhiều so với ngoài chợ.
Mặc dù cũng mặc quần áo giống như những người khác, nhưng chẳng bao lâu sau, những người dân miền núi đều nhận ra rằng Dịch Huyền khác với họ, không ai nói chuyện với anh.
Tình hình mấy năm gần đây không được yên ổn, có rất nhiều người đã chạy trốn khỏi thành phố vào rừng, thị trấn nhỏ và làng mạc.
Sau khi thuyền đến, tất cả mọi người đều lên thuyền, người chèo thuyền là một bác gái và con gái của bà, sau khi nhìn thấy một vài thanh niên trên thuyền, bác gái này bắt đầu hỏi xem hành khách đã có gia đình hay chưa.
Nghe tin một vài thợ săn trẻ chưa kết hôn, bác gái bắt đầu không tiếc công sức chào hàng cô con gái nhỏ của mình.
Chiếc thuyền này dài chưa đến mười mét, mọi người trên thuyền đều có thể nghe thấy.
Cô gái trạc tuổi Hà Điền, ​​mặt tròn, răng khểnh, cũng không hề mắc cỡ, thoải mái quan sát một vài thợ săn trẻ, thuyền đi được nửa đường thì cô gái nhìn trúng một người thợ săn, hai bên bắt đầu hát đối dân ca.
Dịch Huyền nghe mà tâm phiền ý loạn, mấy bà thím bên cạnh vẫn còn ồn ào không chịu ngừng.
Anh nghĩ đến những gã thợ săn mà mình đã gặp hôm nay, mặc dù họ có vẻ bẩn thỉu và hèn mọn như hai anh em nhà họ Phổ, nhưng trông họ cũng khá dũng mãnh.
Vùng này không coi trọng đàn ông “đẹp trai”, họ thích người có dáng vẻ oai hùng.
Hầu hết đàn ông trưởng thành đều để râu, muốn làm cho mình càng trông giống như một con gấu thì càng tốt.
Trong lòng Dịch Huyền đột nhiên vang lên một giọng nói: “Không ai trong số họ xứng với Hà Điền cả!”
Giọng nói lại cất lên: “Nhưng cô ấy có thể tìm được người phù hợp với mình ở đâu?”
Lúc xuống thuyền, cô gái chèo thuyền đã vừa mắt người thợ săn hát đối dân ca với mình, bà mẹ muốn đêm nay người này ngủ lại nhà mình.
Những kẻ không khác gì một con gấu này vậy mà lại rất được hoan nghênh.
Đến được thị trấn thì trời đã chạng vạng, Dịch Huyền tìm một quán ăn và gọi một tô mì.
Khi mì được dọn ra, anh không hề muốn ăn nó một chút nào.
Chiếc tô sành bị mẻ, đôi đũa dính đầy vết dầu mỡ, trên bàn cũng bóng loáng không kém.
Dịch Huyền không ăn mì, đi ra khỏi quán ăn, ngồi bên sông, lấy đồ ăn khô mà Hà Điền đã chuẩn bị cho mình ra.
Anh cắn một miếng bánh khô với thịt muối, uống một chút nước, rồi nhìn dòng sông, lần đầu tiên anh cảm thấy muốn khóc mà không biết lý do tại sao.
Lúc này anh mới nhận ra rằng đã vài tháng trôi qua, nhưng anh chưa từng lên kế hoạch nghiêm túc cho tương lai của mình.
Những kỹ năng mà anh có từ thời tiểu học dường như chỉ có công dụng khi ở bên Hà Điền.
Nhưng khi đến những thành phố khác thì sao?
Tất nhiên anh sẽ không tìm được công việc hoặc sống với tư cách của một công dân như Hà Điền tưởng tượng.
Có thể anh sẽ tìm cơ hội để thể hiện tài năng của mình, sau đó, có lẽ cũng sẽ được chủ thành trọng dụng.


Hoặc, vừa trọng dụng, nhưng cũng vừa kiêng kỵ.
Sau đó thì sao?
Anh nhớ lại, cuộc sống ăn ngon mặt đẹp nhưng đầy mưu mô và thi thoảng đẫm máu với súng ống khi xưa đã là “thói quen” của anh rồi sao? Hay đó chính là thứ mà anh “mong muốn”?
Lúc trước anh muốn rời khỏi khu rừng đó là bởi vì anh sợ có người tới truy tìm tung tích của anh rồi làm liên lụy đến Hà Điền.

Nhưng xem ra, có vẻ như anh đã thực sự đánh giá quá cao tầm quan trọng của mình.
Hai thành phố đã sáp nhập, địa vị của chủ thành vẫn còn chưa vững, trông thì có vẻ như có thể hô mưa gọi gió, có thể làm được vài việc trọng đại, nhưng sợ rằng cuối cùng cũng chỉ là kẻ lót đường cho người khác mà thôi.

Vẫn còn đang tiếp tục đấu đá kia kìa!
Những người này còn đang bận tranh giành quyền lực, hơi sức đâu mà truy tìm tung tích của anh? Đợi bọn họ đấu đá xong rồi, ai còn nhớ đến anh nữa?
Sau khi được Hà Điền cứu, cô đối xử với anh rất tốt.

Liệu đời này anh có thể lại gặp được một người đối xử chân thành với mình như vậy nữa hay không?
Anh lắc đầu.
Nếu anh ở lại thành thị cố gắng lăn lộn một thời gian, có thể sau này sẽ có tương lai, nhưng nếu anh muốn leo cao một lần nữa, sợ là không có khả năng.
Lúc này, chiếc thuyền đang chuẩn bị rời bến lần nữa, người lái thuyền hét lên: “Còn ai lên nữa không? Chuyến cuối cùng! Là chuyến cuối cùng rồi!”
Dịch Huyền chợt bừng tỉnh, anh nhảy lên thuyền, cười ha ha vài tiếng.
Người trên thuyền nhìn anh, anh cũng làm như không thấy.
Trước thời kỳ lạnh giá, thành phố lớn nhất thế giới có cả hàng chục triệu người.

Những người này làm hơn hàng nghìn nghề nghiệp, còn có cả công nghệ có thể đưa con người lên vũ trụ…!Nhưng dù là một người ăn xin hay là ông trùm dầu mỏ, tổng thống của một đất nước hay là bà thím ngoài đường, ai cũng điều cần có chốn dung thân và một ngày ba bữa.
Chỉ cần có chốn dung thân và một ngày có ba bữa cơm, cuộc sống sẽ hạnh phúc biết dường nào.
Anh đúng là một kẻ ngốc.
Những ngày này là những ngày hạnh phúc nhất trong cuộc đời ngắn ngủi của anh.

Tại sao anh lại từ bỏ và muốn tìm lại những tháng ngày bất hạnh trước đây? Vừa mới game over cấp độ địa ngục xong, giờ lại còn muốn thử lại độ khó của nó nữa hay sao?
Dịch Huyền càng nghĩ thì càng thông suốt, anh lại bật cười, những hành khách đứng gần anh đều sợ hãi tránh ra xa.

Nhưng con thuyền này vừa nhỏ vừa hẹp, khi gặp đoạn sông nguy hiểm, hành khách phải cùng nhau giúp giữ thăng bằng, nếu không thì mọi người đã chạy sang đứng ở đầu thuyền hết rồi.
Quay lại bến, Dịch Huyền vội vã xuống thuyền.
Những hành khách khác nhìn anh chạy về phía đám lau sậy, và họ đều thầm nghĩ, thằng cha này bị điên à? Bây giờ trời đã tối rồi, không đến ngôi làng gần bến mà trọ, lại đi chạy về phía đám lau sậy làm gì?
Đến lúc này, trời gần như tối hẳn.
Dịch Huyền vội vã chạy đến chợ trong thung lũng.
Anh đi một vòng, chạy đến mép lều phía Tây, lẳng lặng bước vào, quả nhiên tìm thấy phòng của lính gác ở một góc.

Trong phòng có hai người, đang nằm trên giường trại ném xúc xắc.
Dịch Huyền cười thầm, chủ thành này đúng là tuyển quân linh tinh, kỷ luật quá lỏng lẻo, có người bước vào mà cũng không biết.
Anh đánh cho hai tên lính canh ngất xỉu rồi cởi quần áo của một người trong số họ ra mặc vào, khi đến bến thuyền, anh ẩn nấp, nhảy lên thuyền tuần tra rồi âm thầm tháo động cơ mô tơ trên thuyền ra.

Lại lặng lẽ không một tiếng động đi đến phía mà người dân trên núi đậu thuyền, tùy tiện tìm đại một chiếc, tháo dây buộc rồi chèo đi.
Chèo ra xa, anh lắp mô tơ, kéo dây khởi động, động cơ kêu ong ong, mô tơ làm cho cánh quạt quay nhanh, nhanh hơn chèo tay rất nhiều.
Chuyện trộm thuyền và trộm động cơ, Dịch Huyền cũng chỉ nói một cách mơ hồ.

Hà Điền cũng đang tự hỏi vì sao anh lại quay trở lại và làm thế nào mà anh lại đi nhanh như vậy.

Nhưng lúc này lại vì mừng quá mà quên mất, thậm chí là cũng không hề muốn hỏi.
Cô đun một ấm nước nóng, để Dịch Huyền đi tắm, sau đó hỏi anh muốn ăn gì.
Dịch Huyền lấy hộp tre trong túi ra, mở ra, bánh trong đó vẫn còn chưa ăn hết: “Tôi muốn uống trà lá thông và ăn chút điểm tâm nhẹ.”
Hà Điền liền nấu trà.
Cô và Dịch Huyền mỗi người uống một ly trà nóng, ăn bột củ sen hoa hồng và bánh hạt dẻ, nhìn nhau mỉm cười.
Ăn xong vài chiếc bánh, sắc trời đã sáng rõ.
Hà Điền mới nhớ ra tối qua cô cũng không ăn cơm, chỉ ăn vài cái bánh rán dọc đường cho đỡ đói.
“Có gạo mới mua, bột mì, trứng hôm qua nhặt được…” Hà Điền suy nghĩ một chút: “Làm cơm trứng ốp lết đi.”
Trời đã sáng, có rất nhiều công việc hàng ngày đang chờ họ hoàn thành.
Dịch Huyền xuống suối lấy nước, Hà Điền dọn dẹp chuồng của Gạo, thả nó ra rồi dẫn nó vào khu rừng gần nhà để nó tự kiếm gì đó mình thích ăn.
Sau khi thời tiết ấm dần lên, trong nhà chỉ còn lại một cái vại nước nhỏ, nước trong chiếc vại này là nước để dành, nấu ăn sinh hoạt cơ bản đều dùng nước ngọt lấy từ suối trên núi.
Sau khi Hà Điền quay lại, cô và Dịch Huyền cùng nhau sắp xếp lại tất cả những thứ mà ngày hôm qua họ đã mua.
Vừa cất đồ, cô vừa lấy ra một ít gạo, vo sạch, cho vào hộp tre, sau đó bào vài lát thịt muối rồi cho vào gạo, trộn đều tay rồi cho lên xửng hấp.
Miếng thịt muối này là phần ức của con hoẵng, nó đã chuyển sang màu đỏ thẩm, phần mỡ ở mép trong như pha lê.
Trong lúc hấp cơm, Hà Điền kiểm tra lại các loại hạt mua hôm qua.
Trên giá gỗ đầu tiên phía trên bếp có những giỏ rơm nhỏ với nhiều kích cỡ khác nhau được sắp xếp gọn gàng, bên trong đã mọc lên những chồi nhỏ có chiều cao không đồng đều, Hà Điền dời chúng xuống bàn, chọn lấy những mầm cao và khỏe nhất.
Tháng Tư tràn ngập hương sắc, hoa đào trên núi đã bắt đầu nở.
Ở đồng bằng dưới núi, trong tiết thanh minh đã bắt đầu gieo hạt rồi, nhưng ở trên núi thì cần phải đợi thêm khoảng một tháng nữa.
Trồng sớm quá, sương giá qua đêm sẽ làm cây con chết hết, trồng muộn quá, khoai tây sau khi thu hoạch còn sót lại chưa kịp lớn lên, vụ thứ 2 chưa xong mà mùa thu thì đã đến rồi.
Thứ mà hôm nay Hà Điền sẽ trồng chính là mầm khoai tây.
Một tuần trước Hà Điền đã đặt những củ khoai tây giống này dưới bệ cửa sổ, chẳng bao lâu, chúng đã nảy mầm.
Khoai tây giống là những củ khoai tây mập mạp và tròn trịa nhất được thu hoạch vào năm ngoái.
Sau khi củ nảy mầm, Hà Điền cắt khoai tây giống thành từng miếng vuông nhỏ khoảng 4 cm, trên mỗi miếng có đến mấy chồi nhỏ trên đó, tiếp tục phơi khô, sau khi mặt cắt khô và cứng lại, các chồi đã mọc cao thì có thể trồng xuống đất.
Nhiệt độ trên núi thấp hơn ở đồng bằng, vì vậy Hà Điền đợi thêm vài ngày nữa cho đến khi mầm khoai tây cao vài cm và mọc ra những chiếc lá nhỏ thì mới trồng.
Cô mang theo một rổ khoai tây giống, còn Dịch Huyền thì vào kho nơi cô để dụng cụ lấy cuốc và cào, sau đó hai người đi đến vườn ươm.
Sau nhiều thập kỷ canh tác trên sườn đồi nơi gia đình Hà Điền tọa lạc, địa hình nhấp nhô ban đầu giờ đây đã trở nên rất bằng phẳng.

Tất cả cây cối xung quanh đã bị chặt hạ để cây trồng và đất có thể tiếp xúc hoàn toàn với ánh sáng mặt trời.
Mảnh đất trồng khoai tây hơi dốc, đã qua nhiều lần cày xới, đất đai ở đây màu mỡ, tơi xốp, vì ở độ dốc khoảng 15 độ nên thoát nước rất tốt.
Hà Điền dạy Dịch Huyền sử dụng xẻng để đào một rãnh đất rộng khoảng 10 cm và sâu 15 cm trên nền đất đã được làm phẳng; cách anh hơn 10 cm, cô cũng đào một rãnh đất giống vậy.

Mảnh đất này không được vuông vắn, rãnh đất mà họ đào chỉ dài khoảng sáu mét và rộng bốn mét, ở một góc dốc khác, Hà Điền đào hố san sát, mỗi cái rộng khoảng 7~8 cm, sâu 15 cm.
Sau khi đào xong rãnh, đã có thể trồng khoai tây giống.
Khoai giống nên trồng cách nhau khoảng 30 cm, không nên vùi sâu quá, nên lấp đất khi mầm cao khoảng hơn 10 cm, lúc này khoai giống của Hà Điền chỉ cao khoảng 10 cm, nhìn vào trông giống như những hàng hố trũng.
Dịch Huyền đeo găng tay da sóc do Hà Điền làm, trồng từng cây khoai tây bằng xẻng nhỏ làm bằng ống tre.
Mỗi lần trồng xuống một cây giống, anh lại đứng lên xem chúng đã ngay ngắn hay chưa, Hà Điền thấy vậy thì nói: “Không cần phải chỉnh tề như vậy đâu! Cũng không phải đang trong quân đội duyệt binh.

Không lẽ cô còn định đo luôn khoảng cách giữa từng cây con?”
Dịch Huyền cười nói: “Chỉnh tề trông mới đẹp.”
Hà Điền lắc đầu, lại nhìn cây con trên khoảng đất mà mình đã trồng, không đồng đều một chút nào hết.
Cây con được trồng dọc theo những chiếc hố hình tròn được đào, khoảng cách giữa chúng đều gần 30 cm nhưng tính thẩm mỹ thì quả thật không thể so với Dịch Huyền.
Cô đã sớm trồng xong mảnh đất của mình, lại đi giúp Dịch Huyền, cùng anh ngồi song song, dùng xẻng tre đào một cái hố, đặt cây khoai tây vào, lấp thêm đất rồi vỗ nhẹ.
Bận đến tận lúc mặt trời lên cao, cuối cùng thì họ cũng trồng hết khoai tây.
Trong khoảng thời gian này, Lúa Mì cứ chạy quanh ruộng, lúc đầu nó còn muốn đào mầm khoai tây lên, nhưng sau khi bị Hà Điền mắng, nó ủ rũ nhìn xung quanh, Dịch Huyền ném một quả thông rỗng ở rìa mảnh đất cho nó.

Nó lập tức vừa sủa vừa đuổi theo, nhặt về, lắc đầu vẫy đuôi muốn được khen ngợi.
Hà Điền thấy vậy liền ném quả thông ra xa hơn, Lúa Mì bận rộn nên không đến làm phiền nữa.
Đợi đến khi bọn họ trồng khoai tây xong, nó đã mệt mỏi nằm ở trên bờ rìa chạy không nổi nữa, thè lưỡi ra thở hổn hển.
Sau khi trồng khoai tây xong cần phải tưới nước thường xuyên nhưng không được quá nhiều, nếu không mầm khoai mới trồng sẽ dễ bị thối, mốc, tuy mầm ở ngoài đất nhìn có vẻ xanh tốt nhưng lâu ngày sẽ bị chết hết.
Cho nên tốt nhất là nên tưới nước vào buổi sáng.

Bằng cách này, sau một ngày dài, nước trong lá và đất sẽ bay hơi hết, nhưng đất vẫn giữ được độ ẩm.
Hà Điền và Dịch Huyền lấy một cái thùng, tìm thấy Gạo bên rừng, vội vàng kéo nó đi lấy nước trong suối trên núi, sau vài lần đi đi lại lại, họ đã tưới xong mảnh đất mới trồng.
Trời đã trưa, cả hai đã đói bụng lắm rồi, về đến nhà thì bếp lửa đã tắt, cơm cũng đã hấp xong.

Tuy lửa lúc này không đủ để tiếp tục đun nước trong nồi hấp nhưng cũng đủ để giữ cho cơm bên trong luôn nóng.
Hà Điền dời nồi hấp sang một bên, xới xới tro tàn, cho thêm một nắm cỏ khô vào đám than sắp tàn rồi lại thêm vài mảnh gỗ vụn, sau khi lửa bén, thêm một khúc củi rồi dùng ống tre thổi, ngọn lửa nhanh chóng bùng lên.
Cô cho mỡ vào chảo, đập vài quả trứng, cho một ít muối vào, dùng đũa tre khuấy đều, khi mỡ đã nóng thì đổ trứng vào chảo.

Lắc nhẹ chảo để cho trứng trải đều sau đó dùng xẻng lật cho trứng được chiên vàng đều hai mặt rồi đổ ra dĩa sành.
Bên này, Dịch Huyền cũng dùng đũa tre xới nhẹ cơm theo hướng dẫn rồi đổ lên một mặt của trứng chiên.

Hà Điền dùng xẻng lật mặt còn lại rồi đắp lên, món trứng chiên trở thành một nửa chiếc sủi cảo vàng lớn, sau đó cô lại cho thêm một vài lát củ cải muối xắt nhỏ và đầu củ cải muối lên phía bên kia của dĩa.
Hà Điền suy nghĩ một chút, từ trong tủ lấy ra một hũ thủy tinh nhỏ, trong đó có tương cà làm từ cà chua thu hoạch năm ngoái, cô dùng muỗng múc một muỗng, vẽ một đường cong trên chiếc sủi cảo vàng.
Dùng muỗng múc lên, miếng trứng chiên mềm bọc lấy cơm trắng như pha lê, kèm theo những lát thịt muối đỏ au mà chỉ nhìn màu sắc thôi là đã thấy ngon miệng.
Buổi sáng hai người chỉ ăn một chút đồ ăn vặt rồi bắt tay vào công việc, lúc này vị chua chua ngọt ngọt của tương cà kích thích vị giác, dĩa cơm trứng nhanh chóng sạch sành sanh.

Thấy Dịch Huyền ăn như hổ đói, Hà Điền sợ anh khó tiêu nên đã nấu hai ly trà lúa dại rang để mình và anh uống.
Hai người ngồi ở một bên bàn, mỉm cười nhìn làn hơi nước từ từ bốc lên trên ly trà, ánh mặt trời mùa xuân chiếu vào họ qua ô cửa kính, cả người trở nên ấm áp và thoải mái, không muốn di chuyển.
Ngoài cửa sổ, dưới nắng xuân, đất đen và rừng cây xanh tươi tràn đầy sức sống..


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.