Đọc truyện Charlie Bone lúc nửa đêm (Tập 1) – Chương 12
Bí mật trong tủ tường
Charlie thức dậy, cổ họng khô khốc, mắt cay xè. Nó chỉ ngủ được có một tiếng. Nó miễn cưỡng mặc vào chiếc áo chùng rách nát thê thảm của Gabriel. Xét cho cùng thì cái áo đó cũng không gây ác mộng gì cho nó.
Gabriel và Fidelio chờ trong lúc Charlie đánh vật với mái tóc như hàng rào của nó, nhưng sau năm phút cả hai đều nhất trí rằng việc chải đầu của Charlie chẳng có mấy tác dụng.
“Nếu không đi sớm thì sẽ chỉ còn mấy rẻo thịt xông khói cháy thôi đấy,” Fidelio cảnh báo.
Charlie đói cồn cào. Nó vứt toẹt cái lược xuống và tất tả đi ăn sáng cùng bọn bạn. Nó vui mừng vì có một lũ đồng hành, bởi vì xem ra nó sẽ chẳng bao giờ mò ra được đường xuống dưới tầng trệt nếu không có chúng.
Gabriel vô cùng hạnh phúc được mặc áo chùng của Charlie, trông nó như một người khác hẳn. Nói đúng ra, nó cười suốt, chân bước thoăn thoắt. Giờ thì nó đã vứt bỏ được những cảm giác hãi hùng, chết khiếp kia.
Bữa điểm tâm gồm bột yến mạch, thịt xông khói bị cháy và một ca trà.
“Ngày nào tụi mình cũng ăn uống thế này à?” Charlie hỏi, cố nuốt một bụm yến mạch.
“Ngày nào cũng vậy,” Fidelio xác nhận.
Charlie cố không nghĩ đến những bữa điểm tâm dồi dào của ngoại Maisie.
Ngày thứ hai của nó ở Học viện không đến nỗi tệ như ngày đầu tiên. Với sự giúp đỡ của Fidelio, và đôi khi của Gabriel, Charlie đã có thể tìm ra tất cả các phòng học. Vào ngày thứ ba, thậm chí nó còn một mình mò được đường ra vườn.
Thứ Sáu đã tới. Là cái ngày Charlie sợ chết khiếp. Khi các tiết học chấm dứt, nó ngồi trên giường và nhìn Fidelio thu dọn đồ đạc.
“Sẽ có chuyện gì đây, khi mọi người đã về nhà cả?” Charlie hỏi.
“Coi như em bị bỏ lại một mình,” Fidelio đáp. “Không việc gì phải lo cả. Dĩ nhiên, với thằng Manfred thì cũng phải lo một chút, nhưng không phải chỉ có mình em. Nên nhớ là Olivia cũng bị cấm túc, còn Billy Raven thì không bao giờ về nhà, vì nó không có nhà. Anh sẽ tới gặp Benjamin để lấy cái thùng mà em nhờ anh giấu. Sau đó vào lúc… để coi nào… 11 giờ rưỡi thứ Bảy, anh sẽ tới và vẫy tay làm ám hiệu cho em. Nếu tụi này xoay sở xong vụ chuyển cái thùng, anh sẽ giơ hai ngón cái lên.”
Charlie đã có lúc muốn nói với Fidelio về đứa bé, nhưng bây giờ thì không phải lúc.
“Em sẽ gặp anh bằng cách nào?” nó rầu rĩ hỏi.
“Cứ đến tháp nhạc. Olivia sẽ chỉ cho em. Anh sẽ vẫy tay lên ô cửa sổ nhìn ra đường trên tầng hai, lúc đó em chỉ còn bốn tiếng nữa là được ra ngoài rồi.”
Charlie thở dài.
“Tươi tỉnh lên nào!” Fidelio vỗ vai Charlie rồi cầm túi xách lên.
Charlie theo Fidelio xuống lầu và nhìn bạn vung vẩy túi xách đi về phía hai cánh cửa cao bằng gỗ sồi. Cổng bây giờ đang để mở, và bọn trẻ ùa ra, hăm hở đón một kì nghỉ cuối tuần tự do.
Fidelio quay lại và vẫy chào thật nhanh. Nó gần như là đứa cuối cùng rời trường. Chợt một ham muốn mãnh liệt thôi thúc Charlie liều phóng ra ngoài trước khi cánh cửa đóng lại. Nó tiến lên vài bước, liếc quanh thật lẹ, và tăng tốc.
“Thôi đi, Bone!”
Charlie quay ngoắt lại. Manfred Bloor đang đứng trong một hốc tối ở quãng giữa hành lang.
“Mày tưởng không ai trông thấy mày chắc?”
“Em không tưởng gì hết,” Charlie đáp.
“Đem bài tập của mày vào phòng Nhà Vua và ở đó làm cho đến khi nghe chuông báo bữa tối.”
Trong lúc Manfred nói, hai cánh cửa đồ sộ đóng lại, và giọng nói của nó dội ông ổng trong cái sảnh trống trơn.
“OK,” Charlie làu bàu.
“Phải nói là ‘Thưa vâng, anh Manfred’ chớ, không có cái kiểu ‘OK’ như vậy.”
“Vâng, anh Manfred.”
Charlie tìm thấy Olivia và Billy đang tán gẫu trong thư viện.
“Tụi mình không cần phải im lặng khi không có Manfred ở đây,” Billy vui vẻ nói.
Charlie tự hỏi làm sao Billy có thể sống sót nổi – bị giam hãm trong Học viện Bloor hết tuần này đến tuần kia, một thân một mình trong phòng ngủ chung tối tăm khi ai nấy đã về nhà hết.
“Em có bao giờ ra khỏi đây chưa?” nó hỏi Billy.
“Em có một bà dì sống bên bờ biển, cho nên kì nghỉ em hay về đó,” Billy nói. “Em không cô đơn vì có…” nó ngập ngừng, gần như khều khào trong cổ họng, “… luôn có những con vật.”
“Con gì hả?” Olivia hỏi. “Tớ chả thấy có con vật nào cả.”
“Bà bếp trưởng có một con chó,” Billy nói. “Nó già lắm rồi nhưng rất dễ chịu, ngoài ra còn có… chuột… và những con khác nữa.”
“Nhưng không thể nói chuyện với một con chuột được,” Charlie nói.
Billy im lặng. Nó cúi gằm xuống quyển sách và bắt đầu đọc. Hai tròng kính khiến cho mắt nó trông như hai bóng đèn đỏ,to thô lố.
Đột nhiên, nó thì thào, “Thực ra em nói được.”
“Nói được gì cơ?” Olivia hỏi.
Billy hắng giọng. “Nói được với chuột.”
“Thật không?” Olivia gấp sách lại. “Hay quá! Đó là món của đằng ấy đó hả? À, ý là phép thuật của đằng ấy đó hả?”
Billy gật đầu.
“Tức là em có thể hiểu được chúng?” Charlie hỏi.
Chậm rãi và nghiêm nghị, Billy lại gật đầu.
Charlie huýt gió khe khẽ. Bấy lâu nay Benjamin vẫn hay nói rằng nó ao ước có ngày nghe được con Hạt Đậu nói gì.
“Em có thể tới nói chuyện với con chó của bạn anh được không?” Charlie ướm hỏi Billy.
Billy không đáp, chỉ đăm đăm nhìn Charlie, mặt thộn ra.
“Có lẽ đề nghị này ngớ ngẩn thật,” Charlie nói. “Xin lỗi, lẽ ra anh không nên hỏi.”
“Anh chị làm ơn đừng nói với ai nhé. Không phải con vật nào em cũng nói chuyện được. Động vật có rất nhiều ngôn ngữ. Lắng nghe bọn chúng mệt lắm.”
Charlie và Olivia thề thốt rằng tụi nó sẽ không hé răng với ai về chuyện này. Bọn chúng lại quay về với đống sách vở, nhưng một lúc sau, Charlie nhận ra là Billy không làm bài tập hay đọc sách gì cả, chỉ chằm chằm nhìn vào khoảng không.
“Em có thể nói với anh chị điều này được không?”
Cả Charlie lẫn Olivia đồng loạt nói, “Được chứ.”
“Chuyện này xảy ra cách đây một tuần. Em đang trên đường ra vườn sau bữa trà thì nghe tiếng Manfred đang nói chuyện với ai đó. Em không biết đó là ai, nhưng em nghe có tiếng con gái khóc trong phòng huynh trưởng.”
“Không phải tớ đâu đấy,” Olivia nói ngay.
“Đúng là không phải chị,” Billy thừa nhận. “Nhưng mà là con gái, như em nói rồi đấy, và người ấy đang khóc, thế nên em mới biết rằng có người đang gặp rắc rối to. Em liền đi chậm lại để nghe ngóng, nhưng Manfred thình lình phóng ra, tống cho em một quả lộn nhào. Anh ta chửi em là đồ đui mù, ngu xuẩn và đủ thứ kinh khủng khác nữa, cho nên em phải tức tốc ra vườn ngay.”
“Rồi đằng ấy có bị làm sao không?” Olivia hỏi dồn.
“Chân em bị đau,” Billy nói. “Vì vậy, em phải đi chậm. Đang khập khiễng đi xuống hành lang thì em nghe có tiếng mèo. Có ba con cả thảy. Bọn nó nói với em, ‘Mở cửa cho chúng tôi vô. Nhanh lên, Billy. Tới cánh cửa trong tòa tháp ấy’.”
“Tháp nào?” Charlie hỏi. “Có hai cái tháp.”
“Em đoán đó là cái tháp nhạc. Vì tháp kia không có cửa. Em sợ bị Manfred trông thấy, nhưng em không thể làm lơ tiếng nói của lũ mèo. Em vừa lết vừa chạy cho đến khi tới được ngọn tháp. Em băng qua căn phòng trống ở tầng trệt, và khi tới cửa em chỉ việc mở chốt ra cho lũ mèo vô.”
Charlie biết Billy sẽ nói gì tiếp, nhưng nó không cắt ngang.
“Đó là mấy con mèo rất kì lạ.” Đôi đồng tử màu hồng ngọc của Billy vốn đã to giờ còn giãn nở to hơn. “Trông chúng nó giống như những ngọn lửa, đỏ, cam và vàng. Chúng cám ơn em, rất lịch sự, rồi bảo với em rằng Vua Đỏ phái chúng tới.”
“Nhưng ông ấy đã chết từ hàng trăm năm rồi mà,” Olivia ngạc nhiên.
“Em cũng hỏi lũ mèo về điều đó, nhưng chúng nó chỉ nhìn em rất tức cười, xong nói ‘Tất nhiên’, rồi chạy thẳng về phía cầu thang. Ngay trước khi biến mất, con mèo đỏ nói ‘Để cửa đó, Billy!’, và em làm theo. Em vọt ra vườn thiệt nhanh, nhưng em chỉ ở đó được một vài phút thì có chuông báo cháy. Phòng của Manfred bị cháy, và Manfred đang ở trong đó.”
“Thì ra là lũ mèo,” Charlie thở gấp gáp.
“Chắc là chúng đã hất đổ một cây nến,” Olivia nói. “Thằng Manfred luôn luôn thắp nến ở trong phòng. Đứng bên ngoài có thể nhìn thấy ánh nến dập dờn trong phòng nó.”
“Họ có tìm ra ai đã cho lũ mèo vô không?” Charlie hỏi.
“Họ nghĩ đó là thầy Pilgrim,” Billy nói, “vì thầy luôn ở trong tháp nhạc.”
“Vậy là ông ấy bị khiển trách rồi!” Olivia nói.
“Giáo viên không bị khiển trách đâu,” Billy lẩm bẩm. “Phải không?”
Chưa ai kịp trả lời nó, thì từ ngoài cửa vọng lên một tiếng quát, “Im lặng trong phòng Nhà Vua.”
Olivia đeo một bộ mặt cộc cằn hướng về phía cánh cửa. Charlie cố nín cười. Billy cau mày lo lắng và quay lại với đống bài tập về nhà của mình.
Cuối cùng, khi chuông báo bữa tối reng lên, bụng Charlie sôi ùng ục. Dường như mấy ngày nay nó luôn luôn cảm thấy đói.
Chúng cùng xuống sảnh đường ăn tối, nhưng ngay trước khi cả bọn bước vô, Olivia cảnh báo Charlie rằng chúng sẽ phải ngồi ăn chung bàn với Manfred. Tim Charlie chợt thắt lại. Nãy giờ nó mong ngóng cho tới giờ ăn tối, nhưng làm sao có thể tận hưởng bữa tối khi luôn phải cố tránh cái nhìn gườm gườm của Manfred?
“Nó đã khi nào… thôi miên bồ chưa?” Charlie hỏi Olivia.
“Chưa. Nó không quan tâm tới tớ. Ý tớ là tớ chẳng có phép thuật gì hết, cho nên chẳng có gì đe dọa nó cả. Tớ chỉ làm nó cáu thôi.”
“Nó không thôi miên được em,” Billy nói một cách nghiêm trang với hai đứa kia. “Tại mắt em. Nó không thể nào vượt qua được.” Billy cười đầy mãn nguyện.
Sảnh đường ăn tối rộng mênh mông và dội âm. Những bước chân của bọn trẻ nện vang vào sự thinh lặng bí hiểm, khi chúng đi ngang qua những băng ghế trống trơn để tới chiếc bàn có Manfred đang ngồi, trừng trừng nhìn vào một cây nến. Có hai chỗ bên phải và một chỗ bên trái hắn đã được sắp sẵn. Charlie chui ngay vào ghế bên phải, cách xa Manfred nhất.
Hầu hết giáo viên đã về nhà, nhưng giáo sư Bloor, và cả giáo sư Saltweather, vẫn ở lại. Thầy Pilgrim, ngồi hơi tách biệt những người khác một chút; một cái nhíu mày nhẹ thoáng qua trên gương mặt thầy khi lũ trẻ tiến đến gần, còn đâu như thể thầy không trông thấy bọn chúng.
Charlie nghĩ đây là một trong những bữa tối tệ hại nhất mà nó từng ăn. Tệ hơn nữa, ngoài việc phải cố tránh nhìn vào Manfred, thì cái thằng già này còn không cho chúng nói chuyện với nhau.
“Bọn bay đừng có mong đã cấm túc mà lại còn tận hưởng,” Manfred nói, giọng cay nghiệt.
Vì thế trong khi chúng ăn, chẳng hề có tiếng trò chuyện để át đi tiếng cắn, tiếng nhai, tiếng uống nước và tiếng nuốt… tiếp nối nhau.
Cuối bữa ăn, khi tất cả dĩa đã được vét sạch và xếp chồng, mấy đứa tranh nhau ra khỏi nhà ăn càng lặng lẽ càng tốt. Nhưng khi cửa vừa sập lại sau lưng, Olivia nói liền, “Tụi mình có hai tiếng đồng hồ trước khi ngủ. Bắt đầu thám hiểm ở đâu đây?”
Charlie và Billy không có ý kiến gì, thế nên Olivia đề nghị tháp Da Vinci. Charlie muốn biết tên tháp có nguồn gốc từ đâu, nhưng Olivia nhún vai và nói, “Người ta vẫn gọi nó như vậy. Tớ nghĩ hồi trước khoa hội hoạ vẫn dùng căn phòng ở tầng thượng, nhưng bây giờ nó bỏ không. Có người nói với tớ là nó không an toàn. Bên trong mục nát rệu rã rồi.”
Charlie tự hỏi mắc gì chúng lại đi khám phá một tòa nhà không an toàn và dễ sụp, nhưng nó không muốn tỏ ra lo lắng. Ngoài ra, Olivia đã quyết định rồi. Con nhỏ chìa cho chúng xem cây đèn pin giấu bên trong túi áo chùng, giải thích là có thể trong tháp sẽ không có đèn.
Chúng phải mất nửa giờ mới tìm ra một lối có khả năng sẽ dẫn đến tháp Da Vinci. Có một cánh cửa nhỏ xíu ở mút một hành lang trên lầu ba.
“Cùng tầng với phòng ngủ chung của tớ,” Olivia bảo cả bọn. “Vì thế nếu bị bắt ở đây thì tụi mình sẽ có cớ để giải thích.”
Cánh cửa đã chốt, nhưng ngạc nhiên thay, không khoá. Olivia đẩy những cái chốt ra, chúng cứng và gỉ sét.
“Nhiều năm rồi không ai ở đây,” Charlie quan sát.
“Chính xác. Càng thêm thú vị chứ sao.” mắt Olivia sáng long lanh. “Lẹ lẹ lên!”
Cánh cửa kêu kin kít khi cô nàng kéo nó ra. Một hành lang tối tăm uốn cong hiện ra và biến mất ở một góc quẹo mạng nhện giăng xám xịt. Không thấy công tắc, cũng chẳng thấy đèn dầu hay bóng đèn điện đâu cả.
Chúng nhẹ nhàng lách qua cửa, và thấy mình bước đi trên những miếng ván lót sàn rộng, đóng bụi dày đặc. Mùi những thứ ẩm ướt, mục nát phả ra từ những ngóc ngách tối tăm.
“Tụi mình nên đóng cửa lại,” Charlie nói, hơi dè dặt.
“Phải đóng sao?” Billy hỏi.
Olivia bật đèn pin cái tách, và một luồng sáng mạnh mẽ toả trọn lối đi trước mặt chúng. “Không sao đâu, Billy” con bé vỗ về.
Khi Charlie đóng cửa thì có cái gì đó làm cửa dính lại, nó nhìn xuống xem đó là cái gì thì chợt chú ý đến đôi giày của Olivia. Cô nàng đang “diện” đôi giày đen bằng loại da cứng, bóng lộn, gót cao chót vót. Charlie hi vọng chúng sẽ không gặp quá nhiều cầu thang cũ.
Ấy thế mà, ngay khi vượt qua cái góc mạng nhện, thứ đầu tiên chúng gặp phải là một cầu thang cũ mèm. Đó là con đường độc đạo để ra khỏi hành lang này. Chúng chỉ còn cách leo lên một cầu thang xoắn ốc, dốc đứng, hoặc là leo xuống những bậc thang bằng đá hẹp veo.
“Tụi mình leo lên đi,” Billy nài nỉ. “Dưới đó thấy ghê quá.”
“Nhưng coi bộ hấp dẫn,” Olivia thì thào. Nó rọi đèn pin vào cái lỗ tối om phía dưới. Xem ra cái lỗ không có đáy.
“Lên chớ đừng xuống!” Charlie nói, lưu ý đến vẻ lo lắng của Billy. Nó nhớ là Billy không thể nhìn rõ. “Để anh đi trước cho, Billy, em đi ngay sau anh, còn Olivia đi sau cùng. Thế là an toàn nhất.”
Billy trông có vẻ bớt sợ đi, còn Olivia vui vẻ đồng ý. “Đằng ấy sẽ cần đèn pin nếu đằng ấy đi trước,” nó vừa nói vừa đưa cái đèn cho Charlie.
Những bậc thang xoắn ốc hẹp tí rị và gập ghềnh. Thực tình, Charlie phải bò lên. Nó nghe tiếng Billy hồi hộp thở hì hụi sau lưng, và tiếng giày của Olivia thỉnh thoảng cà rột rột lên nền đá lở.
Bất thình lình, có một tiếng lóc cóc, vài tiếng lăn thông thốc, rồi một tiếng rú dội vang, và sau đó là một sự im lặng ghê người. Chuyện xảy ra hẳn đã quá rõ rồi.
“Anh có nghĩ là chị ấy chết rồi không?” Billy thều thào.
Tiếng rên lại nổi lên, như vậy ít nhất thì câu hỏi đã được trả lời. Có điều Olivia bị thương nặng đến cỡ nào?
“Tụi mình sẽ phải xuống thôi, Billy à,” Charlie nói. “Em có xuống được không?”
“Được,” Billy nói, không chắc lắm.
Thật chậm và thật cẩn thận, chúng dò dẫm tìm lại các bậc thang. Tiếng rên rỉ bắt đầu yếu dần và Charlie gọi to, “Bám chặt vào, Olivia. Tụi này đang xuống đây.”
Chúng đã xuống đến chiếu nghỉ nhỏ, trước khi những bậc thang bằng đá ẩn chìm vào màn đen.
“Để anh đi trước,” Charlie đề nghị. “Em có muốn đợi ở đây không, Billy?”
“Không. Một mình thì không.” Billy cuống quýt bám theo Charlie.
Cầu thang gồ ghề bắt đầu uốn cong và Charlie rọi đèn pin xuống, thấy Olivia ở dưới sàn, rúm ró dựa vào một cánh cửa kiểu cổ.
“Bồ OK chớ?” là câu hỏi đầu tiên của Charlie.
“Dĩ nhiên là không rồi. Hai đầu gối tớ bị thương, đầu tớ bị đập mạnh. Hồi nãy tại tớ không thấy đường đi, phải không?”
Charlie không muốn đề cập đến đôi giày cao gót của Olivia. “Tụi này kéo bồ lên nhe? Bồ có đứng dậy được không?”
“Để tớ ráng coi.” Olivia chộp nắm cửa phía trên đầu và từ từ đu người đứng lên. Ắt hẳn cô nàng phải tì mạnh lắm vô cánh cửa, bởi vì, một tiếng rắc đột ngột vang lên và cánh cửa cũ kĩ đổ ập vào trong, mang theo Olivia treo bên trên.
“Í í í í iiiiiiiiii!” Olivia thét lên, kinh hoàng.
Không thể bảo Olivia phải im lặng lúc này được. Charlie vội vàng bò theo sau cô nàng. Khi giẫm lên cánh cửa bị sập, với ánh đèn pin rọi vào căn phòng bên kia, Charlie trông thấy một thứ gì đó rất lạ thường, và trong tích tắc, nó phải lờ phắt Olivia để chĩa đèn pin xa hơn vào căn phòng.
“Chao!” nó thốt lên. “Thật kì lạ.”
“Gì vậy?” Olivia lồm cồm bò dậy. Giờ thì nó cũng đã nhìn thấy vật ấy.
Căn phòng chứa đầy áo giáp, hay đúng hơn, những mảnh áo giáp. Ngoài ra còn có những hình thù bằng kim loại. Chúng vạ vật trên bàn và trên ghế; chúng nằm bừa bãi dưới sàn nhà và treo lủng lẳng trên tường. Những chiếc đầu lâu thép sáng loáng, với những hố mắt lõm sâu và cái miệng nhe ra thật ghê rợn; những ngón tay bằng thép để trong những chiếc thùng; những bàn chân kim loại thò ra khỏi tủ ngăn kéo; những cánh tay, cẳng chân, xương sườn và cùi chỏ bằng kim loại, tất cả chất thành đống hỗn độn dưới sàn nhà. Gớm nhất là những bộ xương treo đong đưa từ trên trần nhà xuống.
“Ái chà!” Olivia nói. “Trông như xưởng của Frankenstein vậy.”
Billy, nãy giờ đứng nép mình giữa hai đứa kia, hỏi, “Frankenstein là ai vậy?”
“Một bác sĩ làm ra một con quái vật từ một người chết.” Olivia giải thích cho nó.
“Từ những mẩu xác chết chứ,” Charlie đính chính.
Olivia níu lấy cánh tay nó. “Em có nghe thấy chứ?”
Charlie vừa định hỏi xem Olivia nghe thấy cái gì, thì chợt có tiếng những bước chân lộp cộp, thấp thoáng đang tiến đến gần. Những bước chân không vọng tới từ cầu thang đá sau lưng chúng, mà từ một cánh cửa ở phía cuối căn phòng.
“Nhanh!” Olivia đẩy cả hai thằng con trai khỏi cánh cửa sập, vào một cái tủ tường đang mở he hé. Ngay khi chúng vừa vào bên trong, Olivia liền kéo cửa đóng lại, trước khi chúng kịp liếc thấy những thứ trong tủ.
Cả Olivia lẫn Charlie đều đưa tay bụm chặt miệng Billy lại. Dù gì thì nó cũng còn nhỏ hơn chúng nhiều, mà trong tủ lại chứa đầy những bộ xương.
Charlie tắt đèn pin đúng lúc có ai đó bước vào phòng. Đèn bật lên. Ánh đèn chiếu qua những kẽ lá sách của cánh cửa tủ, và thân mình bọn trẻ được ánh sáng tô như ngựa vằn, với những sọc sáng, tối xen kẽ. Olivia ráng nhịn cười. Nheo mắt nhìn qua một khe hở, Charlie thấy giáo sư Bloor đang di chuyển giữa đống áo giáp và những hình thù kim loại.
Bây giờ các hình thù đã dễ nhìn hơn, và Charlie nhận ra một số là động vật – chó, mèo và có cả một con thỏ. Chúng là của tiến sĩ Tolly, nó nghĩ thế. Nhưng làm cách nào mà cuối cùng chúng lại tụ về đây, trong một căn phòng bí mật ở Học viện Bloor? Chúng được mua, được cho, hay bị ăn cắp?
Người đàn ông cao lớn đi đi lại lại. Ông ta bắt đầu đi về hướng cái tủ tường. Khi đi ngang qua một con chó kim loại, ông ta nhặt nó lên và giật mạnh cái đuôi. Ông ta đập mạnh thân con chó vào cái bàn. Con chó vỡ tan tành và một đống bánh xe, răng cưa, lò xo và đinh vít đổ ào ra. Giáo sư Bloor chăm chú nhìn đống đồ sáng loáng đó, gầm gừ, và rồi vung tay xô chúng xuống khỏi bàn. Rõ ràng ông ta đang lục tìm cái gì đó và nổi giận vì không tìm ra. Ông ta lại nhắm tới cái tủ và quả quyết đi về phía đó.
Ba đứa gần như không dám thở. Olivia, Charlie và Billy bấu chặt tay vào nhau. Những móng tay dài của Olivia cắm sâu vào lòng bàn tay Charlie, và nó sắp sửa thét lên thì cửa bật mở, với một tiếng két thật to, và một giọng nói vang lên:
“Biết ngay là sẽ tìm thấy ba ở đây.”