Đọc truyện Charlie Bone và Hiệp sĩ đỏ (Tập 8) – Chương 10
CHƯƠNG 8: QUẢ CẦU ĐẠI DƯƠNG
Quả cầu Đại Dương khổng lồ giờ dựng ở chính giữa phòng khiêu vũ. Tấm màn phủ màu trắng đã được bỏ ra nhưng quả cầu vẫn bao kín ở trong một chiếc hộp thủy tinh lớn. Đằng sau lớp kính có thể thấy nước xanh lục, sóng sánh trào ra khỏi bề mặt của khối cầu sáng lóa: thế giới, được hiển thị thành bản đồ những đại dương và lục địa. Đất liền nổi rõ là màu nâu xỉn, trong khi biển cả nhấp nhóa vô số bóng màu xanh da trời và xanh lá cây, xám và bạc.
Tuy đèn trong phòng khiêu vũ đã tắt hết, nhưng chùm đèn pha lê treo phía trên quả cầu phản chiếu ánh sáng chói lọi của sóng biển, tỏa tràn trề những tia sáng rực rỡ đi khắp phòng.
Tất cả mọi âm thanh được nghe thấy là tiếng ì oạp mơ hồ của sóng và tiếng thì thầm khe khẽ của những đại dương mênh mông trên thế giới.
Lord Grimwald đứng trước bảo bối của y, và bộ mặt khắc nghiệt của y mềm đi khi ánh mắt y đảo khắp các đại dương – lên phía bắc tới Bắc Cực, cao hơn đầu y sáu tấc, rồi dò xuống qua Đại Tây Dương tới Nam Cực và lại đảo qua Thái Bình Dương.
“Bao la biển”, y lầm bầm và nụ cười quệt qua mặt khiến cho y gần như mang vẻ nhã nhặn. Nếu Lord Grimwald mà có trái tim thì chắc chắc nó được giữ trong khối cầu chiếu sáng trước mặt y đây. Y yêu nó hơn hết thảy mọi thứ trên đời. Cô độc trên hòn đảo lởm chởm đá của mình, chỉ với khối cầu này làm bạn, là y rất sung sướng rồi. Đôi khi ký ức về giọng hát mượt mà của vợ thôi thúc y ngó xuống vùng sóng, nơi bà đã bị chết ngạt trong một tấm lưới, bị đè bẹp bởi hàng tấn cá. Tiện đà y lại nghĩ tới những bùa linh mà bà ta và làm cho con trai, để thằng đó có thể sống sót qua được lời nguyền giáng xuống gia đình.
Thật đáng tiếc, Lord Grimwald ngẫm ngợi, rằng nếu y muốn sống tiếp thì y phải diệt trừ đứa con trai duy nhất của y, lúc này đã mười hai tuổi. Dagbert đã chứng tỏ là một tay dìm chết người tài ba, không nghi ngờ sau này sẽ trở thành một Chúa tể Đại Dương uy dũng, nếu nó sống được.
Lý do cho lời nguyền của dòng họ Grimwald đã bị thất truyền qua thời gian. Nhưng lời nguyền thì vẫn bạo liệt như thuở nào. Khi Lord Grimvvald mười hai tuổi, y đã gây ra cái chết của chính cha của y, bởi vì cha của y trước kia cũng vậy. Nhưng, thỉnh thoảng, một người cha vẫn sống sót được với người con, Chúa tể Đại Dương hiện tại không hề dự định chết – còn lâu, lâu, rất lâu y mới nghĩ tới chuyện chết.
Cái thằng ranh sẽ giấu biệt những linh vật đó, cái thằng con ta ấy, nhưng nhất định ta sẽ tìm ra chúng! Lord Grimwald buột cười lớn. Y đã lên một kế hoạch có sự can dự của con trai mụ Tilpin, Joshua, Thanh Nam Châm. Y chờ đợi thằng đó sẽ chịu nhúng tay vô mưu đồ này.
Chúa tể Đại Dương đặt bàn tay như vảy cá vô mặt thủy tinh, tức thì một luồng nước trắng sáng ụn lên bên dưới những ngón tay y. Khi luồng nước rơi xuống trở lại, những vòng tròn lấp lánh loang từ chỗ đó lan ra vùng biển lân cận, tựa những gợn sóng trong một cái ao. Có điều những vòng tròn sủi bọt này sẽ hiển hiện trong đại dương thật là một núi nước. Lord Grimwald mê mẩn với công việc của mình đến mức y không nghe thấy tiếng Manfred bước vô phòng khiêu vũ.
“Thì ra đây là Quả cầu Đại Dương!” Manfred thốt lên với giọng bàng hoàng. “Nó thật là,” hắn xòe rộng một bàn tay ra, “bao la!”
Lord Grimwald quay lại, hơi thấy sượng sùng, như thể vừa bị bắt quả tang đang tự nịnh nọt mình trong gương. “Quả cầu Đại Dương, đúng. Ta hài lòng là nó đã được di chuyển êm thấm tới đây, bất chấp kích cỡ của nó. Không một con sóng hay một đại dương nào bị trệch chỗ cả.”
Manfred cúi sát xuống lớp kính. “Nó chống lại trọng lực,” hắn nói cùng với một cái nhíu mày. “Tại sao mà nước không bị rơi nhào xuống phía trái đất? Làm sao, làm thế nào nó có thể phun lên được như thế? Sóng…” hắn ghé vô sát hơn, “vài nơi sóng sôi lên cuồn cuộn.”
Lord Grimwald mỉm cười kênh kiệu. “Nó vốn là như thế. Và nó sẽ luôn luôn như thế. Ta không biết gì về lịch sử của nó. Cha của ta đã có lần kể cho ta nghe rằng một tổ tiên từ quá khứ xa xưa của dòng họ ta được ban phép tạo ra lực từ trường. Ngài thu phục nước, có thể nói vậy. Ngài thu gọn nước vô vòng tay ngài, ở vùng Biển Bắc và, trông lạ chưa kìa, một quả cầu sóng nước hiện ra trong vòng ôm của ngài, điểm xuyết những mảng lục địa.”
“Chính vì nhờ quả cầu này mà dòng họ ông đã điều khiển đại dương?” Giọng Manfred phảng phất mối nghi ngờ.
“Trong suốt tám trăm năm,” Lord Grimwald đáp. “Nó được lồng trong tủ kính như vầy từ thế kỷ mười chín, để bảo vệ nó khỏi sự ô nhiễm, mi hiểu chứ.”
Manfred gật đầu. “Đương nhiên.”
“Mi có moi được gì từ thằng bé đó không?” Lord Grimwald hỏi.
“Ố, rất nhiều”, Manfred đáp, nhếch cười. “Chiếc thuyền ở trong tâm trí nó, có một cái tên là Cánh Xám. Mụ già Eustacia đã thấy nó rõ ràng – biển, bầu trời đêm và những chòm sao úp ngược.”
“Úp ngược?” Chúa tể Đại Dương xoa cằm. “Vậy là bọn chúng, cha mẹ thằng bé, ở bán cầu Nam”. Y chấm một ngón tay vô mặt kính và sóng bên dưới chỗ đó sủi lên thành những bong bóng màu bạc. “Có cơ man nào cá voi ở những bờ biển nước Úc. Ta đánh cược là con mồi của chúng ta luẩn quẩn ở quanh vùng này”. Y lướt ngón tay lên bờ biển phía đông nước Úc, và một dải bọt trắng nổi cộm theo lộ trình y vẽ ra.
Manfred dòm cái ngón tay dài trông như con cá với một cái khẽ nhíu mày ghê tởm. “Tôi tưởng tượng rằng ngài vừa mới gây ra vài vụ đắm tàu ở đó,” hắn nói.
“Tuyệt đối không được để nó thoát trước khi ta đi.” Lord Grimwald quay qua Manfred. “Thế, mụ thầy bói đó còn nói gì khác nữa với mi?”
“Nhân dạng của Hiệp sĩ Đỏ. Bọn tôi tin rằng đó phải là ông nội của tôi, ông Bartholomew Bloor, một con cừu đen của gia đình.”
“Sao mi tin vậy?” Lord Grimwald hỏi sẵng.
“Bởi vì lão ta đã quay lưng lại bọn tôi, đi ra nước ngoài. Trở thành kẻ thám hiểm, chẳng liên hệ dính líu gì đến gia đình nữa.”
Lord Grimwald thở dài nôn nóng. “Không. Tại sao mi tin rằng Hiệp sĩ Đỏ chính là cái lão Bartholomew này?”
“Ố, vì lão ở trong tâm trí của Charlie.”
“Chẳng chứng minh được gì. Thằng bé không biết. Nó chỉ đang đoán thôi.”
“Hừ, đó là khởi điểm,” Manfred bực bội. “Dạo này mụ Eustacia linh lắm. Tôi cá là mụ ta có thể nói cho tôi biết cái gì có ở trong đầu ngài.”
“Ta thì nghi ngờ,” Lord Grimwald làu bàu. “Thế còn đứa trẻ được ban phép thuật vô danh đang còn bị thả rông thì sao?”
Manfred bực bội. “Charlie đã tẩu thoát trước khi tụi tôi hỏi tiếp. Con chó chết dẫm của bạn nó đến sủa qua thùng thư. Nó phá vỡ sự tập trung của bọn tôi.”
“Chậc!” Lord Grimwald thọc hai tay vô hai bên túi quần. “Ta chẳng lưu tâm chuyện đó, nhưng Ashkelan thì muốn biết. Hắn luôn luôn ở trạng thái nhấp nha nhấp nhổm.”
“Bọn tôi đã phát hiện về một trong những đứa trẻ khác,” Manfred nói, giọng có chút tự mãn. “Một trong những đứa con gái – Olivia Vertigo. Hóa ra con này là người tạo ảo ảnh, khá là giỏi. Bọn tôi đã không biết về nó. Thật là táo tợn.”
“Quả là thật,” Lord Grimwald đồng tình. “Phải kiểm soát con bé và nó có thể có ích đấy.”
Một trong những cánh cửa lớn của phòng khiêu vũ đột nhiên bật mở và mụ Tilpin lệt bệt bước vô, kéo theo Joshua đằng sau.
“Gã Weedon bảo ngài muốn gặp bọn ta,” mụ gầm gừ. “Ta đang nghỉ trưa. Cả đêm không thể chợp mắt lấy một cái. Cái nơi bị ám.”
“Cái gì kia?” Joshua thét lên, chỉ vô Quả cầu Đại Dương.
Lord Grimwald trân mắt nhìn thằng bé vàng vọt một cách khinh miệt. Bộ tóc xơ xác của Joshua bám đầy vụn giấy, áo lạnh thì tòn teng vụn bánh và vỏ bút chì, còn giày lại bám kín lá khô và bùn.
“Ta nhìn thì biết ngay mày là thằng nam châm,” Lord Grimwald nhận xét.
“Nhưng cái gì kia?” Joshua chất vấn, mắt nó không rời Quả cầu Đại Dương.
Lord Grimwald nhăn mũi. “Ta nghĩ ngươi sẽ làm,” y lẩm bẩm.
“Nếu ngài muốn nó làm gì cho ngài, tốt nhất ngài hãy tỏ ra biết điều hơn,” mụ Tilpin nói, tập tễnh đi về phía quả cầu. “Hãy nói cho nó biết cái này là cái gì.”
“Đó là Quả cầu Đại Dương.” Lord Grimwald phun những từ đó ra như thể mẹ con mụ Tilpin không xứng đáng có câu trả lời.
“WOW!” Joshua lao bổ tới quả cầu, hai tay giang ra.
“CẤM SỜ!” Chủ nhân của quả cầu rống lên.
Joshua dừng sựng lại cách lớp kính chắn vài phân. “Sai rồi,” nó tuyên bố, ngước lên ngó trân trân khối cầu khổng lồ. “Không thể nào thế được. Sóng dựng lên. Nước làm thế bằng cách nào? Sao trái đất có thể giữ nước đứng yên?” Nó chỉ đáy quả cầu. “Sao cái này không bị rơi xuống?”
“Bởi vì nó không rơi,” Lord Grimwald gằn giọng.
Joshua nín bặt. Nó nhìn nước nhào ngụp ở biển Bắc Cực xa phía trên đầu nó. Gương mặt xanh mét của nó rọi đẫm ánh sáng xanh lục, lay động của quả cầu to lớn, và mái tóc phủ đầy giấy của nó lốm đốm sắc cầu vồng từ những bóng đèn pha lê trong chùm đèn treo chiếu xuống. Nó nhìn mẹ nó và kết luận là bà ta gần gần xinh đẹp trong ánh sáng của biển. Dĩ nhiên ánh sáng này cũng cải thiện diện mạo của Manfred.
Cuối cùng Joshua quay đầu lại và ngước lên nhìn Lord Grimwald chăm chăm. “Ông là ai?” Nó hỏi.
Gã đàn ông bên cạnh nó nhìn xuống từ chiều cao ngất ngưởng, và Joshua để ý mái tóc gẫy gấp, gần như màu xanh lá cây, đôi mắt băng giá phát ớn, và làn da phát sáng xam xám. “Trông ông như một con cá,” nó nói.
Mẹ nó thụi cho nó một cái vô be sườn. “Cư xử đàng hoàng coi, Josh. Người đàn ông này điều khiển đại dương – ông ta rất giống Dagbert, có điều tinh khôn hơn.” Mụ liếc nhìn Chúa tể Đại Dương. “Ngài muốn con làm gì đó cho ngài.”
“Hả?” Joshua dòm sựng vô bộ mặt đanh sắc.
Lord Grimwald đút hai tay vô túi quần. “Mày có quen biết Dagbert Endless không?”
“Nó học trên tôi một năm, nhưng tôi biết nó,” Joshua nói. “Nó suýt nữa là bạn thân nhất của tôi.”
“A. Vậy á? Hừ, Joshua, Dagbert là con trai của ta và, có lẽ ngươi không tin điều này, nhưng nó đã đánh cắp mấy món đồ của ta.”
“Tôi tin ông. Dagbert và tôi vẫn thường hay chôm đồ.” Joshua thảy cho gã đàn ông một cái cười méo xệch. “Nó đã lấy cắp cái gì của ông?”
“Bảy món bùa linh bằng vàng, Joshua: một con cá, năm con cua và một con nhím biển.”
Joshua nhíu mày. “Nhưng đó là linh vật của nó mà. Ông Grimwald…”
“Chúa tể Grimwald,” Manfred vội vàng chỉnh lại cách xưng hô của nó.
“Lord Grimwald,” Joshua nói. “Dagbert nói mẹ nó đã làm những món bùa ấy cho nó, để nó được bảo vệ.”
“Khỏi ta,” Chúa tể Đại Dương nói. “Ta biết câu chuyện bịa của nó. Tất cả là láo toét, Joshua.”
Joshua đá sục mũi giày xuống sàn và Manfred mắng nhiếc nó về cái sự bùn đất văng đầy ván sàn bóng loáng.
Lord Grimvvald thở dài thườn thượt, vừa bước vòng quanh quả cầu vừa nói, “Ta nghĩ là ngươi muốn phần thưởng cho những phần việc của ngươi, đúng không Joshua?”
Joshua dòm mẹ nó, mụ ta bảo, “Dĩ nhiên rồi.”
“Tốt lắm.” Lord Grimwald, đã đi hết một vòng quả cầu, dừng lại bên cạnh mụ Tilpin và lại thở dài lần nữa. “Chỗ ở của bà ở đây không tươm tất cho lắm, ta tưởng tượng vậy.” Nét cau có trên mặt Manfred hằn sâu hơn. “Chắc chắn là ẩm ướt,” Lord Grimwald tiếp tục. “Ta có thể thấy bà sắp bị viêm khớp đến nơi. Ta có thể cho bà một lâu đài nhỏ ở phương Bắc. Một người đầy tớ. Những căn phòng được sưởi ấm và…”
Mụ Tilpin bắt đầu tươi tỉnh, đong đưa thân người. Mụ cần phải tựa người vào cánh tay của Manfred để giữ điềm tĩnh, điều mà hắn không thích. “Gì nữa?” Mụ chất vấn.
Lord Grimwald quay qua Joshua. “Đồ ăn thích nhất của ngươi là gì, Joshua?”
Thằng bé cười toét miệng và không ngần ngại, nó nói liền một lèo, “Sô-cô-la, xúc xích, bánh nướng Battenberg, nước ngọt vị chanh, thạch dâu, khoai tây chiên và đậu.”
“Cá thì sao?” Chúa tể Đại Dương hỏi.
“Tôi ghét cá,” Joshua đáp.
Má của Lord Grimwald chuyển sang đỏ hơi lục và trong một giây, thoáng có nét căm hờn sượt qua mặt y nhưng trấn tĩnh lại, y vẩy một bàn tay và nói, “Ngươi sẽ có tất cả những thứ đó, nhưng…”
“Đã quá!” Joshua nhảy cẫng lên sung sướng.
“Nhưng chỉ khi ngươi đã làm xong những gì ta yêu cầu.”
“Nói toẹt đi,” mụ Tilpin, trong khoảnh khắc đã quên không tỏ ra biết ơn. “Ta mệt rồi.” Mụ lê tới một trong những chiếc ghế sơn son thếp vàng của phòng khiêu vũ và đổ ập người xuống.
Lord Grimwald tỏ ra là một doanh nhân vào việc. “Ta biết thể nào Dagbert cũng sẽ giấu những bùa linh đó. Ngươi phải tìm ra chúng, Joshua. Bất kể chúng ở đâu. Ngươi có từ tính. Những thứ bùa đó sẽ bị hút về phía ngươi, chúng sẽ bám vào ngươi, nếu ngươi ở cách chúng bốn mét.”
“Trước giờ tôi chưa thử với vàng,” Joshua lộ vẻ hoài nghi.
“Hãy tin ta, ngươi sẽ hút được vàng nếu ngươi nghĩ về nó. Nếu ngươi thật sự muốn nó. Ta biết chút ít về nam châm và ta biết rằng tâm trí có thể đóng vai trò lớn trong đó. Chẳng hạn tại sao ngươi chỉ dính toàn giấy là giấy, với bùn và vụn bánh như thế? Ngươi muốn lôi thôi lếch thếch hả? Hãy nghĩ để gạt bỏ chúng đi,” Lord Grimwald phủi tay một cái phớt qua lớp đồ linh tinh bám trên áo lạnh của Joshua, “rồi ngươi sẽ thấy dễ chịu hơn nhiều.”
Joshua bặm môi tập trung nhìn những vụn bánh, nhưng không có gì xảy ra.
“Ta nghĩ bọn ta đến đây là xong,” Chúa tể Đại Dương nói. “Các ngươi có thể đi đi. Hãy mang những bùa linh đó về cho ta càng nhanh càng tốt.”
“Vâng, thưa ngài.” Joshua quay qua mẹ nó, mụ lết tới và níu lấy tay nó cho khỏi té.
“Tôi sẽ tới gặp bà sau, Titania,” Manfred nói. “Tôi muốn biết ý kiến của bà về một sự triển khai mới. Olivia Vertigo được ban phép thuật.”
Cái tin này nặn một nụ cười ra khỏi mặt mụ Tilpin. “Thật à?” Mụ lầm bầm. “Cuối cùng ta cũng có chút niềm vui, một vụ biến hình nho nhỏ,” và đôi mắt màu mâm xôi của mụ nhóe lên hứng khởi.
Đúng lúc mẹ con mụ Tilpin bước ra khỏi phòng, vài miếng giấy bay khỏi đầu Joshua; và bóp chặt bàn tay nó, mẹ nó thì thầm. “Con sẽ làm ra một gia tài cho mà xem, Josh.”
Manfred chờ cho tới khi nhà Tilpin đi khuất rồi mới hỏi, “Thế khi nào thì ngài tìm thấy chiếc thuyền của Lyell Bone? Tôi muốn chứng kiến cảnh đắm thuyền.”
“Kiên nhẫn đi,” Lord Grimwald nói. “Ta muốn những cái bùa đó. Nếu không có chúng, ta sẽ không sống lâu đủ để giúp ngươi.”
Manfred thấy thật khó mà tin rằng gã đàn ông hùng mạnh đang đứng trước mặt hắn đây lại có thể bị chế ngự bởi một thằng bé mười hai tuổi. Nhưng lời nguyền là lời nguyền, hắn tự nhủ, và không có sự lẩn tránh ở đây. “Tôi chưa nói với ông cố về tin mới nhất này,” hắn vừa nói vừa sải bước ra cửa. “Tốt hơn ngay bây giờ tôi lên gác mái của cố đây. Ông lão luôn luôn muốn là người đầu tiên biết mọi thứ.”
Lord Grimwald theo Manfred đi ra hành lang. “Chắc tới giờ ăn tối rồi,” y nói. “Nhà bếp của ngươi có thể làm bánh nướng nhân cá không?”
“Không biết.” Manfred đóng cửa phòng khiêu vũ lại, chèn ngang cái chốt qua và khóa cửa. “Không muốn ai táy máy quả cầu của ngài.”
Hai kẻ ác độc đi trên hành lang tối tăm, mở một cánh cửa thấp ở cuối hành lang và bước ra tiền sảnh. Ngay khi cánh cửa được đóng lại, một dáng người bé nhỏ từ trong bóng tối ở cuối hành lang hiện ra. Bà bếp trưởng đã nghe lén qua một khe hở trên cánh cửa phòng khiêu vũ, và bà đã nghe hầu như từng lời của cuộc nói chuyện vừa diễn ra. Chắc chắn đã đủ để biết rằng bà phải báo cho ai đó về Quả cầu Đại Dương. Bà thậm chí còn thoáng trông thấy cái kẻ gớm ghiếc.
Bà bếp trưởng và Lord Grimwald vốn có thâm thù. Không phải một lần, mà hai lần, y đã cầu hôn bà. Cả hai lần bà đều từ chối, và vì vậy mà y đã kéo đổ nhà bà, dìm chết cha mẹ bà. Lệ rơi làm cay mắt bà khi bà nghĩ đến cái ngày tang thương, bà quay về hòn đảo quê nhà và chẳng thấy gì ngoài mấy tấm ván nổi lềnh bềnh bên cạnh vách đá.
“Hắn sẽ không thể thoát được một lần nữa,” bà lẩm bẩm một mình khi quầy quả nhón bước trên hành lang. “Thà thằng bé còn hơn cái gã đó. Dù cho Dagbert đã làm gì chăng nữa, cũng không tệ bằng những gì đồ hèn hạ kia nung nấu trong đầu óc của y.”
Bà bếp trưởng mở cánh cửa đi vô tiền sảnh. Vội vã nhìn quanh, bà băng qua tiền sảnh và đi xuống Hành lang Chân dung, tói căn-tin xanh da trời. Khi tới đó, bà lẻn nhanh vô nhà bếp và vô một ngăn tủ âm tường cất chổi. Những phụ tá của bà đều nghỉ làm vào cuối tuần, cho nên bà có thể sử dụng lối này để về căn hộ của mình mà không sợ bị theo dõi.
Ở cuối tủ âm tường dùng để chổi, che kín sau tạp dề và khăn lau, một cánh cửa nhỏ mở ra một hành lang dìu dịu ánh đèn. Bà bếp trường đi thật lẹ, lầm rầm trong cổ họng. “Không được để yên cho hắn. Phải ngăn hắn lại,” cho tới khi đến một dãy cầu thang dẫn tới một tủ âm tường khác. Cái này ăn thông vô một căn phòng ấm cúng, nơi có than hồng lập lòe trong lò sưởi cũ màu đen. Những bức tường treo đầy tranh ảnh, và một cái tủ cổ cất đầy đồ sành sứ viền vàng. Một chiếc ghế sofa tiện lợi và một chiếc ghế bành bên cạnh lò sưởi. Trong ghế bành một người đàn ông quắc thước, tóc trắng phau bao quanh gương mặt đầy nếp nhăn nhưng đẹp lão.
Giáo sư Saltweather, trưởng khoa Nhạc, là một người bạn và một đồng minh của bà bếp trưởng. Chỉ mới gần đây bà mới tin tưởng ông đủ để cho ông biết căn phòng bí mật này. Và ông rất thích. Nó đối lập hoàn toàn với căn phòng lạnh lẽo, ẩm thấp mà ông được phân ở trong học viện.
Khi trông thấy vẻ mặt lo lắng của bà bếp trưởng, giáo sư Saltweather vội đặt tờ báo xuống và thốt lên, “Có chuyện gì vậy, Treasure? Đây không phải là cách gọi trìu mến, mặc dù giáo sư rất mến bà bếp trưởng. Treasure chắc chắn là tên của bà.
“Ôi, Arthur. Thật khủng khiếp!” Bà bếp trưởng thốt lên, và bà kể lại những gì bà đã nghe lỏm được… cùng với cảnh tượng bà thoáng thấy. “Tôi muốn cảnh báo cho họ biết,” bà nói, khoác chiếc áo vải tuýt lên và đội chiếc mũ len vào. “Charlie và ông cậu của nó phải biết việc này. Chúng ta phải ngăn chặn tên quái vật sát nhân độc địa đó.”
“Để tôi đi cho,” giáo sư Saltweather nói, đoạn đứng bật dậy.
“Không, không. Giáo sư quá… lộ liễu.” Bà hơi đỏ mặt. “Ông sẽ bị phát hiện. Để tôi đi tới tiệm sách, vậy đỡ rủi ro bị bà nội Bone nhìn thấy. Ông Yewbeam hôm nay thể nào cũng sẽ tới gặp cô Ingledew.”
“Nếu cô chắc chắn như thế, cô thân mến. Nhưng hãy cẩn thận.” Giáo sư Saltweather ái ngại nhìn bà bếp trưởng tất tưởi cho những món đồ cần thiết vô giỏ xách. Sau đó, vẫy tay một cái, bà lại tuôn khỏi phòng.
Giáo sư Saltweather ngồi chìm vô chiếc ghế bành và vỗ vỗ con chó già dưới chân.
“Ta chẳng thích thế này tí nào, May Phúc à,” ông nói. “Chẳng thích một tí nào cả.”