Đọc truyện Charlie Bone lúc nửa đêm (Tập 1) – Chương 13
Những manh mối sau cùng
“Cánh cửa cũ đó đổ rồi,” giáo sư Bloor nói.
“Hả? Chắc có đứa nào quậy phá?”
“Ta không nghĩ vậy. Chỉ tại ẩm mục và cũ nát quá thôi.”
“Hừmm. Con nghi lắm,” cái giọng quen quen nói.
“Tất cả cái đống mà Tolly gửi cho chúng ta…” Giáo sư Bloor đá một cánh tay kim loại khiến nó lăn lông lốc về phía tủ tường. “Toàn đồ dởm! Còn cái thật đang ở đâu?”
“Con đã nói rồi mà ba! Mụ Ingledew đưa nó cho thằng Charlie Bone rồi.”
“Sao con chắc vậy được!”
Nắm tay Olivia đã nới lỏng ra, và Charlie có thể rút bàn tay khỏi những móng tay làm nó đau đớn nãy giờ. Billy, tạm thời quên béng bộ xương treo sau lưng, giờ đang hé mắt nhìn qua khe lớn nhất trên cửa. “Manfred đấy,” nó thì thầm.
Charlie cũng đã nhận ra tiếng nói. “Suỵt!” nó khe khẽ. “Nghe nào.”
“Con chắc mà, ba,” Manfred nhấn mạnh. “Asa vẫn đang theo dõi. Nó thấy Charlie ra khỏi nhà mụ Ingledew với một cái bao lớn màu đen. Mụ không đưa cho nó thì còn đưa ai nữa?”
Giáo sư Bloor ậm ừ rồi thả mình xuống một chiếc ghế trông có vẻ rất cổ. Bụi bốc lên mịt mù chung quanh khi ông ta ngả người xuống miếng đệm da rách toạc. “Ta không hiểu tại sao thằng nhóc lại biết chỗ mà đến. Làm sao nó lại biết cái đó đang ở nhà mụ Ingledew.”
“Đó là do mấy con mèo, chắc chắn,” Manfred nói. “Ba biết bọn chúng vẫn làm gì mà – hất đổ đồ trên bàn, đánh lạc hướng người ta. Dĩ nhiên là nếu thằng nhóc có được tấm hình, thì sau đó thể nào nó cũng mò đến nhà mụ Ingledew để trả lại. Cho nên con dám cá chắc với ba là một trong mấy con ôn mèo đó đã lẻn vô tiệm hình Kwik khi người ta đang cho hình vô bao. Chỉ cần một giây lơ đãng là… úp… lộn hình, lộn phong bì.”
“Ta sẽ lột da sống mấy con thú đó nếu tóm được chúng!” Giáo sư Bloor nói. “Chín trăm năm lén lút và chõ mũi vào công việc của người khác.”
“Cả ăn cắp và đốt nhà,” Manfred tiếp lời.
Trong bóng tối rùng rợn của tủ tường, ba đứa trẻ há hốc miệng thở, nhìn nhau. “Chín trăm năm,” Olivia mấp máy.
Billy lắc đầu không tin. Charlie nhíu mày và nhún vai. Tại sao không? Nó nghĩ. Có nhiều chuyện còn kì lạ hơn thế đang diễn ra hằng ngày, ở đây.
“Lại nói đến vụ hoả hoạn,” giáo sư Bloor lẩm bẩm. “Liệu có chắc là do bọn mèo đó hay không?”
“Con đã nói với ba rồi, con thấy tụi nó dưới cửa sổ phòng con lúc con đang cố dập lửa.”
“Và con nghĩ là đứa con gái cũng có liên quan đến việc này à?”
“Tất nhiên. Con đã nện cho nó một trận ra trò.”
“Con không nên làm như thế, Manfred,” giáo sư Bloor nghiêm mặt nói. “Chẳng ích gì đâu.”
“Lúc ấy con mất bình tĩnh. Con phát điên lên khi nó không đáp trả. Nó đang dần tỉnh ra, ba biết không. Con không thể giữ cho nó mê lâu hơn nữa.” Manfred thở dài một cách thiếu kiên nhẫn. “Làm như con không có đủ việc để làm hay sao ấy, lại còn phải để mắt đến lão Pilgrim.”
“Thế cái vấn đề cỏn con đó ra sao rồi?”
“Con không chắc. Có thể là do con tưởng tượng, nhưng con nghĩ lão ấy đã thay đổi kể từ khi thằng nhóc đó tới đây. Lẽ ra chúng ta không nên mang nó vô trường”
“Việc chẳng đặng đừng mà, Manfred. Không thể để thằng bé đó ở ngoài một khi chúng ta biết nó có phép thuật.”
“Con hiểu, con hiểu.”
Trong tủ, Olivia nhăn nhó chỉ vào Charlie, thì thào, “Là đằng ấy đấy.”
Charlie lại nhún vai. Giáo sư Bloor và thằng con trai nham hiểm của lão nói về chuyện gì vậy? Cô bé đang tỉnh ra là ai? Tại sao Manfred lại phải canh chừng thầy Pilgrim? Charlie chăm chú lắng nghe, hầu tìm ra manh mối.
Nhưng Manfred và ba nó hình như sắp đi khỏi. Đang có vẻ như Charlie sẽ không biết được gì thêm về nó hay về con bé sắp tỉnh dậy kia, thì bỗng nhiên, ngay trước khi rời khỏi phòng, Manfred nói, “Cũng không còn lâu nữa đâu, Asa theo rất sát. Nó tin chắc là cái thằng hay đi với con chó đang giấu cái vật ấy. Chúng ta chỉ việc dụ cho ba má nó tránh ra là sẽ lấy được.”
“Manfred,” giọng giáo sư Bloor giờ đã xa, nhưng vẫn có thể nghe rõ lời. “Phải hủy cái vật ấy trước khi nó đánh thức con bé.”
Ánh đèn trong phòng vụt tắt và cánh cửa khép lại.
Trong vài giây, ba đứa trẻ vẫn im thin thít. Khi chắc chắn chỉ còn có bọn này với nhau, Olivia nói: “Chà, thú vị quá hả?”
“Chúng mình ra khỏi đây mau,” Charile nói. “Mình có nhiều thứ để kể cho hai người.”
Billy là đứa đầu tiên chui ra khỏi tủ tường. Nó chạy ù qua cánh cửa sập và leo lẹ lên những bậc thang lở, trước khi cả hai đứa kia phủi bụi trên người xong.
Đáng lí ra chúng không cần phải mất công phủi bụi làm gì, bởi vì, đến khi bò ra khỏi tháp Da Vinci, thì cả ba chúng nó một lần nữa lại dính đầy mạng nhện. Olivia bị sưng vù ở mắt cá, đầu gối bầm tím và có vài vết rách, nhưng cô nàng không muốn làm ầm lên. Charlie cảm kích quá, nó bảo, “Mình nghĩ bồ nên đến gặp bà giám thị. Nhỡ may trong đám bụi bẩn ấy có thứ gì gớm ghiếc thì sao, bồ biết đó, một con rệp cổ hay một thứ gì đó chẳng hạn.”
“Giám thị ấy hả? Bà đó hung dữ như con rồng vậy,” Olivia nói. “Chắc chắn bà ấy sẽ tọc mạch hỏi xem tớ đã làm gì. Tớ sẽ giấu đầu gối dưới lớp quần thun bó, để ngày mai về mẹ tớ sẽ lo liệu.”
Billy nhắc Charlie về điều Charlie lúc nãy muốn nói với cả bọn.
“Yên trí, anh nói đây,” Charlie bảo. “Theo toàn bộ những gì mà Manfred và giáo sư Bloor nói với nhau… ờ… thì mọi việc đã xảy ra đều có đầu đuôi cả.”
Olivia đề nghị cả bọn vào phòng ngủ chung của nó, vì cái phòng đó gần hơn phòng của tụi con trai. “Nó ở hành lang này, chỉ còn cách ba phòng nữa thôi,” Olivia nói. “Tụi mình còn có thể tắm rửa sạch sẽ trước khi bà giám thị bắt đầu đi tuần như thường lệ.”
Cô nhỏ nói ra điều này quá trễ. Bà giám thị đã bắt đầu những vòng tuần tra rồi đấy. Ngay khi cả bọn vừa tới phòng ngủ chung của Olivia thì cửa bật mở, và bà giám thị xồ ra. Chỉ khi đó, Charlie mới khám phá ra tại sao giọng nói của bà ta lại có vẻ quen thuộc đến thế. Bà giám thị chính là bà cô Lucretia Yewbeam.
Tất nhiên, Billa và Oliva chỉ đơn thuần nhận ra bà ta là giám thị của trường thôi, nhưng Charlie thì sửng sốt đến nỗi nó cảm tưởng như vừa bị tống một trái vô bụng. Nó gấp gáp thở, hớp hớp không khí và nói lắp bắp, “Bà Lu… Lu… Lucretia!”
“Ta là giám thị!” bà cô Lucretia cáu kỉnh.
“Con… con… con không… không biết bà là giám thị,” Charlie lắp bắp, vẫn còn bị sốc.
Thời buổi này ai cũng phải đi làm để kiếm sống,” giám thị Yewbam đáp lời.
Ngỡ ngàng hết sức, Olivia và Billy hết quay nhìn Charlie lại ngó sang bà Lucretia, rồi lại quay nhìn Charlie.
“Bọn bay dơ dáy hết chỗ nói,” bà giám thị nói tiếp. “Chúng mày vừa chui ở đâu ra, hả?”
Olivia đã sẵn sàng cho câu hỏi này. Không một chút chần chừ, nó đáp, “Dạ, tụi con ra vườn chơi, nhưng khi quay về thì cửa đã khóa, thế nên tụi con phải đi lòng vòng và tìm thấy một cửa sổ, tụi con leo vô một căn phòng trống bẩn thỉu kinh khủng. À, thực ra thì, tụi con bị té vì cửa sổ khá cao.”
Bà giám thị nhăn mặt. Bà có tin Olivia không? Cũng có thể ai đó đã khóa cửa khu vườn thật. Bà hăm dọa, “Ta định sẽ phạt tất cả tụi bay thêm hai mươi bốn giờ cấm túc nữa; nhưng may phước cho tụi bay là ta cũng muốn nghỉ, cho nên lần này ta tha cho tụi bay, chỉ cảnh cáo thôi.”
“Tụi con cảm ơn bà,” Olivia vồn vã nói.
“Tuy nhiên!” Giám thị Yewbeam không dễ dàng bị đánh lừa như thế. “Tất cả tụi bay phải đi ngủ, ngay tức khắc.”
“Nhưng tụi con còn được thức một tiếng nữa cơ mà,” Billy nói một cách dũng cảm.
“Một tiếng ấy là để tắm rửa,” bà giám thị lạnh lùng phán. “Hai tụi bay đi ngay đi.” Rồi bà quay sang Olivia. “Còn mày thì để tao rửa sạch đầu gối cho nào!”
Bỏ lại Olivia cho sự chăm sóc còn lâu mới dịu dàng của bà giám thị. Charlie và Billy tìm đường quay về phòng ngủ chung của chúng.
Rốt cuộc ngôi trường gần như vắng tanh này cũng có cái gì đó đáng nói. Đó là nước trong vòi nóng bỏng. Cho đến bây giờ Charlie chỉ mới tắm nước lạnh có một lần. Nó không phải là đứa thích tắm. Nhưng hôm nay là lần tắm lâu nhất, nóng nhất mà nó nhớ được.
Năm phút sau khi bọn con trai đã leo lên giường thì có tiếng gõ cửa, và Olivia xăng xái ùa vào. Cô nàng bận áo đầm ngủ bằng nhung trắng, điểm những bông hoa tím bự tổ chảng, và mái tóc màu tím đã chuyển sang màu nâu nhạt.
“Bà giám thị bắt tớ gội sạch,” nó thông báo cho bọn con trai biết. “Đó chỉ là thuốc nhuộm xịt lên tóc thôi mà.” Rồi nó nhảy tót lên ngồi phía chân giường của Charlie. “Nào, bồ có chuyện gì tính kể với tụi này vậy?”
“Chuyện là thế này,” Charlie bắt đầu, rồi nó kể cho hai đứa bạn nghe tất cả mọi việc đã xảy ra với nó, từ lúc nó nhìn thấy tấm hình người đàn ông lạ ẵm đứa bé cho đến khi nó vào Học viện Bloor. “Mình luôn nghĩ rằng món đồ trong thùng rất có giá trị, một món đồ quý có thể đổi lấy cháu gái của cô Ingledew, bất kể con bé đó là ai. Nhưng hình như giáo sư Bloor chỉ muốn hủy nó đi.”
“Trước khi nó đánh thức con bé,” Olivia thêm vào. “Và con bé đó chắc chắn là đứa bé đã bị đánh cắp.”
“Vậy tức là, dù gì đi nữa thì món đồ trong thùng vẫn còn giá trị,” Billy xen vào, “vì tác dụng gì gì của nó. Kiểu một loại bùa…”
“Hừm,” Olivia rung đùi. “Mấy người biết tớ nghĩ gì không?” Rồi không đợi hai đứa con trai hỏi, nó nói luôn. “Tớ nghĩ rằng Manfred đã thôi miên con bé. Có lẽ con bé đã bị thôi miên suốt từ hồi bị đánh cắp, bị đánh đổi, hay bị sao đó. Nhưng trò thôi miên này đang mất dần linh nghiệm, cho nên Manfred cứ phải liên tục thôi miên, để bảo đảm con bé không tỉnh lại và chạy trốn, hoặc nhớ ra mình thực sự là ai.”
“Olivia, bồ thiệt là thông minh,” Charlie reo lên. “Thực tình, có dạo mình nghĩ con bé đó chính là bồ.”
“Tớ à? Không đời nào. Ai thôi miên là tớ biết ngay,” Olivia toét miệng cười. “Tuy nhiên tớ dám chắc tớ có thể tìm ra con bé đó là ai.”
“Bằng cách nào?” Charlie hỏi.
“Quan sát thôi. Chuyện này tớ siêu lắm. Nếu đứa bé bị đem đi đổi cách đây tám năm, lúc ấy nó mới gần hai tuổi, thì giờ nó phải cỡ bằng tuổi tụi mình. Chắc chắn con nhỏ đó cũng có phép thuật, thế nên giáo sư Bloor mới muốn bắt nó. Vậy thì, để coi ai có những đặc điểm giống như tớ mô tả nào? Đám phép thuật đằng ấy có mấy người đâu nhỉ?”
“Mười hai,” Billy đáp, “Năm người là nữ. Zelda quá lớn, chị ấy mười ba rồi. Beth cũng vậy. Chỉ còn lại Dorcas, Emilia và Bindi.”
“Không thể là Dorcas,” Olivia tuyên bố. “Nhỏ đó hoạt bát, vui vẻ. Tớ chưa bao giờ thấy ai bị thôi miên mà lại thế cả.”
“Emilia,” Charlie la lên. “Tất nhiên rồi. Nghĩ mà coi. Lúc nào trông nó cũng như đang mê man sao đó, và nó có vẻ sợ giáo sư Bloor nữa.”
“Ai mà không sợ lão ấy?” Olivia nói. “Nhưng tớ nghĩ đằng ấy nói đúng, Emilia ở chung phòng với tớ, thế nên để tớ chong mắt canh chừng cho. Tớ phải đi đây. Chúc các đằng ấy ngủ ngon. Sáng mai gặp lại nha.” Olivia nhảy phắt xuống giường và phóng ra cửa.
Olivia vừa mới rời khỏi phòng thì tiếng bà Lucretia Yewbeam quát om, “Tắt đèn!” Và một bàn tay trắng thò vô qua cánh cửa mở, tắt đèn đi.
Trong giây lát, hai đứa trẻ im. Có bốn cái giường trống ở Charlie và Billy. Phía bên kia của căn phòng, tất cả các giường cũng trống hoác. Điều này khiến Charlie ớn lạnh. Nó tự hỏi, sẽ như thế nào nếu nó là Billy, một mình trong căn phòng to lớn và tối tăm này và mỗi cuối tuần.
“Billy,” nó thì thào. “Cuối tuần sau em về nhà anh nhé? Họ có cho không?”
“Ồ, được chứ,” Billy hồ hởi đáp. “Em đã đến nhà anh Fidelio rồi. Nên em chắc họ sẽ cho em tới nhà anh thôi.”
“Hay quá.”
Rồi có một tiếng cót két, tiếng lê chân nhè nhẹ, và một tia sáng đèn yếu ớt chĩa về phía giường Charlie. Charlie chỉ nhận ra dáng người nhỏ bé của Billy trong bộ đồ ngủ màu xanh nhạt.
“Charlie, anh nói là anh có thể nghe người trong hình nói chuyện, phải không?”
“Ờ,” Charlie trả lời một cách không chắc chắn. “Thỉnh thoảng.”
Một tấm hình nhàu nát được đặt lên gối của Charlie.
“Anh làm ơn cho em biết mấy người này đang nói gì đi?” Billy hỏi. “Đây là ba mẹ em.”
Charlie nhìn chằm chằm vào bức hình. Nó thấy một đôi vợ chồng trẻ đang đứng dưới một tán cây. Người phụ nữ mặc áo đầm nhạt màu đến nỗi trông cô giống như một con ma. Mái tóc màu vàng nhạt, gần như trắng. Cả hai đều mỉm cười, nhưng chỉ cười ở miệng. Đôi mắt của người phụ nữ có vẻ sợ hãi, còn mắt của người đàn ông thì tức giận.
Giọng nói thình lình phụt lên trong tai Charlie, khiến nó giật thót đến mức chúi đầu về phía trước, như thể nó vừa bị đập một cú.
‘Thôi nào, mỉm cười vì thằng con trai bé nhỏ của cô đi, Raven: Quá khó hay sao?’ Không thể nhầm lẫn cái giọng nói sắc lạnh đó vào đâu được.
Người đàn ông trẻ này nói, ‘Mày sẽ không bao giờ thoát khỏi chuyện này đâu.’
Tiếng nói sắc lạnh tiếp tục, ‘Nhìn con trai ta đây, ông Raven. Nó đẹp chứ hả? Thằng Manfred bé bỏng của ta ấy? Thế, thế. Nhìn vào mắt nó đi. Hệt như hai hòn than lấp lánh đáng yêu, đúng không?’
“Anh có nghe thấy gì không?” Billy hỏi.
Charlie không biết phải nói gì. Làm sao nó có thể để Billy nghe được những lời kinh khủng đó? Nó quyết định nói dối, nhưng trước khi nó kịp nói thì có một điều xảy ra. Điều mà chưa từng xảy ra với nó trước đây. Nó bắt đầu nghe được những ý nghĩ của người đàn ông.
‘Chúng ta vẫn có thể trốn thoát. Chúng ta sẽ ẵm bé Billy và lái xe trốn đi, đến nơi họ không thể tìm thấy chúng ta. Giá mà thằng bé kia đừng nhìn mình như thế. Mắt nó y như hắc ín vậy!’
“Sao?” Billy lo lắng hỏi.
“Người phụ nữ…” Những ý nghĩ của Charlie chạy loạn xạ, nó quyết định nói dối. “Người phụ nữ nói ‘Nhanh lên anh, em phải trở lại với Billy bé bỏng.’ Và người đàn ông nói, ‘Đúng rồi, thằng nhóc của chúng ta thật quý giá. Nó sẽ trở thành một ngôi sao!’”
Ngay cả trong ánh sáng lờ mờ, Charlie cũng có thể nhìn thấy nụ cười hạnh phúc của Billy.
“Còn gì nữa không?” Billy hỏi.
“Không. Anh rất tiếc.”
“Thế người chụp hình có nói gì không? Em không sao tìm được ra đó là ai.”
“Không, anh không nghe thấy gì cả.” Charlie đưa trả lại tấm hình cho Billy.
“Một ngày nào đó có thể em sẽ được nhận làm con nuôi,” Billy nói. “Rồi em sẽ lại có ba mẹ, và em sẽ có nhà như tất cả mọi người.” Nó bò lên giường, và mấy phút sau dã ngủ say sưa, tấm hình nhàu nát được giấu sâu dưới gối.
Charlie nằm thao thức một lúc lâu, cố nghĩ xem điều gì đang diễn ra trong trường Bloor. Trẻ sơ sinh thì bị đánh cắp, con nít thì biến mất, và những ông bố cũng biệt tăm? Người cha mà nó nghĩ là đã chết hóa ra vẫn còn sống, nhưng lại không biết mình là ai.
“Ông cậu Paton.” Charlie lẩm bẩm. “Có thể ông cậu sẽ tìm ra. Mình cá là ông cậu biết nhiều hơn những gì ông cậu thừa nhận.”
Còn một ngày nữa thôi là Charlie đã ở nhà rồi. Và cuối cùng, khi ngủ thiếp đi được, thì những câu hỏi đã dành cho ông cậu Paton cũng đã hình thành trong óc Charlie.