Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 14: phần 2
“Có lẽ bọn chúng đã tìm thấy nó ở trong phòng làm việc của cụ Bittermouse rồi,” Charlie nói.
Ông cậu Paton lắc đầu. “Nếu thế thì tại sao chúng phải giết cụ ấy?”
“Thanh gươm làm đấy chứ. Nó tự hành động theo ý nó mà, ông biết đấy.”
Con dao ăn và cái nĩa của ngoại Maisie đập cách cách trên đĩa của bà. “Làm ơn đi,” bà nài nỉ, “hai người để cho tôi ăn xong bữa trưa của tôi với nào. Hai người không thể nói về cái gì dễ chịu hơn để thay đổi sao?”
“Nói về thời tiết nhe bà?” Charlie nói, cười ngoác mồm ra tuyết ngoài trời. “Có lẽ trường sẽ cho nghỉ và tụi con có thể đi xe trượt tuyết ở khu Đồi Cao.”
“Còn bà sẽ mặc đồ kín mít, ngồi phệt đít xuống và cắt giảm việc đi mua sắm,” ngoại Maisie phá lên cười.
Tuyết vẫn tiếp tục rơi.
Sau bữa trưa, Charlie đi lên phòng nó. Claerwen đang bay lớt phớt trên tấm kính cửa sổ như thể cô nàng đang cố hóa thân thành tuyết. Charlie đặt Claerwen lên tay và cô nàng bò lên vai nó, đậu ở đó, gập đôi cánh lại và xem nó viết bài luận văn với đầu đề: Ngày nghỉ.
Charlie chưa bao giờ được đi nghỉ cả. Có những lúc khỏi phải đến trường nhưng nó không bao giờ được thưởng thức một cuộc hành trình tới nơi có nắng ấm, bãi cát vàng, bầu trời xanh và những mái nhà trắng với hồng. Thỉnh thoảng Ông cậu Paton có đưa nó đi thăm ông cố của nó sống ở bên bờ biển: một vùng biển xám, sóng dữ, nơi mòng biển tụ tập và sóng dữ quất không thương tiếc lên những vách đá đen. Nhưng những chuyến thăm đó đều phải giữ bí mật, bởi vì nếu nội Bone mà biết về chỗ ở của cha bà ta, thì hẳn là mụ sẽ truy lùng ông và quấy nhiễu ông tới khi ông xuống mồ mới thôi. Có một lý do khác, anh trai của ông cố cũng sống ở đó – một cậu bé chưa bao giờ lớn tên là Henry, bị Quả cầu Thời gian bắt đi. Quả cầu Thời gian này là một viên bi đẹp diệu kỳ mà lão Ezekiel đã dùng để cố trục xuất Henry trôi về Kỷ Băng Hà.
Charlie mỉm cười khi nhớ về Henry, hiện đang sống yên ổn trong mái tranh của em trai mình bên bờ biển.
Sau vài phút mê đắm trong những suy nghĩ, Charlie tưởng tượng đến một ngày nghỉ trên đảo Ca-ri-bê. Và rồi nó nhận ra mình không cần phải tưởng tượng làm chi – nếu nó có thể tìm được một tấm hình ai đó đang ngồi trên bờ biển Ca-ri-bê, thì nó có thể chu du tới đó. Nhưng Charlie đã phát ớn việc chu du vô tranh ảnh. Việc đó chẳng bao giờ thú vị như nó hy vọng. Nó không bao giờ quen nổi, và cuộc hành trình trở về nhà luôn khiến nó run rẩy. Bây giờ nó phải bảo tồn năng lượng cho cuộc hành trình hóc hiểm vô xứ Badlock để cứu Billy Raven.
Bài luận của nó đã xong. Charlie cảm thấy mình xứng đáng một chiếc bánh quy, có khi hai chiếc. Trong nhà vắng lặng. Cả hai bà của nó đều đang ngủ, chắc chắn vậy, còn Ông cậu Paton chắc là đang viết lại những ghi chú cho chương tiếp theo quyển sách của mình, Lịch sử dòng họ Yewbeam.
Chưa phải là tối nhưng bầu trời đã thẫm lại trong khi tuyết đang rơi. Charlie hầu như không thấy đường ở đằng cuối nhà bếp. Đồ đạc trong phòng lờ mờ không rõ hình thù, như thể chúng bị phủ một bức màn mỏng màu xám. Charlie mò mẫm được một hộp bánh quy và đem để nó lên bàn. Nó ngồi xuống bắt đầu ăn trong khi nhìn tuyết rơi bồng bềnh.
Chuông cửa reng.
Nếu tiếng chuông có đánh thức hai bà dậy thì rõ ràng họ cảm thấy không bắt buộc phải ra mở cửa. Cả ông cậu Paton cũng không luôn.
Chuông lại reng nữa.
Charlie thấy vừa rồi đâu có ai đi ngang qua cửa sổ. Đường Filbert vắng như sa mạc; tuyết phủ lấp nhũng chiếc xe đang đậu, dày cả tấc.
Lần thứ ba, tiếng chuông hầu như không phải là một âm thanh thực tí nào. Charlie có cảm tưởng hình như nó vang ở bên trong đầu mình. Nhưng nó cảm thấy sự thôi thúc phải đi ra cửa. Nó thận trọng mở cửa và một đám mây tuyết trôi vô hành lang.
Một phụ nữ đứng ở khung cửa. Tóc của cô trắng như tuyết. Cô mặc áo khoác trắng và choàng một chiếc khăn màu vàng óng trên vai.
Charlie thảng thốt kêu lên. Tay nó ụp vội lên miệng. Trong thoáng chốc nó tưởng như một thiên thần tuyết vừa đáp xuống bậc cửa nhà mình. Và rồi nó nhận ra người phụ nữ đó. “Cô Alice Angel,” nó thì thầm.
Cô Alice mỉm cười, “Chào cháu, Charlie. Cô vô được chứ nhỉ?”
Nó đứng né qua bên và cô bước vô hành lang. Một mùi hương quyến rũ sượt ngang qua Charlie và nó nhớ tới cửa hàng hoa của cô Alice, “Hoa Thiên Thần, nơi những bông hoa trắng, thân cao tỏa mùi hương mê hồn khắp không gian.
“Bấy nay cô đã ở đâu vậy ạ?” Charlie hỏi.
“Cô ở cửa hàng khác của cô,” cô đáp, đặt chiếc vali nhỏ bọc da xuống sàn nhà. “Nó ở cách đây rất, rất là xa.”
Charlie đỡ chiếc áo khoác mềm màu trắng của cô Alice và đem treo nó lên mắc áo. “Sao cô trở lại?” Nó hỏi.
“Olivia.”
“Olivia?” Charlie dẫn cô Alice vô nhà bếp và bắc ấm nước lên. Xem ra căn phòng đột nhiên sáng hơn, nhắt là chỗ cô Alice đứng trong tấm váy trắng và đôi ủng cao màu xám bạc. “Thật lạ là cô đến đây vào lúc này, bởi vì có thể Olivia sẽ gặp rắc rối.”
“Cô biết,” cô Alice nhíu mày lo lắng.
“Bạn ấy để lộ mình rồi.”
“Kể cho cô nghe chuyện thế nào đi.” Cô Alice ngồi xuống bàn trong khi Charlie rót cho cô một tách trà. Cô không yêu cầu nó pha nước, nhưng ngồi nhấm nháp trà trong khi nghe Charlie kể về bức tượng đá và bộ xương mà Olivia đã làm hiện ra để hù dọa Eric kẻ-làm-sống-tượng thì thật dễ chịu.
Vẻ mặt nghiêm trang của cô Alice giãn ra. “Vậy mới hợp biết bao: một bộ xương. Olivia quả là có trí tưởng tượng mãnh liệt. Nhưng đáng ra cô bé không nên để lộ tài phép của mình. Bây giờ cô mất con bé rồi.”
Có tiếng chân bước trên cầu thang, Charlie và cô Alice nhìn ra cửa. Charlie cầu trời đó không phải là nội Bone. Nhưng Ông cậu Paton ngó vô phòng và lập tức nhận ra cô Alice.
“Ôi, Alice thân mến, điều gì mang cô tới đây vậy?” Ông hỏi. “Lại giữa bão tuyết nữa. Chắc hẳn là khẩn cấp lắm đây.”
“Đúng thế,” cô Alice nghiêm trang. “Dù sống cách đây ba trăm dặm, nhưng tôi luôn biết khi nào Olivia cần tôi. Đó là bản năng mà tôi có, không thể giải thích được. Ngay khi về tới thành phố tôi đã tới nhà Olivia.” Mặt cô tối sầm lại và cô run rẩy nhấp một ngụm trà. “Họ không cho tôi gặp con bé.”
“Không… ư?” Ông cậu Paton ngồi phịch xuống. “Có chuyện quái gì thế?”
“Cha của Olivia ra mở cửa,” cô Alice tiếp. “Chú ấy bảo Olivia không còn là nó nữa. Tôi nài nỉ chú ấy bảo với con bé là tôi vừa mới đến, rằng tôi muốn gặp đứa con đỡ đầu yêu thương của tôi, vì vậy, chú ấy đi lên lầu tới phòng con bé trong khi tôi đợi trong hành lang.” Nước mắt long lanh đọng nơi khóe mắt to màu nâu nhạt của cô Alice. “Khi chú Vertigo đi xuống thì chú ấy bảo… chú ấy bảo…” cô nín bặt và chậm nước mắt bằng một chiếc khăn mùi xoa trắng.
Ông cậu Paton đặt một tay lên cánh tay cô. “Chú Vertigo đã nói gì?”
Cô Alice ngồi thẳng lưng lên và giắt chiếc khăn vô ống tay áo. “Chú ấy bảo rằng Olivia không muốn gặp tôi, và tôi vui lòng hãy ra khỏi nhà ngay lập tức.”
Charlie không thể tin vô tai mình. Olivia rất yêu mẹ đỡ đầu của nó. Chuyện gì khiến nó quay lưng lại cô Alice Angel vậy? Trừ phi…
“Tôi sợ là bọn chúng đã thu phục con bé rồi,” giọng cô Alice giờ đã rắn rỏi hơn. “Nhưng tôi sẽ không đầu hàng đâu, và tôi nhất định sẽ không rời khỏi thành phố này. Tôi sẽ ở lại đây cho tới khi Olivia trở lại là mình. Phiền cái là,” cô lưỡng lự, “tôi không chắc mình có thể ở đâu. Ngôi nhà tôi từng ở giờ vẫn để trống, nhưng nó rất, rất lạnh.”
“Cô phải ở đây,” Ông cậu Paton đứng bật dậy. “Tôi cương quyết đề nghị.”
Ngoại Maisie đi vô phòng, đúng lúc ông cậu Paton đứng dậy định đi gọi bà. Ngoại Maisie lắng nghe câu chuyện của cô Alice bằng vẻ mặt cam chịu mà dạo này bà hay mang. Tuy nhiên, Charlie có thể nhận thấy vẻ nồng nhiệt của bà đối với mẹ đỡ đầu của Olivia, và không lâu sau thì bà đã mời cô một chiếc bánh do bà nướng và “thêm một ly rượu nhé,” rồi sau đó bà bắn vù lên lầu dọn dẹp giường trong căn phòng mà mẹ của Charlie từng ngủ.
Trong suốt quãng thời gian đó không hề thấy tăm hơi nội Bone đâu. Thậm chí cả trong bữa tối cũng không thấy bóng dáng bà ta. Charlie gõ cửa phòng nhưng không có tiếng trả lời. Lẽ nào bà ta đã ra ngoài? Hay bà ta vẫn còn đang ngủ?
“Bà ấy đang ngủ,” ngoại Maisie nói, thận trọng ra ngó cửa phòng của nội Bone vào lúc 9 giờ. “Mọi người không nghe thấy tiếng ngáy ư?”
Charlie cũng đi vô giường ngủ. Ngày mai phải đi học. Liệu nó có gặp Olivia ở trường? Nó tự hỏi. Và con bé sẽ làm gì? Con bé sẽ trở thành bạn của ai?
Kệ cho bao nhiêu câu hỏi ong ong trong đầu, Charlie thấy mình dễ dàng ngủ díp lại. Nó nghĩ đến cô Alice Angel đang ở trong căn phòng phía trên nó. Thật dễ chịu khi biết cô ở trong nhà mình, cho dù cô là thiên thần hộ mệnh của người khác.
Chúng ta sẽ mượn cô ấy vậy, Charlie nói một mình, chỉ một thời gian thôi, cho đến chừng nào Olivia lại muốn có cô ấy. Rồi tâm trí nó lại lan man đến Billy Raven, bị kéo đi qua khoảng thời gian chín trăm năm tới cung điện của lão thầy bùa. Chả trách thằng bé không muốn về nhà. Bạn thân thiết của nó là một cô bé xinh xắn nhất trên đời – một bé gái tóc quăn lòn lọn, có nụ cười dịu dàng; một bé gái tên là Matilda, người mà Charlie sẵn sàng cho đi tất cả để được gặp lại một lần nữa.
Billy chẳng được sung sướng thoải mái như Charlie tưởng tượng. Thằng bé đang bị phạt, và nó đổ tội cho Rembrandt.
Rembrandt là con chuột của Billy, một con chuột đen bóng, mắt sáng quắc và có một bộ ria dài hết sức ấn tượng. Chú ta tình cờ ở trong túi quần của Billy khi thằng bé bị hút vô bức tranh xứ Badlock do một thứ bùa độc địa của thầy bùa (hay gọi theo danh xưng đầy đủ của lão là bá tước Harken của xứ Badlock).
Cuộc sống ở xứ Badlock rất huy hoàng đối với Billy. Nó có quần áo đẹp để mặc, có đồ ngon để ăn và có một khu rừng đầy muông thú do yêu thuật tạo ra để hàng ngày đến thăm. Lại có cả Matilda, cháu gái của bá tước Harken, làm người bạn hiền lành nhất mà Billy từng biết. Nhưng Rembrandt muốn về nhà. Chú chàng năn nỉ ỉ ôi, kêu ca, kèo nhèo và nhai đôi giày mới của Billy, tóm lại là chú ta quấy nhiễu hết chỗ nói. Billy có thể liên lạc được với thú vật. Nó hiểu rõ từng tiếng chít, tiếng tru rống, rừ rừ và liếp chiếp… và còn nhiều thứ tiếng nữa… của đủ các loài thú.
Một ngày nọ Rembrandt đi quá xa. Đúng ngay vô bữa tối, một thời điểm tệ hại nhất mà chú ta lựa để quậy. Bữa tối trong cung điện của thầy bùa là một sự kiện quan trọng. Nó được phục vụ trong một tòa nhà rộng mênh mông bằng đá hoa cương đen. Những vì sao giả chiếu sáng trên mái trần hình vòm và những bức tường treo đầy các loại vũ khí sáng loáng.
Cái bàn lát kính trên mặt dài bảy mét, buộc lão bá tước và vợ, ngồi ở hai đầu đối diện nhau phải quát hết cỡ mới nói chuyện được với nhau, và tiếng quát của họ thường khiến cho Billy nhức đầu.
Billy và Matilda ngồi sát bên nhau, đối diện với Edgar, anh trai của Matilda, một thằng bé có gương mặt câng câng, hay hù dọa Billy bằng cách bất thình lình hiện ra từ một bức tường hay một cánh cửa. Những người ăn tối chỉ việc gọi tên những món mình muốn ăn, tức thì món ăn đó sẽ hiện ra. Billy thường chọn bất kỳ món gì Matilda chọn. Đó thường là súp Thịt viên, mặc dù đôi khi cô bé tiến cử cho nó xơi món bánh hấp Đại lễ, hoặc bánh tráng miệng Triệu hoa. Billy cố lén cho Rembrandt ăn càng nhiều càng tốt khi Edgar không nhìn thấy chú chàng. Edgar ghét cay ghét đắng chuột, thằng đó gọi Rembrandt là đồ ghê tởm, không xứng đáng được đi trên mặt đất chứ đừng nói là sống trong một cung điện.
Vì vậy khi Rembrandt, mệt chán vì những món ngon thường ngày, nhảy lên bàn và chạy cái vù qua đĩa của Edgar, thằng này nhảy dựng lên thét như bị bóp cổ, giật lấy một con dao treo trên tường và phi vô con chuột. Hên là con dao bắn sượt qua Rembrandt, lướt lập phập trên bàn, nhưng Billy đã đứng phắt lên, quát thét Edgar.
“Đồ độc ác, đồ kinh khủng!” Billy thét. “Mày suýt giết chết con chuột của tao!”
“Thật đáng tiếc là nó đã không giết chết con vật,” bà bá tước lạnh lùng nhận xét.
Cái lạnh tanh trong giọng nói của bà ta làm Billy tê cứng người lại. Rembrandt nhảy vô vòng tay nó, và nó ngồi phịch xuống.
“Sinh vật đó phải bị giết,” bà bá tước tiếp. “Ngài có đồng ý không, ngài Harken?”
Billy nhìn ngây vô gương mặt dài của bà bá tước. Đôi mắt đen ti hí của bà ta dán chặt vô con chuột đang lủng lẳng nơi ngực Billy.
“Sao hả ngài Harken? Nói gì đi!” Mụ bá tước cao giọng chất vấn.
Billy quay qua dòm lão bá tước, lão này cho đến bây giờ vẫn lờ tịt vở kịch đang diễn ra trên bàn ăn của lão, như thể không có gì bất thường xảy ra. Nhấp một ngụm rượu từ cái ly bằng vàng, lão nhìn Billy với vẻ trầm ngâm rồi đứng lên.
Billy co rúm lại trước ánh nhìn xoáy buốt của lão thầy bùa. Tấm áo thụng xanh lá cây của lão sáng choe chóe kim cương và đá ngọc thạch, búi tóc của lão chói rực một lớp vàng nhuyễn. Đôi khi Billy nể sợ vẻ lộng lẫy của chủ nhân của nó đến nỗi nó không dám nhìn lão. Nó nơm nớp chờ đợi lời tuyên bố chính thức của thầy bùa. Cuối cùng lời tuyên bố cũng vang lên.
“Chúng ta không cần mất công với con chuột đó,” lão thầy bùa nói.
Trái tim Billy đập một nhịp nhẹ nhõm. Tuy nhiên niềm hy vọng của nó bị dập tắt ngúm bởi lời tiếp theo của lão thầy bùa. “Sinh vật đó có thể làm đồng bọn với thằng bé ở trong hầm ngục.”
Thưa ngài, ngài không thể làm thế!” Matilda kêu lên.
“Billy là khách của chúng ta.”
“Ta mệt mỏi khách khứa rồi!” Lão bá tước gầm lên mắng cô bé. “Lính đâu, đem thằng nhóc này đi.”
Trước khi Billy kịp nghĩ điều gì xảy ra tiếp theo, hai người lính xông tới, tóm lấy hai bên cánh tay nó. Rembrandt rớt tọt xuống nền nhà và chạy hấp tấp bén gót Billy khi thằng bé bị điệu ra khỏi phòng. Nó có thể nghe thấy tiếng khóc phản đối của Matilda mờ dần khi nó bị mang đi càng lúc càng xa, qua những hành lang tối và dài hun hút dẫn tới hầm ngục.