Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 11
CHƯƠNG 9: MẸ ĐỠ ĐẦU GIẢ MẠO
Bà bếp trưởng sực nhớ ra tối nay tới phiên mình trực. Bà có nhiệm vụ phải dọn bữa tối cho gia đình Bloor và những vị khách mờ ám của họ. Bánh nướng nhân cá được nhắc tới.
“Đó là việc vặt – để bà Weedon lo liệu là được rồi,” bà bếp trưởng nói một mình khi đi ngang qua căn-tin xanh da trời. “Tốt hơn hãy báo bà ta một tiếng.”
Bà bếp trưởng hối hả đi qua căn-tin xanh lá cây, nơi mụ Weedon thường ngày hay túc trực, gà gật bên cạnh dàn bếp hoặc đang đọc truyện ly kỳ giật gân. Nhưng hôm nay chẳng thấy mụ ta đâu. Mãi cuối cùng bà bếp trưởng mới tìm thấy mụ ngoài sân nhà bếp, đang cho một con chó trông hung hãn ăn.
“Bertha, bà đang làm cái quái gì thế?” Bà bếp trưởng thét lên khi con vật nhe răng, sấn tới bà.
“Tội nghiệp, nó đói,” mụ Weedon bảo. “Một con vật bị lạc. Tôi thích nó quá. Ở đây đầy đồ ăn thừa ra đấy.”
Bà bếp trưởng từ lâu đã thôi không thắc mắc tại sao mụ Weedon lúc nào cũng chanh chua đanh đá như vậy. Bà kết luận rằng người phụ nữ đáng thương này không thể cưỡng lại được. Rốt cuộc thì làm vợ gã Weedon đâu phải là một chuyến đi picnic.
“Sao bà ăn mặc bảnh chọe thế? Bà đang trực cơ mà,” mụ Weedon nói, nhìn cái mũ len của bà bếp trưởng.
“Tôi nào có mặc đẹp gì,” bà bếp trưởng nói, “nhưng như bà vừa mới chỉ ra đấy, đúng là đang phiên trực của tôi nhưng tôi phải ra ngoài, cho nên tối nay bà sẽ phải nấu bữa tối.”
Mụ Weedon chống hai tay lên cái hông rộng bành của mụ và dậm châm. “Sao lại là tôi? Bà định đi đâu?”
“Tôi đi thăm một người bạn bị ốm. Bà ấy ốm nặng lắm. Không có ai chăm sóc bà ấy cả. Thôi, tạm biệt bà!” Bà bếp trưởng ngại ngùng bước vòng qua con chó, lúc này đã sục mũi vô cái tô đồ hầm nguội ngắt, và chạy vù lên dãy cầu thang đá dẫn ra đường. Mặc kệ tiếng thét inh ỏi của mụ Weedon, bà tất tả hướng tới đường Đồi Cao rồi rẽ vào khu phố cổ của thành phố. Khi đi tới ngõ Nhà Thờ Lớn, bà thở phì phò và nghĩ đến một tách trà ngon lành, nhưng khi bà đến gần tiệm sách thì tách trà đó biến mất hoàn toàn khỏi tâm trí của bà.
Có hai bóng người bước ra khỏi tiệm sách, đóng sầm cửa lại sau lưng chúng, đến nỗi chuông reo ầm lên và miếng kính trên cánh cửa rung rinh báo động. Cặp đôi lạ mặt nọ trông chẳng mang dáng dấp gì là khách hàng bình thường của cô Ingledew. Một tên mặc áo lưới và quần rằn ri, tên kia mặc đồ thể thao màu đen rộng thùng thình, có mũ trùm. Cả hai đang cười ha hả với điệu bộ thật khó ưa.
Bà bếp trưởng vội nép vô tường khi bọn chúng huỳnh huỵch đi ngang qua, nói chuyện thậm thà thậm thụt với nhau. Bà không thể nghe thấy chúng nói gì, chỉ hy vọng chúng đừng nhìn thấy mình, nhưng rủi làm sao, tên áo lưới bắt gặp cái mũ đỏ tươi của bà. “Bà cố nhìn gì hả, bà cố?” Hắn hét lên với giọng cợt nhả.
Bà bếp trưởng chỉ muốn đáp lại rằng bà còn trẻ lắm, còn lâu mới là bà cố, và cái kẻ buông lời phỉ báng bà là ai mà chỉ mặc độc có tấm áo lưới trong đêm tháng Ba lạnh như cắt này. Nhưng bà nghĩ lại và thấy nên ngậm miệng thì hơn.
Hai gã đàn ông vẫn chạy tiếp, cười khằng khặc, và cuối cùng quẹo vô đường Piminy. “Lẽ ra mình nên biết trước mới phải,” bà bếp trưởng vừa lẩm bẩm vừa lao vội về phía tiệm sách, chợt bà nghĩ tới bà bạn của mình, bà Kettle, người đáng tin duy nhất ở đường Piminy – lúc này cô độc hết sức, trên một con đường toàn những bọn lừa đảo, bọn sát nhân và những bọn còn tệ hơn thế.
Khi bà bếp trưởng chạy tới tiệm sách, bà thấy tấm biển “Đóng cửa” đã bị giật xuống, và ngó vô bên trong qua cửa sổ, bà hoảng hốt trước một hiện trường bị phá phách tanh bành. Hàng đống sách quý nằm vương vãi dưới sàn. Hai kệ sách đổ sập xuống, chiếc thang vốn dùng để leo lên lấy sách ở tầng trên cùng bị gẫy và ngăn kéo để tiền bị ụp nghiêng qua bên. Cô Ingledew đang đứng dựa vô quầy, hai tay bưng lấy mặt trong khi cháu gái của cô, Emma, quỳ dưới sàn, cố vuốt cho thẳng những trang giấy khổ lớn của một quyển sách bọc da.
Bà bếp trưởng rung chuông và gõ cửa cấp tập.
“Julia!” Bà gọi. “Julia, mở cửa cho tôi.”
Cô Ingledew hạ tay xuống, để lộ gương mặt tèm lem nước mắt, và lảo đảo leo lên bậc cấp ra cửa, mở khóa bằng những ngón tay run lẩy bẩy.
“Ôi cưng!” Bà bếp trưởng kêu lên, đi vô tiệm. “Chuyện quái gì xảy ra ở đây vậy?”
“Tôi không biết bắt đầu kể từ đâu,” cô Ingledew nói. Cô đóng cửa, cài then rồi theo bà bếp trưởng đi vô tiệm.
Đúng lúc đó, Olivia Vertigo hiện ra khỏi tấm rèm đằng sau quầy. Con bé đang bưng một cái khay gồm ba chiếc cốc lớn và một đĩa bánh bích quy. “Chào bà bếp trưởng,” con bé mừng rỡ. “Bà có muốn uống ca-cao không? Chưa tới một giây đâu.”
“Thế thì hay lắm, cưng,” bà bếp trưởng nói, ngó quanh tiệm, nỗi kinh hoàng của bà tăng lên theo từng giây.
Olivia đặt cái khay lên quầy và rút lui vô sau tấm rèm, miệng nói, “Có ngay.”
“Tôi có thể giúp gì được nào?” Bà bếp trưởng hỏi. “Ôi trời ơi. Những quyển sách tuyệt vời. Cô có gọi cho cảnh sát chưa, Julia?”
“Rồi bà ạ,” Emma trả lời. “Họ nói với con là tối nay họ có rất nhiều việc phải giải quyết, nếu nhà con chưa bị trộm bẻ khóa, mà nhà con chưa bị thật, thì nhà con không thuộc diện ưu tiên.”
“Nhưng chúng đã đập phá tan hoang,” cô Ingledew khóc. “Sách của tôi toàn sách vô giá.”
“Kể hết cho tôi nghe đi.” Bà bếp trưởng cầm lấy cánh tay cô Ingledew và kéo cô vô trong căn phòng nhỏ đằng sau tiệm. Ở đấy lại càng hỗn độn hơn. Sách mở banh, những trang giấy bị xé, bị vò nhàu, tất cả nằm la liệt dưới đất.
Cô Ingledew ngồi xuống thành ghế sofa, với bà bếp trưởng ngồi bên cạnh, rồi bằng giọng hốt hoảng cô bắt đầu mô tả lại những tình tiết mà theo sau là sự ập đến của hai kẻ lạ mặt hung hăng.
“Tôi đang tiếp những vị khách rất quan trọng, và mãi đến sáu giờ rưỡi họ mới rời đi,” cô Ingledew giải thích, lơ đễnh đưa cốc ca-cao của cô lên môi. “Tôi vừa định gắn tấm biển Đóng cửa lên và khóa cửa thì hai gã lưu manh đó đẩy cửa xông vô, suýt nữa thì hất tôi ngã bổ nhào.”
“Cháu đã thấy chúng!” Olivia đi vô với một cốc ca- cao khác và trao cho bà bếp trưởng, “Con vừa mới ăn tối ở nhà Charlie tới đây, trời ơi, hôm nay nó gặp đủ thứ chuyện, để con kể sau… Ờm, khi con đi vô tiệm sách, con thấy bọn người này đang liệng sách xuống sàn. Cảnh tượng đáng sợ kinh khủng. Chúng nói chúng đang tìm kiếm một chiếc hộp và nếu con biết gì thì khôn hồn khai mau. Hừm, tất cả chúng ta đều biết chúng ngụ ý đến chiếc hộp nào, phải không? Nhưng con không hé răng một lời.”
“Hình như bọn chúng nghĩ có thể nó được giấu ở một trong những bộ sách lớn của tôi,” cô Ingledew nói, “nhưng bọn họ cứ giật nguyên cả bộ sách ra mà giũ, làm như chúng là… làm như chúng là… rác rưởi không bằng. Bọn chúng lục lọi dưới quầy của tôi, dứt phăng ngăn kéo để tiền, xong rồi lại xông vô bắt đầu phá phách trong đây. Olivia đến và quát chúng, nhưng chúng chỉ cười cợt. Một tên còn quẳng sách vô con bé.” Vai cô Ingledew nhô lên. “Sau đó chúng chạy lên lầu.”
Bà bếp trưởng quàng một tay ôm lấy cô. “Nào, nào cưng. Bây giờ tất cả chấm dứt rồi. Ta không biết… tất cả sự thể này đều xoay quanh một chiếc hộp mà có lẽ cất giữ một bản di chúc. Và nếu mà như vậy thật và Billy Raven chứng tỏ là người thừa kế thật, thì sự việc rắc rối này phỏng có ích gì nếu Billy đã mất tích khỏi chúng ta?”
“Nó không mất tích đâu,” Olivia nói rất tự tin “Charlie sẽ đưa nó về.” Con bé nhảy cóc qua những chỗ bừa bộn dưới sàn và đi qua tấm rèm trở ra tiệm.
“Chà, thật dễ chịu khi thấy ai đó lạc quan,” bà bếp trưởng nói.
“Con bé là một báu vật,” cô Ingledew tuyên bố. “Nó luôn vui vẻ, và sốt sắng giúp đỡ mọi người như thế đó. Tôi biết người ta nghĩ nó lập dị, lúc nào cũng ăn mặc diêm dúa, khoa trương. Nhưng với bà mẹ là một minh tinh màn bạc lừng lẫy như thế thì ta còn mong đợi gì ở nó? Con bé thường ở với chúng tôi khi cha mẹ nó ở ngoài phim trường, Emma thích bầu bạn với nó lắm.” Cô Ingledew vuốt mũi và thậm chí còn mỉm cười.
Bà bếp trưởng quyết định khoan hãy loan báo nguồn thông tin của mình, cho tới khi tiệm sách được sắp xếp lại ổn định đã, với bốn người cùng chung tay, họ đã nhặt hết tất cả sách ở cả hai căn phòng lên trong vòng một tiếng đồng hồ.
“Tôi sẽ phải gọi thợ sửa lại cái thang,” cô Ingledew nói thiểu não. “Dù sao tôi cũng gần có thể mở cửa buôn bán lại được rồi.” Cô mỉm cười khắp lượt với mọi người. “Cảm ơn rất nhiều.”
“Chúng ta vẫn còn cả ngày Chủ nhật nữa mà,” Emma nói. “Con chắc chắn ông Yewbeam sẽ sửa lại thang cho dì.”
“Ồ, không đâu,” cô Ingledew nói với giọng phảng phất vẻ cay đắng. “Ông ấy còn nhiều việc hay hơn để làm. Dì đã cố gọi cho ông ấy khi bọn côn đồ xông vô tiệm nhưng ông ấy không trả lời, và cho đến bây giờ mà ông ấy vẫn chưa gọi lại cho dì… dù đó là một cuộc gọi báo nguy cấp.”
Một quãng im lặng gượng gạo rơi xuống, sau đó Olivia đoán rằng có lẽ Ông cậu Paton đang ở nơi mà chiếc di động của ông không thể nhận được tín hiệu. “Vừa rồi, lúc con trông thấy ông ấy, trông ông như đang để tâm trí ở đâu đâu ấy.”
“Ông ấy bảo với dì là sẽ đến sau bữa tối nay,” cô Ingledew nói lạnh lùng. “Vậy ông ấy ở đâu?”
“Hay là bị giam rồi?” Bà bếp trưởng suy đoán một cách thực tế. “Vào thời điểm như hiện nay thì bất cứ chuyện gì cũng có thể xảy ra. Bây giờ tôi muốn mọi người hãy ngồi xuống nghe tôi kể điều mà tôi phải kể. Một điều hơi…” bà giơ hai tay lên. “… gần như giết chóc đang diễn ra ở học viện Bloor. Nếu cá nhân tôi không từng bị đau khổ dưới bàn tay của một kẻ, thì chắc hẳn tôi đã không tin một việc như thế lại có thể xảy ra.”
Mắt mọi người mở to khiếp hãi, hai đứa con gái ngồi chìm lìm vô ghế sofa trong khi bà bếp trưởng và cô Ingledew ngồi ghế ở hai bên lò sưởi sắp tàn. Và bà bếp trưởng kể cho họ nghe về Quả cầu Đại Dương vĩ đại của Lord Grimwald, bà kể chi tiết những con sóng không chịu tác động của trọng lực trái đất, thứ ánh sáng biển kỳ quái và cái cách nước phản ứng lại bàn tay có vảy của Chúa tể Đại Dương. “Chỉ có con trai hắn mới ngăn cản được hắn,” bà nói. “Nhưng theo ý của tôi thì, Dagbert Endless không có cơ hội đối phó với cha của nó như thế. Ai đó phải báo tin này cho Lyell Bone,” bà nhiệt thành nói tiếp. “Chắc chắn ông Paton Yewbeam biết chú ấy ở đâu. Có thể nhận được tin chuyển phát vô tuyến. Còn vô số cách liên lạc với người ở ngoài biển. Lyell phải cập bờ ngay lập tức; ta biết tường tận những hậu quả ngoài đại dương như thế nào một khi Chúa tể Đại Dương quyết định loại trừ ai đó.”
“Tôi cảm thấy tối nay tôi phải tới đó.” Cô Ingledew vặn vẹo hai bàn tay vô nhau. “Nhưng chúng tôi chỉ ngại bị bà nội của Charlie gây khó dễ. Mụ ta hình như có ác cảm với chính con trai mình. Gọi điện thoại chắc chắn cũng như thế cả thôi. Phải chi Paton nghe di động của ông ấy… nhưng mà ông ấy không nghe.”
“Thử lần nữa đi dì,” Emma thúc giục.
Cô Ingledew lấy di động của cô ra khỏi túi quần, quay một số và chờ. “Không có gì,” cô nói thẳng thừng.
“Trong tình hình đó thì tôi đề nghị tất cả chúng ta hãy ngủ một đêm thật ngon giấc đi, sau đó sáng sớm mai sẽ liên lạc với Charlie.” Bà bếp trưởng đứng dậy và đội chiếc mũ len lên. “Tôi nghe nói bà Bone thường hay ngủ nướng tới tận trưa vào sáng Chủ nhật. Cho nên mọi người không phải sợ phiền hà gì đâu. Về phần tôi thì học viện sẽ nhận ra sự vắng mặt của tôi mất. Dạo này sáng nào họ cũng đòi hỏi một bữa sáng thật to, nhất là cái tay có thanh gươm.”
“Treasure, hãy cẩn thận!” Cô Ingledevv bất thần đứng lên, giọng cô khản đi vì lo lắng. “Vấn đề không chỉ là chiếc hộp hay bản di chúc; cũng không chỉ là vấn đề Quả cầu Đại Dương và cơn bão. Ngay tại đây cũng có bao nhiêu sự việc đang diễn ra.”
Mọi người nhìn cô chờ đợi.
“Không ai nhận ra điều gì à? Những tiếng kẽo kẹt, tiếng thì thầm, tiếng xì xào từ một thế giới khác. Bọn phe ác bên dưới thành phố đang bước đi, lờ lững, bọn chúng được gọi tới từ một giọng kêu gọi từ xa.” Cô hướng ánh nhìn ra khỏi những đốm than hồng lập lòe trong vỉ lò tới một cái kệ ở trong góc tối. Những gì tôi đã lượm lặt được từ những trang sách chữ Latinh cửa những quyển sách cổ kia nói cho tôi biết rằng nếu thầy bùa xứ Badlock không thể cai trị thành phố này, như có lần lão đã cố làm, thì lão sẽ bao vây nó bằng đội quân ghê tởm của lão, để rồi lão sẽ mang nó vô một thế giới khác. Thế giới của lão.
“Xứ Badlock?” Emma nói, giọng run run.
Cô Ingledew gật đầu. “Thì nơi đó được gọi như vậy.”
“Lão có thể làm được việc đó sao?” Olivia giận dữ.
“Phải.”
Bà bếp trưởng bừng bừng phẫn nộ. “Cái gì? Chẳng lẽ chúng ta không có ý kiến gì về vấn đề đó à?”
Thái độ thực tế của bà bếp trưởng khiến cô Ingledew mỉm cười, không nén nổi. “Từ những gì tôi hiểu,” cô lại liếc nhìn kệ sách, “chúng ta sẽ có cơ hội nếu có một ai đó trong số những hậu duệ của Vua Đỏ đủ dũng cảm đứng ra đương đầu với đội quân của lão thầy bùa.”
“Một mình?” Olivia nói. “Chắc chắn người ấy sẽ có mọi người khác giúp sức chứ?”
“Dĩ nhiên,” cô Ingledew nói. Cô mỉm cười nghiêm túc với tất cả. “Nếu người ấy có thể tìm được ai.”
“Có tụi con đây,” Emma nói khe khẽ.
Bà bếp trưởng hơi rùng mình. “Có rất nhiều người sẵn sàng chiến đấu vì thành phố của Vua Đỏ,” bà nói vững chãi. “Giờ tôi phải đi đây, mọi người thân mến. Đừng quên khóa cửa ngay khi tôi đi đấy nhé.”
Olivia và Emma đã ngáp ngắn ngáp dài, và khi bà bếp trưởng vừa đi khỏi là chúng lẹ chân chạy vô giường. Tuy nhiên, cô Ingledew thảy thêm một khúc gỗ nữa vô lò sưởi và ngồi nhìn những lưỡi lửa một hồi. Nhưng không hiểu sao ánh mắt cô cứ bị lái tới kệ sách đằng kia, nơi cô để những quyển sách cổ nhất, những hình rập trang trí bằng vàng của chúng hơi nháng lên trong ánh lửa hiu hắt, những gáy sách bọc da trông mềm tựa như nhung. Và cô Ingledew cảm thấy bị thôi thúc phải tới đó, biết rõ sự an ủi mà cảm giác chạm vào chúng có thể mang lại. Cô chọn lấy quyển lớn nhất, mang nó trở lại ghế bành, có ngồi xuống và đặt nó lên đùi, mở ra ở trang sách mà cô đã đọc đi đọc lại nhiều lần. Nhưng khi cô vừa mới rà bàn tay lên mặt giấy da mịn và dày, bỗng nổi lên một tiếng rú dội âm trong ống khói, và gió bên ngoài đưa đến những tiếng người hung tợn, xa xăm.
Olivia thức dậy trước bình minh. Con bé đổ thừa tại tiếng chuông đồng hồ của Nhà Thờ Lớn. Trời vẫn tối mò và nó cố ngủ trở lại. Vào Chủ nhật nó và Emma thường hay nằm lì trên giường mãi cho tói 10 giờ. Nhưng cố hết sức Olivia vẫn không sao ngủ nổi. Nó nhắm nghiền hai mắt lại, cố kéo chăn trùm kín đầu và đếm cừu. Nhưng nó chỉ xoay xở làm cho mình càng lúc càng tỉnh như sáo hơn mà thôi.
Một tia sáng leo lét bắt đầu lọt qua những tấm rèm và Olivia sực nhớ ra hôm nay ba mẹ nó về nhà. Họ vừa mới ở phim trường bên Morocco về, và chắc chắc sẽ có một món quà đặc biệt gì đó dành cho nó. Một chiếc vòng cổ, có lẽ vậy; một cái áo gi-lê thêu hay một cái quần lụa.
Nằm bẹp trên giường mà suy nghĩ cũng vô ích, Olivia quyết định vậy. Nó sẽ về nhà và bắt tay vào nấu món đặc sản gì đó cho ba mẹ. Theo như ba mẹ nó bảo thì độ chừng giữa buổi họ sẽ về tới thành phố.
Olivia nhảy tót ra khỏi giường và mặc đồ vô. Giỏ xách của nó luôn tống hầm bà lằng đủ các loại áo, áo khoác, nón, và khăn quàng cổ. Hôm nay nó chọn một cái váy màu đỏ tía để mặc chung với quần jean bó màu đen, khăn quàng cổ trắng có những viền tua lấp lánh, áo khoác jean viền lông thú và một cái nón nỉ màu đen. Đôi bao tay đỏ hợp tông không thể chê vào đâu được với đôi bốt của nó.
Con nhỏ gây tiếng động lịch kịch trong khi thay trang phục, thế mà Emma vẫn không tỉnh giấc.
Olivia viết một mẩu thư nhắn và để lại trên bàn trang điểm. Vô phòng tắm, nó té nước rửa mặt, đánh răng và suy tính rằng mái tóc rối không chải của mình hóa ra lại trông rất ngầu, nó xách giỏ xuống lầu, rời khỏi tiệm sách.
Hôm nay là một ngày sương mù xám xịt, nhưng điều đó không làm chùn bước chân nhún nhảy của Olivia. Nó tong tẩy bước đi, nghêu ngao hát một mình. Không có một bóng người quanh đấy, và cái giọng thình lình gọi tên nó khiến con bé giật nảy mình ngạc nhiên.
“Olivia!”
Nhận ra cái giọng đó, Olivia dấn bước đi tiếp. Lại một tiếng gọi thứ hai, con bé vẫn phớt lờ.
“Olivia, dừng lại!”
“Rầy rà quá,” Olivia nói một mình. Nó quay phắt lại và đụng mặt với Manfred Bloor. Hắn đang tản bộ về phía con bé, hai tay thọc sâu vô trong chiếc áo khoác dài màu xanh lá cây, đính kèm áo chùng nhỏ.
“Ngài muốn gì? Olivia chất vấn.
“Cô ra đường sớm đấy, cô Vertigo.”
“Cả ngài cũng vậy,” con bé đập lại. “Ngài muốn gì? Tôi đang bận.”
“Bận?” Vừa lúc Manfred đi tới Olivia và dòm xoáy vô mặt con bé, đôi mắt đen của hắn nhóe lên. “Thế thì đúng lúc thật,” hắn nói. “Ta đang định đến thăm cô ở tiệm sách đây.”
Olivia nhăn mặt. “Tại sao?”
“Chứ cô nghĩ tại sao? Ta muốn thảo luận với cô về tài phép tuyệt vời của cô.”
“Không có gì để thảo luận cả.” Olivia quay đi và bắt đầu chạy về phía đường Đồi Cao, nơi nó thấy một cặp vợ chồng già đang đi dạo với con chó của họ.
“Đi thăm mẹ đỡ đầu của cô hả?” Manfred gọi với theo. “Alice thần tiên.”
Olivia dừng sựng lại. Không quay đầu, nó bảo. “Mẹ đỡ đầu của tôi không có ở đây.”
“Ô, nhưng mà có đấy.” giọng của Manfred nhớt nhợt. “Ta ngạc nhiên là bà ấy chưa liên lạc với cô.”
Ngược với ý chí của mình, Olivia thấy mình quay lại, rất từ từ, đối mặt với Manfred. Con bé có thể thấy một thân hình ốm nhom màu xanh lá cây quấn trong sương mù, mái tóc đen của hắn lấp lóa những giọt sương, mắt hắn như hai hòn than đen sì. “Cái…” con bé khàn giọng. Xem ra giọng của nó đã biến mất.
Manfred vẩy một tay vô nó. “Đừng có để ta bắt mày. Chúng ta có thể chuyện phiếm vào lúc khác.”
“Vâng… chuyện phiếm.” Olivia thụt lùi vài bước và rồi quay đầu bước tiếp về phía đường Đồi Cao. Nó đi qua một người đàn ông đang kẹp tờ báo dưới nách. Ông này mỉm cười xởi lởi với nó và nói, “Chào cháu.”
Olivia nhíu mày, như thể nó không thấy tiếng ông chào, hành động của nó khiến cho người đàn ông lắc đầu, lẩm bẩm, “Thanh thiếu niên thời nay! Đứa nào cũng nghĩ ta là người trên cung trăng.”
Một thằng bé với một con chó bự xư màu vàng chạy vù vù trên đường. Không ai là không nhận ra đó là Hạt Đậu.
“Chào, Olivia!” Benjamin Brown gọi. “Bồ tới nhà Charlie hả? Nó chưa dậy đâu.”
Olivia không dừng khi Benjamin đi tới chỗ nó. Con bé thậm chí không mỉm cười, mà chỉ cắm cúi bước tiếp.
“Chào bồ, Olivia!” Benjamin hét với theo con bé. “Tớ rất vui nếu bồ dừng lại.”
“Tạm biệt,” con bé nói ngoái ra sau vai.
Benjamin nhìn con chó của nó và nhún vai. “Bạn ấy đang ở tâm trạng tức cười,” nó nói và Hạt Đậu sủa lại tán thành.
Khi Olivia về gần tới nhà, con bé bắt đầu nghĩ về mẹ đỡ đầu của mình, cô Alice Angel. Cô Alice trông nom một cửa hàng hoa tại một nơi gọi là Đá Kê Bước. Chính cô Alice là người đã phát hiện ra tài phép của Olivia. Một điều mà cô Alice biết hoàn toàn do bản năng. Cô luôn biết khi nào Olivia cần cô. Cô Alice là một phù thủy thiện và Olivia nhớ lại lời dặn của cô, “Ở đâu có một phù thủy thiện, ở đó luôn có một hắc phù thủy khác, đối trọng.” Và lời cô đã được chứng minh khi mụ Tilpin để lộ nhân thân thật của mụ.
Bây giờ Olivia thấy mình đi quá khỏi khúc quẹo để về nhà và cứ đi tiếp về phía công viên. Con bé rẽ vô góc đường Công Viên, miệng lầm bầm, “Số mười lăm. Những ngôi nhà trên đường này khuất một nửa sau những hàng rào cao và những cây bụi mọc um tùm. Cánh cổng nhà số 15 đã long hết bản lề và dựa thẳng đứng vô hàng rào. Lối đi mọc đầy rêu mốc và lớp sơn trắng trên cửa đã bong tróc cả. Dây leo che kín những bức tường và bò ngang khắp cửa sổ.
Cô Alice Angel từng sống ở đây. Cô đã quay trở lại như Manfred nói? Ngôi nhà im lìm trong hoang lạnh. Olivia bước lên lối đi rêu phong và rút sợi dây xích gỉ sét treo tòng teng bên hông cánh cửa ra. Một tiếng chuông thánh thót phát ra đâu đó trong nhà.
Olivia chờ. Một bức rèm đăng ten trong khung cửa sổ ngó ra vườn bị giật phắt ra, và một giọng nói thì thầm vọng khỏi căn nhà. Đó là giọng nói hay là tiếng xào xạc của những cây thường xuân?
“Vô đi, cưng.”
Olivia vặn nắm đấm cửa. Nó xoay trơn tru và cánh cửa kẹt mở ra. Con bé bước vô một hành lang lạnh thấu xương. Lẽ nào cô Alice sống ở đây? Ngôi nhà toát lên cảm giác như thể đã bị bỏ hoang lâu lắm rồi. Ở cuối hành lang, một cánh cửa mở vô phòng khách của cô Alice. Dây leo bâu kín các cửa sổ khiến cho căn phòng tối đến độ Olivia hầu như không nhìn thấy đồ đạc. Trời lạnh đến mức hơi thở của con bé đông lại thành những sợi mây li ti.
Olivia phà hơi thở vô hai bàn tay. Dù đeo găng mà tay con bé vẫn lạnh cóng.
“Cô Alice? Olivia ngập ngừng.
“Lại đây, cưng!”
Giọng nói khiến Olivia giật nảy mình. Nó hé dòm vô góc nhà mà từ đó giọng nói vọng ra. Có một phụ nữ ngồi trong ghế bành. Tóc bà ta thẳng và trắng, giống như tóc cô Alice. Mặt bà ta tái nhợt và mắt hơi xanh lục. Đúng là cô Alice, tuy nhiên… Gương mặt đó chao đi và biến mất. Một khoảnh khắc sau, mắt mũi của gương mặt hiện rõ lên và rồi lại tan đi, chắp vá.
“Cô Alice, có phải là cô thật không?” Olivia hỏi, cổ họng nó hít vô luồng khí lạnh.
“Dĩ nhiên rồi, cưng.” Giọng cô Alice chỉ như một lời thì thào. “Từ lâu ta không được khỏe. Lại đây hôn ta nào.”
Olivia do dự.
“Gì thế? Con không sợ ta đấy chứ?” Giọng cô Alice bây giờ mạnh hơn nhưng… phải đó là giọng nói của cô?
Olivia bước tới chiếc ghế bành. Con bé ngó xuống người phụ nữ đang ngồi tựa vô một chiếc gối đệm xanh da trời, phai màu. Đúng là cô Alice, nhưng sao mà cô gầy gò đến thế.
“Ôi, cô Alice, con nhớ cô quá!” Olivia quỳ xuống và hôn gò má lạnh ngắt. Lập tức, trái tim con bé dâng tràn tình yêu đối với người phụ nữ hom hem này, người mẹ đỡ đầu luôn theo dõi nó từ xa.
“Ta có một món quà tặng con.” Những ngón tay nghều ngoào ấn vô cánh tay Olivia. “Nó ở trên bàn đằng kia kìa. Tới lấy đi, cưng.”
Olivia thấy một cái gói màu trắng ở trên bàn – giấy lụa gói quanh một vật gì mềm mềm và phát sáng. Con bé bóc giấy gói và kéo ra một chiếc áo gi-lê nhung đen đính đầy những vòng tròn bạc sáng như gương.”Ôi, đẹp quá chừng!
“Mặc vô đi.”
Olivia cởi cái áo khoác jean của nó ra và mặc cái áo lấp lánh đó vô. Ánh bạc chói mắt đến nỗi con bé không nhìn thấy cái áo, rồi không hiểu vì lý do gì đó, sợi vải giống như da thuộc đó cứ thít chặt lấy vai nó, hệt như đá đè trĩu xuống. Tuy nhiên con bé không làm sao cởi cái áo ra được.
Cách đó ba trăm dặm, cô Alice Angel đang cắm hoa ở đằng cuối tiệm hoa của cô. Đây là công việc mà cô rất thích làm vào sáng sớm Chủ nhật, khi tiệm hoa vẫn còn đóng cửa. Ngay khi bó xong hơn một chục bó hoa nhỏ, cô sẽ đem chúng ra trưng trên một cái quầy ở bên ngoài, ở đó cô sẽ chờ dưới một mái che màu trắng để bán hoa cho những người đi thăm bà con hay bạn bè trong bệnh viện.
Cô Alice chỉ bán bông màu trắng. Xung quanh cô bao nhiêu là bình bông cao cổ với những cánh hoa mỏng manh sắp xếp từ màu kem đậm nhất cho đến màu trắng ngà nhất. Trong tiệm lạnh nhưng cô Alice liên tục vận động cho ấm, cô đi len lỏi qua rừng hoa của mình, ngắt lá, sửa cành, kết và gói hoa. Hương hoa thoang thoảng khiến cô muốn cất tiếng hát.
Một cánh hoa rơi xuống cánh tay cô, lại thêm một cánh nữa. Cô Alice ngừng tay ngước mắt lên và sửng sốt vì những bông hoa tươi thắm của cô đang dần héo hết lượt. Một bông hồng trắng rũ oặt trên cuống của nó, rồi một bông nữa, bông nữa. Những cánh hoa bắt đầu rơi rụng như bông tuyết. Chúng trở thành một cơn bão trắng, dội ào xuống người cô Alice những bông hoa héo queo. Cô buông rơi bó hoa đang cầm và úp hai bàn tay vô mặt.
“Olivia!” Cô kêu lên. “Chuyện gì xảy ra với con vậy?”