Đọc truyện Charlie Bone lúc nửa đêm (Tập 1) – Chương 11: phần 2
Fidelio lướt đi, hòa vô dòng áo chùng đủ màu sắc đang dồn ứ về phía cuối nhà ăn tối. Charlie nháu nhàu tìm cái đầu trắng của Billy Raven. Nhưng thằng bé bạch tạng bé xíu này bị chìm lỉm trong khối trẻ con chen lấn xô đẩy nhau. Cuối cùng Charlie cũng phát hiện ra thằng bé. Nó đang thành thạo rẽ đường luồn lách giữa mấy bọn khác, phải mất một hồi Charlie mới đuổi kịp nó.
“Chào em!” Charlie nói, túm được vạt áo chùng của Billy. “Cho anh đi cùng với nhé? Anh không biết phòng Nhà Vua ở đâu.”
“Ít người biết lắm,” Billy nói, cười toét. “Muốn nhớ được đường tới đó cũng phải mất một lúc kìa. Nhưng em sẽ là hướng dẫn viên cho anh, miễn là anh muốn vậy.”
Charlie chưa kịp lầm thầm một lời cám ơn thì Billy đã ào đi. Trước tiên tới dãy ngăn tủ để lấy tập và viết, sau đó trở lại tiền sảnh, xuống một lối đi, quẹo một khúc quanh, và leo lên một cầu thang. Cuối cùng chúng tới cánh cửa đôi cao vời, sơn đen. Billy đẩy một cánh cửa ra và chúng bước vô một căn phòng lạ lùng, hình tròn. Có mười đứa trẻ đang ngồi quây quanh một chiếc bàn tròn.
Manfred và Asa cũng có mặt ở đó. GABRIEL Silk ngồi giữa Emilia Moon và một nữ sinh tóc quăn, béo tròn, trông bình thường đến nỗi không thể tin được con bé này lại là một trong những đứa có phép thuật. Một nữ sinh vai u thịt bắp, tương phản với nữ sinh mảnh khảnh, nhỏ nhắn ngồi kế bên. Bên cạnh chúng, một nữ sinh da đen, mũi dài và nhọn hoắt, đang khinh miệt nhìn Charlie, và Charlie thấy lòng mình chùng xuống. Nó sẽ phải trải qua bao nhiêu thời gian với một bọn trông kém thân thiện thế này? Nó ước gì Fidelio và Olivia có mặt trong nhóm này.
Có hai cậu bé ngồi quay lưng ra cửa, và một đứa ngoái lại nhìn khi Charlie bước vô. Nó mang những nét như chạm trổ của người Châu Phi, và nở một nụ cười ấm áp nhất mà đã lâu lắm rồi Charlie chưa được thấy.
“Đây là Charlie!” Billy Raven nói.
“Chào, Charlie, anh là Lysander,” cậu bé da đen nói với nụ cười nồng hậu.
Vài đứa trong đám con gái cũng tự giới thiệu. Dorcas phục phịch và vui tươi, Beth bự con, Bindi nhỏ bé, và Zelda có mũi dài. Emilia Moon thậm chí không ngẩng đầu lên.
Vẻ nhẹ nhõm của Charlie vì gặp được vài gương mặt thân thiện không kéo dài được lâu.
“Ngồi xuống, Charlie Bone. Và im lặng!”
Manfred hất hàm về phía một cái ghế trống, đối diện với Emilia Moon. Billy ngồi xuống bên cạnh Lysander.
Trong lúc lóng ngóng với đống sách vở và tự hỏi không biết phải bắt đầu từ đâu, Charlie cảm giác đôi mắt đen như than của Manfred đang dán chặt vô nó. Nó muốn quan sát kĩ căn phòng nhưng không dám ngẩng đầu lên, cho đến khi nó chắc chắn ánh mắt nhìn đáng sợ của Manfred đã trở về với quyển sách của hắn. Cuối cùng, khi Charlie liếc nhanh được một vòng xung quanh, nó thấy một người nữa đang nhìn nó, đó là người duy nhất trong phòng mà nãy giờ nó không thấy mặt.
Đứa con trai này lớn hơn Charlie, có lẽ mười hai hay mười ba. Mắt nó tròn, trông thất thần, tóc vàng dựng đứng, tua tủa như có dòng điện chạy qua.
Charlie cau mày, hi vọng cậu kia sẽ nhìn đi chỗ khác, nhưng không ăn thua. Xem ra phản ứng dữ dội đó của Charlie lại thêm kích thích đối phương. Cuối cùng, chính Charlie là kẻ quay đi chỗ khác.
Thay vì bắt đầu làm bài tập, mắt nó lại phóng về phía bức tường đằng sau thằng bé tóc vàng. Và kìa, ở đó, chính là Vua Đỏ. Ông đang nhìn chăm chăm ra từ một bức tranh đóng khung vàng, chắc chắn là rất xưa rồi. Bức tranh đã nứt nẻ, và mờ đến nỗi những đường nét trên gương mặt dài, sậm màu của ông lờ mờ, ẩn hiện, ngoại trừ đôi mắt đen và cuốn hút. Áo chùng ông mặc bằng nhung đỏ quý, và vương miện mỏng trên mái tóc đen của ông nháng lên một tia sáng vàng, bí ẩn.
“Charlie Bone!” Giọng nói của Manfred làm Charlie giật nảy mình. “Sao không làm bài?”
“Em đang nhìn Vua Đỏ,” Charlie nói, tránh ánh mắt của Manfred. “Phải đó là Vua Đỏ không?”
“Phải! Trở lại bài ngay!”
Manfred lại dán tịt mắt vô Charlie, cho đến khi Charlie mở sách Ngữ văn ra.
Suốt hai tiếng đồng hồ sau đó, không một ai nói gì. Có những tiếng thở dài, tiếng húng hắng họng, khụt khịt mũi, tiếng hắt xì quanh Charlie, nhưng tuyệt không có tiếng nói nào. Trong một góc tối, chiếc đồng hồ treo tường tíc tắc, cứ mỗi một khắc lại ngân lên tiếng. Tiếng lật giấy, tiếng bút rột rẹt, và Charlie đang có nguy cơ ngủ gật.
Cuối cùng đồng hồ điểm tám tiếng và Manfred đứng lên.
“Tụi bay đi được rồi!” Hắn nói và bước ra khỏi phòng, với Asa lúp cúp theo sau.
Charlie thu dọn tập vở và ra khỏi lớp với Billy Raven.
“Cái anh tóc vàng là ai vậy?” Nó thầm thì.
Cậu tóc vàng mà nó hỏi tới cũng vừa rời phòng, tấm áo chùng xanh lá cây bay phấp phới quanh người, như thể đang bị một cơn gió bí hiểm thổi vô.
“Ồ, đó là Tancred,” Billy đáp. “Anh ấy có thể làm ra bão. Đi thôi. Em sẽ chỉ cho anh phòng ngủ chung.”
Cuộc hành trình này dẫn chúng qua rất nhiều cầu thang, và qua rất nhiều hành lang, Charlie bắt đầu thắc mắc liệu có bao giờ nó tự tìm được đường mà đi ăn sáng hay không. Cuối cùng chúng tới một căn phòng dài lạnh lẽo, tối tăm; sàn nhà trống trơn, chỉ có đúng một ngọn đèn lù mù.
Có sáu cái giường, đặt cạnh nhau sát rịt thật bất tiện, dọc theo hai bên tường của căn phòng dài. Những chiếc giường hẹp, và một tủ ngăn kéo nhỏ dựa vô tường. Charlie thở phào khi thấy Fidelio ngồi trên một cái giường ở cuối phòng.
“Lại đây, Charlie!” Fidelio gọi toáng lên. “Em nằm kế anh.” Nó chỉ một cái giường.
Charlie đi tới, đặt phịch cái túi xuống ghế.
“Áo chùng treo trên mắc bên cạnh, đồ đạc còn lại cất trong ngăn kéo.” Fidelio hạ thấp giọng. “Nhìn xem ai ở phía bên kia giường của em kìa. Em có thể kiểm tra áo chùng của nó.”
Charlie thấy Gabriel Silk đang tống đồ đạc vô cái tủ ngăn kéo bên cạnh giường. Tuy nhiên, Gabriel không cởi áo chùng ra, ngay cả khi vô phòng tắm.
“Rất đáng ngờ,” Fidelio nói. “Em có đèn pin không?”
Charlie đã không hề nghĩ đến đèn pin khi đóng gói đồ đạc.
“Đèn pin là vật dụng thiết yếu,” Fidelio bảo nó. “Em có thể đọc sách khi tắt điện và soi đường đi loanh quanh. Ban đêm ở đây tối đến mức em khỏi nhìn thấy gì luôn.”
Nó lôi một cây đèn pin màu xanh da trời ra khỏi ngăn kéo và đưa cho Charlie:
“Em sẽ cần nó để xem cái áo chùng. Cất dưới gối đi.”
Charlie là đứa cuối cùng trong phòng lên giường đi ngủ. Nó phải mất thời gian dỡ đồ đạc ra, lục tìm tất cả những thứ cần thiết cho ban đêm. Nó lại mắc cỡ vì mấy con gấu Teddy in trên bộ đồ ngủ, nhưng khi thấy có đứa mặc đồ có hình đàn sóc, thì nó nghĩ gấu cũng không đến nỗi nào.
Nó vừa nhảy lên giường thì đèn phụt tắt.
“Im lặng!” Một giọng nữ ồm ồm vang lên. Rồi một bàn tay thò ra đóng cửa lại, phòng ngủ chung chìm trong bóng tối.
Có cái gì đó quen quen trong giọng nói kia, nhưng Charlie không tài nào nhớ ra.
“Đó là ai vậy?” Nó thì thào hỏi Fidelio.
“Giám thị,” Fidelio nói, “phụ nữ gì mà như con rồng.”
Trong phòng đầy những tiếng khụt khịt mũi, tiếng trở mình sột soạt, khi bọn con trai cố tìm cho mình một thế nằm thoải mái trên cái giường nhỏ hẹp, cứng queo. Charlie chờ cho đến khi những tiếng ồn dứt hẳn. Ở giường bên, Gabriel Silk đang thở sâu. Có vẻ nó đã ngủ rồi.
Charlie móc cây đèn pin ra và thò chân xuống sàn nhà. Khi đã chắc bóng đèn pin chĩa vô tường rồi, nó bật lên. Tấm áo chùng xanh da trời ở ngay trước mặt nó. Nó nhấc áo ra khỏi móc áo của Gabriel và nhìn những chữ viết tắt bên trong cổ áo.
“Áo mình đây mà,” Charlie thì thầm.
Fidelio đang ngồi nhỏng trên giường.
“Lấy đi,” nó thì thào. “Lẹ lên.”
Charlie lấy cái áo chùng rách rưới của Gabriel và định treo lên mắc, thế vô chỗ áo chùng của nó, chợt một tiếng thét hãi hùng vang lên.
“Đừng!” Gabriel thét lạc cả giọng, nhảy lên và cấu xé như điên cái áo chùng, “Đừng làm thế. Làm ơn! Làm ơn lấy đi giùm đi!”
Nó quẳng áo chùng rách qua góc giường của Charlie.
Charlie đặt cây đèn pin xuống gối. Cây đèn tỏa một quầng sáng dịu quanh giường.
“Áo chùng đó là của anh mà,” nó nói. “Em không muốn lấy cái áo đó.”
“Cậu không hiểu. Tôi không mặc nó được. Không mặc được. Cái áo đó toàn… kinh dị. Tôi sợ cái áo đó muốn chết luôn.” Gabriel nằm bẹp xuống giường và úp mặt vô hai bàn tay.
“Cậu đang nói về cái gì thế, Gabriel Silk?” Fidelio hỏi với giọng trầm trầm. “Tại sao Charlie phải đưa cho cậu cái áo của nó?”
“Bởi vì tôi không mặc được cái áo kia,” Gabriel hất đầu về phía cái áo chùng cũ. “Người mặc nó trước tôi đã gặp một chuyện gì đó rất hãi hùng. Tôi cảm giác được chuyện đó, cậu hiểu không? Giống như mặc một cơn ác mộng vậy.”
Charlie bắt đầu hiểu ra.
“Đó là phép thuật của anh hả, Gabriel? Anh ‘cảm giác’ được chuyện gì đã xảy ra à?”
Gabriel gật đầu:
“Tôi cảm thận được từ những thứ người ta mặc trên người. Thật kinh khủng. Nếu không có quần áo mới, mà cứ phải mặc đồ cũ, thì tôi sẽ phải cảm thấy tất cả những cảm giác không phải của mình. Những chuyện lo âu của người khác chẳng hạn. Thỉnh thoảng tôi cảm thấy hạnh phúc, nhưng ngay cả như vậy cũng không hay ho gì, vì đó là niềm hạnh phúc không thật, mà lại không kéo dài. Vào đầu học kì, tôi có một cái áo chùng mới, nhưng lũ chuột kiểng của tôi đã cắn rách nó và mẹ phải kiếm cho tôi một cái khác.”
Charlie không ngăn nổi tò mò:
“Anh có bao nhiêu con chuột kiểng?” Nó hỏi.
“Năm mươi ba,” Gabriel nói với vẻ đau khổ. “Chúng ăn gần hết cái áo. Tụi tôi không có nhiều tiền, cho nên mẹ tôi hỏi Học viện xem họ có thể cho tôi một cái áo chùng đã dùng rồi không. Và họ đưa cho tôi cái kia.”
Đến lúc này toàn bộ phòng ngủ chung đã thức giấc. Một trong những cậu bé ở giường cuối nói:
“Tao dám cá cái áo đó là của đứa con gái bị mất tích trong khu bỏ hoang. Chắc lúc đó nó đã sợ hãi kinh khủng.”
“Mình nghĩ chúng ta nên im lặng, nếu không bà giám thị sẽ vô, và tất cả chúng ta sẽ bị cấm túc,” một giọng nói cảnh báo.
Charlie không biết phải làm gì. Làm sao nó có thể để Gabriel mặc cơn ác mộng của ai đó được?
“Tôi sẽ làm cho cậu tất cả mọi thứ, bất cứ việc gì,” Gabriel thì thào. “Nhưng làm ơn đừng bắt tôi mặc cái áo đó.”
Charlie lấy áo chùng mới của nó xuống và đưa cho Gabriel.
“Cám ơn! Cám ơn, Charlie!” Gabriel vồ lấy cái áo với lòng biết ơn.
“Có một việc anh có thể làm cho em,” Charlie nói khẽ.
Nó mở ngăn kéo của mình và lấy ra chiếc cà vạt mẹ nó đã đưa cho nó.
“Anh có thể nói cho em biết bất cứ điều gì về người đã đeo cái này không?” Nó đưa chiếc cà vạt cho Gabriel.
Gabriel chẳng nói chẳng rằng, quấn chiếc cà vạt vô cổ và nhắm mắt lại. Nó rê những ngón tay dọc theo chiều dài của dải lụa xanh da trời, chạm vô chữ ‘Y’ vàng nhỏ ở đầu chiếc cà vạt. Một khoảng tối phủ bóng trên gương mặt dài của Gabriel.
“Lạ thật,” nó lẩm bẩm. “Dù người đeo chiếc cà vạt này có là ai chăng nữa thì người đó cũng đã có thời hạnh phúc. Nhưng hiện ông ấy đang mất tích.”
Nó tháo chiếc cà vạt ra khỏi cổ và lấy ngón tay vuốt vuốt:
“Tôi chưa bao giờ cảm thấy bất kì cái gì như thế này. Như thể người này đang không biết mình là ai nữa.”
Rồi trả lại chiếc cà vạt cho Charlie.
Ít nhất thì ba nó đã từng hạnh phúc. Charlie đinh ninh rằng “mất tích” có nghĩa là “chết”. Nó cất chiếc cà vạt vô ngăn kéo. Vẫn chẳng biết được gì nhiều hơn về ba nó.
Nó định tắt đèn pin đi ngủ, thì một hình hài nhỏ thó hiện ra dưới chân giường của Gabriel. Mái tóc trắng hiện lờ mờ trong bóng tối.
“Anh có thể nói cho em biết về người này không?” Billy thì thào. Nó đặt một chiếc khăn quàng xanh da trời dài lên cái mền của Gabriel.
Gabriel thở dài nhưng không phản đối. Nó quàng chiếc khăn vô cổ, và một lần nữa, nhắm mắt lại.
“Ừm, người này lúc nào cũng hối hả,” nó nói. “Ở đây, ở đó, ở khắp nơi. Ông ấy phải luôn hối hả, không ngừng lại được.”
Nó dừng lại.
“Và giờ thì, tôi nghĩ là, ông ấy chết rồi.” Nó tháo chiếc khăn ra.
“Không còn gì khác sao?” Billy Raven nài nỉ. “Ông ấy không nói gì hết sao?”
“Xin lỗi, chuyện đó tôi không làm được,” Gabriel nói, vẻ lấy làm đáng tiếc. “Tôi không nghe được giọng nói. Và khi người ta chết thì những thông điệp sẽ yếu hơn rất nhiều.”
“Ra vậy. Cám ơn anh,” Billy rón rén bước đi, giọng nó buồn bã vọng trong bóng đếm.
Charlie tắt đèn pin, chồm sang nhét dưới gối Fidelio. Fidelio đã ngủ say. Tiếng thở nhè nhẹ của Fidelio khiến Charlie buồn ngáp, nhưng sau đó, bất chợt, nó tỉnh như sáo. Lúc nãy Gabriel nói cái gì đó mà nó chưa hiểu.
“Anh Gabriel,” Charlie gọi thầm. “Ba em đã đeo chiếc cà vạt đó đó. Ba em mất hồi em hai tuổi. Sao anh lại nói ông bị mất tích?”
“Bởi vì ông ấy đang mất tích,” Gabriel nói, giọng buồn ngủ.
“Ý anh là ba em chết hả?”
“Không, ý tôi là mất tích. Không phải là chết.”
Charlie nhìn chằm chằm vô bóng tối. Nó lắng nghe những tiếng thở nhè nhẹ đang tràn ngập không gian không nhìn thấy được bao quanh mình, biết rằng trong mấy giờ tới, nó sẽ nằm đó, chỉ có lắng nghe thôi.
“Không chết sao?” Nó thì thầm. “Gabriel, anh chắc chứ?”
“Chắc chắn,” Gabriel vừa nói vừa ngáp. “Chúc ngủ ngon, Charlie!”