Chạm Yêu

Chương 9


Đọc truyện Chạm Yêu – Chương 9

– Anh nghĩ đó là bữa tiệc ngoài trời chứ. Em biết đấy, xúc xích, bánh mì kẹp thịt, khoai tây chiên, salad phấn ong, – Dexter nhặt một hộp bánh nhân kem Twinkies, thảy vào xe hàng, – và Twinkies nữa.
– Thì đúng mà. – Tôi nói, kiểm tra lại danh sách một lần nữa trước khi lấy thêm một lọ cà chua phơi nắng nhập khẩu có giá bốn đô-la khỏi kệ hàng, – ngoại trừ đó là bữa tiệc do mẹ em tổ chức.
– Và điều đó có nghĩa là…?
– Mẹ em không nấu nướng. – Tôi nói. Anh nhìn tôi, chờ tôi nói tiếp.
– Mẹ em không khi nào nấu nướng cả.
– Phải có vài lần chứ.
– Không.
– Ai cũng biết làm món trứng chiên hết, Remy à. Điều này đã được lập trình từ khi sinh ra rồi, mặc định là như vậy. Giống như khả năng biết bơi từ trong bụng mẹ và nhận biết không ăn chung dưa ngâm chua với bột yến mạch vậy. Chúng ta tự nhiên biết vậy thôi.
– Mẹ em, – tôi nói, đẩy xe đi nhanh hơn dọc theo lối đi trong khi Dexter đi cạnh bên, bước chân dài và kéo lê trên sàn, – không thích trứng chiên. Bà chỉ ăn trứng Benedict thôi.
– Gì cơ? – Dexter bất chợt dừng lại, bị thu hút bởi khẩu súng nước bằng nhựa cỡ lớn được trưng bày trong khoảng tầm mắt của trẻ em, ngay giữa quầy ngũ cốc.
– Anh không biết trứng Benedict sao?
– Lẽ ra anh phải biết à? – Dexter nhặt khẩu súng nước lên, kéo cò tạo nên những tiếng cách-cách-cách rồi nép mình trong khu trưng bày bắp đóng hộp, chỉa súng quanh góc quầy như một tay bắn tỉa chuyên nghiệp.
– Đó là cách làm trứng rất phức tạp và buồn cười, gồm sốt bơ trứng với bánh xốp kiểu Anh.
– Ặc, – anh nhăn mặt, rồi rùng mình, – anh ghét bánh xốp Anh.
– Gì cơ?
– Bánh xốp Anh, – Dexter trả lại khẩu súng ở quầy hàng và chúng tôi lại tiếp tục bước đi. – Anh không thể ăn được. Thậm chí anh còn không thể nghĩ đến nó nữa cơ. Thôi mình đừng nói chuyện về nó nữa.
Chúng tôi dừng lại một lúc ở quầy gia vị. Mẹ tôi muốn tôi mua một thứ gọi là Nước Mắm Châu Á. Tôi ghé sát vào đống chai lọ, cảm thấy bắt đầu nản chí, trong khi Dexter bận rộn tung hứng mấy hộp đường ăn kiêng Sweet ‘n Low. Đi mua sắm cùng anh ấy, tôi đã khám phá ra, giống như dẫn theo một cậu bé ở tuổi chập chững vậy. Dexter luôn mất tập trung, lấy cái này, chộp cái kia, và giờ chúng tôi đã có quá nhiều những thứ không cần thiết trên xe bởi tính bốc đồng đó. Và tôi dự định sẽ bỏ chúng lại khi nào anh ấy không để ý.
– Có phải anh định nói với em, – tôi nói, đưa tay với lấy chai nước mắm vừa thấy, – là anh có thể ăn nguyên cả một lọ sốt mayonnaise trong một lần, nhưng lại thấy món bánh xốp kiểu Anh, thứ căn bản chỉ là bánh mì, là kinh khủng. Phải vậy chứ?
– Ặc, – Dexter rùng mình lần nữa, lần này là cả toàn thân, rồi đặt một tay lên bụng. – Đừng nói về thứ ấy nữa. Anh nói nghiêm túc đấy.
Buổi mua sắm này như kéo dài đến vô tận. Danh sách của mẹ chỉ gồm có mười lăm món, nhưng đều là những món đặc biệt: phô mai dê nhập khẩu, bánh mì dẹp focaccia của Ý, một nhãn hiệu ô liu đặc biệt – đựng trong chai đỏ chứ không phải chai xanh. Lại thêm một lò nướng mới mẹ mua cho dịp này, chiếc lò đẹp nhất trong gian hàng điện máy – theo lời của Chris, người không ngăn bà tiêu xài hoang phí như tôi, và một bộ bàn ghế ăn ngoài trời (theo lời mẹ: nếu không mua thì mình ngồi ở đâu chứ?). Mẹ tôi đã tiêu cả một gia tài nho nhỏ vào bữa tiệc nướng ngoài trời nhân ngày Quốc khánh Bốn tháng Bảy.
Đây là ý của mẹ tôi. Bà đã tiếp tục với cuốn sách của mình kể từ khi trở về từ tuần trăng mật. Nhưng cách đây mấy ngày, bà nảy ra ý tưởng tổ chức một bữa tiệc thực sự, đúng kiểu Quốc khánh Mỹ, cùng với gia đình. Chris và Jennifer Anne sẽ tham gia. Và Patty – cô thư ký của Don, sẽ là người trò chuyện tuyệt vời với Jorge – người trang trí nhà cửa mà chúng tôi phải hết sức cảm ơn vì công sức anh ấy bỏ ra cho diện mạo mới của ngôi nhà chúng tôi. Ngoài ra, đây sẽ là một dịp thuận tiện để mọi người gặp anh bồ mới của tôi (phải thêm vào là tôi đã co rúm người lại vì điều này). Hơn thế nữa, nó sẽ là lễ ra mắt mái nhà mới và cuộc sống chung tốt đẹp, bền chặt bên nhau của cả gia đình. Ồ vâng, sẽ tốt đẹp và bền chặt, tất nhiên là như thế.
– Chuyện gì vậy? – Dexter hỏi, bước lên chắn trước xe hàng khi tôi trong vô thức đẩy càng lúc càng nhanh vì những suy nghĩ căng thẳng tràn ngập trong đầu. Chiếc xe đang thụi một cú không nhẹ vào bụng Dexter, khiến anh ấy mất đà lùi về sau. Đặt một tay lên thành xe, anh chặn nó lại.
– Không có gì. – Tôi nói, cố đẩy xe về trước. Không may rồi. Nó nằm im không nhúc nhích. – Sao anh hỏi vậy?
– Vì khuôn mặt em lúc này như thể não em bị bẹp dúm vậy.
– Hay dữ á! Cảm ơn nhiều.
– Và em còn đang cắn môi nữa. Em chỉ như vậy khi em đang bị ám ảnh điều gì đó, kiểu suy tính sẽ-ra-sao-nếu.
Tôi nhìn anh. Tôi là người dễ đoán vậy sao, một trò ô chữ dễ giải cực kỳ, trong khi chúng tôi quen nhau bao lâu chứ? Hai tuần? Thật là một sự xúc phạm.
– Em ổn. – Tôi lạnh lùng.
– A, giọng nữ hoàng băng giá kìa. Tất nhiên điều này có nghĩa là anh nói đúng. – Dexter đi vòng quanh, bước tới đứng cạnh tôi và đặt cả hai tay lên trên tay tôi. Rồi anh bắt đầu đẩy xe đi bằng dáng đi ngốc nghếch kỳ dị của mình – như đang đi trên đôi giày chứa đầy những hạt đậu xanh khó chịu – khiến tôi phải cuốn theo nhịp điệu ấy.
– Sẽ thế nào nếu anh làm em xấu hổ? – Dexter đưa ra giả thuyết. – Sẽ ra sao nếu anh làm bể món đồ sứ gia truyền của gia đình em? Hoặc anh nói về đồ lót của em?
Tôi liếc nhìn anh, rồi đẩy xe mạnh hơn khiến nó loạng choạng. Nhưng Dexter vẫn bám theo, ôm lấy bụng tôi giữ lại. Rồi anh ấy cúi người xuống, thì thầm vào tai tôi:
– Sẽ thế nào nếu anh thách chú Don ngay trong buổi tiệc đó phải ăn hết một hũ cà chua phơi nắng và đẩy chúng trôi bằng một cục bơ? Sẽ thế nào nếu – tới chỗ này anh ấy hít một hơi, đưa tay lên che miệng, kiểu ngạc nhiên hết cỡ – “Ôi Chúa ơi, cậu ta làm thế thật sao!”?
Tôi đưa cả hai tay lên che mặt, lắc đầu. Tôi ghét những lúc anh làm tôi cười khi tôi không muốn, bởi điều đó giống như tôi mất tự chủ – không giống tôi chút nào, như thể tính cách đặc trưng nhất của tôi cuối cùng cũng bị khuất phục.

– Nhưng em biết đó, – anh vẫn thì thầm vào tai tôi, – có thể những điều đó sẽ không xảy ra.
– Em ghét anh. – Tôi nói. Rồi anh hôn lên cổ tôi, và cuối cùng chúng tôi cũng đẩy xe tiếp tục tiến về trước.
– Không đúng. – Anh đáp trả, rồi tiến thẳng về trước, chăm chú nhìn vào quầy đựng phô mai Velveeta trong gian hàng bơ sữa trước mặt. – Sẽ không bao giờ đúng.
***
– Remy, nghe nói em sắp đi Stanford?
Tôi gật đầu và mỉm cười. Chuyển ly nước đang cầm sang tay kia, tôi đưa lưỡi kiểm tra xem liệu có còn miếng rau nào mắc vào răng mình không. Không có. Nhưng Patty – cô thư ký của Don, người tôi chưa gặp lại lần nào kể từ vụ rơi nước mắt trong đám cưới – thì rõ ràng có một miếng rõ to giắt ngay răng cửa.
– Đó quả thật là một trường học tuyệt vời. – Cô ta nói, chấm chấm khăn ăn lên trán. – Chắc em phải háo hức lắm.
– Vâng. – Tôi trả lời, rồi làm như vô ý, đưa ngón tay lên cà cà vào răng mình, hy vọng cô ta có thể hiểu ý. Nhưng không. Patty vẫn mỉm cười với tôi, mồ hôi rịn ra trên trán khi cô ấy uống nốt số rượu còn lại trong ly rồi liếc nhìn xung quanh, cố tìm đề tài khác để nói.
Đột nhiên cô ấy bị phân tâm, cũng như tôi, bởi một tiếng “Phựt” phát ra từ chiếc lò nướng mới toanh – nơi Chris được phân công phụ trách món thịt bò nướng mắc kinh khủng mà mẹ tôi đã đặt riêng ở cửa hàng. Tôi nghe mẹ nói với mọi người đó là “thịt bò Brazil”, như thể loại bò nuôi ở vùng dưới đường xích đạo có chất lượng tuyệt vời hơn bò ở vùng Michigan vậy.
Anh Chris đã làm không tốt cho lắm. Đầu tiên anh làm cháy một ít lông mày và khá nhiều lông tay khi bật lò. Rồi anh ấy gặp tiếp rắc rối trong việc điều khiển cái xẻng xúc hiện-đại-nhất-hiện- nay mà người bán hàng đã thuyết phục với mẹ tôi rằng rất cần thiết phải mua, khiến một miếng bò nướng bay vèo qua mái hiên trước khi rơi phịch xuống đôi giày da nhập của Jorge – chuyên viên trang trí nội thất.
Bây giờ thì bếp lò phựt lên khi Chris loay hoay gì đó với cái nút vặn. Mọi người vẫn còn đang tụ tập trò chuyện, ly rượu cầm trên tay thì ngọn lửa bừng lên – khiến những miếng thịt nướng kêu lèo xèo – nhưng lại tắt ngấm ngay lập tức, còn trơ lại chiếc lò nướng kêu lên ùng ục. Mẹ tôi đang trò chuyện say sưa với một người hàng xóm, đưa mắt nhìn cảnh tượng này một cách thờ ơ như thể việc lửa phựt làm cháy mất món chính của bữa tiệc là chuyện của người nào đó chứ không phải của mình.
– Đừng lo, – Chris nói lớn khi bật lửa lần nữa rồi lại đánh vật với những miếng thịt bằng cái xẻng xúc, – ổn cả mà.
Lời nói ấy cũng tương đương với bộ dạng của anh lúc đó: khuôn mặt lem nhem với hàng lông mày bên phải chỉ còn lại một nửa, và mùi tóc cháy vẫn lẩn quất đâu đây, khiến mọi người đều chẳng mấy tin tưởng.
– Thôi nào mọi người, – mẹ tôi gọi, lôi sự chú ý của mọi người về lại chiếc bàn mà chúng tôi đã chuẩn bị phô mai và món khai vị. – Ăn nào, ăn nào. Chúng ta có quá trời đồ ăn ở đây này.
Chris vẫy vẫy tay xua khói trước mặt, trong khi Jennifer Anne đứng lùi về phía sau bên trái anh ấy, cắn môi suy nghĩ. Chị ta mang đến khá nhiều món đồ ăn kèm, tất cả đều đựng trong hộp nhựa với nắp đậy màu nhạt. Ở phía dưới mỗi nắp đậy đó đều có dòng chữ viết bằng bút dạ không phai:Tài sản của Jennifer A. Baker, vui lòng trả lại, như thể hết thảy mọi người đều nằm trong một âm mưu quốc tế nhằm lấy trộm bộ đồ nhựa quý giá của chị ta vậy.
– Chị Barbara à, – Patty nói với mẹ tôi, – bữa tiệc này tuyệt quá.
– Ồ, có gì đâu chứ. – Mẹ tôi trả lời, phẩy phẩy tay quạt vào mặt mình. Hôm nay mẹ mặc quần đen với áo thun ba lỗ màu xanh nhạt, khoe làn da rám nắng của kỳ nghỉ tuần trăng mật. Mái tóc bà tóm gọn ra sau bằng băng đô, trông như cô thôn nữ trong tranh.
Luôn rất lý thú khi chứng kiến những mối quan hệ ảnh hưởng thế nào đến mẹ tôi. Hồi còn ở bên cha tôi, bà theo phong cách hippy – trong tất cả những bức ảnh thời đó, mẹ tôi còn rất trẻ, thường mặc váy mềm hoặc quần jeans sờn rách, tóc đen dài chẻ ngôi ngay chính giữa. Đến lúc kết hôn với chú Harold – một giáo sư – thì mẹ trông như một nhà trí thức, chuyên diện đồ vải tuýt lịch lãm và đeo kiếng đọc sách suốt ngày, dù bà có thể nhìn tốt mà không cần đến chúng. Tới lần lấy chú Win – một bác sĩ – mẹ tham gia câu lạc bộ thể thao, mặc áo khoác mỏng và váy tennis, dù rằng bà không thể chơi được gì. Rồi khi ở bên Martin, một nhà chơi gôn chuyên nghiệp – người mà mẹ tôi tất nhiên đã gặp ở câu lạc bộ thể thao bà tham gia trước đó – bà trở về thời tuổi trẻ, bởi chú ấy trẻ hơn mẹ tôi đến sáu tuổi: váy ngắn, quần jeans, đầm mỏng. Và giờ, là vợ của Don, tôi có thể hình dung ra tương lai của hai người: cùng mặc đồ chạy bộ giống nhau, lượn vòng quanh trên chiếc xe gôn để đến nơi thực hiện cú đánh tiếp theo. Tôi thật sự hy vọng đây là cuộc hôn nhân cuối cùng của mẹ tôi. Tôi không chắc là mẹ, hay cả tôi nữa, có thể chịu được thêm một sự hóa thân nào khác.
Tôi nhìn chú Don – chú đang mặc chiếc áo thun chơi gôn và cầm một chai bia trên tay – đang cho thêm một lát bánh mì nướng vào miệng bằng bàn tay rảnh còn lại. Tôi cứ nghĩ Don thích đồ nướng, nhưng dường như chú ấy không quan tâm mấy đến thức ăn. Cứ dựa vào lượng sữa Ensure mà chú đã mua, những hộp thiếc nhỏ ấy phải có giá trị dinh dưỡng tương đương một bữa ăn thịnh soạn với nắp bật thuận tiện. Chú ấy mua hàng thùng sữa này từ cửa hàng Sam’s Club. Và một vài lý do, điều còn gây phiền phức đối với tôi còn hơn cả những bữa sáng bị bộ ngực khổng lồ chiếu tướng, là việc chú ấy đi đi lại lại trong nhà trong đôi dép da, đọc tờ tin tức buổi sáng, tay còn lại như gắn chặt một hộp Ensure, thỉnh thoảng đưa lên miệng húp soàn soạt – âm thanh mà giờ đây đã trở thành biểu trưng cho sự có mặt của chú.
– Remy, con yêu, – mẹ tôi gọi lớn, – con tới đây chút được không?
Tôi cáo lỗi Patty rồi băng qua mái hiên tới chỗ mẹ. Bà vòng tay qua eo tôi, kéo tôi lại gần và thì thầm:
– Không biết mẹ có nên lo lắng về món bò nướng không nhỉ? Tôi liếc tới chỗ lò nướng, nơi anh Chris đang đặt mình ở một vị trí rất khó – chứ không phải là không thể – thấy những miếng bò Brazil thượng hạng đang teo lại thành những cục đen thui như đá núi lửa với hình dạng kỳ dị.
– Có và không. – Tôi nói với mẹ, và bà lơ đãng vuốt nhẹ mấy ngón tay trên cánh tay tôi. Tay của bà lúc nào cũng mát lạnh, dù trong thời tiết nóng bức nhất. Đột nhiên, tôi nhớ lại những lần mẹ đặt lòng bàn tay vào trán tôi khi tôi còn nhỏ để kiểm tra nhiệt độ lúc tôi sốt. Những lúc đó tôi cũng có suy nghĩ như lúc này.
– Để con lo cho. – Tôi nói.
– Ồ, Remy à, – bà lắc lắc tay tôi. – Không có con thì mẹ biết làm thế nào chứ.
Từ khi trở về sau tuần trăng mật, mẹ tôi như thế này đây: những lúc đột nhiên bà nghiêm nét mặt, tôi biết bà lại đang nghĩ đến việc tôi đã gần đến ngày rời đi để đến Stanford. Mẹ đã có người chồng mới bên cạnh, có một mái nhà mới, một cuốn sách mới. Bà vẫn sẽ ổn nếu không có tôi, và cả hai chúng tôi đều biết điều ấy. Thực tế thì đây là việc mà các cô con gái vẫn làm: họ rời đi, rồi sau đó khi trở về nhà thì đã có cuộc sống của riêng mình. Đây vẫn là cốt truyện kinh điển cho các cuốn tiểu thuyết của mẹ: cô gái thoát ra khỏi gia đình mình, có một cuộc sống tốt, tìm thấy tình yêu, gặp phải thử thách, đổ vỡ,… Thứ tự cuộc sống là như thế. Tôi háo hức với khúc giữa trong thứ tự ấy. Phần còn lại chỉ là phần phụ thêm.
– Thôi mà mẹ, – tôi nói với bà, – thậm chí mẹ còn không cảm thấy con ở xa mẹ đâu.
Mẹ tôi thở dài, lắc đầu rồi kéo tôi lại gần, hôn lên má. Tôi có thể ngửi thấy mùi nước hoa trộn lẫn mùi keo xịt tóc của bà. Nhắm mắt lại, tôi hít một hơi dài để mùi thơm lan sâu vào trong lồng ngực mình.
Giữa bao nhiêu thay đổi, vẫn còn có những thứ mãi mãi giữ nguyên như ngày nào.
Đó chính xác là những gì tôi nghĩ trong đầu khi đứng trong bếp, lôi túi bánh mì hamburger mà tôi đã mua ra khỏi nơi tôi đã cẩn thận ngụy trang sau lốc sữa Ensure trong tủ lạnh. Tại siêu thị, khi Dexter hỏi tôi vì sao tôi lại mua thứ này khi nó không có trong danh sách, tôi trả lời rằng tôi muốn luôn có sự chuẩn bị cho trường hợp bất ngờ nào đó, bởi có ai biết trước được chuyện gì. Có thể tôi quá hoài nghi. Hoặc cũng có thể không giống những người đã từng sống xung quanh mẹ tôi, tôi luôn rút kinh nghiệm từ việc đã từng xảy ra lần nào đó rồi.
– Ồ, thì ra là câu nói đó cũng đúng đấy chứ. – Tôi quay lại, trông thấy Jennifer Anne đang đứng sau lưng mình. Một tay chị ta cầm hai bịch xúc xích, tay còn lại là một bịch bánh mì nhỏ. Jennifer nhếch mép cười, như thể chúng tôi đều đang bị bắt quả tang làm điều gì đó. – “Tư tưởng lớn thường gặp nhau”, phải không?
– Ấn tượng đấy, – tôi nói khi Jennifer bước tới, mở một trong những bịch đồ ăn và xếp vào đĩa. – Chị cũng hiểu mẹ em ghê nhỉ.
– Không, chị chỉ hiểu Christopher. Chị đã có phương án dự phòng cho món nướng từ hôm chở lò nướng về nhà. Anh ấy đến cửa hàng và bị lóa mắt bởi hằng hà sa số những món hàng ở đó. Khi anh chàng tư vấn bán hàng ở đó bắt đầu giải thích về đối lưu, thì Christopher đã đi mất tiêu rồi.

– Đối lưu à? – Tôi hỏi.
Jennifer thở dài, lấy tay hất ngược mớ tóc lòa xòa trước mặt ra sau.
– Nó liên quan tới quá trình làm nóng. – Jennifer giải thích. – Thay vì lượng nhiệt cứ vậy mà bốc lên, thì nó sẽ nóng đồng đều quanh thức ăn. Thứ khiến Christopher không chịu nổi là tên bán hàng cứ lặp đi lặp lại, như câu thần chú vậy: nóng đồng đều quanh thức ăn, nóng đồng đều quanh thức ăn.
Tôi phá ra cười. Jennifer quay lại nhìn tôi rồi mỉm cười, có vẻ hơi miễn cưỡng, như thể cô ấy trước tiên phải chắc là tôi không mang cô ấy ra làm trò đùa cái đã. Rồi cả hai chúng tôi cùng đứng đó xếp đồ ăn ra đĩa, không ai nói lời nào nữa. Một lúc sau, chợt nhận ra không khí khá không thoải mái, như thể trong một bộ phim câm, tôi tìm đề tài để lên tiếng trước:
– Vậy giờ mình giải thích thế nào cho món ăn thay thế vào phút cuối đây nhỉ?
– Chớ món thịt bò nướng dở quá mà, – Jennifer nói đơn giản.
– Chúng đều có mùi khét hết. Còn đây là món đặc trưng Mỹ rất dễ ăn: bánh mì với xúc xích. Mẹ em sẽ thích mà.
– Vâng. – Tôi cầm đĩa bánh của mình. Jennifer cũng cầm đĩa của mình trên tay, bước ra cửa về phía mái hiên. Tôi bước theo sau, cảm thấy mừng vì để cho cô ấy chủ trì việc này.
Gần ra tới cửa, Jennifer Anne quay đầu lại, hất cằm về phía sân trước và nói với tôi:
– Khách của em tới kìa.
Tôi nhìn qua cửa sổ. Đúng rồi, là Dexter đang từ vỉa hè rẽ vào nhà tôi, trễ nửa tiếng so với giờ hẹn. Anh ấy cầm theo một chai rượu (ấn tượng nhỉ), mặc quần jeans và áo thun trắng tươm tất (càng đáng ngạc nhiên hơn nữa). Dexter đang cầm một sợi dây dắt chó trên tay, và đầu dây còn lại tất nhiên là gắn vào cổ Khỉ Con đang lăng quăng phía trước, lưỡi thè ra. Khỉ Con đang chạy với một tốc độ có thể gọi là đáng nể so với tuổi của nó.
– Chị cầm hộ em được không? – Tôi đưa đĩa bánh của mình cho Jennifer Anne.
– Tất nhiên rồi. – Cô ấy nói. – Hẹn gặp ngoài kia nhé.
Tôi bước ra cửa trước, thấy Dexter đang cột sợi dây của Khỉ Con vào thùng thư trước nhà. Vừa làm, anh vừa trò chuyện với nó. Khỉ Con vẫn còn thở hổn hển, nhưng mắt chăm chú nhìn anh, đầu nghiêng sang một bên, như thể nó đang nghe kỹ những lời nói ấy và đợi tới phiên mình đáp lại.
-… không dành cho chó, nên mày ở đây nhé, được không?
– Dexter nói, thắt dây thành gút, rồi lại thêm một gút nữa, như thể Khỉ Con có sức mạnh siêu việt vậy. Hẳn anh ấy không màng đến đôi chân sau run rẩy dù đã ngồi xuống của nó. – Rồi sau đó, chúng ta sẽ tìm một cái hồ nào đó mà mày có thể nhúng người xuống, và có thể, nếu mày vẫn còn cảm thấy bồn chồn, chúng ta sẽ đi một vòng trên chiếc xe thùng và mày có thể thò đầu ra khỏi cửa sổ, được không?
Khỉ Con vẫn thở hổn hển, nhắm mắt lại khi Dexter gãi gãi bên dưới cằm nó. Khi tôi tiến lại gần, nó ngước lên nhìn và vẫy đuôi bồm bộp xuống bãi cỏ.
– Chào em. – Dexter quay người lại. – Xin lỗi anh tới trễ. Có một chút vấn đề với kẻ gây rối này đây.
– Vấn đề ư? – Tôi ngồi xuống bên cạnh anh, để im cho Khỉ Con ịn cái mõm ươn ướt của nó hít hít vào tay mình.
– Dạo này anh bận rộn với công việc, rồi với các buổi biểu diễn và những thứ khác nữa, em biết rồi đấy, cho nên đã hơi bỏ bê anh chàng. Nó cảm thấy cô đơn. Nó khá hướng ngoại, đã từng có cả đám bạn bè chung quanh. Vậy mà ở đây, nó chẳng có ai chơi chung cả.
Tôi nhìn anh, rồi nhìn Khỉ Con – lúc đó đang bận nhai nhai chân sau của mình.
– Em hiểu. – Tôi nói.
– Chiều nay lúc anh chuẩn bị đi, nó cứ bám theo quanh anh rất tha thiết. Nó rên ư ử, rồi cào cào vào giày anh nữa. – Dexter xoa đầu Khỉ Con, kéo hai tai nó ra đằng sau trông có vẻ đau lắm, nhưng con chó dường như lại thích như vậy. Từ cổ họng nó phát ra âm thanh gừ gừ nho nhỏ vẻ thích thú.
– Nó có thể ở ngoài này, phải không em? – Dexter hỏi rồi đứng lên. Khỉ Con vẫy đuôi vui mừng, vểnh tai lên, cách mà nó vẫn thường làm mỗi khi nghe giọng nói của Dexter. – Nó không gây rắc rối gì đâu.
– Được. – Tôi nói. – Để em mang cho nó ít nước.
Dexter mỉm cười với tôi, một nụ cười thật rạng rõ, như thể tôi làm anh ấy ngạc nhiên.
– Cám ơn em. – Anh nói, rồi quay sang Khỉ Con – Thấy chưa, tao đã nói mà, cô ấy thích mày.
Khỉ Con đã quay trở lại với việc gặm chân sau dở dang của mình, ra vẻ không quan tâm lắm đến điều này. Tôi mang cho nó ít nước từ gara, Dexter kiểm tra lại những gút thắt lần nữa, rồi chúng tôi bước vào khoảng sân bên hông nhà, nơi đang thơm phức mùi xúc xích nướng.
Mẹ tôi đang say sưa nói chuyện cùng cô Patty khi chúng tôi bước vào, nhưng khi vừa thấy Dexter bà liền ngưng nói, đặt một tay lên ngực – cử chỉ ngạc nhiên đặc trưng của bà.
– Ồ, xin chào. Chắc là Dexter đây rồi.
– Vâng, đúng cháu. – Dexter nắm lấy bàn tay đang chìa ra của mẹ tôi và bắt tay.

– Cô nhớ là cháu có mặt ở đám cưới. – Mẹ tôi nói, như thể giờ đây mẹ mới nhận ra điều này, dù cho ít nhất đã hai lần tôi nói với bà. – Cháu là một ca sĩ tuyệt vời.
Trông Dexter có vẻ vui, nhưng cũng hơi chút bối rối khi nghe điều này. Mẹ tôi vẫn nắm tay anh chưa buông.
– Đám cưới rất tuyệt, cháu chúc mừng cô.
– Ồ, cháu phải uống chút gì chứ. – Mẹ tôi nói, nhìn quanh tìm tôi, và tất nhiên là tôi đứng ngay đó, ở giữa hai người. – Remy à, con lấy cho Dexter chai bia nhé. Hay là rượu? Hay nước ngọt?
– Cho anh chai bia nhé. – Dexter nói với tôi.
– Remy à, còn bia lạnh trong tủ lạnh, phải không? – Mẹ đặt một tay lên lưng tôi, đẩy nhẹ tôi về phía bếp, rồi khoác tay Dexter. – Cháu phải đến đây gặp Jorge. Cậu ấy là người nghĩ ra tất cả những mẫu thiết kế tuyệt vời này đấy. Jorge à, đến đây nào, cậu phải gặp bạn trai mới của Remy này.
Jorge đi về chỗ mẹ, trong khi bà vẫn không ngừng giới thiệu những thành tích đều đáng nể của những vị khách mời trong khoảnh sân nhỏ này cho Dexter. Tôi đi vào bếp lấy bia cho Dexter, như một người giúp việc thực sự vậy. Khi tôi cầm chai bia vòng trở ra, chú Don cũng đã tham gia vào cuộc chuyện trò và mọi người đang thảo luận, vì một lý do kỳ cục nào đó, về vùng Milwaukee.
– Thời tiết lạnh nhất mà tôi từng trải qua. – Chú Don nói, thảy vào miệng mình một nắm đầy loại hạt nhập khẩu. – Gió có thể xé tan người ra trong vòng năm phút. Đi xe hơi ngoài đường là tự sát đấy. Chưa kể những hư hại do muối rắc đường.
– Nhưng dù sao thì tuyết ở đó vẫn rất tuyệt vời. – Dexter nói, đưa tay cầm lấy chai bia tôi đưa, ranh mãnh chạm vào bàn tay tôi như thể vô tình. – Và nền âm nhạc ở đó rất có tiềm năng. Dù chưa phát triển, nhưng cũng đã định hình phong cách riêng.
Chú Don gắt:
– Âm nhạc không phải là một nghề thực sự. Cho đến năm ngoái, chàng trai này còn đang theo học chuyên ngành thương mại đấy, có tin nổi không chứ? Ở đại học Virginia.
– Ồ, thú vị thế à? – Mẹ tôi nói. – Nói lại cho cô biết hai người có quan hệ thế nào đi?
– Chú Don có bà con với cháu. – Dexter nói. – Em gái của chú ấy là thím của cháu.
– Chẳng phải là quá tuyệt sao? – Mẹ tôi có vẻ nhiệt tình thái quá. – Thế giới này nhỏ thật nhỉ.
– Em biết không, – chú Don tiếp tục nói lớn, – thằng bé có học bổng toàn phần đấy. Toàn bộ việc học được chính phủ chi trả hoàn toàn. Vậy mà nó nỡ lòng bỏ học, làm tan nát trái tim mẹ nó. Mà cho điều gì chứ? Âm nhạc.
Giờ thì đến mẹ tôi cũng không còn biết nói thêm gì. Tôi nhìn Don, tự hỏi điều gì khiến chú ấy biểu hiện như vậy ngay giữa buổi tiệc. Có thể do sữa Ensure chăng?
– Cậu ấy là một ca sĩ có tài mà. – Mẹ tôi nói lại lần nữa với Jorge. Jorge gật đầu, như thể đây không phải là lần thứ n được nghe câu này. Giờ thì chú Don dường như không mấy hứng thú để tiếp tục câu chuyện. Ông cầm ly bia đã cạn trên tay, mắt nhìn quanh mái hiên. Tôi liếc Dexter và nhận ra chưa bao giờ anh trông thế này: hơi thu người lại, không thoải mái, không thể bẻ lại một cách hài hước như trước giờ anh vẫn làm một cách dễ dàng. Anh đưa tay lên luồn vào mái tóc mình, giật mạnh, rồi nhìn xung quanh khu vườn, nhấp một ngụm bia.
– Nào, – tôi nắm lấy tay anh. – Lấy chút gì ăn đi nào.
Tôi kéo Dexter đi về phía lò nướng, nơi Chris đã thoát khỏi sự vật vã với mấy tảng thịt nướng trước đó, đang vui vẻ lăn trở mấy thanh xúc xích trên lò.
– Biết gì không? – Tôi nói. Dexter nhướng hàng lông mày, nhìn tôi. – Don là một kẻ không ra gì.
– Không, không phải vậy đâu. – Dexter nói. Anh ấy mỉm cười, làm ra vẻ không có gì quan trọng, rồi vòng tay khoác lên vai tôi. – Mỗi gia đình đều có một đứa con lạc loài[19] mà, phải không? Kiểu truyền thống Mỹ mà.
– Kể anh nghe nào. – Chris nói, lật ổ bánh mì đang nướng trên lò. – Ít nhất là cậu không vô tù.
Dexter uống một ngụm bia lớn:
– Chỉ một lần thôi.
Dexter nói một cách vui vẻ, rồi nháy mắt với tôi. Và thế là anh đã trở lại với con người của mình, như thể mọi chuyện đã xảy ra chỉ là một trò đùa không hề làm phiền gì đến anh. Còn tôi, dù sao đi nữa, tôi vẫn nhìn Don, bụng sôi lên, giống như bây giờ tôi có một bàn thua cần cân bằng. Nhìn Dexter suy tư, dù chỉ một thoáng, lại khiến tôi cảm thấy anh gần gũi với tôi hơn, cứ như là anh không chỉ là chàng trai mùa hè tạm thời, mà là một cái gì đó lớn lao hơn.
Phần còn lại của bữa tiệc diễn ra suôn sẻ. Món hambuger và xúc xích được mọi người hưởng ứng nồng nhiệt, trong khi ôliu và cà chua phơi nắng mắc tiền hầu như không được đụng tới. Món trứng mimosa và salad đậu của Jennifer Anne được bầu chọn ngon nhất. Thậm chí tôi còn thấy mẹ liếm sạch mấy ngón tay sau khi ăn miếng bánh kem chocolate thứ hai mà Jennifer làm – món bánh được trang trí bằng một muỗng kem lạnh phía trên. Như vậy là quá nhiều cho một người sành ăn.
Khi trời sẫm tối, mọi người chia tay nhau và mẹ tôi biến mất trong phòng mình, than rằng đã quá mệt mỏi, trong khi những người khác gần như kiệt sức vì còn làm nhiều hơn bà. Thế là Jennifer Anne, Chris, Dexter và tôi dọn bát đĩa, thu dọn rác, vứt phần đồ ăn thừa và phần lớn món thịt nướng cháy đen, chừa lại chỉ một miếng đỡ nhất cắt gọt phần cháy cho Khỉ Con.
– Nó sẽ thích lắm. – Dexter nói, nhận miếng thịt gói trong miếng giấy bạc gấp gọn gàng từ tay Jennifer Anne. – Món thường xuyên của nó toàn là thức ăn dành cho chó, nên đây như món quà Giáng sinh với nó vậy.
– Tên nó nghe lạ nhỉ. – Jennifer nói.
– Tôi được tặng nó vào sinh nhật năm mười tuổi. – Dexter liếc nhìn ra bên ngoài. – Lúc đó tôi thực sự mong muốn một con khỉ, nên có hơi thất vọng một chút. Nhưng hóa ra một con chó còn thú vị hơn rất nhiều. Lũ khỉ thường keo kiệt lắm, hình như là vậy.
Jennifer Anne nhìn anh vẻ dò hỏi, rồi mỉm cười.
– Tôi có nghe thấy thế. – Chị ta nói, rồi tiếp tục bọc phần bánh mì dẹp còn lại bằng màng bọc thức ăn.
– Nếu cậu có chút thời gian, – Chris nói với Dexter, tay vẫn lau bàn bằng miếng bọt biển, – thì lên trên lầu với anh để coi mấy con kỳ nhông mới nở. Dễ thương lắm.
– Ồ vâng, – Dexter hào hứng, rồi quay sang phía tôi. – Anh đi tí được chứ?
– Anh đi đi, – tôi nói, như thể là mẹ hay gì gì đó của anh vậy. Rồi cả hai người họ bước lên cầu thang, chân bước nặng nề, hướng về phía phòng nuôi kỳ nhông.
Ở phía bên kia bếp, Jennifer Anne thở dài, đóng cửa tủ lạnh lại:
– Chị chẳng thể hiểu nổi sở thích kỳ cục này của anh ấy. Chó hay mèo gì đó thì còn có thể ôm ấp, vuốt ve, chứ ai lại ôm ấp lũ kỳ nhông đó chứ?
Hơi khó tìm ra lời giải đáp cho khúc mắc đó, nên tôi không nói gì, chỉ đưa tay kéo nút bồn rửa nơi tôi đang rửa đống đĩa bẩn, rồi nhìn dòng nước òng ọc chảy xuống. Phía trên lầu vang xuống tiếng cười khúc khích, tiếng ồ… à… đầy ngạc nhiên, và thỉnh thoảng còn có tiếng la oai oái như thể bị cắn, theo sau là tiếng cười om sòm.

Jennifer Anne ném cái nhìn bực bội lên phía trên, rõ ràng không thể chịu thêm nữa những bức bối này.
– Nói với anh Christopher chị vào phòng sách nhé. – Chị ta nói, đưa tay với lấy giỏ xách của mình đang đặt trên tủ cạnh tường, cạnh đống hộp nhựa đã rửa sạch sẽ và đậy nắp cẩn thận. Lấy ra cuốn sách, chị ta đi về phía phòng bên cạnh. Chỉ vài giây sau, tôi nghe tiếng TV bật lên, âm thanh rì rầm nho nhỏ.
Cầm miếng thịt bò nướng gói trong giấy bạc, tôi bước ra bên ngoài, bật đèn hiên. Khi tôi bước ra gần tới lối đi chính, Khỉ Con đứng bật dậy, vẫy vẫy đuôi.
– Chào anh bạn. – Tôi nói. Khỉ Con xộc mũi ngay vào tay tôi. Khi đánh hơi thấy mùi thịt, cậu ta dùng mũi đẩy mấy ngón tay tôi, hít hít liên hồi. – Dùng phần của mày đi nè.
Khỉ Con ngốn ngấu miếng thịt trong vòng hai cú ngoạm, suýt chút nữa đớp luôn ngón út của tôi. Có thể thông cảm, bởi trời đã tối. Ăn xong, nó ợ lên một tiếng, rồi lăn người qua lại trên bãi cỏ, chổng bốn chân lên trời. Tôi ngồi xuống cỏ bên cạnh nó.
Đêm khá tuyệt: trời trong và mát mẻ, lý tưởng cho ngày nghỉ lễ Quốc khánh. Vài người nào đó đốt pháo ở mấy khu phố bên cạnh, tiếng pháo nổ đanh trong bóng tối. Khỉ Con vẫn cứ xoay vòng bên cạnh tôi, dùng mũi đẩy đẩy vào cùi chỏ tôi cho đến khi tôi mềm lòng, đưa tay gãi gãi đám lông rối bù trên bụng nó. Nó cần được tắm, thật sự rất cần. Hơi thở của nó cũng thật kinh khủng. Nhưng có điều gì đó rất ngọt ngào ở con vật này. Nó rên ư ử hài lòng khi tay tôi vuốt ve trên bụng.
Cả hai chúng tôi cứ ngồi im bên nhau như vậy cho đến khi tôi nghe tiếng mở cửa, và Dexter bước ra, gọi tên tôi. Nghe giọng nói của anh, Khỉ Con ngay lập tức ngồi dậy, tai vểnh lên, rồi nó đứng lên, bước lại gần hết mức mà sợi dây đang cột nó cho phép.
– Này. – Dexter gọi. Tôi không nhìn rõ mặt anh, chỉ thấy hình dáng anh dưới ánh sáng của bóng đèn nơi mái hiên. Khỉ Con sủa vang, như thể anh gọi nó vậy, và đuôi nó vẫy điên cuồng. Tôi tự hỏi không biết liệu nó có ngã lăn quay trong tư thế chồm chồm thẳng đứng kia không nữa.
– Ừ, chào anh. – Tôi trả lời, và Dexter bước về phía chúng tôi. Khi anh đi tới, tôi nhìn Khỉ Con, ngạc nhiên vì sự vui mừng tột độ của nó khi gặp lại người chỉ vừa mới rời đi một vài tiếng đồng hồ trước. Yêu một người nhiều như thế thì cảm giác ra sao nhỉ – tôi tự hỏi. Nhiều đến mức không kiềm chế được bản thân khi người ấy lại gần, như thể bạn vừa thoát ra khỏi điều gì đó cầm giữ mình, rồi lao về phía người mình yêu với một nguồn năng lượng yêu thương đủ nhiều để phủ đầy lên cả hai. Tôi hẵng còn phải tự hỏi về điều này, trong khi Khỉ Con lại biết rất rõ. Tôi có thể cảm nhận được tình cảm ấy của nó, như một sức nóng tỏa ra từ bên trong cơ thể vậy. Tôi gần như ghen tị với nó. Gần như là như vậy.
***
Khuya hôm đó, khi tôi nằm trên giường trong phòng Dexter, anh cầm lấy cây guitar. Anh sử dụng nhạc cụ không tốt lắm – anh nói với tôi như vậy khi ngồi phía đối diện tôi. Anh không mặc áo, chân trần, mấy ngón tay lần tìm vị trí dây đàn trong bóng tối. Anh chơi một đoạn ngắn bài gì đó của nhóm Beatles, rồi thêm một đoạn mới nhất của Bài ca Khoai tây. Tất nhiên anh chơi không giống như Ted, có vẻ do dự hơn. Tôi tựa đầu vào gối, lắng nghe giọng hát của anh, một ít bài này, một ít bài kia. Không bài nào trọn vẹn. Và rồi ngay lúc tôi gần như ngủ thiếp đi, anh hát một đoạn mới.
Bài ca này chỉ vài lời
Chỉ vài hợp âm đơn giản.
– Không, – tôi ngồi bật dậy, tỉnh ngủ hẳn. – Đừng.
Ngay cả trong bóng tối, tôi cũng có thể thấy Dexter ngạc nhiên. Buông cả hai tay ra khỏi cây đàn, anh nhìn tôi. Tôi chỉ mong anh cũng không trông thấy rõ mặt tôi lúc này. Đến giờ thì tất cả chỉ là đùa vui, là trò chơi. Chỉ có một vài lúc tôi cảm thấy mối quan hệ này có thể tiến xa hơn, đến nỗi có thể khiến tôi đắm chìm vào nó. Nhưng những lần như vậy tôi đều tự chủ được bản thân, luôn luôn là như vậy, trước khi nó tiến quá xa.
Tôi đã kể cho anh nghe về bài hát này trong một phút yếu lòng, lúc chia sẻ để tìm hiểu về nhau, điều mà tôi vẫn thường trốn tránh trong các mối quan hệ trước đây. Quá khứ luôn chẳng mấy dễ chịu, đầy rẫy những bãi mìn nguy hiểm nên tôi đã đề ra nguyên tắc: không bao giờ kể rõ về bản thân cho bất kỳ một cậu bạn trai nào. Và bài hát, chính bài hát này đây, là một trong những điểm yếu nhất của tôi. Nó giống như một vết thương không bao giờ lành, một điểm mong manh dễ vỡ mà những anh chàng ấy sẽ tấn công đầu tiên nếu đến thời điểm nào đó.
– Em không muốn nghe bài hát này à? – Dexter hỏi.
– Không, – tôi nói lại lần nữa. – Em không muốn.
Anh có vẻ ngạc nhiên khi nghe tôi nói như vậy. Chúng tôi đã từng đánh đố nhau, kiểu trò chơi đoán-xem-điều-gì-bạn-chưa- biết-về-tôi. Tôi được biết Dexter dị ứng với quả mâm xôi, rằng anh bị gãy mất răng cửa vì va phải băng ghế đá công viên năm lớp sáu, rằng bạn gái đầu tiên của anh là cháu họ xa của Elvis[20]. Còn tôi kể anh nghe tôi đã suýt bấm lỗ rốn nếu không ngất đi, hay một năm nọ tôi bán được lượng bánh quy Hướng Đạo Sinh nhiều hơn bất kỳ ai trong đội, và rằng cha tôi là Thomas Custer, và bài hát Khúc hát ru được viết cho tôi.
Dĩ nhiên anh biết bài hát này, rồi ngân nga một đoạn mở đầu. Ban nhạc của anh đã từng chơi bài này vài lần tại đám cưới. Một vài cô dâu chọn bài này để nhảy với cha họ – anh nói. Điều này thật ngớ ngẩn, nếu suy ngẫm kỹ lời bài hát. Ta sẽ làm con thất vọng, nó viết như vậy, ngay đoạn đầu tiên, rõ như ban ngày. Ông bố nào lại nói với con mình điều ấy? Nhưng tất nhiên câu hỏi này tôi đã ngừng tự hỏi bản thân mình từ lâu.
Không hát nữa, nhưng Dexter vẫn bập bùng vài đoạn hợp âm, tay lần mò trong bóng tối.
– Dexter!
– Sao em ghét bài hát này đến vậy?
– Em không ghét nó. Em chỉ… Em chỉ chán nghe nó, vậy thôi.
– Nhưng ngay cả điều này cũng không đúng. Tôi đã căm ghét bài hát này, bởi những lời dối trá trong đó. Cha tôi làm như thể chỉ vài lời nguệch ngoạc viết vội trong Khách sạn số Sáu, là ông có thể bào chữa được cho việc ông không buồn quan tâm đến tôi. Bảy năm chung sống với mẹ, cả hai người thực sự đã rất hạnh phúc cho đến biến cố cuối cùng nào đó, kết quả là ông rời khỏi California trong khi mẹ vẫn chưa hay biết là bà đã mang thai tôi. Hai năm sau khi tôi được sinh ra, cha tôi chết vì một cơn đau tim và chưa bao giờ ông trở về để nhìn mặt tôi. Và bài hát này đây, nó là sự thú nhận với cả thế giới rằng ông sẽ luôn chỉ làm tôi thất vọng. Nó giống như một cú đánh vào tim tôi. Những lời hát của ông vĩnh viễn ở lại trong lòng mọi người, còn tôi bị bỏ lại đằng sau, hoàn toàn lặng câm, không lời nào để nói.
Dexter vẫn gẩy đàn vu vơ không theo giai điệu nào hết.
– Buồn cười là anh đã nghe bài hát này cả đời, vậy mà đâu biết nó dành cho em.
– Chỉ là một bài hát thôi mà. – Tôi nói, di di ngón tay trên bậu cửa sổ. – Em còn chưa bao giờ biết rõ ông ấy nữa.
– Tệ thật. Anh cá ông ấy là một người tuyệt vời.
– Có thể.
Thật lạ là chúng tôi đang nói với nhau về cha của tôi, điều mà tôi đã không làm kể từ năm lớp Sáu, khi mẹ tôi tìm thấy một liệu pháp tìm kiếm Chúa Trời và lôi anh em tôi theo những buổi gặp mặt nhóm, gặp mặt cá nhân, và các buổi học nghệ thuật cho đến khi cạn sạch tiền.
– Anh xin lỗi. – Dexter nói nhỏ, và tôi cảm thấy bực bội vì anh nói điều này thật nghiêm túc, trang trọng. Như thể cuối cùng anh đã tìm thấy những đầu mối và đang lần ra điểm mấu chốt trong tâm trí tôi.
– Không có gì. – Tôi nói.
Dexter im lặng một lúc, và hình ảnh khuôn mặt anh trong bữa tiệc hôm nay chợt hiện về trong tôi, khuôn mặt bối rối trước lời chỉ trích của Don, và tôi nhận ra đó chính là điểm yếu của anh. Điều này thực sự đảo lộn mọi thứ trong tôi, bởi tôi chỉ quen với một Dexter mà tôi thích, một anh chàng vui tính với phần hông nhỏ xíu, với những ngón tay chạm vào cổ tôi theo một cách rất riêng. Rồi chỉ trong một khoảnh khắc, tôi bắt gặp một phần rất khác trong anh, và nếu lúc này đây, trong căn phòng này mà có thêm ánh sáng, anh cũng sẽ thấy điều tương tự ở tôi. Cũng như nhiều lần khác trong đời, tôi thực sự biết ơn sự che chắn của bóng tối.
Tôi lăn người qua phía bên kia, úp mặt vào gối, lắng nghe tiếng thở của chính mình. Tôi nghe thấy tiếng anh di chuyển, đặt cây đàn xuống thật nhẹ, và rồi vòng cả hai tay ôm lấy người tôi, vùi mặt vào giữa hai vai tôi. Lúc này anh thật gần, quá gần, và chưa bao giờ tôi để cho một gã con trai nào có thể gần gũi với tâm hồn mình như vậy. Nếu tôi kéo họ lại gần, cho phép họ bước vào thế giới của mình, như tôi đang làm lúc này đây, ở ngay đây, một góc nào đó trong tiềm thức tôi lại mách bảo rằng điều đó sẽ khiến họ sợ hãi và rời xa tôi.
________________________________________
[19] Nguyên văn: Black sheep – “Một con cừu đen trong bầy cừu trắng”. Thành ngữ này được dùng để chỉ những người bị cho là kỳ cục, không giống ai.
[20] Tức huyền thoại âm nhạc Elvis Presley. Chỉ cần nhắc tên Elvis là người yêu nhạc biết ngay là đang nói về ông.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.