Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8)

Chương 15


Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 15

CHƯƠNG 12: NHỮNG LINH VẬT BIỂN BẰNG VÀNG
Khi Charlie xuống lầu dùng điểm tâm vào sáng hôm sau nó thấy cô Alice đã ở trong nhà bếp. Một bình trà đã pha xong, còn cháo đang nấu trên bếp, những lát bánh mì nướng vàng rụm đã xếp đầy trên giá bánh mì để trên bàn.
“Chào Charlie,” cô Alice tươi tỉnh nói. “Trông cháo giùm cô với nhé, để cô đi mang cho bà Maisie một tách trà.” Cô nói như thể cô đã sống ở nhà số 9 lâu rồi vậy.
“Chào cô Alice.” Charlie cầm lấy chiếc muỗng gỗ và bắt đầu ngoáy nồi cháo, trong khi cô Alice đi ra, cầm theo một tách trà và hai cái bánh quy để trên đĩa. Bước chân cô nhẹ bẫng, đến nỗi hầu như không nghe thấy chúng đi trên cầu thang.
Đến lúc cô Alice trở lại, Charlie đã ăn cháo của nó xong. Máy cào tuyết đã làm việc suốt đêm và lòng đường sạch bách, mặc dù trên vỉa hè vẫn còn tuyết đóng đầy. Bầu trời sáng trong và mặt trời chiếu khiến cho những mái nhà, bức tường, cây cối và những hàng rào sáng chói lên. Cô Alice mở cửa sổ, hít thở thật sâu và bảo, “Cô mê thích cái mùi tuyết này quá.”
Charlie hít không khí lạnh vô lồng ngực và đồng ý với cô. Thế giới đượm một mùi tươi mới, trong lành. Nó chạy lên lầu lấy cặp sách. Khi mặc áo chùng đồng phục xanh da trời vô, nó mừng rỡ cảm nhận hơi ấm của tấm áo. Thỉnh thoảng bọn trẻ khác trên đường chọc ghẹo nó í ới cái chuyện nó học ở học viện Bloor và mặc áo kỳ cục. Thường thì Charlie nhét cái áo rầy rà này vô giỏ xách để không gây sự chú ý. Nhưng hôm nay nó cảm thấy ấm áp và tự tin.
Ngôi nhà vẫn im ắng, tựa hồ như nó bị chôn vùi dưới tuyết. Không có động tĩnh gì trong phòng của nội Bone.
Cô Alice từ nhà bếp đi ra ngay lúc Charlie rời khỏi nhà. “Trông chừng Olivia giùm cô nhé, Charlie,” cô bảo. “Đừng để bất kỳ cái gì… bất kỳ ai… cô hầu như không biết phải nói gì nữa bởi vì rõ ràng bây giờ cô bé đã là một trong bọn chúng. Nhưng cô muốn biết việc đó xảy ra như thế nào, để còn đối phó với nó.”
“Cháu sẽ cố hết sức,” Charlie hứa. Nó vẫn không thể tin là Olivia mà nó biết lại cho phép mình bị chế ngự. Ở phía đường bên kia, Benjamin đang thảy những quả banh tuyết cho Hạt Đậu chụp. “Hôm nay mình không đi học,” Benjamin hân hoan gọi. “Trường đóng cửa vì tuyết nhiều quá.”
“Hên quá hén,” Charlie hét lại. Nó biết chiếc xe buýt xanh da trời sẽ chờ nó ở đầu đường. Chỉ có một vụ tuyết lở thì may ra mới đóng cửa được học viện Bloor. Charlie hầu như không thấy Olivia đâu suốt cả ngày. Thỉnh thoảng nó thoáng thấy mái đầu nhuộm vàng bên trên một cái áo chùng tím, nhưng rồi con bé biến mất, bị nuốt chửng trong rừng áo tím. Bọn học viên khoa Kịch bao quanh cô nàng như ong bu quanh hũ mật. Mãi cho đến giờ làm bài tập về nhà Charlie mới khám phá ra mình thật sự phải đương đầu với cái gì.
Sau bữa tối, Charlie leo lên những dãy cầu thang phía sau trường để lên Phòng Nhà Vua, nơi bọn trẻ được ban phép thuật phải làm bài tập về nhà. Nó lên được nửa đường thì nghe có tiếng thì thầm đằng sau, “Charlie.” Nó quay lại và bắt gặp vẻ mặt buồn thảm, nhợt nhạt của Emma. Mắt cô bé đỏ hoe vì khóc.
“Chuyện gì vậy, Em?” Charlie hỏi.
Chị em sinh đôi nhà Branko mò đến từ phía sau chúng và cố đi vượt qua. Idith (hay Inez?) rít, “Mày đứng ngáng đường người ta, đồ ngu.”
Nắm tay Charlie ngứa ngáy. Nó chỉ muốn đáp một nắm đấm lên bộ mặt giống tượng của cái con Idith này, nhưng nó lại lần chần dạt sang bên cho chúng đi qua. Khi chị em sinh đôi ra khỏi tầm nghe, Emma nói “Liv bị làm sao ấy. Nó không hề nói chuyện với mình suốt cả ngày hôm nay.”
“Bọn chúng bắt nó rồi,” Charlie thì thầm.
“Hả?” Đôi mắt xanh da trời của Emma trợn to lên không tin. “Không thể nào.”
“Nó đã tự lộ mình, Em. Một khi bọn chúng biết, bọn chúng sẽ cố hết sức làm thay đổi nó.”
“Không.” Emma lắc đầu nguầy nguậy. “Chúng không làm được. Không phải Liv. Mình không tin.”
Dorcas Loom ục ịch đi ngang chúng, thở lặc 1è. “Hai đứa mày mắc toi gì vậy?” Con nhỏ lầm bầm mà không quay lại.
Charlie và Emma không mất công trả lời.
“Đúng vậy đó,” Charlie hạ thấp giọng khi Dorcas biến mất ở khúc quẹo lên cầu thang. “Cô Alice Angel đã trở lại. Olivia không muốn gặp cô ấy.”
Miệng Emma há hốc ra.
“Tụi mình nên đi đi, Em,” Charlie nói. “Kẻo trễ rồi.”
Chúng lật đật phóng lên cầu thang, nhưng nghe thấy tiếng lê bước ở chân cầu thang, Charlie liếc nhìn lại. Dagbert Endless đang đứng phủi vai áo chùng xanh da trời của nó. Tóc nó ướt nhoen nhoét như tảo biển và gấu quần nó bám đầy tuyết. Cảm thấy mắt Charlie đang nhìn mình, Dagbert ngước lên.
Charlie không nhịn được nên hỏi. “Mày giấu những linh vật của mày rồi à?”

Dagbert lẳng lặng gật đầu.
“Tốt.” Charlie không muốn biết chúng ở đâu. Nhưng nó mừng là chúng đã ra khỏi tầm với của Lord Grimwald. Nó chạy tiếp lên lầu, với Dagbert tất tả theo sau.
Phòng Nhà Vua hình tròn, những bức tường cong kê toàn sách và chính giữa phòng có một cái bàn tròn thật lớn. Nhũng đứa trẻ được ban phép thuật ngồi ở cái bàn đó để làm bài tập về nhà, dưới sự đe nẹt của thầy Giám sát Tài phép.
Khi Charlie bước vô phòng buổi tối hôm đó, nó ngạc nhiên thấy Olivia đã ngồi thoải mái trong đấy rồi. Con bé này chưa bao giờ làm bài trong Phòng Nhà Vua, nhưng giờ nó đang ngồi giữa Dorcas và một đứa của chị em sinh đôi, với sách vở trải ra ngay ngắn trước mặt. Con bé đã được chấp nhận là một đứa được ban phép thuật và nhanh chóng ngồi vô chỗ của nó trong bọn.
Luôn luôn có hai nhóm rạch ròi ở bên bàn. Manfred ngồi với Dorcas, Joshua và chị em sinh đôi trong khi ở phía bàn bên kia có Lysander, Gabriel, Emma và Charlie ngồi sát nhau. Dagbert luôn ngồi trơ trọi ở khoảng trống giữa hai nhóm – không bao giờ sang hẳn bên phía này hay phía kia.
Lysander và Gabriel đã đắm chìm vô bài của mình. Charlie kéo ghế ngồi cạnh Gabriel, với Emma ngồi phía bên kia nó. Khi Charlie đặt sách xuống bàn, Gabriel ngước lên và tròn mắt, ngoắc đầu về hướng Olivia. Charlie cười khì và nhún vai. Gabriel nhíu mày. Charlie lại cười.
“Không làm mặt khỉ nữa, hai đứa kia,” Manfred nhắc. “Nếu muốn chào đón thành viên mới thì hãy làm một cách hợp lý.”
Gabriel và Charlie dòm nhau. Chẳng đứa nào hó hé gì.
Manfred thở dài. “Vì lợi ích của bọn bay và của tất cả mọi người khác, ta chính thức thông báo Olivia Vertigo đã gia nhập thành phần ưu tú của chúng ta. Olivia là một người tạo ảo ảnh, một điều cô ta đã giữ riêng cho mình trong một thời gian, nhưng giờ thì tài phép của cô ta đã công khai, chúng ta mong chờ cô ta sẽ chỉ sử dụng nó khi học viện Bloor yêu cầu.”
Tất cả mọi người trố mắt nhìn Olivia, con bé điềm nhiên chẳng màng gì đến ai. Nó cứ cúi xuống bài tập của mình, ngoáy viết lia lịa.
“Ngài có nghĩ rằng Olivia có thể chỉ cho chúng ta thấy, chỉ một lần thôi, người tạo ảo ảnh có thể làm gì?” Joshua hăng hái rít lên.
Manfred cân nhắc trước khi trả lời, “Ta không thấy tại sao lại không.” Hắn quay qua Olivia. “Olivia, chỉ cho chúng thấy đi.”
Đầu Olivia ngẩng lên. vẻ mặt nó hơi hoang mang.
“Một ảo ảnh, Olivia, hãy vui lòng.” Manfred dằn từng từ một như thể Olivia bị điếc.
Olivia chớp mắt, và rồi ngước lên trần nhà. Khi con bé thả ánh nhìn trở lại bàn, ngay lập tức một công viên bảo tồn thu nhỏ hiện ra. Cát phủ kín mặt bàn bóng nhoáng, trong khi cây bụi và những cây keo mọc túa ra từ những quyển sách và những hộp viết chì. Trước đây Charlie đã từng thấy nhiều ảo ảnh to-hơn-thật của Olivia, nhưng hôm nay con bé chọn cảnh thơ mộng, làm mê đắm lòng người hơn là cảnh kinh dị. Lẫn trong rừng cây, những con thú nhỏ xíu được trông thấy: voi, hươu cao cổ, sư tử, ngựa vằn và nhiều loài thú khác. Những tiếng rống, tiếng gầm gừ, tiếng rú được nghe thấy loáng thoáng khi sư tử đuổi theo con mồi và bầy chim tí xíu vỗ cánh bay khỏi cành.
Tất cả mọi người im lặng trầm trồ ngắm khung cảnh đó. Tuy nhiên Charlie không thể cảm thấy bị mê hoặc với vẻ lạnh như đá trên gương mặt trơ trơ của Olivia, một vẻ rỗng không băng giá. Nó có thể thấy vật gì sáng lóe chỗ khoảng hở giữa tấm áo chùng màu tím của con bé. Olivia thường quàng khăn hoặc mặc áo ghi-lê có đính kim sa, nhưng sao ở đây có gì đó khang khác. Thỉnh thoảng con bé co giật vai, như thể bộ quần áo quá nặng đối với nó vậy.
“Đủ rồi,” Manfred ra lệnh.
Cảnh thiên nhiên kỳ diệu biến đi, Dorcas và chị em sinh đôi vẫn nhìn Olivia trừng trừng, thán phục.
Joshua khen, “Giỏi lắm!”
“Tiếp tục làm bài đi,” Manfred quát.
Sách, tập được mở ra và những cái đầu cúi xuống. Những bút chì và bút mực lại đưa tới đưa lui, nhưng Charlie không thể tập trung được. Nó thấy mình cứ nhìn đau đáu vô bức chân dung viền vàng treo trên tường. Đó là bức chân dung cổ của Vua Đỏ, đã nứt nẻ và tối sậm lại vì thời gian. Những đường nét trên mặt nhà vua đã mờ nhưng tấm áo chùng đỏ ngài mặc vẫn rực rỡ và chiếc vương miện vàng tinh xảo ngự trên mái tóc đen của ngài trông hệt như thật.
Trước giờ Charlie vẫn hay cố chu du vô quá khứ để gặp vị tổ tiên này của mình, nhưng mọi cố gắng của nó đều bị chặn lại bởi cái bóng đứng đằng sau nhà vua. Thầy bùa bá tước Harken đã tìm cách chêm cái bóng của hắn vô bức tranh. Đó chính là cái bóng đã bắt giữ Billy vô xứ Badlock.
“Đã bao nhiêu lần tao bảo mày không được nhìn vô bức chân dung đó rồi hả?” Giọng lạnh như thép của Manfred xông ào vô óc Charlie.
“Tôi đang làm tính,” Charlie trả lời.
Trước khi Manfred buông lời châm chích cay độc nữa Lysander nói, “Tại sao bức chân dung ở đó nếu chúng tôi không được phép nhìn vô đấy?”

Bị mất cảnh giác, Manfred nhìn sững vô Lysander á khẩu. Anh người Phi châu, tận dụng lợi thế của mình và tiếp, “Chúng ta đang ngồi trong phòng của Vua Đỏ, ngài là tổ tiên của chúng ta; không có nhà vua thì chắc chắn chúng ta đã không có mặt ở đây. Vậy ngài không thấy lố bịch sao, thưa ngài, rằng chúng ta được lệnh là không bao giờ được ngắm nhìn bức chân dung đó?”
Thật hả dạ làm sao khi thấy bộ mặt giận tím tái, ngờ vực của Manfred. Trong tất cả những đứa trẻ được ban phép thuật, chỉ mỗi Lysander là có thể khiến Manfred nể sợ. Anh có thể triệu hồi những tổ tiên tâm linh của mình, không phải là ảo ảnh, mà là những chiến binh ẩn hiện có thể vung gươm đâm thẳng vô tim người ta.
Tất cả đám trong phòng chờ coi Manfred phản ứng thế nào. Cuối cùng thầy Giám sát Tài phép vọt ra một câu bình phẩm hèn hạ, “Tao hy vọng không thấy mày lâm vào tình thế chết dở như bạn mày,” hắn nói, liếc nhìn Dagbert-kẻ-dìm-chết-người.
Tất nhiên Manfred đang ám chỉ tới Tancred, xem ra Dagbert không nghe thấy lời hắn nói. Mắt thằng này như có một bức màn che phủ, và Charlie đoán là nó đang nghĩ về những linh vật biển của nó.
Quàu quạu ngó Dagbert, Manfred quát tất cả đám trở lại làm bài đi.
Từng phút tích tắc trôi qua. Sau gần hai tiếng đồng hồ im lặng, bọn trẻ được ban phép thuật thu dọn bài tập về nhà của chúng và trở về phòng đi ngủ.
Ở phòng ngủ chung của nữ sinh, Olivia cởi áo chùng tím của nó ra, để lộ tấm áo gi-lê bằng nhung chi chít những vòng tròn phát quang, nhấp nháy.
“Đẹp quá há,” Emma tấm tắc.
Olivia nhếch mép cười với cô bé và lững thững đi vô nhà tắm. Emma choàng áo ngủ vô và liền đi theo Olivia. Dorcas Loom đang ngồi trên giường nó ở ngay gần cửa ra vào. Con này mặc váy ngủ màu hồng, bèo nhún lồng phồng và đang cố chải cho thẳng mái tóc vàng quăn tít. Khi Emma đi ngang giường nó, Dorcas nói khẽ, “Có gì trục trặc với bạn mày à?”
Emma dừng lại và nhìn Dorcas, con này sủa, “Cái gì ăn thịt mày đó?” và bất giác Emma hiểu ra rằng Olivia đã bị bỏ bùa bởi chiếc áo ghi-lê choáng lộn kia. Bởi vì đó là tài phép của Dorcas – và cũng là thứ mà bà cô Venetia của Charlie luôn kiêu hãnh. Chắc chắn cả hai đã đồng lõa tạo ra cái áo kia.
Emma chạy vô buồng tắm. Olivia đang chải tóc trong gương. Con bé đã cởi áo gi-lê ra và mặc bộ đồ ngủ của nó vào, và giờ cái áo lóe chóe đang vắt trên một chiếc ghế. Chộp lấy cơ hội của mình, Emma vồ lấy nó.
“ĐỪNG ĐỤNG VÔ!” Móng tay dài của Olivia cào vô lưng bàn tay Emma. Trong khoảng khắc, Emma kháng cự. Cô bé giữ chặt cái áo, nhưng Olivia, giơ bàn chải lên và đập thẳng cánh vô khớp đốt ngón tay của Emma.
Emma buông tay, thét lên đau đớn và Olivia hấp tấp khoác tấm áo gi-lê trùm ra ngoài bộ đồ ngủ của nó. “Cấm làm thế nữa đấy,” nó hục hặc.
Emma theo Olivia trở lại phòng ngủ chung. Cô bé nhìn bạn mình leo lên giường, vẫn mặc cái áo gi-lê. Chiếc áo cạ sột soạt vô chăn và tấm trải giường, và Emma nhún vai nói, “Chúc ngủ ngon, Liv!” Olivia không đáp, chỉ quay đi, nhắm mắt lại.
Sau khi có lệnh “Đèn tắt”, Charlie và Fidelio đi vô buồng tắm, nơi chúng có thể yên ổn nói chuyện. Fidelio không được ban phép thuật nhưng cậu luôn là người bạn trung thành của Charlie. Ngồi vắt chéo chân dưới nền nhà tắm bên cạnh Charlie, cậu lắng nghe, với sự choáng sốc, kể về ngày cuối tuần nghiệt ngã của thằng bạn thân nhất của mình.
“Anh chưa bao giờ nghe về chuyện có người bị giết,” Fidelio thì thào. “Tội nghiệp cụ Bittermouse quá.”
“Chắc là trên tất cả các tờ báo sáng nay đều đăng rồi,” Charlie nói. “Nhưng tay kiếm sĩ phải trở lại bức chân dung của y trước khi ai đó có thể bắt được y.
“Em có nghĩ…” Fidelio bắt đầu.
Cửa phòng tắm bật mở và Dagbert Endless ngó vô. Charlie nhận thấy thằng này đang run lẩy bẩy, nó bèn tự hỏi liệu hai đứa nó có sắp bị nhận chìm trong một ảo ảnh dưới nước của Dagbert hay không.
Dagbert bước vô nhà tắm, đóng cửa lại thật nhẹ đằng nó và đến ngồi phịch xuống bên cạnh Charlie. Một quãng im lặng dài trong khi cả Charlie lẫn Fidelio đang cố nghĩ ra cái gì đó để nói. Mùi tanh cá thường đeo bám quanh Dagbert đã được thay thế bằng mùi tảo biển – một mùi buồn bãng lãng và thô nồng.
Sau khi mấy vài giây im thít trôi qua, Dagbert nói, “Tao xin lỗi.”
Charlie quay qua nhìn nó. Trong ánh sáng lờ nhờ từ cửa sổ rọi vô, Dagbert hiện hình màu xanh tái.
“Mày nói mày xin lỗi về việc Tancred à?” Fidelio hỏi.

Dagbert gật đầu. “Về Tancred và về những điều cha tao sắp làm. Ông ta mang Quả cầu Đại Dương đến đây với chủ ý nhằm dìm chết ba mẹ của mày đó, Charlie.”
“Tao biết,” Charlie nói.
“Mày biết?” Hình như Dagbert ngạc nhiên. “Tao… tao xin lỗi. Nếu tao có thể ngăn ông ta thì tao sẽ làm, nhưng tao chưa đủ mạnh. Và nếu tao cố thử mà không có những linh vật biển bằng vàng, thì quả cầu đó sẽ nuốt tao. Cha tao thường hay cảnh báo tao điều đó sẽ xảy ra.”
“Còn nếu mày có những linh vật biển thì sao?” Fidelio hỏi. “Lúc đó mày có thể phá hủy Quả cầu Đại Dương không?”
Dagbert nhún vai và rồi nó nói, “Tao không giống như bọn chúng, mày biết đấy. Tao không theo Manfred, Joshua và những người nhà Bloor.”
“Tao đã không nghĩ mày theo bọn họ,” Charlie nói khẽ.
“Đôi khi tao không thể cưỡng lại được… những gì tao làm,” Dagbert tiếp tục bằng giọng tuyệt vọng. “Tao chỉ thấy khi mình tức giận hay… hay sợ hãi, thế là thế giới tất cả biến thành nước xung quanh tao.”
“Này, Dagbert,” Charlie nói. “Tao tình cờ biết là Joshua đang rắp tâm tìm những linh vật biển bằng vàng của mày, cho dù mày giấu chúng ở đâu. Tao sẽ làm tất cả những gì tao có thể để ngăn chặn hắn, nhưng… có lẽ tao không thể.”
“Chúng…” Dagbert bắt đầu.
“Đừng nói ra với tao,” Charlie gắt. “Manfred có thể sẽ cố moi điều đó từ tao.”
“Ừ.”
Fidelio bảo cả bọn nên đi ngủ trước khi bị chết cóng. Phòng tắm ở học viện Bloor là một trong những phòng lạnh nhất tòa nhà.
Charlie tỉnh giấc cảm thấy hôm nay sẽ là một ngày khó khăn. Một cái liếc mắt thấy vẻ mặt bạt vía của Dagbert nhắc nhở nó phải canh chừng từng động tĩnh của Joshua Tilpin. Điều đó không dễ gì. Joshua học năm nhất, Charlie học năm hai. Joshua học hội họa, không phải âm nhạc. Nó ăn ở căn-tin khác, thay giày trong phòng để áo khoác khác và tập hợp ở một nhóm khác. Charlie chỉ có thể hy vọng Dagbert giấu những linh vật biển ở ngoài trời.
Dagbert đã làm đúng như thế. Joshua sục sạo trong giờ nghỉ giải lao đầu tiên. Nó đã tập suốt với mấy món nữ trang của mẹ nó từ trước, và giờ nó hơi tự tin mình có thể hút được vàng. Nhưng phải bắt đầu từ đâu? Nó phải có một chút manh mối bóng gió về chỗ những linh vật biển bằng vàng có thể được cất giấu.
Cuối cùng chính Dagbert mới là đứa buông xuôi trận đấu. Xem ra nó rơi vào trạng thái bất an nếu không có các thứ bùa ấy, và lo lắng thắc thỏm cho chúng đến độ nó bắt đầu ngong ngóng về phía chúng.
Tuyết trải ngoài sân chơi đã biến thành một ao bùn loãng do ba trăm cặp chân dẫm xéo. Nhưng vẫn có vài đứa trẻ không thể từ bỏ cố gắng lần cuối nặn những trái banh tuyết. Joshua và chị em sinh đôi nhà Branko ở trong số đó. Nhưng trong khi bốc những nắm nước đá lõng bõng, Joshua vẫn liêng liếc con mắt tới chỗ Dagbert.
Charlie đang chơi đá bóng quanh đó với Emma và Ridelio. Trông Emma rầu rĩ. Olivia không biết biệt tăm biệt tích ở đâu. Charlie hơi xoay người ra coi Joshua có còn đang chơi với chị em sinh đôi nhà Branko hay không và thấy nó không còn ở đó nữa. Vậy nó lỉnh đi đâu rồi?
“Joshua đâu?” Charlie hét lên.
Fidelio chỉ một dáng hình tí tẹo đang lén lút đi tới lâu đài.
“Thôi, em đi đây,” Charlie bảo.
“Để anh đi cùng em,” Fidelio đề nghị.
Charlie lắc đầu. “Không nên. Vậy thì quá lộ liễu.”
“Chuyện gì thế?” Emma nôn nóng hỏi.
Fidelio nhăn nhó. “Một phút nữa sẽ nói cho em biết.”
Cố tỏ ra tỉnh rụi, nhưng dấn bước tăng tốc bất cứ khi nào nó nghĩ là không có ai nhìn thấy, Charlie hộc tốc đi theo Joshua. Vừa kịp thấy thằng đó biến mất dưới ô cửa vòm lớn màu đỏ, nó chờ vài giây rồi phóng thục mạng theo. Joshua đã lại biến mất rồi. Charlie chới với đứng ngó năm cổng vòm khoét trong một bức tường đá, tất cả đều dẫn vô khu đổ nát. Charlie trước kia đều đã từng đi qua tất cả những ô vòm này. Nó biết mái vòm chính giữa dẫn trực diện vô lâu đài, trong khi bốn ô hai bên là những đường hầm lắt léo dẫn tới những ngõ ngách mịt mùng của khu đổ nát. Nhưng Dagbert và Joshua đã đi lối nào?
Một tiếng thét vang dội đường hầm ở mép ngoài phía bên trái. Charlie rên lên. Dagbert đã chọn lối vô khó nhất. Không còn cách nào khác ngoài việc phải đi theo nó. Khi Charlie phi thân vô đường hầm thì lại có một tiếng thét nữa vọng ra, lần này kinh rợn hơn lần trước. Đó là tiếng thét khiếp vía và tuyệt vọng.
Trượt lên trượt xuống đường hầm ẩm ướt, rêu mốc, Charlie dò dẫm tìm bức tường để làm điểm tựa, nhưng gạch ở đây nhầy nhụa nấm mốc khiến nó cứ trơn tuồn tuột, khi thì ngã khụy gối lúc thì té bò càng. Cuối cùng nó thòi ra một bờ đất đầy tuyết. Cây cối cao vút hai bên nó than thở với một cơn gió bất thần thổi tung, phả ra mùi của biển.
Bên dưới Charlie, trong một vũng tuyết lỏng, Dagbert và Joshua đang vật lộn quanh một tảng đá lớn đen sì.
Nằm dưới mặt đất láng trơn là bảy con linh vật biển, Dagbert chắc hẳn đã giấu chúng ở dưới tảng đá kia, nhưng Joshua đã bới chúng ra khỏi chỗ giấu, Charlie nhận định như vậy.

Charlie tuột vội xuống bờ dốc. Khi nó rơi xuống đáy, Joshua bất ngờ đẩy Dagbert một cái và Dagbert rơi tõm vô vũng tuyết.
“Của tao!” Joshua thét lác, giơ cao bàn tay ra và những linh vật biển bằng vàng bị hút cả về phía nó. Nó bụm bàn tay lại và bắt đầu chạy lên bờ dốc.
“Không, mày không được lấy!” Charlie thét, tóm lấy mắt cá Joshua.
Joshua tuột xuống, la chói lói vì đau.
“Thả những cái bùa đó ra, Joshua Tilpin,” Charlie quát, bám chắc lấy Joshua. “Chúng không phải là của mày.”
“Chúng cũng không phải của mày,” Joshua gào rống. “Buông tao ra, Charlie Bone.” Nó đá vung chân kia một phát, trúng ngay mũi Charlie. Máu ộc ra đằng miệng nó, buộc nó phải buông mắt cá Joshua ra.
Dagbert lao tới Joshua và chụp lấy hai bàn tay thằng này. Nó vạch những ngón tay mềm như bún, cố nậy cho chúng mở ra, nhưng đám linh vật biển dính chặt vô lòng bàn tay Joshua như những con sao sao.
“Trả chúng lại cho tao!” Dagbert thét, bóc con cá ra khỏi da của Joshua, trong khi thằng nhóc con quằn quại như con lươn. Charlie đứng dậy và quệt mũi vô ống tay áo. Máu giờ rỏ ròng ròng xuống áo lạnh của nó. Dagbert xé con cua ra khỏi lòng bàn tay đã mở của Joshua, nhưng bỗng dưng thằng người cá bắt đầu run lật bật như chiếc lá.
“Để tao lấy những cái còn lại,” Charlie bảo Dagbert “Nghỉ đi!”
Dagbert té vật ngửa ra, nắm thật chắc hai món bùa. Joshua lại bắt đầu leo lên bờ dốc, và Charlie sắp sửa tóm được nó thì không khí chợt như dao động và một ánh chớp xẹt ngang qua đầu tụi chúng, chém xuống đất một tiếng choang, xé tai.
Một thanh gươm dài oằn tới oằn lui, mũi gươm cắm phập xuống đất, cách bàn tay Charlie chỉ đôi ba phân.
“Cút đi, lũ trai thối tha,” một giọng nói vang lên. “Không sẽ nếm cơn thịnh nộ từ thanh gươm của ta.”
Charlie quay đầu qua, rất chậm, tá hỏa vì cái mà nó sẽ thấy. Và đó, đúng là Ashkelan Kapaldi, đang đứng trên tảng đá đen, hai tay chống nạnh và bộ mặt đính nụ cười ngạo mạn như trong bức chân dung.
“Đưa mấy cái bùa đó cho ta, Dagbert Endless,” Ashkelan khệnh khạng, chìa ra một bàn tay đeo găng.
Dagbert lắc đầu và áp chặt hai con linh vật biển vô ngực.
Ashkelan tắt ngóm nụ cười. “Rất tiếc,” hắn thở ra. “Gươm, hãy làm công việc của mi.”
“Dagbert!” Charlie thét khi thanh gươm búng lên khỏi mặt đất và lao tới Dagbert, mũi gươm chết chóc nhắm thẳng tim thằng bé. Dagbert nhảy giật lùi, nhưng thanh gươm truy nó sát ván. Charlie không dám nhìn nữa. Nó định nhắm mắt lại thì, trong một ánh chớp, một bà ngựa trắng phi nước đại ra khỏi rừng cây và một thanh gươm khác, do hiệp sĩ mặc giáp sáng loáng vung lên, chặn thứ vũ khí ti tiện kia lại, gạt nó sang bên.
“Hèn hạ, chết tiệt, hiệp sĩ chết dẫm!” Ashkelan rủa. “Ngươi đừng hòng có nó theo cách của ngươi.”
Thanh gươm của Ashkelan vồng lên thành một hình vòng cung và chẻ không khí bằng những cú chém vun vút. Nó nhắm cánh tay hiệp sĩ nhưng bà ngựa trắng bay né ngang né dọc.
Ba thằng bé ngồi co dúm trên bờ dốc, chết điếng và hồn siêu phách lạc, trong khi hiệp sĩ, với chùm lông chim đỏ bay phấp phới, và tấm áo chùng tuôn trải như một đám mây đỏ, tả xung hữu đột, gạt đỡ thanh gươm yêu ma. Ashkelan đứng trên tảng đá, hắn đang thét la một dòng thác mệnh lệnh không sao hiểu nổi, bỗng đột nhiên im bặt, chờ cho thanh gươm của mình lừa thế tìm một vị trí khả dĩ có thể tung ra đòn chí mạng.
Bà ngựa trắng quần thảo giữa Ashkelsn và bờ dốc, trong khi thanh gươm ma thuật lượn lờ bên rìa rừng, phía trên mấy thằng bé. Joshua sợ bủn rủn đến nỗi lỏng nắm tay ra và năm con linh vật biển còn lại rớt lả tả khỏi tay nó.
“Bùa kìa,” Charlie thì thầm.
Dagbert chộp lấy chúng.
Joshua thét lớn và chụp bàn tay Dagbert lại.
Hiệp sĩ Đỏ giật mình quay lại nhìn bọn chúng, tức khắc Ashkelan gầm lên một mệnh lệnh và thanh gươm bay chíu tới cổ họng hiệp sĩ. Hí lên một tiếng cảnh báo bà ngựa trắng chồm hai chân trước lên, giật hiệp sĩ ra khỏi đường gươm tàn mạt. Thanh gươm sẵn đà lướt sém qua móng guốc đang quơ quào của bà, đâm luôn vô ngực Ashkelan, ngay phía trên dây nịt da giữ cái bao kiếm của hắn. Tay kiếm sĩ ngã ngửa ra sau cùng với một tiếng rống, thanh gươm cắm sâu vô tim hắn.
Hiệp sĩ tháo bao tay sắt ra, vỗ vỗ bàn tay lên cổ bà ngựa trắng, xoa dịu bà tức thì. Ngài quay đầu qua và Charlie thấy mình đang ngó trân trân vô những lỗ hờ màu đen trên chiếc mũ giáp phẳng lì. Đôi mắt của ai đang nhìn ra mình thế kia? Nó tự hỏi. Có khi nào gương mặt đằng sau tấm mặt nạ thép kia biết nó?
Hiệp sĩ tra gươm vô vỏ rồi giơ tay lên chớp nhoáng, từ biệt bọn chúng. Bà ngựa trắng hí lên khi họ rời hiện trường, phi vùn vụt vô cánh rừng rậm của khu đổ nát.
Trong thoáng chốc, ba thằng bé đờ ra, không thốt nên lời, mãi rồi Charlie mới hét: “Chạy, Dagbert, chạy!”


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.