Chạm Yêu

Chương 13


Đọc truyện Chạm Yêu – Chương 13

– Remy, cưng ơi, qua đây vài phút được không cưng?
Tôi đứng lên khỏi quầy tiếp tân, bỏ những hóa đơn kem dưỡng da mình đang kiểm xuống bàn rồi bước tới phòng làm móng, nơi Amanda – cô nhân viên làm móng giỏi nhất của chúng tôi – đang quét dọn chỗ làm của mình. Phía sau cô ấy là Lola, đập đập cây kéo trong lòng bàn tay.
– Chuyện gì vậy? – Tôi chột dạ.
– Ngồi xuống đi. – Amanda bảo tôi, và điều tiếp theo tôi nhận ra là mình đã ngồi xuống ghế: Talinga như từ thinh không bất thình lình xuất hiện ngay phía sau lưng, ấn vai đẩy tôi ngồi xuống, rồi quàng chiếc áo choàng qua người tôi, thít lại vừa đủ chặt phía cổ trước khi tôi kịp nhận ra điều gì đang diễn ra.
– Chờ tí nào. – Tôi nói khi Amanda chộp lấy bàn tay tôi và nhanh như chớp đặt chúng lên chiếc bàn nhỏ ở giữa chúng tôi. Cô ấy xòe các ngón tay của tôi và bắt đầu giũa móng bằng một loạt các động tác nhanh, mạnh, nhưng cũng rất nhẹ nhàng, môi mím chặt như tập trung cao độ.
– Chỉ là chỉnh trang lại một chút thôi. – Lola nói một cách êm ái, bước tới phía sau tôi và nắm lấy đuôi tóc tôi săm soi. – Làm móng một chút, tỉa tóc một chút, và trang điểm một chút…
– Không thể nào. – Tôi nói, cố vùng ra khỏi bàn tay của cô ấy. – Chị đừng đụng vào tóc em.
– Chỉ tỉa chút thôi. – Cô ấy trả lời, kéo tôi ngồi ngay ngắn lại chỗ cũ.
– Thái độ chẳng biết ơn gì cả. Phần lớn phụ nữ đều đồng ý trả món tiền không nhỏ cho những thứ ấy đấy. Mà em thì được miễn phí.
– Em cá là không có chuyện đó đâu. – Tôi càu nhàu, và tất cả họ đều cười rũ ra. – Cái bẫy gì đây chứ?
– Giữ im tay em đi, không thì chị không chỉ cắt phần da thừa đâu đấy. – Amanda cảnh báo.
– Làm gì có cái bẫy nào ở đây chứ. – Lola nói, và tôi phải cố giữ mình ngồi im vững vàng khi nghe tiếng kéo lạch xạch phía sau. Chúa ơi, cô ta đang cắt tóc tôi cơ đấy. – Chỉ là phần lương phụ trội thôi.
Tôi nhìn Talinga, người đang thử màu son trên tay mình, liếc nhìn tôi thường xuyên để ướm thử màu môi phù hợp.
– Lương phụ trội à?
– Phần trả thêm. Một phần thưởng. – Lola cười lớn, một trong những điệu cười rổn rảng quen thuộc của mình. – Một món quà cho Quý cô Remy của chúng ta.
– Một món quà? – Tôi lặp lại một cách thận trọng. – Là gì chứ?
– Đoán xem. – Amanda mỉm cười với tôi khi cô ấy bắt đầu sơn những vệt sơn màu đỏ bóng loáng lên móng tay tôi.
– Có lớn hơn hộp bánh mì không đấy? – Tôi hỏi.
– Em cứ ước đi. – Lola nói, và họ lại bắt đầu cười như nắc nẻ, như thể đây là điều hài hước nhất từ trước tới giờ.
– Nói em biết điều gì đang diễn ra đi. – Tôi nói một cách cứng rắn. – Nếu không em ra khỏi đây bây giờ đấy. Các chị nghĩ em không dám à?
Họ vẫn cười khúc khích, cố kìm nén. Cuối cùng Talinga hít một hơi thật sâu và nói:
– Remy à, tụi chị tìm cho cưng một người đàn ông.
– Một người đàn ông? Chúa ơi, em cứ nghĩ em được một món mỹ phẩm hoặc thứ gì đó, thứ mà em thật sự cần.
– Em cần một người đàn ông. – Amanda nói, tiếp tục sơn móng tay khác của tôi.
– Không đúng. – Talinga nói. – Tôi mới cần một người đàn ông. Remy cần một chàng trai trẻ.
– Một chàng trai tử tế, – Lola chỉnh. – Và hôm nay là ngày may mắn của em, bởi tụi chị tìm được một người cho em rồi.
– Quên chuyện này đi. – Tôi nói khi Talinga cúi xuống bên cạnh tôi, quết nhẹ lên mặt tôi bằng chổi trang điểm. – Có phải là người mà chị định mai mối cho em lúc trước không? Anh chàng song ngữ với đôi tay đẹp ấy?
– Cậu ta sẽ có mặt ở đây lúc sáu giờ. – Lola tiếp tục, hoàn toàn phớt lờ tôi. – Tên cậu ấy là Paul, mười chín tuổi, và đang nghĩ là sẽ đến để lấy mấy mẫu thử về cho mẹ mình. Nhưng thay vào đó cậu ấy sẽ gặp em, với mái tóc đẹp…
– và khuôn mặt trang điểm, – Talinga thêm vào.
– và móng tay gọn gàng, – Amanda nói, – nếu em chịu ngừng ngọ nguậy lung tung. Chán em thật đấy.
– Cậu ta sẽ hoàn toàn bị hạ gục. – Lola kết thúc. Chị ấy cắt thêm hai nhát kéo nữa rồi đưa tay hất hất mái tóc tôi để ngắm nghía tác phẩm của mình. – Chúa ơi, tóc em bị chẻ kìa. Xấu chưa.
– Điều gì khiến chị nghĩ rằng em sẽ chấp nhận mối này? – Tôi hỏi.
– Bởi vì cậu ấy đẹp trai lắm. – Talinga nói.
– Và vì em nên như vậy, – Amanda tiếp lời.
– Bởi vì, – Lola nói, cởi áo choàng ra khỏi người tôi, – em có thể. Tôi phải thừa nhận là họ đã đúng. Paul trông khá bảnh. Anh ta cũng vui tính, đánh vần tên tôi chính xác, có cái bắt tay vững chãi và, ừm, được thôi, một đôi tay đẹp. Anh ta có vẻ là một anh chàng dễ chịu, bởi không phiền lắm trước mưu đồ sắp xếp rõ ràng này, trao đổi nét mặt nghi ngờ với tôi khi Lola “tình cờ” có một vé mời ăn tối ở nhà hàng Mexico mà tôi rất thích, và một mực khẳng định là cô ấy sẽ không bao giờ dùng tới.
– Em có cảm giác là điều này hoàn toàn nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta không? – Paul hỏi tôi.
– Vâng, – tôi đồng tình. – Nhưng dù gì thì nó cũng là một bữa tối miễn phí.
– Ừ, quan điểm tốt đấy. Nhưng em đừng nghĩ là bị bắt buộc nhé.
– Anh cũng vậy. – Tôi bảo anh ta.
Chúng tôi đứng đó một lúc, trong khi Lola, Talinga và Amanda, trong căn phòng bên cạnh, đều im lặng đến mức tôi có thể nghe tiếng bụng của ai đó sôi lên.
– Đi thôi. – Tôi nói. – Cứ theo kế hoạch của họ vậy.
– Được thôi. – Paul mỉm cười với tôi. – Anh đón em lúc bảy giờ nhé?
Tôi viết địa chỉ nhà mình phía sau tấm danh thiếp của tiệm Joie rồi trông theo khi Paul bước ra xe mình. Anh ta dễ thương, và tôi thì đang độc thân vui tính. Đã gần ba tuần kể từ khi Dexter và tôi đường ai nấy đi, không những tôi đang đối mặt khá tốt với điều đó, mà chúng tôi còn gần như làm được điều không thể: xây dựng một tình bạn. Và đây – Paul – là một anh chàng dễ thương, một cơ hội tốt cho tôi. Tại sao tôi không chấp nhận nó chứ?
Một phương án trả lời cho câu hỏi này xuất hiện khi tôi bước ra phía xe mình, lục tìm trong túi chùm chìa khóa và kính mát. Tôi không để ý nơi lối đi trước mặt, không để ý xung quanh, và cũng không trông thấy Dexter từ Flash Camera bước ra, đang đi xuyên qua bãi đậu xe, cho đến khi nghe một tiếng click rõ to khiến tôi phải ngẩng lên nhìn. Dexter đang đứng đó, cầm trên tay máy ảnh đám cưới dùng một lần.
– Này, – anh nói, cuộn cuộn phim bằng một ngón tay. Rồi anh đưa máy lên lần nữa, nghiêng người ra sau một chút, chụp hình tôi ở một góc khác. – Ồ, trông em tuyệt quá. Em có một cuộc hẹn hò hay gì đó à?
Tôi ngập ngừng một lúc, và anh chụp thêm một bức hình nữa. Click.
– Ừm, thực ra thì…
Trong một giây, Dexter không nhúc nhích, không cuộn cuộn phim hay làm bất cứ hành động gì, chỉ đứng đó nhìn tôi qua ống ngắm máy ảnh. Rồi anh lấy máy hình ra khỏi mắt mình, đập tay vào trán và nói:
– Ái chà, một khoảnh khắc bối rối. Xin lỗi em.
– Đó chỉ là một cuộc hẹn mai mối. – Tôi nói nhanh. – Lola sắp xếp hết.

– Em không cần phải giải thích. – Dexter lại nhấn nút chụp liên tiếp. – Em biết vậy mà.
Và rồi điều đó lại xảy đến. Một khoảnh khắc dừng lại khá lâu của một cuộc đối thoại thông thường, và tôi nói:
– Ồ, vâng.
– Ôi trời, lại một lúc bối rối nữa. – Anh nhún vai thật mạnh, như thể giũ sạch mọi suy nghĩ để trở về thực tế. – Không sao đâu. Nó là một cuộc thách đố, phải không? Nên nó sẽ không dễ dàng đâu.
Tôi nhìn xuống ví, nhận ra chùm chìa khóa của mình – sau khi đã mấy lần lục tung mọi thứ trong ví – đang ở ngay trong túi quần sau. Tôi lôi chúng ra, vui mừng vì có điều gì đó – dù là ngớ ngẩn đến thế nào – để làm.
– Vậy thì, – Dexter làm ra vẻ tình cờ, đưa máy ảnh lên phía trên đầu tôi để chụp hình sân trước của tiệm Joie. – Anh chàng này là ai?
– Dexter, thật đấy à?
– Không. Ý anh là đây chỉ là cuộc thảo luận bình thường giữa hai người bạn. Nó chỉ là một câu hỏi, giống như hỏi về thời tiết vậy.
Tôi cân nhắc về điều này. Chúng tôi đều biết mình dính vào việc gì. Việc ăn mười trái chuối cũng chẳng dễ dàng gì.
– Con trai của một khách hàng. Em chỉ vừa gặp anh ta hai mươi phút trước.
– À, – anh gật gù, nhướng ngón chân lên để đứng bằng gót, – chiếc Honda đen đó hả?
Tôi gật đầu.
– Anh thấy anh ta rồi. Một anh chàng trông dễ thương và chân thành đấy.
Chân thành à – tôi thầm nghĩ. Như thể anh ta là hội trưởng hội sinh viên, hoặc tình nguyện viên giúp người già qua đường vậy.
– Chỉ là một bữa tối thôi, – tôi nói khi anh chụp thêm một bức hình nữa, lần này không hiểu vì sao, lại chụp đôi chân tôi.
– Máy chụp hình gì vậy?
– Hàng bị lỗi đó mà, – Dexter giải thích. – Một người ở văn phòng chính đã để hộp máy bên ngoài trời nắng nên chúng bị hư hết. Sếp của anh nói bọn anh có thể lấy nếu muốn. Giống như quýt vậy mà. Không thể từ chối những thứ được cho không.
– Nhưng liệu hình có ra được không? – Tôi hỏi, giờ mới để ý tới máy chụp hình trên tay Dexter: nó đã cong, biến dạng, giống cuốn băng video mà năm ngoái tôi đã vô ý để dưới dàn kính trước trong xe hơi giữa trời nắng. Trông nó như thể bạn sẽ không thể nào lấy cuộn phim ra khỏi, nói gì đến chuyện rửa ảnh.
– Anh không biết. Có thể có, cũng có thể không.
– Chắc không được đâu, phim chắc bị hư vì sức nóng rồi.
– Nhưng có thể không đâu. – Dexter đưa máy ra xa hết mức có thể rồi cười thật tươi, tự chụp cho mình một bức. – Có thể hình sẽ rửa ra bình thường thôi. Chúng ta sẽ không biết được cho đến khi rửa nó.
– Nhưng nếu hình hư hết thì không phải anh đã phí thời gian vô ích à?
Anh bỏ thõng hai tay xuống, nhìn tôi. Lần này không qua ống kính, mà từ phía đối diện tôi, chỉ có tôi và anh.
– Một câu hỏi lớn đấy nhỉ. Đó là toàn bộ vấn đề ở đây. Anh nghĩ hình sẽ rửa được. Có thể chúng sẽ không hoàn hảo, ý anh là bị mờ, bị lem gì đó, hoặc bị mất nét, nhưng anh nghĩ có những khoảnh khắc đáng để anh chụp. Chỉ là có ý nghĩa với anh thôi.
Tôi chỉ biết đứng đó, chớp mắt khi anh nâng máy hình lên và chụp tôi thêm một tấm. Tôi nhìn thẳng vào anh khi anh bấm máy, cho anh biết là tôi cũng hiểu nghĩa ẩn dụ trong câu nói ấy.
– Em phải đi đây. – Tôi nói.
– Tất nhiên rồi, – Dexter mỉm cười với tôi, – hẹn gặp lại em sau nhé.
Khi bước đi, anh nhét máy hình vào túi sau, băng qua những dãy xe hơi chen kín để về lại tiệm chụp hình của mình. Có thể anh sẽ rửa hình ra và thấy chúng thật hoàn hảo: khuôn mặt tôi, đôi chân tôi, tiệm Joie phía sau tôi. Hoặc có thể chúng chỉ là một màu đen, không có ánh sáng, thậm chí không thấy cả những đường nét của khuôn mặt. Đây mới thật sự là vấn đề. Tôi sẽ không bao giờ lãng phí thời gian của mình cho những trò lạ lùng như thế, trong khi anh luôn nhảy bổ vào chúng. Những người như Dexter theo đuổi những may rủi như thể lũ chó luôn bị dẫn dắt bởi mùi hương: chỉ nghĩ có thể có thứ gì đó ở phía trước mà chẳng bao giờ màng quan tâm tới những lý luận logic. Thật tốt khi chúng tôi là bạn bè, và chỉ như vậy mà thôi. Nhưng ngay cả như vậy, thì chúng tôi cũng không thể bền vững đến suốt đời. Không có một cơ hội nào cả.
Đã hai ngày kể từ ngày đụng độ với Don ở sân trước, và từ đó đến giờ, tôi đã xoay xở để tránh gặp mặt ông ta, tính toán thời gian để không bao giờ chạm mặt ở các khu vực chung như nhà bếp, nơi tôi biết ông ta hay ra vào. Với mẹ tôi thì dễ hơn nhiều, bởi bà hoàn toàn chìm đắm vào cuốn tiểu thuyết của mình để hoàn thành vài trăm trang cuối với tốc độ chóng mặt. Tôi nghĩ thậm chí bà sẽ không thèm để tâm đến một quả bom phát nổ ngay phòng khách nếu nó không buộc bà phải rời xa Melanie, Brock Dobbin và tình yêu không tưởng của họ.
Thế nên tôi thật sự ngạc nhiên khi thấy mẹ ở trong bếp, bên cạnh là một tách cà phê, khi tôi trở về nhà để chuẩn bị cuộc hẹn với Paul. Bà đang chống cằm bằng một tay, nhìn chằm chằm vào bức tranh quý bà khỏa thân của Don, chìm đắm trong suy tưởng đến nỗi nhảy dựng lên khi tôi chạm nhẹ vào vai.
– Ôi, Remy, – mẹ ấn một ngón tay vào thái dương, mỉm cười, – con làm mẹ sợ chết khiếp.
– Con xin lỗi. – Tôi kéo một chiếc ghế và ngồi xuống đối diện bà, bỏ chùm chìa khóa của mình lên bàn. – Mẹ làm gì vậy?
– Đợi Don. – Bà nói, ngón tay trỏ xoắn xoắn một lọn tóc. – Bọn mẹ sẽ ăn tối với một vài nhân vật quan trọng của Toyota tối nay, nên ông ấy đang lo lắm. Ông ấy nghĩ nếu bọn mẹ không gây ấn tượng tốt với họ thì họ sẽ cắt mất phần phân phối đại lý của ông ấy.
– Cái gì của ông ấy cơ?
– Mẹ cũng chẳng biết nữa. – Mẹ tôi thở dài. – Ngôn ngữ kinh doanh ấy mà. Cả bữa tối sẽ toàn những cuộc nói chuyện kinh doanh như vậy thôi, trong khi Melanie và Brock lại đang gặp nhau ở tiệm cà phê vỉa hè tại Brussels trong khi người chồng bị ghẻ lạnh của cô ấy sẽ nhanh chóng bắt kịp. Vậy mà điều cuối cùng mà mẹ muốn biết ở thời điểm này là những bản doanh số và kỹ thuật cắt giảm tỉ lệ tài chính.
Bà trao một cái nhìn khao khát về căn phòng làm việc của mình, như thể nó có một sức hút mãnh liệt nào đó.
– Ôi Chúa ơi, có khi nào con ước được sống hai cuộc đời cùng một lúc hay không?
Đột nhiên, không thể lý giải được vì sao, hình ảnh Dexter hiện lên trong đầu tôi, đang nhìn tôi qua ống kính máy chụp hình. Click.
– Vâng, cũng có đôi khi. – Tôi nói, lắc đầu để rũ bỏ hình ảnh đó.
– Barbara, – Don kêu ầm lên. – Em thấy cái cà vạt đỏ của anh đâu không?
– Cái gì của anh cơ, anh yêu? – Mẹ tôi nói với qua.
– Cà vạt đỏ, cái mà anh đã đeo ở bữa tối cuộc họp kinh doanh đó. Em thấy không?
– Ồ, em không biết, anh yêu. – Bà xoay người lại. – Nếu anh có thể…
– Thôi không sao, anh đeo cái màu xanh vậy. – Ông ta nói, và cánh cửa đóng lại lần nữa.
Mẹ tôi mỉm cười với tôi, như thể không có chuyện gì, rồi với người tới vỗ vào tay tôi.
– Nói chuyện của mẹ đủ rồi. Chuyện của con dạo này thế nào?
– Ừm… – tôi nói, – Lola sắp xếp một cuộc hẹn hò cho con.
– Hẹn hò hả? – Bà nhìn tôi một cách cảnh giác.
– Con gặp anh ta rồi, ở tiệm. Anh ta trông cũng khá. Và chỉ là một bữa tối thôi mẹ.
– À, – bà gật đầu, – chỉ một bữa tối thôi. Như thể không thể có chuyện gì xảy ra giữa món khai vị, món chính và món tráng miệng, cộng thêm một chai rượu vậy.

Rồi bà ngồi đó, chớp mắt, đột nhiên nói lớn:
– Hay đấy chứ. Ôi Chúa ơi, mẹ phải ghi lại mới được.
Tôi trông theo khi bà nhặt một cái phong bì – hóa đơn tiền điện cũ, và một cây viết. Ba món – chỉ một bữa tối – không có gì có thể xảy ra – mẹ tôi nguệch ngoạc bên cạnh rồi đánh dấu bằng một dấu chấm cảm lớn, xong lại đặt bên dưới lọ đường, nơi nó có thể sẽ rơi vào quên lãng cho đến một ngày bà lại mất cảm hứng, vô bếp rên rỉ và tìm thấy nó. Bà vẫn viết đầy những mẩu giấy nhỏ như vậy và để rải rác khắp nhà, nhét vào góc nào đó, kẹp trong tủ, hoặc dùng như vật đánh dấu trang sách.
Tôi đã từng bắt gặp một ý tưởng như vậy của mẹ về lũ hải cẩu, về sau trở thành một trong những yếu tố chính của cốt truyện Ký ức về Truro bà viết sau đó, dán ngay trên hộp đựng băng vệ sinh tôi để trong tủ nhỏ phía dưới bồn rửa mặt. Bạn sẽ không bao giờ biết khi nào ý tưởng sẽ xuất hiện.
– Tụi con sẽ đi quán La Brea, nên sẽ chỉ có một món chính thôi mẹ. Mà cũng chẳng có mấy cơ hội cho chuyện này tiến triển đâu.
Bà mỉm cười:
– Con không biết được đâu, Remy. Tình yêu không đoán trước được. Đôi khi con quen một người cả mấy năm trời, rồi một ngày chợt sét đánh rầm một cái, đột nhiên con nhìn anh ta theo một cách hoàn toàn khác. Một khoảnh khắc mà con sẽ còn ghi nhớ cả đời. Đó là điều làm cho tình yêu trở nên thật tuyệt diệu.
– Con sẽ không yêu anh ta đâu. Chỉ là một cuộc hẹn hò thôi mà mẹ. – Tôi nói.
– Barbara, – Don gọi to. – Em làm gì với khuy măng-sét của anh vậy hả?
– Anh à, – mẹ tôi quay lại lần nữa, – em không đụng tới chúng. Mẹ tôi ngồi đó chờ một lát, nhưng ông không nói thêm gì. Bà chỉ nhún vai, quay lại nhìn tôi.
– Chúa ơi, – tôi hạ thấp giọng, – con không biết sao mẹ có thể chịu được ông ta.
Bà mỉm cười, vươn người ra trước để hất tóc tôi ra khỏi mặt.
– Ông ấy không xấu thế đâu.
– Ông ta chỉ là một đứa trẻ to xác. – Tôi nói. – Và đống sữa Ensure khiến con phát điên lên.
– Có thể vậy thật. – Mẹ tôi đồng tình. – Nhưng mẹ yêu Don. Ông ấy là một người tốt, đối xử với mẹ rất tử tế. Không có mối quan hệ nào là hoàn hảo cả. Luôn có điều gì đó mà con phải thỏa hiệp, phải hy sinh bản thân mình để đạt được thứ lớn hơn. Đúng là Don có những thói quen thử thách lòng kiên nhẫn của mẹ, nhưng mẹ chắc là đổi lại ông ấy cũng cảm thấy tương tự về mẹ.
– Ít nhất là mẹ cư xử như người lớn, – tôi nói, dù thật sự nghĩ rằng điều này không phải lúc nào cũng đúng. – Ông ta còn không tự thay đồ cho mình được nữa kìa.
– Nhưng tình yêu mà bọn mẹ dành cho nhau lớn hơn những khác biệt nho nhỏ đó. – Mẹ phớt lờ tôi, tiếp tục nói. – Đó mới là điều quan trọng. Giống như một biểu đồ hình tròn vậy, tình yêu luôn là thứ có tỷ trọng lớn nhất. Tình yêu có thể làm được rất nhiều điều, Remy ạ.
– Tình yêu chỉ là sự giả vờ. – Tôi bâng quơ xoay vòng tròn lọ muối.
– Ôi, cưng ơi, không phải! – Bà nắm lấy tay tôi, nắn những ngón tay. – Con không tin vào tình yêu sao?
– Con chỉ toàn thấy điều ngược lại với những gì mẹ nói. – Tôi nhún vai.
– Ồ, Remy, – bà cầm tay tôi, ủ trong tay mình. Bàn tay bà nhỏ hơn tay tôi, với những ngón tay hồng. – Sao con lại có thể nói như vậy?
Tôi chỉ nhìn bà, không nói gì. Một, hai, ba giây, và bà chợt hiểu ra.
– Ồ không, – bà thả tay tôi ra, – chỉ một vài cuộc hôn nhân không đi đến đích không có nghĩa là tình yêu chỉ là điều tồi tệ. Mẹ đã có những năm hạnh phúc với cha con, Remy, và điều tốt đẹp nhất là mẹ có Chris và con. Bốn năm với Harold cũng thật tuyệt, cho đến tận khi bọn mẹ chia tay. Và ngay cả với Martin và Win, thì hầu hết thời gian ở bên họ mẹ đều cảm thấy hạnh phúc.
– Nhưng chúng đều chấm dứt. Tất cả đều vậy. – Tôi nói. – Chúng đều thất bại.
– Có thể vài người sẽ nói vậy. – Mẹ tôi nắm hai bàn tay mình lại với nhau, im lặng suy nghĩ trong một lúc. – Nhưng cá nhân mẹ lại nghĩ sẽ tồi tệ hơn nhiều nếu quãng thời gian đó mẹ phải cô đơn một mình. Có thể mẹ đã bảo vệ chính mình khỏi những điều mẹ sợ hãi, nhưng đó có phải là điều tốt hơn, khi mẹ từ bỏ bởi mẹ sợ rằng nó sẽ không tồn tại mãi mãi.
– Có thể như vậy. Ít nhất là giờ mẹ vẫn đang sống cuộc đời của mẹ. Số phận của mẹ do chính mẹ lựa chọn.
Bà suy nghĩ một lúc về điều này, rồi nói:
– Đúng là mẹ đã gặp đau khổ trong cuộc đời. Cũng không ít đau khổ. Nhưng mẹ đã yêu và được yêu. Điều này rất có ý nghĩa, ý nghĩa rất lớn. Cũng giống như biểu đồ hình tròn mà mẹ đã nói lúc nãy ấy. Đến lúc hấp hối, mẹ sẽ nhìn lại cuộc đời mình và chỉ thấy được thứ chiếm tỷ trọng lớn nhất, đó là tình yêu. Những khó khăn rắc rối, những cuộc ly hôn, những nỗi buồn,… cũng nằm trong biểu đồ ấy, nhưng chỉ là những mảnh bé xíu.
– Con nghĩ mẹ phải bảo vệ chính mình. Mẹ không thể cứ thay đổi bản thân mình như vậy.
– Đúng vậy, – bà nghiêm nghị, – con không thể. Nhưng việc con đẩy mọi người tránh xa mình, hoặc từ chối tình yêu cũng chẳng làm cho con mạnh mẽ hơn được. Nếu như chúng có tác dụng gì đấy, thì chỉ làm cho con yếu đuối hơn mà thôi. Bởi trong lòng con luôn sợ hãi.
– Sợ hãi gì cơ?
– Sợ hãi việc nắm bắt lấy cơ hội. Hay việc cứ thả mình và chìm đắm vào nó. Đó mới là thứ làm chúng ta trở nên là chính mình nhất. Rủi ro chính là cuộc sống, Remy ạ. Quá sợ hãi đến nỗi không bao giờ dám thử chỉ lãng phí cuộc sống này thôi. Có thể nói là mẹ đã mắc rất nhiều sai lầm, nhưng mẹ không hối tiếc điều gì cả. Ít nhất là mẹ đã không bao giờ đứng bên lề, tự hỏi cuộc sống thực sự là như thế nào.
Tôi ngồi đó, không biết nói gì để đáp lại. Tôi chợt nhận ra tôi không cần phải hối tiếc gì về cuộc đời của mẹ cả. Suốt những năm qua, tôi cảm thấy tiếc thương cho những cuộc hôn nhân của mẹ, chỉ nhìn thấy sự yếu đuối đáng thương của mẹ mà không hề biết rằng mọi thứ với bà mang một ý nghĩa hoàn toàn khác. Trong tâm tưởng của mẹ, việc tôi chia tay Dexter chỉ khiến tôi trở nên yếu đuối, chứ không phải mạnh mẽ.
– Barbara, chúng ta phải có mặt ở đó trong vòng mười phút nữa, nên… – Don xuất hiện ở cửa bếp, cà vạt cong veo, áo khoác gập trên tay. Ông ngừng lại khi trông thấy tôi. – Ồ, Remy, xin chào.
– Chào, – tôi đáp.
– Ồ, nhìn cà vạt của anh kìa. – Mẹ tôi đứng dậy, bước tới cạnh ông, vuốt nhẹ tay dọc theo lớp vải áo sơ mi rồi sửa lại cà vạt cho thẳng thớm. – Đấy, đẹp hơn rồi.
– Mình nên đi thôi. – Don hôn vào trán mẹ tôi. – Gianni ghét phải chờ đợi lắm.
– Vậy thì mình đi thôi. – Mẹ tôi quay về phía tôi. – Remy, con yêu, chúc con vui vẻ nhé. Và nghĩ về những gì mẹ nói nhé.
– Vâng, – tôi nói. – Chúc mẹ buổi tối tốt đẹp.
Don bước ra về phía xe, chùm chìa khóa trong tay. Mẹ tôi bước về phía tôi đang đứng, đặt tay lên vai tôi:
– Đừng để lịch sử cuộc đời mẹ lặp lại ở cuộc đời con, được không con?
Đã quá trễ rồi, tôi nghĩ khi bà hôn lên má tôi. Rồi tôi nhìn theo khi bà bước ra xe, nơi Don đang chờ. Ông ấy đặt một tay lên lưng mẹ, đưa mẹ ngồi vào ghế, và trong khoảnh khắc ấy tôi bắt đầu nghĩ rằng tôi có thể hiểu những gì mẹ nói. Có thể hôn nhân, cũng giống như cuộc sống, không hoàn toàn là những điều lớn lao, hoặc là tốt, hoặc là xấu. Có thể nó chỉ là những điều rất nhỏ – như việc đặt tay lên lưng khi cùng đi bên nhau ngày qua ngày – sẽ khiến sợi dây kết nối vốn rất mỏng manh dần trở nên bền chắc hơn.
Vận may của tôi vẫn tiếp diễn. Paul hóa ra không phải là một vụ mai mối tồi.
Tôi hơi thận trọng khi anh đến đón tôi, nhưng thật ngạc nhiên là ngay lập tức chúng tôi có thể bàn luận sôi nổi cùng nhau về chủ đề trường đại học. Một người bạn thời trung học của anh hóa ra lại đang theo học ở Stanford, và anh đã lên kế hoạch sẽ đến thăm vào Giáng sinh tới.
– Khuôn viên trường đẹp lắm, – Paul nói khi ban nhạc đường phố Mehico, một đặc trưng của quán La Brea, chơi lại bài “Chúc mừng sinh nhật”, – và tỷ lệ giáo viên trên sinh viên cũng rất tốt nữa. Chỉ có điều em phải đối phó với kỳ thi TA, em biết phải không?
Tôi gật đầu:
– Em có nghe nói đó là một kỳ thi chuyên về học thuật rất khắt khe.
Paul mỉm cười:

– Ồ, thôi nào. Anh biết là em phải thông minh đến thế nào mới được vô Stanford mà. Anh nghi ngờ về khả năng em sẽ gặp khó khăn với mấy kỳ thi đó. Em chắc phải đạt được vị trí quán quân ở kỳ thi thử phải không?
– Đâu có. – Tôi lắc đầu.
– Còn anh, – Paul nhấp một ngụm nước, – chỉ ở hạng thường thôi. Đó là lý do anh vẫn còn ở cái trường mà anh đã cố giành lấy mấy điểm vừa đủ đậu, trong khi em lại đàng hoàng hướng tới thế giới tự do của riêng mình. Em có thể gửi cho anh tấm bưu thiếp. Hoặc tốt hơn thì có thể đến thăm nơi anh đang làm thêm. Anh sẽ đặc biệt dành cho em suất ăn lớn hơn hẳn suất bình thường, bởi vì chúng ta là bạn bè mà.
Tôi mỉm cười. Paul là một anh chàng đẹp trai, lại giàu có nữa, và tôi thích anh ta. Anh là dạng người rất dễ nói chuyện, bởi dường như anh luôn có một điểm chung nào đó với mọi người. Câu chuyện trong bữa tối của chúng tôi ngoài Stanford ra còn thảo luận về trò trượt tuyết (Paul trượt dở tệ nhưng lại rất mê trò này), về việc anh là người nói hai thứ tiếng (anh còn thạo tiếng Tây Ban Nha, bởi có bà ngoại là người Venezuela), về việc khi hết hè, anh sẽ trở lại trường – nơi anh là thành viên của hội Sigma Nu[22], theo học chuyên ngành tâm lý, và quản lý một đội bóng rổ mà anh miêu tả là “hay chơi chứ chơi chẳng hay chút nào”. Paul không phải là một người vụng về, cũng chẳng vui tính nhộn nhạo như ai kia, và dây giày lúc nào cũng được buộc chặt. Đồ ăn được dọn ra, chúng tôi ăn ngon lành, và vẫn ngồi trò chuyện khi người phục vụ dần dần dọn hết chén đĩa đã ăn xong trên bàn – một gợi ý cho chúng tôi thấy việc chúng tôi nán lại đã quá lâu.
– Này, – Paul nói khi chúng tôi cuối cùng cũng làm vui lòng những người phục vụ bằng việc rời bàn ra về – nói một cách thật lòng, ban đầu anh có cảm thấy hơi thận trọng một chút về cuộc hẹn hò này.
– Nói một cách thật lòng thì không chỉ mình anh như vậy đâu. – Tôi đáp lại.
Khi chúng tôi ra xe, Paul làm tôi ngạc nhiên khi mở cửa xe, giữ lấy đợi tôi lên xe rồi mới đóng cửa lại. Dễ thương ghê – tôi thầm nghĩ khi anh đi vòng qua xe về chỗ của mình. Quá dễ thương.
– Nếu cuộc hẹn hò này thật sự là một thảm họa, – anh nói khi ngồi vào ghế, – thì anh sẽ nói với em là anh rất vui, rồi đưa em về nhà, dẫn em vào tận cửa, rồi phóng như bay ra khỏi khu nhà em.
– Hay đấy.
– Nhưng vì nó không phải như vậy, cho nên anh tự hỏi không biết em có muốn tới dự một bữa tiệc cùng anh không. Mấy người bạn của anh đang tổ chức một bữa tiệc ở hồ bơi, em quan tâm chứ?
Tôi suy nghĩ một lát. Cho đến tận lúc này thì bữa tối hôm nay thật tuyệt. Một cuộc hẹn hò tuyệt vời. Không có gì khiến tối nay tôi phải hối tiếc, hoặc nghĩ nhiều về nó cả. Nhưng không hiểu sao tôi không thể giũ những lời mẹ đã nói ra khỏi đầu. Có lẽ tôi đã cố sức đẩy cả thế giới ra khỏi mình thật, để giữ cho mình một khoảng cách an toàn.
– Chắc rồi. – Tôi nói. – Mình đi nào.
– Tuyệt! – Anh mỉm cười, rồi cài số xe chạy đi. Khi chúng tôi đã bắt đầu lên đường, tôi thấy anh liếc nhìn tôi, và tôi biết, ngay lúc đó, mọi thứ lại trở về guồng quay của nó. Thật hài hước khi quá dễ để lại bắt đầu như vậy, chỉ sau có ba tuần. Tôi đã nghĩ là Dexter ảnh hưởng nhiều đến tôi, thay đổi tôi, nhưng giờ thì tôi đang ở đây, với một chàng trai khác, trên một chiếc xe hơi khác, và vòng quay lại bắt đầu. Dexter là một người khác biệt, là một phút yếu lòng của tôi. Nhưng đây mới là tôi, và thật tốt khi được trở lại là chính mình.
***
– Ôi trời, – Lissa nói, chấm miếng khoai tây chiên vào chén tương cà, – anh ta hay thiệt đó. Chuyện là thế nào?
Tôi mỉm cười, nhấp ngụm Diet Coke:
– Chỉ là may mắn thôi.
– Thật bảnh trai. – Lissa cho thêm một miếng khoai nữa vào miệng. – Chúa ơi, sao các anh chàng tốt đều vô tay người khác hết trơn vậy chứ?
– Lời than thở này có nghĩa là anh chàng P.J. KaBoom của cậu đã có bạn gái rồi à? – Jess hỏi.
– Đừng gọi anh ấy như vậy. – Lissa giận lẫy, nhón lấy miếng khoai khác. – Họ đã chia tay một lần ở hè này rồi, nhưng cô ta cứ lằng nhằng.
– Như đỉa đói chứ gì? – Jess nói, và tôi bật cười.
– Vấn đề là, – Lissa tiếp tục, phớt lờ chúng tôi, – thật không công bằng khi tớ thì bị đá đít, rồi chàng trai tớ thích sau đó lại chẳng còn được tự do, trong khi Remy không chỉ có anh chàng ca sĩ vui tính mà giờ còn thêm một anh sinh viên bảnh trai làm bạn trai nữa chứ. Thật chẳng công bằng một chút nào. – Cô ấy nhón thêm miếng nữa vào miệng. – Giờ thì tớ không thể ngừng ăn được. Nhưng có ai quan tâm đâu, vì tớ chẳng dễ thương để được chú ý cơ mà.
– Thôi nào, – Jess làu bàu, – cậu ngừng ca bài ca con cá của cậu được rồi đó.
– Chàng ca sĩ vui tính à? – Tôi hỏi.
– Dexter cũng được lắm. – Cô ấy nói với tôi, đưa tay quệt ngang miệng. – Và giờ thì cậu có Paul hoàn hảo. Trong khi tất cả những gì tớ có bây giờ là hàng lô hàng lốc KaBoom và chứng nghiện ăn như tài xế xe tải.
– Ăn ngon thì có làm sao? – Jess an ủi. – Lũ con trai chỉ thích người đầy đặn, có đường cong.
– Giờ người tớ cũng có đường cong, rồi thì điều gì sẽ xảy ra chứ? – Lissa đáp. – Tròn ủm à?
Chloe, người gầy nhất trong chúng tôi, cười phá lên:
– Từ này thích hợp đó.
Lissa thở dài, đẩy phần khoai tây chiên qua một bên rồi lau tay:
– Giờ tớ phải đi đây. Tớ phải đến đường đua Ba Nước trong vòng mười lăm phút nữa. Chúng tớ giới thiệu KaBoom cho các vận động viên đến từ khắp các bang.
– Ừ, nhớ mặc đồ bảo vệ nhé.
Lissa nhăn mặt. Cô ấy đã bị chọc về loại nước uống có cái tên mắc cười này quá nhiều lần rồi.
Trên đường từ chỗ làm thêm cứu hộ ở bể bơi trở về, Paul ghé qua gặp tôi. Tôi không thể không để ý mấy cô phù dâu đang đợi làm móng tay trước lễ cưới cứ háo hức nhìn vào Paul khi anh bước vào, làn da rám nắng, người nồng một mùi rất đàn ông pha trộn giữa kem chống nắng và nước clo ở hồ.
– Chào em, – anh nói, và tôi đứng lên, hôn nhẹ vào má anh. Đã đến giai đoạn mối quan hệ của chúng tôi trở nên thân thiết hơn. Chúng tôi đã quen nhau một tuần rưỡi, và gần như ngày nào cũng gặp nhau: ở bữa trưa, bữa tối, một vài bữa tiệc.
– Anh biết tối nay em bận, nhưng anh chỉ muốn ghé qua để nói chào em thôi.
– Chào anh. – Tôi nói.
– Chào em. – Anh cười toét. Chúa ơi, anh ấy mới đáng yêu làm sao. Tôi tự hỏi sẽ thế nào nếu tôi chịu gặp Paul ngay lần đầu Lola mai mối. Rõ ràng mùa hè này sẽ rất khác. Hoàn toàn khác.
Paul đạt mọi tiêu chuẩn mà tôi đưa ra về một anh chàng hoàn hảo. Anh ấy cao. Đẹp trai. Không có những thói quen phiền phức. Lớn hơn tôi không quá ba tuổi. Ăn mặc đẹp nhưng không đi mua sắm nhiều hơn tôi. Có ý thức giữ gìn vệ sinh cá nhân tốt (dùng nước dưỡng sau khi cạo râu và nước hoa, nhưng không dùng keo xịt tóc và kem giả màu da rám nắng). Đủ thông minh để lựa chọn đề tài nói chuyện thích hợp nhưng không quá đà. Và một điểm quan trọng nhất, đó là anh ấy sẽ rời đi vào cuối hè, nên chúng tôi đã chuẩn bị tâm lý cho việc chỉ là bạn bè và sau đó mỗi người đi một hướng.
Giờ đây tôi có một anh chàng dễ mến, bảnh trai, lịch sự thích tôi, hôn lại khá, luôn chi cho bữa tối, chẳng màng đến việc có rất nhiều chàng trai trước anh đã bị tôi đốn giò. Và tất cả những thứ này lại đến từ một cuộc hẹn hò mai mối. Thật kỳ diệu.
– Vậy tối nay là tối dành riêng cho phụ nữ phải không? – Paul nói khi tôi đưa tay ra đặt lên tay anh. – Nhưng không biết anh có cơ hội gặp em lúc khuya nay không?
– Chẳng có cơ hội đâu. – Tôi nói. – Chỉ có cô gái đễnh đoảng mới giao bạn mình cho một gã con trai. Điều đó đã được quy định rõ rồi.
– À, – Paul gật đầu. – Nhưng đáng để anh thử xem.
Ở phía bên kia bãi giữ xe, tôi thấy chiếc xe thùng màu trắng của ban nhạc Truth Squad trờ tới trước cửa hiệu Flash Camera. Ted đậu ngay vị trí dành riêng cho việc chất dở hàng và nhảy từ phía ghế tài xế xuống, đóng mạnh cửa lại rồi biến mất vào trong tiệm.
– Vậy anh định làm gì tối nay? – Tôi hỏi Paul. – Hẹn hò riêng với cánh con trai tụi anh hả?
– Ừ, – anh nói khi tôi nhìn qua tiệm Flash Camera lần nữa, nhìn Dexter theo sau Ted trở ra chiếc xe thùng. Họ nói chuyện với nhau sôi nổi, có phải tranh cãi không nhỉ, rồi lên xe, lái đi, vượt luôn cột đèn đỏ khi băng qua chợ Mayor và hướng vào đường chính.
-… có một ban nhạc mà đám bạn anh muốn tới xem sẽ chơi ở quán bar đó.
– Thế à? – Tôi nói, không nghe rõ anh nói gì vì mải trông theo chiếc xe thùng trắng cắt ngang đầu một chiếc xe hơi, khiến nhiều tiếng còi nổi lên phẫn nộ.
– Ừ, Trey nói đó là một ban nhạc tốt lắm… Hình như tên là Spinnerbait, anh nghĩ họ gọi như vậy.
– Ghét Spinnerbait. – Tôi buột miệng.
– Sao cơ?
Tôi nhìn Paul, nhận ra mình hoàn toàn chẳng để ý gì trong cuộc đối thoại này.
– Ồ, không có gì. Em chỉ nghe nói ban nhạc đó tệ lắm. Paul nhướng mày lên:
– Thật ư? Trey nói họ chơi tuyệt lắm mà.
– Ừm, – tôi nói nhanh. – Em nghĩ anh ấy chắc biết rõ hơn em chứ.
– Anh nghi ngờ điều đó. – Paul nhoài người ra phía sau quầy và hôn tôi. – Tối nay anh sẽ gọi điện thoại cho em, được chứ?
– Vâng. – Tôi gật đầu.
Khi Paul đi, hai cô phụ dâu nhìn tôi vẻ ngưỡng mộ, như thể tôi được đánh giá dựa vào anh chàng nào đi với tôi vậy. Nhưng chẳng hiểu vì lý do gì mà tôi lại bị phân tâm, đến mức tính dịch vụ nhuộm highlight tóc của bà Jemeson thành dịch vụ tẩy lông, và còn tính năm mươi đô thay vì năm đô cho lọ kem dưỡng móng. May mà cũng đã sắp đến giờ về.

Khi tôi chuẩn bị ngồi vào xe thì có ai đó gõ vào cửa kính bên phải. Tôi nhìn lên: là Lucas.
– Chào Remy. – Anh nói. Tôi kéo cửa xuống.
– Em cho tôi đi nhờ về nhà được không? Dex đã về trước trên chiếc xe thùng rồi. Nếu không thì anh phải cuốc bộ thôi.
– Được thôi. – Tôi nói, dù tôi đã sắp trễ giờ hẹn. Tôi đã hẹn đến đón Lissa, trong khi ngôi nhà màu vàng thì nằm ở hướng ngược lại. Nhưng tôi thật không thể bỏ mặc anh ta ở đây được.
Lucas leo lên xe, rồi ngay lập tức nghịch ngợm radio trong khi tôi cho xe chạy khỏi bãi. Gặp lần khác thì tôi đã tống cổ anh ta ngay lập tức rồi, nhưng lần này thì tôi đang ở trong tâm trạng tốt.
– Em có đĩa gì? – Anh ta hỏi, đưa tay kéo cần chỉnh tần số sang mức thấp nhất rồi tăng lên, làm phát ra những tiếng rít ồn ào.
– Trong hộc ấy. – Tôi chỉ tay. Anh ta mở ra và coi qua từng đĩa – chúng được xếp theo thứ tự ABC, nhưng chỉ bởi tôi có chút ít thời gian rảnh rỗi khi kẹt trong đám kẹt xe vài ngày trước. Anh ta tiếp tục lẩm bẩm, xì xầm những âm thanh khó chịu. Có vẻ bộ sưu tập của tôi, cũng giống như kênh radio trên xe tôi – không phải là gu âm nhạc yêu thích của anh ta. Nhưng tôi chẳng việc gì phải gây ấn tượng với Lucas. Nhờ Dexter mà tôi không chỉ biết tên thánh của Lucas là Archibald, mà còn biết khi còn ở trường trung học, anh ta để tóc dài và chơi cho một ban nhạc rock tên Residew. Chỉ nhờ một bức hình của thời Lucas rền rĩ với cây đàn organ với mái tóc dài xịt keo cứng ngắt, và Dexer lại vô tình sở hữu nó.
– Em có nghe nói, – tôi cảm thấy cần phải làm phân tán anh ta một chút, – Spinnerbait sẽ chơi tối nay đấy.
Lucas giật mình quay sang nhìn tôi:
– Ở đâu kia?
– Quán Murray. – Tôi nói khi chúng tôi tăng tốc vượt qua đèn vàng.
– Ở đâu chứ?
– Chỗ gần trường đại học ấy. Một nơi khá lớn. – Tôi có thể nhìn Lucas qua khóe mắt mình. Anh ta đang vò vò gấu áo sơ mi của mình, trông có vẻ kích động.
– Ghét Spinnerbait. – Anh ta nói. – Một lũ màu mè dở tệ. Nhạc của chúng hoàn toàn được kỹ thuật hỗ trợ chỉnh sửa, và đám fan hâm mộ chỉ rặt một lũ công tử tiểu thư với mái tóc bóng nhẫy uốn éo trong xe hơi của các ông bố lắm của nhiều tiền.
– Oái, – tôi la lên, không thể không liên tưởng những lời miêu tả cay nghiệt này với Trey, anh bạn thân nhất của Paul, và với cả Paul nữa, nếu như tôi không hiểu anh ấy nhiều hơn. Nhưng tất nhiên là tôi hiểu rõ Paul.
– Ồ, tin này quan trọng đấy. – Lucas nói khi tôi rẽ vào con đường nhà họ. – Nhưng không quan trọng bằng những gì đang thực sự diễn ra.
– Cái gì cơ? – Tôi hỏi, ngay lập tức nghĩ tới cảnh chiếc xe thùng phóng như bay ra khỏi khu chợ Mayor trước đó.
Lucas liếc nhìn tôi, và tôi có thể hiểu cái nhìn trên khuôn mặt ấy của anh ta: anh ta đang cân nhắc xem liệu có cần nói với tôi hay không.
– Tầm cao ấy mà. – Anh ta nói một cách bí ẩn. – Bọn tôi đang ở ngay sát.
– Gì cơ? Ngay sát cái gì cơ? – Tôi hỏi, không nén nổi tò mò. Anh ta nhún vai khi tôi đi chậm lại. Căn nhà màu vàng đã hiện ra ngay phía trước. Tôi có thể trông thấy Ted và Mary Đáng Sợ đang ngồi ngay sân trước, trên hai chiếc ghế xếp. Chân cô ta thoải mái đặt trong lòng Ted, và cả hai đang cùng uống một lon Twinkie.
– Hãng thu âm Rubber muốn gặp chúng tôi. Chúng tôi sẽ tới D.C. vào tuần tới để nói chuyện với họ.
– Ồ, – tôi chạy vào đường dành cho xe hơi trước nhà, nơi chiếc xe thùng đậu một góc nghiêng méo xệch. Ted nhìn chúng tôi, có vẻ hơi thú vị, trong khi Mary vẫy tay với Lucas lúc anh ta mở cửa xe bước ra. – Tuyệt thật đấy.
– Cậu nghe này, – Lucas nói với Ted, – Spinnerbait chơi tối nay đó.
– Ghét Spinnetbait. – Mary nói như một cái máy.
– Ở đâu vậy? – Ted hỏi khi Lucas đóng cửa xe tôi và bước vòng qua trước đầu xe.
– Cảm ơn cho tôi đi nhờ nhé. – Anh ta nói, gõ gõ ngón tay vào cửa kính xe đã kéo xuống phân nửa bên phía tôi ngồi. – Tôi rất biết ơn đấy.
– Này, vậy là sao chứ? – Ted kêu lên. – Chúng xâm lăng lãnh địa của chúng ta à?
– Chiến tranh huynh đệ tương tàn đây. – Lucas nói, và cả hai cùng cười.
Lucas bắt đầu bước về phía Ted, nhưng tôi bấm còi và anh ta quay lại.
– Này Lucas.
– Gì cơ?
– Chúc may mắn với mọi thứ nhé! – Tôi nói, chợt cảm thấy hơi kỳ cục, vì tôi chẳng quen anh ta là mấy. Nhưng không hiểu vì điều gì đó mà tôi phải nấn ná lại để nói vài câu. – Ý em là, chúc mấy anh may mắn.
– Ừ, – anh ta nhún vai, – để xem rồi sẽ thế nào.
Khi tôi bắt đầu rời đi, Lucas kéo một thùng nhựa đựng sữa bỏ không lại để tham gia bữa picnic ngoài trời cùng Mary và Ted, nhận từ tay Ted một lon Twinkie. Tôi liếc nhìn lần cuối về phía căn nhà, có thể thấy Khỉ Con ngồi trên ngưỡng cửa, thở phì phò. Không biết Dexter đâu nhỉ? – Tôi tự hỏi, nhưng rồi tự nhắc mình điều này đã chẳng còn là nỗi bận tâm của mình nữa rồi. Nhưng nếu anh có nhà, anh cũng nên ra gặp tôi và chào hỏi một tiếng. Chỉ vì chúng tôi là bạn của nhau thôi mà.
Tôi bắt đầu xuống phố, đi chậm rồi dừng đèn đỏ ở một ngã tư. Từ gương chiếu hậu, tôi vẫn còn trông thấy Ted, Mary và Lucas ngồi đó trò chuyện, nhưng giờ thì Dexter cũng tham gia với họ, ngồi xuống cạnh chiếc bàn tạm bợ đựng mấy đồ linh tinh để mở nắp lon Twinkie trong khi Khỉ Con chạy lòng vòng xung quanh, đuôi ngoáy tít. Họ đều đang thảo luận gì đó với nhau, và trong một khoảnh khắc, tôi chợt cảm thấy một điều gì đó nhói lên trong lòng. Tôi chột dạ, như thể mình bỏ quên thứ gì không định hình được. Thật lạ. Nhưng chiếc xe phía sau tôi bắt đầu bấm còi mất kiên nhẫn, khiến tôi phải quay về với thực tại, lắc đầu để quên đi và nhấn ga tiến về trước.
Khi tôi trở về nhà, căn nhà hoàn toàn im ắng. Mẹ tôi đã đi khỏi vùng để tham dự một cuộc hội thảo dành cho các nhà văn tổ chức vào mỗi tháng Tám hàng năm – nơi bà truyền kinh nghiệm cho các nhà văn lãng mạn trẻ đầy tham vọng và đắm chìm trong những lời ca tụng, những ánh mắt khâm phục trong vòng ba ngày hai đêm tại Florida Keys. Còn Chris, anh gần như đã sống hẳn ở nhà Jennifer Anne, nơi bánh mì trong tủ lạnh không chỉ toàn cùi bánh, nơi anh có thể vừa dùng bữa sáng vừa ngắm nghía bức tranh in khu vườn hoa tươi tắn thay vì bị chiếu tướng bởi bộ ngực nặng bảy ký của phong cách tân cổ điển. Bình thường thì tôi rất thích được làm chủ cả căn nhà, nhưng vì giữa tôi với Don vẫn còn sự gượng gạo khó chịu, nên tôi đồng ý tới ngủ bữa cuối tuần tại nhà Lissa, và báo quyết định này cho ông ta bằng mảnh giấy thông báo hình thức đặt dưới kim tự tháp những lon Ensure rỗng ngày càng phình to trên bàn bếp.
Tôi bước vào phòng làm việc của mẹ, đẩy tấm màn sang một bên. Trên kệ cạnh bàn làm việc của bà là một xấp giấy: cuốn tiểu thuyết mới, hoặc một phần của nó. Tôi cầm lấy, đặt chúng vào lòng rồi ngồi khoanh chân lại, đọc lướt qua. Lần gần nhất, tôi đã đọc tới đoạn Melanie nhìn chiếc giường vợ chồng lạnh lẽo của mình, nghĩ tới người chồng đang ở nơi xa lắc và nhận ra cuộc hôn nhân này là một sai lầm. Đoạn đó ở trang 200. Đến trang 250, cô ta rời Paris, trở lại New York, làm việc thiết kế thời trang cho một người phụ nữ béo ị, xấu xa. Điều trùng hợp bất ngờ nhất trong những điều trùng hợp: Brock Dobbin cũng quay về New York, bị thương trong một cuộc bạo động tại nước thứ ba nào đó khi đang làm việc của mình: một nhà báo nổi tiếng với nhiều giải thưởng lớn. Trong một buổi biểu diễn mùa thu, họ bắt gặp ánh mắt nhau khi ngồi đối diện ở hai bên sàn diễn, và cuộc tình lãng mạn được tái sinh.
Tôi nhảy thẳng tới trang 300, nơi mọi thứ rõ ràng trở nên tồi tệ: Melanie trong viện tâm thần, phải gây mê để giảm đau trong khi bà chủ cũ cướp công toàn bộ dòng thiết kế mùa thu của cô. Luc, người chồng đã ly thân của cô cũng xuất hiện trong đoạn này, đang dính líu tới một âm mưu tài chính phức tạp nào đó. Brock Dobbin có vẻ hoàn toàn biến mất, nhưng tôi tìm thấy anh ta ở trang 374, trong một nhà tù ở Mexico, nơi anh bị buộc tội một cách thiếu căn cứ cho việc buôn lậu ma túy, và rồi ngã lòng trước một cô gái bần hàn người địa phương tên Carmelita. Tôi đoán đoạn này chính là lúc mẹ tôi đã bị cạn ý tưởng. Nhưng đến trang 400, bà dường như đã trở lại guồng. Các nhân vật lúc này đều ở Milan, chuẩn bị cho buổi trình diễn mùa thu. Luc cố làm hòa với Melanie, nhưng lại không quyết tâm cho lắm, trong khi Brock cũng đã trở về với công việc của mình, theo đuổi đề tài về mặt trái của ngành thời trang cùng chiếc máy ảnh Nikon yêu quý và một dự cảm về công lý mà không một vết thương nào, ngay cả một hòn đá vào đầu ở Guatemala, có thể dập tắt được.
Tờ cuối cùng được đánh dấu trang 405, khi Melanie và Brock cùng uống espresso trong một tiệm cà phê ở Milan.
Họ nhìn thẳng vào mắt nhau, như thể khoảng thời gian xa nhau khiến họ khao khát về nhau theo cách mà họ chỉ có thể truyền tải bằng ánh mắt, chứ không thể thốt thành lời. Đôi tay Melanie đang run rẩy, ngay cả khi cô đã ủ chúng trong tấm khăn choàng lụa, lớp vải mềm mang lại đôi chút thoải mái trong cơn lạnh đến buốt giá.
“Em có yêu anh ta không?” – Brock hỏi. Đôi mắt xanh sâu thẳm và sắc sảo của anh đang nhìn cô chăm chú.
Melanie khẽ giật mình trước câu hỏi thẳng thừng. Nhưng dường như khoảng thời gian trong tù đã tạo cho anh sự thẳng thắn này, một nhu cầu đòi hỏi được trả lời ngay lập tức. Anh nhìn thẳng vào cô, chờ đợi.
“Anh ấy là chồng em,” cô trả lời.
“Đó không phải là điều anh hỏi.” Brock nhoài người ra và nắm lấy tay cô, ủ trong tay mình. Những ngón tay của anh chai nhám và to bè, thô ráp chạm vào làn da tái bệch mỏng manh của cô. “Em có yêu anh ta không?”
Melanie cắn môi, cố dằn tiếng nấc mà cô sợ sẽ bật ra nếu cô bị thúc ép nói ra sự thật về Luc và trái tim lạnh lẽo, băng giá của anh ta. Brock đã bỏ rơi cô suốt những tháng qua trong hoàn cảnh chẳng có lấy một sự lựa chọn nào. Cô đã thôi hy vọng về anh, và về mối tình tuyệt vọng giữa họ. Vậy mà anh xuất hiện như một bóng ma, bước tới chỗ ngồi của cô tại quán cà phê này, đối diện với thế giới thật của riêng cô.
“Em không tin vào tình yêu.” Cô nói. Brock lắc lắc tay cô.
“Sao em lại nói vậy, sau những gì chúng ta đã trải qua. Những gì chúng ta còn đang có.”
“Chúng ta chẳng có gì cả,” cô nói, rồi rút tay lại. “Em đã kết hôn rồi. Cuộc hôn nhân này sẽ tốt đẹp bởi vì…”
“Melanie à.”
“Bởi vì người đàn ông này yêu em,” cô kết thúc.
“Đây mới là người đàn ông yêu em.” Brock nói, giọng rõ ràng, từ tốn.
“Anh đã quá trễ rồi.” Melanie đứng lên. Cô đã bao nhiêu lần đẩy Brock Dobbin ra khỏi tâm trí mình, cố nói với bản thân là cô có thể có một cuộc sống tốt đẹp với Luc. Luc quá khéo léo và tao nhã, quá vững vàng và mạnh mẽ. Còn Brock chỉ thoắt ẩn, thoắt hiện trong cuộc đời cô, hứa hẹn, thắp nên ngọn lửa yêu đương bùng cháy với cô, rồi lại biến mất, để lại trong cô cả một biển nhớ mênh mông để tiếp tục rong ruổi qua những nẻo đường ở khắp nơi trên thế giới, theo đuổi những chủ đề của riêng mình. Có thể Luc sẽ không bao giờ yêu cô giống như tình yêu của Brock, lấp đầy cả cơ thể và tâm trí cô bằng niềm vui sướng có thể khiến cả thế giới này như biến hẳn đi. Đôi khi những suy nghĩ này lại trở về, khiến cô thét gào khao khát trong đêm, mơ ước lại một lần có nó trong đời.
“Melanie,” Brock gọi phía sau khi cô bắt đầu đi xuống con đường rải sỏi, quàng chiếc khăn qua cổ. “Quay lại đi.”
Đó là những từ cô biết rất rõ. Cô đã từng kêu lên như vậy, ở sân ga Prague. Bên ngoài khách sạn Plaza, khi anh leo vào chiếc taxi. Trên bến thuyền, khi con tàu của anh phóng đi, cưỡi trên những con sóng. Anh vẫn luôn dứt áo ra đi. Không, không phải là lần này. Cô tiếp tục bước, không cả quay đầu lại.
Đi đi, Melanie, tôi thầm nghĩ, trả trang giấy lại chồng bản thảo. Tôi phải thừa nhận rằng đây không phải là kiểu nhân vật nữ đặc trưng trong các câu chuyện của mẹ: từ bỏ tình yêu đam mê của mình để đến với người đàn ông lầm lỗi đã trao cho cô bàn tay vững vàng. Đây có phải là một sự sắp đặt thuyết giáo gì không nhỉ? Thật là một đống những rắc rối. Mẹ có lẽ đã quá vội vàng khi nói rằng tôi đã sai về tình yêu. Nhưng giờ còn quá sớm để biết được điều gì: vẫn còn nhiều trang phải tiếp tục, nhiều từ ngữ sẽ được viết ra trước khi câu chuyện kết thúc.
________________________________________
[22] Sigma Nu (viết tắt là ∑N) là một hội huynh đệ phổ biến trong các trường đại học ở Mỹ, Anh và Canada, được thành lập vào năm 1869, với nguyên tắc gồm: Tình yêu, danh dự và sự thật (Love – Honor – Truth).


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.