Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 12
CHƯƠNG 10: LỐI TIGERFIELD
Charlie ngồi trong nhà bếp, ăn cháo đặc. Nó cảm thấy như mình vừa mới chạy một quãng đường ma-ra-tông. Toàn thân nó ê ẩm và con mắt mở không lên. Ở phía bàn bên kia, Emma đang uống trà. Cô bé vừa mới kể xong chuyện những vị khách không mời mà đến tiệm sách của dì mình cho Charlie nghe, và lúc này, với một chút hối hả cô bé đang lặp lại lời mô tả của bà bếp trưởng về Quả cầu Đại Dương.
Mắt Charlie nhướng lên, chỉ mở được hi hí. “Thì ra đó là cách thức của hắn,” nó vừa lầm bầm vừa ngáp.
“Xem ra bồ không hề ngạc nhiên.” Emma tỏ vẻ thất vọng.
“Sau ngày hôm qua thì chả có gì làm mình ngạc nhiên được nữa,” Charlie nói. “Mình đã bị chọc và bị thẩm vấn, bị tượng phù điêu nhắm bắn, rồi lại bị một gã điên đốt mém cháy, ngã từ trên bức tường cao ba mét xuống và bị một thanh gươm dí trối chết.”
Ngoại Maisie ngừng tay ủi đồ và thở dài một cái não nề. “Chúng ta phải rời khỏi thành phố thôi,” bà tuyên bố. “Đây không còn là một nơi bình thường nữa. Quá nguy hiểm. Ngay khi ba mẹ con trở về, Charlie à, chúng ta sẽ khăn gói ra đi.”
“Không được đâu ạ,” Emma nói. “Phải đợi đến lúc tất cả ngã ngũ đã. Chúng ta phải làm điều đó.”
“Chúng ta?” Ngoại Maisie dằn mạnh cái bàn ủi xuống một ống tay áo sơ mi xui xẻo. “Bà nghĩ là ý cháu muốn ám chỉ Những hậu duệ của Vua Đỏ. Hừ, theo bà thì một nửa mấy người đó đang gây ra tất cả những rắc rối này.”
“Chỉ một nửa,” Emma chỉ ra. “Chính vì vậy mà nửa kia phải ngăn chúng lại.”
“Hừm.” Ngoại Maisie tiếp tục ủi đồ, phang cái bàn ủi xuống một cái hoàn toàn mạnh hơn mức cần thiết.
Emma nhìn bà một thoáng, rồi hướng ánh mắt vô Charlie, lúc này đang gục đầu vô tay và lại ngáp. “Hơn nữa,” cô bé cương quyết, “hôm nay tụi mình phải làm một việc trước khi quá trễ. Ngày mai tụi mình trở lại trường và mọi việc sẽ càng ngày càng khó khăn hơn. Mình không biết tụi mình sẽ đối phó với Lord Grimwald như thế nào. Mình đành phải gạt nó ra khỏi đầu mình cho tới khi chúng ta xử lý xong vấn đề chiếc hộp.”
Charlie nhớ lại Emma đã nghỉ học không đến trường nguyên cả tuần rồi. Thảo nào cô nàng mạnh miệng đến thế. “Bồ có gặp Tancred không?” Nó hỏi.
Emma đỏ mặt. “Việc đó liên quan gì tới bất kỳ việc khác?”
Charlie nhún vai nhưng không thể không cười ngoác ra. “Mình chỉ hỏi thôi.”
Cơn đỏ mặt của Emma dường như lan tới tận chân tóc cô bé, nhưng nó vẫn nói tiếp, hùng hồn hơn. “Hừm, bồ sẽ đi gặp cụ Bittermouse với mình chứ?”
“Cái gì?” Charlie nói thủng thẳng. “Tại sao?”
Emma nhoài người qua bàn, trông linh lợi hơn bao giờ Charlie từng thấy. “Mình đã nghĩ thế này, bồ biết không. Cụ Bittermouse là một luật sư và cụ ấy biết ba của bồ, vì vậy có lẽ ba của bồ đã đưa cho cụ chiếc hộp, với bản di chúc ở trong đó luôn.” Cô bé xòe rộng hai bàn tay ra, “ý mình là còn gì rõ ràng hơn nữa? Dì Julia cũng đồng tình với mình.”
“Bồ có nghĩ là bọn chúng không hề nghĩ đến điều đó?”
Trong một thoáng, vẻ cương quyết của Emma dường như xìu đi, và cô bé nói, “Có lẽ. Nhưng nó cũng đáng thử một phen.”
Charlie thở dài và liếm cái muỗng. Đáng ra nó sẽ ăn một tô cháo nữa, nhưng nó bằng lòng thay thế bằng một muỗng mật ong thật đầy, để nếm náp từ từ trong khi Emma kể trơn tru tên của tất cả những đứa mà qua cô bé đã gọi điện trước khi đi đến nhà nó. Olivia ở nhà suốt cả ngày với ba mẹ, Fidelio đang chơi violin trong một buổi hòa nhạc, Gabriel “đang làm điều quan trọng gì đó” cùng với Lysander và Tancred ở trong ngôi nhà hoành tráng của Lysander tại khu Đồi Cao.
“Vậy là chỉ còn mỗi tụi mình,” Emma nói xong, muốn nín thở luôn.
“Ừ.” Charlie lưỡng lự rồi đứng lên. “Để mình lấy áo khoác đã.”
“Không được, Charlie Bone. Vậy là không ổn.” Ngoại Maisie buông bàn ủi rơi xuống cái kịch và lật đật bước ra đứng chặn trước cửa bếp. “Bà cấm con ra khỏi nhà hôm nay. Ba mẹ con sẽ không bao giờ tha thứ cho bà nếu có gì xảy ra với con.”
“Nhưng bà Jones…,” Emma bắt đầu.
“Đừng gọi ta là bà Jones, Emma Tolly,” ngoại Maisie nói. “Ta kinh ngạc về cháu đấy, sau tất cả những gì Charlie đã phải chịu mà cháu còn dám lôi kéo nó đi tới những con đường nguy hiểm.
Vụ này làm Charlie lúng túng. “Ngoại Maisie,” nó gào lên. “Con không phải là con nít!”
“Không con nít thì là gì,” ngoại Maisie quát lại.
Charlie không thích tranh cãi với ngoại Maisie, nhưng nó ghét bị coi là yếu đuối, và một cảnh tượng ngán ngẩm có lẽ sẽ xảy ra tiếp theo nếu như chiếc xe thùng của ông cậu Paton không đỗ xịch lại bên ngoài nhà.
Ông cậu của Charlie trông phờ phạc khi ông vô nhà. Ngoại Maisie hỏi ông đã đi đâu nhưng ông chỉ lắc đầu, bảo với bà là chuyện dài lắm, lại chẳng phải là chuyên đáng hài lòng. “Tôi sẽ phải đi Ai-len đây,” ông lầm bầm, trước khi uống ực một tách cà phê đen thật lớn.
Charlie nhận ra ông cậu mình mang vẻ “đừng-hỏi-ta-thêm-câu-nào-nữa” quen thuộc trên mặt, vì vậy nó ngồi xuống cạnh ông ở bên bàn và thuật lại tất cả những gì đã xảy ra trong ngày hôm trước. Rốt cuộc, nó cũng nhận được phản hồi từ ông cậu – ông chóng vánh tự rót cho mình một tách cà phê nữa rồi phán ngay, “Giờ ta thấy là con không nên ra khỏi nhà nữa. Cái bọn côn đồ đó quá tàn độc,” ông gãi cái cằm không cạo râu của mình. “Ta phải ráo riết tìm hiểu thêm về bản di chúc.”
“Con có ý này,” Emma nói. Nhưng trước khi nhắc tới cụ Bittermouse, cô bé lặp lại lời kể của bà bếp trưởng về Quả cầu Đại Dương và uy lực khủng khiếp của Lord Grimwald.
“Ta đã không thể tưởng tượng ra cách thức hành động của hắn như thế nào,” Ông cậu Paton lầm bầm, và một nét đau khổ thoáng sượt qua mặt ông. “Ta không thể liên lạc được với Lyell. Mọi hình thức thông tin ta thực hiện dường như đều hư hỏng cả. Có một ông chủ bến cảng, nhưng ông ấy đã bỏ địa chỉ cũ rồi, còn thuyền trưởng của con tàu đưa thư giùm ba mẹ con thì lại biệt tông tích cả tháng nay. Nhưng cũng có một tia hy vọng. Viên thủy thủ đi với họ trong một tua du lịch đã nói rằng mới đây anh ấy đã nhận chuyển thư giùm cho Lyell, anh ấy bảo sẽ cố liên lạc với ba của con lần nữa.”
“Con vừa nhận được một tấm bưu ảnh của ba mẹ,” Charlie nói. “Chỉ cách đây một tuần. Hình một con cá voi nữa. Ngày ghi trên đó đã bị mờ.”
“Nhưng ông không thấy sao?” Emma nói, bóp chặt hai tay lại bức bối. “Nếu chúng ta tìm ra chiếc hộp đó thì Lord Grimwald sẽ không cần phải dìm chết ai nữa.”
“Trừ phi hắn thích làm thế,” Charlie nói.
“Chúng ta phải cố.” Emma rền rĩ mất kiên nhẫn. “Làm ơn đi, ông Yewbeam, làm ơn đi, ông đi với tụi con tới gặp cụ Bittermouse nha? Cụ ấy là luật sư. Cụ ấy biết ba của Charlie. Luật sư thường hay dàn xếp di chúc, phải không?
“Một phát súng cầu may đó, Emma.” Ông cậu Paton mỉm cười khổ sở với cô bé. “Nhưng sáng nay ta đến tiệm sách và tiện thể sẽ ghé qua cụ Bittermouse.”
“Cảm ơn…” Emma định nói.
“Nhưng,” Ông cậu Paton giơ tay lên, “không phải trước khi ta ăn sáng và tắm táp cái đã.”
“Cảm ơn ông.” Emma ngồi xuống, mệt rũ vì những cố gắng của mình. “Vậy bây giờ Charlie có thể đi được không?” Cô bé hỏi ngoại Maisie.
“Để xem đã.” Ngoại Maisie chuẩn bị nấu bữa điểm tâm cho Ông cậu Paton trong khi ông đi lên lầu. Lúc đi xuống trông ông sạch sẽ và mặc áo jacket nhung màu xanh da trời, thắt một cái cà vạt mới màu đỏ.
Emma và Charlie kiên nhẫn chờ trong khi Ông cậu Paton ăn một đĩa tú hụ những thịt muối, cà chua, măng tây, nấm rơm, trứng và đậu. Sau hai lát bánh mì quết mứt cam, một cái bánh sừng bò và tách cà phê thứ ba, Ông cậu Paton đứng lên khỏi bàn và nói, “Cảm ơn, bà tử tế quá, bà Maisie,” rồi đi ra hành lang, lấy chiếc khăn quàng xám quấn quanh cổ, đội chiếc nón phớt đen và khoác chiếc áo len dài vô.
Những bông tuyết mỏng mảnh đang bay trên không, sương giá vẫn còn vương trên cỏ và những hàng rào. Charlie quấn xù xụ trong chiếc khăn quàng dày mà ngoại Maisie mua làm quà Giáng sinh cho nó. Hẳn nhiên là nó khoái ở nhà hơn, nhưng làm sao nó có thể bỏ qua bất kỳ cố gắng nào hòng cứu cha mẹ. Một lần nữa nó lại chìm ngập trong nỗi lo âu và những ý nghĩ chẳng lành. Tại sao ba nó tại đi xa như thế khi mà thành phố đang lâm vào tình trạng rối ren? Hay là ba nó đã bị thôi miên quá lâu và giờ quá yếu đuối đến nỗi khổng thế đương đầu với bất kỳ nguy hiểm nào? Không. Bởi vì đại dương là nơi hiểm họa hơn nhiều.
Charlie mải đắm chìm suy nghĩ đến độ nó ngớ cả người ra khi thấy đoàn của mình đã đến con đường nơi cụ Bittermouse sống. Một chiếc xe dọn nhà to đùng đậu bên ngoài nhà của cụ luật sư, một bên bánh xe ghếch lên vỉa hè và choán bít đường đi của họ. Con đường rải sỏi hẹp đến mức ông cháu phải ép mình đi qua đằng phía bên kia của chiếc xe.
“Ta chắc chắn thế này là đậu xe bất hợp pháp,” Ông cậu Paton thở hổn hển khi ông lách ngang người, cố tránh quệt vô bùn đất bắn đầy trên hông chiếc xe.
Khi tất cả đã đi qua, họ khám phá ra chiếc xe này không đậu bên ngoài nhà cụ luật sư mà đậu ở trước nhà hàng xóm của cụ. Tại đây bao nhiêu hoạt động đang tất bật diễn ra. Hai cánh cửa sau xe thùng mở toang và năm sáu người đàn ông dọn nhà, tất cả mặc áo bảo hộ liền quần, đang đẩy đồ đạc lên thang dốc dẫn vô xe thùng.
“Ai đó chuyển nhà à?” Charlie nhận ra đây là một câu hỏi ngớ ngẩn bởi vì rõ ràng là có người đang dọn nhà.
“Chúng tôi đấy.” Một phụ nữ trẻ ẵm trên tay một đứa trẻ sơ sinh đứng ở khung cửa. “Không chậm hơn tôi dự tính một khoảnh khắc nào đâu.”
Ông cậu Paton chạm tay vô mũ và nói, “Tôi là Paton Yewbeam. Có chuyện gì xảy ra vậy?”
“Có gì ư?” Người phụ nữ trẻ nói. Cô hất đầu về phía ngõ rẽ vô đường Piminy, gần đối diện đó. “Bọn ma cà bông ở đường Piminy đã khiến cho cuộc sống của chúng tôi trở nên khốn khổ. Tôi không thể chịu đựng thêm chút nào nữa. Những sinh vật bằng đá phang cửa rầm rầm vào đêm hôm, những tiếng hát, tiếng cười như từ địa ngục mà tôi chưa từng bao giờ nghe thấy. Dơi đầy nhóc trong ống khói. Những con mắt rừng rực ngó qua cửa sổ. Thật là… thật là…”
“Ác mộng,” Emma đỡ lời.
Người phụ nữ nhăn mặt. “Đúng, ác mộng.”
“Tôi xin lỗi.” Ông cậu Paton lộ vẻ thắc thỏm. “Nếu có gì…? Nhưng, thôi, chị sắp sửa dọn đi rồi.”
“Vâng.” Người phụ nữ trẻ cuối cùng cũng mỉm cười. Cô đứng dạt qua bên khi chiếc nôi của em bé được đẩy qua cửa. “Tôi là Lucy Palmer và đây là Grace.” Cô cầm tay đứa bé giơ lên. “Chúng tôi đã tìm được một chỗ xinh xinh cách đây một trăm dặm, và chúng tôi sẽ không bao giờ trở lại nữa.”
Một người đàn ông trẻ trông vẻ mặt tươi vui đi qua cửa, tay xách theo một chiếc ghế xích đu. “Xong cả rồi, Luce, chú ấy nói. “Chúng ta có thể đi ngay thôi, “Ồ, xin chào! Chú ấy cười toe toét với Ông cậu Paton và bọn trẻ.
Sau màn giới thiệu khắp lượt, Ông cậu Paton giải thích là họ dự định tới thăm cụ Hector Bittermouse, người sống ở sát bên nhà cô chú.
“Không còn ở đó nữa,” người đàn ông trẻ nói, tên chú ấy là Darren. “Cụ ấy đã chuyển đi cách đây một tuần cùng với một nửa hàng xóm rồi. Ai mà muốn sống tại một nơi có bọn chúng ở trên bậc cửa cơ chứ?” Chú này cũng hất đầu về phía ngõ quẹo vô đường Piminy.
Đây là tin xấu, nhất là đối với Emma. Cô bé đã hy vọng tràn trề. Nhưng không phải đã mất tất cả khi Charlie nhớ ra cụ Hector Bittermouse có một người anh, tên là Bamaby Bittermouse, sống ở nhà số 10 đường Tigerfield.
“Charlie, trí nhớ của con thật xuất sắc,” Ông cậu Paton kinh ngạc nhận xét.
“Đó chẳng phải là thứ người ta có thể quên được,” Charlie lầu bầu.
Darren nghĩ chú ấy biết một con đường tên là đường Tigerfield. Chú chỉ tới quảng trường Nhà Thờ Lớn, nói cho họ biết đó có thể là một trong những ngõ hẻm chật hẹp cách xa đường. “Tôi không chắc lắm. Tôi nghĩ nó còn có cái tên khác, đại loại ngõ hay hẻm Tigerfield gì đó.”
Ba ông cháu chào tạm biệt Lucy, Darren, Grace và chúc họ may mắn ở nhà mới. Sau đó cả đoàn lại rẽ trở ra ngõ Nhà Thờ Lớn. Trên đường họ phải đi ngang qua tiệm sách và Ông cậu Paton đang định tạt vào thăm cô Ingledew thì Emma níu lấy tay ông mà bảo, “Không phải bây giờ, ông Yewbeam. Chúng ta phải đi tìm cụ Bittermouse kia trước đã.”
Ông cậu Paton nhíu mày. Giọng nói của Emma hình như cảnh báo điều gì đó trục trặc. “Dì của con có ổn không?” Ông hỏi.
“Ổn, nhưng…” Emma ngần ngừ. “Dì con vừa mới bị trộm đột nhập.”
“Cái gì?” Ông cậu Paton bàng hoàng đứng sựng lại giữa đường. Sao con lại quên không nói cho ta biết? Ta phải đến chỗ cô ấy ngay lập tức.” Nói đoạn ông sải bước dài về phía tiệm sách.
“KHÔNG!” Emma thét to, lớn đến nỗi Ông cậu Paton dừng khựng lại lần nữa. “Dì không muốn… dì không cần ông ngay lúc này. Thật ra dì không hẳn bị trộm, mà dì chỉ…”
“Cái gì?” Ông cậu Paton hỏi dồn. “Bị trộm hay không bị trộm.”
“Không,” Emma nói cụt lủn. “Chỉ là bọn côn đồ ghé vô. Nhưng dì ỔN. Làm ơn tới đường Tigerfield được không?”
Charlie đứng nhấp nhỏm hết chân này tới chân kia, xoa xoa hai tay vào nhau. “Trời lạnh quá, Ông cậu Paton. Chúng ta đi tiếp được không?” Nó bắt đầu băng qua quảng trường rộng trước Nhà Thờ Lớn, với Emma xăng xái đi bên cạnh, ông cậu Paton lần khần đi theo chúng. Liếc trở lại, Charlie thấy mặt ông nhăn nhó, nó tự hỏi phải chăng điều đó có nghĩa là Emma ngụ ý rằng dì của cô bé không muốn gặp ông.
Một cánh cổng nhỏ bằng sắt rèn dẫn ra khỏi ngõ Nhà Thờ Lớn và đi vô một con hẻm mang tên hẻm Thắt Cổ. Charlie nhớ lại Billy Raven đã có lần bị giam ở một trong những ngách tối tỏa đi từ hẻm Thắt Cổ này. Emma cũng nhớ như vậy. Cô bé rùng mình trước ý nghĩ về Billy tội nghiệp, đã bị giam lỏng đằng sau màn từ trường của một gã quái ác tên là de Grey.
“Kia rồi!” Ông cậu Paton thông báo. Ông chỉ tấm biển chỉ đường gắn trên một bức tường rẽ vô một ngõ tối, rộng chưa tới một mét.
“Lối Tigerfield,” Charlie đọc.
“Anh bạn trẻ đó chắc là đã gọi sai tên,” Ông cậu Paton lầm bầm. “Bảo đảm là chỗ này.”
Họ băng qua đường và đúng ở ngã rẽ vô lối Tigerfield. “Xem ra nó không phải là con đường.” Emma hoài nghi nhìn dãy cầu thang đá dẫn lên khoảng tối. Những nóc nhà nghiêng một cách nguy hiểm tới nỗi dường như chúng sắp chạm vô nhau.
“Đi đi.” Charlie bắt đầu bước lên những bậc thang. Họ leo lên hàng một, tiếng chân bước dội âm trong không gian kín mít, dường như đó là âm thanh duy nhất trong phạm vi một dặm. Charlie đếm số nhà trên những cánh cửa gỗ sồi dày. Vài căn nhà mất biển số. Có một nhà số 16, sau đó không thấy số nhà đến khi tới nhà số 12, với nhà số 11 ở đối diện “Đây rồi,” Charlie reo lên. “Nhà số 10.”
Những con số bằng đồng không được lau chùi sau bao nhiêu năm, bây giờ đã nổi rêu xanh mốc. Bên dưới chúng là một cái đồ gõ cửa lớn bằng đồng, mang hình một cái đầu cọp. Charlie cầm cái đầu đó lên và gõ cửa. Không có tiếng động gì bên trong ngôi nhà. Charlie gõ lần nữa. Lần nữa. Sau tiếng gõ thứ ba thì có gì đó bí hiểm xảy ra. Cánh cửa tự động kẹt mở ra một tí xíu.
“Nó thậm chí không được cài then,” Ông cậu Paton nhận xét, đẩy cửa cho tới khi nó mở bung hết vô trong, để lộ một hành lang nhỏ lát gạch bông. “Xin chào!” Ông gọi. “Có ai ở nhà không?”
Không có tiếng trả lời.
Một linh cảm điềm gở chạy dọc sống lưng Charlie. Có gì đó đã xảy ra trong ngôi nhà này. Nơi này có ma hay là có gì đó còn tệ hơn thế?
Ông cậu Paton bước vô trong và bọn kia theo sau ông. Họ mở một cánh cửa ở bên hông hành lang và ngó vô một nhà bếp nhỏ, nơi có chảo và nồi chất đống trên tấm lưới úp bát đĩa cho ráo. Một ấm trà màu nâu chạm vô vẫn còn ấm, và có hơi nước đọng ở cửa sổ, nhưng tuyệt nhiên không thấy cái người vừa mới pha ấm trà này.
Ở phía bên kia hành lang có một phòng khách ấm cúng, kê một chiếc ghế sofa bọc da đã sờn và một chiếc ghế bành quây gần lò sưởi. Than lụi của ngọn lửa vừa mới cháy vẫn còn thấy đỏ hồng bên trong vỉ lò.
“Có lẽ cụ Bittermouse chỉ ra ngoài mua một tờ báo, và quên đóng cửa,” Emma đoán.
“Có lẽ vậy,” Ông cậu Paton nói.
Ở cuối hành lang có một cầu thang gỗ không trải thảm dẫn lên những căn phòng trên lầu.
“Luật sư thường có bàn làm việc,” Ông cậu Paton nói một cách đăm chiêu. “Phòng làm việc của cụ Bittermouse có lẽ ở trên đó.”
“Có thể ông cụ ngủ gật khi đang đọc sách,” Emma nói, “Vì tuổi già. Người già hay ngủ gật như thế lắm.”
Ông cậu Paton nhìn cô bé và nói. “Người ta không cần phải già vẫn như thế.”
“Chúng ta đi lên đi,” bàn chân của Emma đã đặt lên bậc thang đầu tiên. “Xin chào! Có ai ở trên đó không?” Cô bé gọi to.
Tiếng kẽo kẹt thật rợn gáy khi họ lên cầu thang. Charlie đi sau cùng, cổ họng nó nghẹn cứng, tai nó lùng bùng và cảm giác rờn rợn tóm lấy bao tử nó càng lúc càng mạnh hơn.
Có ba cánh cửa tiếp giáp với chiếu nghỉ, và rồi cầu thang tiếp tục dẫn lên một tầng nữa.
Emma gõ cánh cửa ở chính giữa. Không có tiếng trả lời. Cô bé mở cánh cửa đó ra và nhìn vô một phòng ngủ. Giường được xếp ngay ngắn và có một bộ com-lê treo sẵn ở bên ngoài tủ quần áo. Cô bé nhún vai và đóng cửa lại. Bên cạnh phòng ngủ là phòng tắm lạnh căm, không một dấu hiệu là từng có phụ nữ động tay vô. Không có chai lọ hay hũ hay tuýp đựng kem; chỉ có một cục xà bông, một con dao cạo râu ở trên bậu cửa sổ và một cái bàn chải đánh răng để trong một cái ly thủy tinh.
“Lần thứ ba may mắn,” Ông cậu Paton nói, tiến tới cánh cửa thứ ba và bụng Charlie thót lại một cái. Nó cảm thấy muốn kêu thét lên, để ngăn cánh cửa mở ra, để buộc mọi người đi trở xuống lầu, không cần biết cái gì ở trong căn phòng thứ ba. Nhưng Ông cậu Paton đã mở cánh cửa đó ra rồi. Ông đứng khựng người lại ngay khung cửa, buột miệng kêu lên một âm thanh lạ lùng, sau đó nguyền rủa một tràng – kiểu nguyền rủa Charlie hiếm khi nghe, và lại càng không bao giờ được nghe thốt ra từ miệng của ông cậu nó.
Và rồi Charlie cũng phải ngó vô căn phòng. Hé nhìn qua thân hình rắn chắc của ông cậu, nó thấy một phòng làm việc đã bị lục soát tanh bành. Những kệ sách lật nghiêng trong góc, một cái bàn viết lăn lóc. Sàn nhà rải đầy sách và giấy tờ, và ở giữa phòng là một cụ già thật già đang nằm thẳng cẳng. Nó bàng hoàng trước mái tóc trắng và nét mặt thanh thoát, dù nhúm nhíu những nếp nhăn. Cụ nằm lật ngửa người; chiếc áo jacket vải tuýt mở banh và trên mảnh áo sơ mi trắng của cụ, ở ngay chỗ có lẽ là trái tim, có một vệt màu đỏ loang rộng.
“Chết rồi?” Emma thì thào.
“Hình như vậy. Để ta gọi xe cứu thương,” Ông cậu Paton nói. “Kẻ nào có thể làm một việc ghê tởm như thế này?”
Chính lúc đó Charlie nhận ra một vết rạch dưới ván sàn: một vết rạch dài, rất mảnh, như thể một con dao đã rạch ngang qua sàn – hay là một mũi gươm. Và nó cảm thấy mình biết ai là kẻ đã giết hại cụ Bamaby Bittermouse. Nhưng có ai trên trái đất này tin vào lời của nó?