Đọc truyện Yêu nữ thích hàng hiệu – Chương 35: Phần 15 – 01
Phần XV
Andrea, Emily đây,” tôi nghe một giọng rền rĩ trong điện thoại. “Chị có nghe rõ không?” Lần cuối Emily gọi tôi ở nhà vào tối muộn như thế này cách đây vài tháng. Chắc phải có chuyện hệ trọng.
“Nghe rõ. Giọng chị nghe sợ quá,” tôi nói và ngồi bật dậy khỏi gối, nghĩ ngay là hẳn Miranda đã làm gì đó để giọng cô ấy nghe thảm thiết đến như vậy. Lần trước, Miranda gọi điện cho Emily lúc mười một giờ đêm thứ Bảy và đòi cô thuê một chiếc phi cơ tư nhân cho bà và ông Tomlinson bay về từ Miami, vì chuyến bay về New York bị cắt bởi thời tiết xấu. Đúng lúc Emily vừa định đến tiệc sinh nhật của mình; ngày hôm sau tôi mới nghe được lời cầu cứu của cô trong hộp thoại. Tội gọi lại cho Emily lúc cô vẫn đầm đìa nước mắt.
“Tôi đã mất buổi sinh nhật của mình rồi, Andrea,” cô nức nở lên khi vừa bắt điện thoại. “Mất liên hoan sinh nhật, chỉ bởi phải đặt chuyến bay cho sếp!”
“Thế tại sao bà ấy không ngủ lại một đêm ở khách sạn nào đó và sáng hôm sau bay tiếp như những người bình thường khác?” Tôi hỏi một câu biết trước vô lý.
“Chị tưởng là tôi không biết thế à? Bảy phút dau khi bà ấy gọi, tôi đã đặt ngay một penhouse cho họ ở Shore Club, ở Albion và ở Delano, vì tôi nghĩ là bà ấy không quan trọng hóa vấn đề. Lạy Chúa, đêm thứ Bảy! Có mà điên khi tìm máy bay tư nhân vào đêm thứ Bảy”
“Tôi đoán là bà không khoái ý tưởng đó lắm?” Tôi nhẹ nhàng nói, vừa áy náy vì đã không có mặt để giú Emily, đồng thời cũng sướng rơn lên vì không bị hứng quả tạ này.
“Hoàn toàn không! Bà ấy gọi mười phút một lần và muốn biết tại sao tôi chưa tìm thấy gì, buộc tôi phải chuyển các cuộc gọi khác sang chế độ chờ, và nói chuyện xong với Miranda thì họ đã cúp máy rồi.” Cô thở dài sườn sượt. “Đúng là ác mộng.”
“Và kết cục ra sao?” Tôi hầu như không dám hỏi tiếp.
“Ra sao à! Chẳng ra sao cả thì đúng hơn. Tôi gọi tất cả các công ty bay tư nhân của bang Florida, chị có thể tưởng tượng ra là nửa đêm thứ Bảy làm gì có ai bắt máy. Tôi đàm phán qua điện đài với các phi công làm ngoài, nói chuyện với cá tuyến hàng không trong nước xem còn khả năng nào nữa không, thậm chí còn túm được một đại gia của Sân bay quốc tế Miami. Tôi kể là cần ngay trong nửa tiếng nữa một phi cơ cho hai người về New York. Chị biết ông ấy nói gì không ?”
“Gì cơ?”
“Ông ấy cười. Như lên cơn thần kinh. Xếp tôi vào dạng chim mồi cho bọn khủng bố, buôn bán ma tuý hay đại loại như thế. Nói là giờ này mà kiếm được một phi cơ và người lái thì còn khó hơn là khả năng bị sét đánh trúng đầu hai mươi lần liền, bất kể tôi sẵn sàng trả bao nhiêu tiền. Và nếu tôi còn hỏi lần nữa thì ông ta sẽ chuyển cuộc gọi trực tiếp cho FBI. Chị có tin được không?” Đến đây giọng cô rít lên. “Thắng chó chết, chị có tin được không? FBI!”
“Tôi đoán là Miranda không vừa lòng lắm?”
” Đúng thế, và còn hơn thế. Sếp mất đến hai mươi phút để tin được rằng không có chiếc máy bay duy nhất nào sẵn sàng phục vụ cả. Tôi phải thề sống thề chết là không phải hết chỗ, mà đơn giản là giờ này không thể kiếm nổi máy bay tư nhân”
“Rồi sao nữa?” Tôi biết là chuyện không kết thúc có hậu.
“Khoảng một rưỡi sáng thì rốt cuộc bà ấy cũng chấp nhận là đêm nay không về nhà được nữa, mặc dù không phải vì thế mà sinh ra chuyện gì – hai đứa bé đang ở chỗ bố, cô trông trẻ sẵn sàng làm cả ngày Chủ nhật nếu cần – và tôi phải kiếm cho bà vé bay chuyến sáng sớm.”
Khó hiểu thật. Nếu chuyến bay của bà bị hủy thì bên hàng không đằng nào cũng xếp bà vào chuyến đầu tiên của hôm sau, nhất là khi bà có thẻ ưu tiên kiêm khách hàng thường xuyên kiêm vàng kiêm bạch kim kiêm kim cương kiêm VIP và một đống tiền cho vé hạng nhất. Đúng không nào ?
“Tất nhiên, Continental đã đặt cho bà chuyến 6 giờ 50. Nhưng khi Miranda nghe đâu ra là có chuyến Delta lúc 6 giờ 35”
“…. 6 giờ 35 thì bà làm ầm lên, gọi tôi là đồ ngu xuẩn vô dụng, làm trợ lý mà một việc đơn giản như đặt chuyến bay tư nhân cũng không xong.” Cô sụt sùi và uống một ngụm gì đó, có lẽ cà phê.
“Trời đất ơi, tôi biết chị định nói gì. Đừng nói nữa…”
“Cứ nói.”
“Không. Chị không đùa chứ? Vì mưới lăm phút?”
“Đúng! Tôi có được phép lựa chọn đâu? Sếp rất cáu tôi, làm như tôi đã gây ra chuyến ấy. Chỉ thêm vài nghìn dollar là chuyên vặt. Bà còn có vẻ hài lòng khi chúng tôi nói chuyện xong. Chà, biết nói gì đây?”
Đến đây thì hai chúng tôi cùng phải bật cười. Không cần cô kể tiếp tôi cũng biết – và Emily hiểu là tôi biết: cô đã mua hẳn hai vé hạng thương gia của Delta chỉ để cho Miranda ngậm mồm lại và sau vụ rắc rối thảm hại này rốt cuộc cũng được mãn nguyện.
Tôi cười đứt ruột. “Gượm nào, chị còn bố trí xe chở sếp đi Delano nữa chứ…”
“…lúc ấy đã gần ba giờ sáng. Chính xác là từ mười một giờ đêm trở đi bà ấy đã gọi tôi vào di động hai mươi hai lần. Lái xe đợi ở trước penhouse trong lúc hai người tắm và thay quần áo, rồi khẩn trương đưa trở về sân bay để họ kịp đi chuyến sớm hơn.”
“Thôi, chị đừng kể nữa,” tôi rú lên giữa hai trận cười tắc thở về diễn biến câu chuyện. “Đúng là chuyện bịa.”
Emily cố giữ vẻ nghiêm nghị. “Thật hả? Chị nghĩ là hết rồi hay sao, còn đoạn cao trào nữa.”
“Ôi, kể đi, kể đi!” Cuối cùng thì cũng có thời điểm mà tôi và Emily cùng tìm ra niềm vui. Cảm giác cùng hội cùng thuyền, một đôi bạn đồng tâm chống lại bạo chúa. Tôi cảm nhận rõ ràng là năm làm việc này sẽ trôi qua khác hẳn nếu Emily và tôi là bạn bè thực sự, che chở và bảo vệ cho nhau, tin cậy lẫn nhau để cùng kháng cự lại Miranda. Được như thế thì nhiều chuyện đâu đến nỗi nặng nề, nhưng, ngoài những ngoại lệ hiếm hoi như lần này thì chúng tôi thường xuyên bất đồng ý kiến.
“Cao trào của vụ này là…” cô kéo dài niềm vui chung thêm một lát, “sếp không biết được rằng theo lịch trình thì chuyến bay của Delta cất cánh sớm hơn, nhưng lại đến muộn hơn tám phút so với Continental mà bà đã có chỗ.”
“Thôi nào!” Tôi không còn sức để cười thêm về kết cục bất ngờ này nữa. “Đúng là chuyện tiếu lâm.”
Khi chúng tôi bỏ máy, tôi ngạc nhiên nhận ra chúng tôi đã tán chuyện hơn một tiếng, như giữa hai người bạn thân. Tất nhiên là sáng thứ Hai chúng tôi lại cụp mắt xuống, song từ hôm đó trở đi tôi lờ mờ có thêm một chút cảm tình với Emily. Cho đến lúc này, tất nhiên. Mối thiện cảm ấy chưa đủ để tôi sung sướng đón nhận mọi điều khó chịu mà cô chực dồn xuống đầu tôi.
“Giọng chị nghe sợ quá. Chị ốm à?” Tôi cố gắng nói cho có vẻ pha chút cảm thông, nhưng giọng tôi vẫn cứng và trách móc.
“Đúng vậy,” cô nghèn nghẹn thốt ra trước khi ho rũ rượi.
“Ốm lắm.”
Tôi chưa bao giờ thực sự tin khi ai đó kêu ốm lắm: chừng nào chưa chuẩn đoán ra một căn bệnh đích xác và không chừng nguy hiểm đến tính mạng thì người ta vẫn đủ khỏe mạnh để làm việc ở Runaway. Do vậy mà khi Emily ho xong và nhắc lại là cô có trọng bệnh thì tôi cũng không nghi ngờ một giây là sáng thứ Hai cô sẽ lại đi làm. Nhất là khi đã có kế hoạch bay sang Paris hôm 18 tháng Mười với Miranda, chỉ còn hơn một tuần nữa thôi. Ngoài ra, bản thân tôi trong ngót một năm làm việc ở đây cũng phải nhắm mắt lờ đi vài lần đau cổ, viêm phế quản, một cú ngộ độc thực phẩm kinh hoàng cũng như ho mãn tính của dân hút thuốc để dừng nghỉ ốm lấy một hôm.
Lần duy nhất cần gấp kháng sinh chống viêm họng, tôi phải lên xin bác sĩ (tôi chui vào phòng mạch và đòi được khám ngay, trong khi Miranda và Emily tưởng là tôi đi tìm xe mới cho ông Tomlinson), chứ lấy đâu ra thì giờ cho những biện pháp phòng bệnh. Mặc dù tôi có cả chục buổi nhuộm tóc highlight ở chỗ Marshall, vài lần tẩm phất miễn phí mà tiệm spa hân hạnh được phục vụ trợ lý riêng của Miranda cũng như vô số vụ đi chăm sóc móng chân, móng tay và da mặt, song cả năm trời tôi chưa thấy mặt bác sĩ răng và phụ khoa.
“Tôi có thể làm được gì không?” Tôi hỏi, làm ra vẻ hờ hững trong khi nát óc suy nghĩ tại sao cô ấy gọi mình và kể chuyện ốm đau. Xét riêng hai chúng tôi, chuyện ấy chẳng có tí tị nghĩa lý gì. Emily sẽ có mặt sớm thứ Hai ở văn phòng, bất kể ốm hay khỏe.
Cô ho khùng khục, tôi nghe như có tiếng đờm trong phổi. “Hừm, ờ, có thể đấy. Trời ơi, không ngờ lại xảy ra với tôi!”
“Cái gì? Cái gì xảy ra?”
“Tôi không qua Châu Âu với Miranda được. Tôi bị viêm tuyến bạch cầu. ”
“Gì cơ?”
“Chị nghe rồi đấy, tôi không đi được. Hôm nay bác sĩ vừa gọi điện báo cho tôi kết quả thử máu, kể từ nay tôi không được ra khỏi nhà, trong ba tuần tới.”
Ba tuần! Cô ta định đùa chắc. Bây giờ không phải lúc để thương hại cô – cô vừa nói là cô không đi Châu Âu, và chính ý nghĩ Emily và Miranda biến khỏi cuộc đời tôi đã giúp tôi trụ được mấy tháng vừa qua.
“Emily, bà ấy sẽ giết chị – chị phải đi. Bà ấy biết chuyện chưa?”
Im lặng bên kia đầu dây, điềm gở rồi. “À, biết rồi.”
“Chị đã gọi điện báo?”
“Vâng, tôi bảo bác sĩ gọi, vì bà ấy cho rằng chứng viêm tuyến bạch cầu không có gì ghê gớm. Bác sĩ đã giải thích cho bà là tôi có thể làm bà và mọi người lây bệnh, với lại…” Cô ngừng lời, nhưng giọng cô báo hiệu có chuyện không lành.
“Với lại gì?” Bản năng tự bảo toàn của tôi vụt tỉnh.
“Với lại…bà ấy muốn chị đi theo”
“Bà ấy muốn tôi đi theo à? Nghe được đấy. Bà ấy có thể thật à? Bà ấy không định sa thải chị vì bị ốm chứ?”
“Andrea, tôi…” – một trận ho ra đờm cắt tiếng cô, trong một thoáng tôi nghĩ là cô sx chết luôn bên điện thoại – “…nói nghiêm túc đấy. Hoàn toàn và tuyệt đối nghiêm túc. Bà ấy nói gì đó về những trợ lý do họ cắt đặt bên đó toàn là đồ ngốc và bà ấy thà làm việc với chị còn hơn.”
“Ồ, được đấy, nếu đúng như chị nói thì tôi nhận lời ngay! Không có gì công hiệu hơn một câu tâng bốc khi sai tôi làm việc gì. Thật đấy, bà ấy không việc gì phải nói ngọt như thế, làm tôi đỏ cả mặt!” Tôi không rõ nên quan tâm chuyện gì hơn – Miranda muốn tôi cùng đi Paris, hay bà muốn tôi đi cùng chỉ vì nghĩ rằng tôi đỡ ngu hơn một tẹo so với lũ nhân bản vô tính còm nhom…của tôi bên Pháp.
“Im mồm đi,” cô hét lên giữa hai cơn ho đang dần làm tôi ngứa tai. “Chị là người may mắn nhất thế giới đấy, đồ quỷ ạ. Tôi đã đợi chuyến di này hai năm, hơn hai năm rồi, và bây giờ không đi được. Một sự trớ trêu đau đớn, chị không hiểu ra điều đó sao?”
“Tất nhiên tôi hiểu! Sao lại sến thế không biết: chị thì muốn đi bằng được, còn tôi thà chết còn hơn, giờ thì người đi là tôi chứ không phải chị. Đời cũng vui thật nhỉ. Tôi cười đứt ruột mất,” tôi khô khốc, không thay đổi nét mặt.
“Hiểu rồi. Tôi cũng thấy ngán chuyện này, nhưng biết làm sao bây giờ? Tôi đã gọi Jeffy để chuẩn bị đặt quần áo cho chị là vừa. Chị sẽ cần hàng núi quần áo, cú mỗi show thời trang, mỗi bữa ăn lại cần đồ mới, và tất nhiên, cho bữa tiệc của Miranda ở khách sạn Costes. Allison lo chuyện make-up cho chị. Về túi, giày và đồ trang sức thì nói với Stef. Chị còn một tuần nữa thôi, nghĩa là sáng mai phải bắt đầu ngay, okay?”
“Tôi vẫn chưa tin là bà ấy trông chờ tôi làm việc này.”
“Cứ tin đi thì hơn. Miranda không thích đùa đâu. Cả tuần này tôi sẽ không có mặt ở văn phòng, có nghĩa là chị…”
“Gì cơ? Chị không đến cả văn phòng nữa à?” Chừng nào Miranda ở đây thì tôi và Emily không được nghỉ ốm lấy một ngày hay rời văn phòng một giờ. Hồi cụ cố của Emily qua đời, cô đã bay về Philadelphia dự đưa đám rồi quay về mà không lỡ mất một phút làm việc. Mọi thứ ở đây hoạt động như thế đấy. Chấm hết. Trừ trường hợp đám ma (của người thân nhất trong gia đinh), cụt chân cụt tay (chính mình), hay chiến tranh hạt nhân (chỉ khi chính phủ Hoa Kỳ công nhân Manhattan bị ảnh hưởng trực tiếp), còn lại thì ai cũng phải có mặt. Vậy là sắp có một bước ngoặt lớn trong chính thể Priestly.
“Andrea, tôi bị viêm tuyến bạch cầu, rất dễ lây. Chuyện nghiêm trọng đấy. Thậm chí không được rời khỏi nhà đi uống một cốc cà phê, nói gì đến đi làm cả ngày. Miranda đã chấp nhận, vậy thì chị phải gánh hết mọi chuyện. Chuẩn bị cho chuyến đi Paris của hai người sẽ là một núi việc. Thứ Tư Miranda đi Milan, thứ Ba tuần sau chị sẽ gặp bà ấy ở Paris.”
“Bà ấy chấp nhận? Quên đi! Chị kể lại xem bà ấy thực sự nói gì.” Tôi không muốn tin Miranda chấp nhận một chuỵen vặt như chứng viêm tuyến bạch cầu là khả dĩ để có thể xin phép vắng mặt. “Cho tôi niềm tin nhỏ nhoi ấy đi, chẳng gì thì mấy tuần tới của tôi sẽ là địa ngục trần gian.”
Emily thở dài, và tôi có thể cảm nhận qua điện thoại là cô nhướng mắt lên. “Hừm, bà ấy không nhẩy cẫng lên reo mừng. Tôi không nói trực tiếp với bà, nhưng ông bác sĩ kể là bà hỏi đi hỏi lại mấy lần, viêm tuyến bạch cầu có phải là bệnh thực sự không. Nhưng khi nghe ông xác nhận thì phản ứng của bà là tỏ ra rất thông cảm.”
Tôi cười váng lên. “Tôi tin bà ấy thông cảm, Emily, tôi tin bà ấy thông cảm mà. Thôi đừng lo lắng nữa, okay? Chị cố gắng chóng khỏe, tôi sẽ lo mọi việc ở đây.”
“Tôi gửi email danh mục các việc cần làm, để chị không bị quên gì.”
“Quên sao được. Năm ngoái bà ấy đi Paris bốn lần, tôi biết phải làm gì rồi. Tôi sẽ lấy tiền mặt ở nhà băng tầng trệt, đổi vài nghìn sang Euro, mua thêm vài nghìn dollar séc du lịch, khẳng định ba lần cho chắc các lịch hẹn thợ làm đầu và trang điểm trong thời gian Miranda ở đó. Gì nữa nhỉ? Ồ, phải dặn Ritz lần này đưa cho bà một cái di động đúng loại, và nói chuyện với các lái xe ngay từ đầu để họ biết là không được bắt bà đợi. Tôi đã nghĩ xem ai cần bán lịch trình của bà ấy – tôi sẽ đánh máy ra, không vấn đề – và lo cả chuyện phân phát khắp nơi. Tất nhiên ngày nào bà cũng nhận được báo cáo cụ thể hai dứa song sinh đến trường, học hành, tập tành và gặp gỡ ra sao, cũng như chương trình làm việc của mọi nhân viên. Thấy chưa! Chị không phải lo. Tôi đã nắm vững tất cả.”
“Nhớ đừng quên vải the,” cô nói như robot. “Cả khăn quàng nữa!”
“Tất nhiên rồi! Đã trong danh sách rồi.” Trước khi Miranda gói đồ – đúng hơn là sai cô quản gia gói – Emily hoặc tôi đi mua súc vải nhung the to tướng ở kho nhà máy và đem đến nhà Miranda. Ở đó, chúng tôi cùng cô quản gia cắt thành những miếng đúng kích cỡ để gói những đồ bà định đem theo vào thứ vật liệu quý giá này. Những gói ấy được cẩn thận cho vào hàng tá va li Louis Vuitton cùng nhiều đồ bổ sung, vì khi mở vali ở Paris bà quăng luôn gói đầu tiên vào góc. Ngoài ra, thường là một nửa va li chỉ để cất mấy tá hộp màu da cam đựng khăn quàng Hermès, trong mỗi hộp là một chiếc khăn trắng nằm đợi đến lúc bị đánh mất, bỏ quên, để vương vãi hay đơn giản là bị quẳng đi.
Sau khi cố gắng tỏ sự đồng cảm chân thành với Emily, tôi đặt máy và thấy Lily nằm duỗi trên sofa. Cô hút thuốc và nhâm nhi từ ly cocktail một thứ chất lỏng trong suốt, rõ ràng không phải nước.
“Tớ nghĩ là mình không hút trong phòng,” tôi nói, thả người xuống cạnh cô và gác chân lên chiếc bàn gỗ con sứt sẹp mà bố mẹ tôi để lại cho. “Tớ không bận tâm, nhưng đó là quy định của cậu,” Lily không phải là người đốt thuốc có nghề như tôi; thường thì cô chỉ hút khi uống và cũng không tự mua thuốc. Một bao Camel Special Lights mới tinh thò ra ở túi ngực áo sơ mi ngoại cỡ. Tôi lấy chân đi giàu trong nhà hích vào đùi cô và hất cằm về phía bao thuốc. Cô đưa tôi thuốc cùng bật lửa.
“Tớ biết cậu không bận tâm,” cô nói và khoái trá rít một hơi. “Tớ đang tắc tị, hút thuốc sẽ tập trung tốt hơn.”
“Cậu đang làm gì?” Tôi hỏi, châm thuốc và ném trả lại bật lửa. Học kỳ này cô nhận mười bảy học trình để cải thiện bảng điểm dặt dẹo của học kỳ trước. Tôi ngắm cô làm một mồm khói nữa rồi chiêu cho trôi xuống bằng một ngụm lớn thứ chất lỏng không-phải-nước. Tôi không nghĩ là cô tỉnh táo.
Cô thở dài nặng nề và đầy ý nghĩa, để điều thuốc dính hờ hững trên khóe miệng khi nói. Nó chuyển động lên xuống và chực rơi khỏi miệng bất cứ lúc nào, và cùng với mái tóc bù xù chưa gội và phần mắt nhoe nhoét khiến cô – trong khoảnh khắc này – trông như một bí cáo trong phim tòa án Judge Judt (hay nguyên đơn cũng thế, hai bên trông chẳng khác nhau – răng sún, tóc bết, mắt lờ đờ, và ưa dùng phủ định từ kép). “Bài viết cho một tạp chí đặc hàn lâm bất kỳ nào đó mà sẽ không ma nào đọc, nhưng tớ vẫn phải biết để cho có đủ bài đăng báo.”