Đọc truyện Yêu nữ thích hàng hiệu – Chương 34: Phần 14 – 02
Tôi đã tới bảo tàng Withney một lần, theo tua tham quan thắng cảnh trong một ngày cùng với mẹ và Jill. Bản thân bảo tàng không gợi ra hồi tưởng nào, nhưng nhìn thấy cửa ra vào như cây cầu thì tôi nhớ lại ngay. Ngày ấy còn là đứa trẻ mười bốn tuổi, tôi đứng gần hai mươi phút trên lối đi này nhìn xuống thềm dưới, nơi dân Upper East Side giàu có và dân ngoại tỉnh giàu có đứng lẫn lộn. Tất cả có vẻ đang tranh luận đầy tin cậy và hồ hởi về triển lãm kiến trúc mang tính cách mạng hay bộ ảnh đen trắng độc đáo của một nhà nhiếp ảnh đồng tính trẻ tuổi. Họ trò chuyện với nhau một cách nhẹ nhàng và đi lại với vẻ tin cậy mà tôi, đứa trẻ mới lớn, không cảm nhận được và chắc chắn không muốn cảm nhận.
Tôi quả thật có lý. Hôm nay, mười lăm sau, sự khác biệt duy nhất giữa hai thời điểm là giá tiền của bộ cánh tôi mặc trên người. Và độ cao của gót giày, tất nhiên. Tôi suy tính nhanh, trước tiên là phăng đôi giày qua lối đi, sau đó chính tôi, nhưng một con tính nhẩm cho biết ngay tôi chỉ có thể tàn phá một xương bánh chè hay một ống đồng mà thôi, không đủ để thoái thác dự buổi lễ tối nay. Không còn sự lựa chọn nào nữa, tôi lấy hơi thật sâu, nắm chặt tay để kìm ý định hút điếu thuốc cuối cùng và rút thanh son môi Fudgsicle ra. Đã đến giờ vào vai một quý bà.
Người gác cửa mở cửa cho tôi, mỉm cười và hơi cúi lưng, chắc cho tôi là khách mời.
“Xin chào chị. Nhất định chị là Andrea. Mời chị ngồi đợi một lát ở chỗ kia, Ilana sẽ đến ngay.” Xây lưng lại phía tôi, ông kín đáo nói vào micro ở tay áo và gật đầu khẳng định khi có tiếng trả lời trong tai nghe. “Vâng, đúng ạ, ở bên kia, thưa chị. Ilana đến ngay.”
Tôi ngó quanh trong tiền sảnh, không muốn bị chỉnh sửa lại áo dài sau khi ngồi. Với lại, bao giờ cho có dịp vào bảo tàng Whitney – hay bất cứ bảo tàng nào đó – sau giờ mở cửa và là người duy nhất? Quầy bán vé trống vắng, phòng bán sách ở tầng trệt tối đèn, nhưng cảm giác gì đó trọng đại diễn ra ở tầng trên thì rõ mồn một.
Sau gần mười lăm phút ngó quanh, luôn cẩn thận không đi quá xa người gác cảnh giác như một ứng cử viên CIA, một người phụ nữ không có gì nổi bật trong áo dài xanh dương đi qua tiền sảnh choáng lộn về phía tôi. Tôi ngạc nhiên vì bề ngoài giản dị của người có vai trò quan trọng như vậy (tổ chức các sự kiện lớn trong bảo tàng). Lập tức tôi thấy mình lố bịch, như một con bé nhà quê diện ngất ngây đi dạ hội, nhưng thực ra tôi nào có khác gì? Ilana thì ngược lại không nhất thiết phải thay bộ đồ văn phòng. Sau này tôi hỏi cô chuyện đó.
“Để làm gì?” Cô cười. “Mọi người đến đây có phải để xem tôi đâu?” Mái tóc nâu của cô mới gội, nhưng không có gì đặc biệt, và đôi giày nâu thấp gót thì cực lạc mốt. Nhưng cặp mắt xanh của cô sáng ngời và thân mật, và tôi biết ngay là mình sẽ mến cô.
“Chị là Ilana ạ?” Linh tính cho tôi biết trong lúc này tôi nên chủ động nói trước và làm chủ tình thế. “Tôi là Andrea, trợ lý của Miranda, tôi đến đây để làm mọi việc khi cần.”
Nhìn cô dịu hẳn lo âu, tôi muốn hỏi ngay Miranda đã nói gì với cô. Khả năng này thì vô tận, nhưng chắc chắn dính dáng đến bộ cánh của Ilana như lấy trong Tạp chí người nội trợ ra. Tôi rùng mình khi nghĩ cô gái khả ái này đã phải nghe những lời nào của Miranda và chỉ cầu nguyện để cô đừng khóc òa lên. Thay vào đó, cô nhìn tôi với cặp mắt vô tội và thốt ra rõ tiếng: “Sếp của chị là đồ chó chết.”
Tôi cần một lát để qua cơn sốc. “Đúng quá,” tôi nói, và hai chúng tôi cùng bật cười.
“Chị cần tôi làm gì? Miranda có đủ linh cảm để mười giây sau là phát hiện tôi đang ở đây. Tôi phải ra vẻ đang làm gì đó.”
“Tôi chỉ cho chị xem bàn tiệc,” cô nói và vào thang máy, nhấn nút lên lầu một. “Chị sẽ ngã ngửa ra mà xem.”
Chúng tôi ra khỏi thang máy, qua cửa nữa, đi vòng qua một bức tượng mà tôi không nhận ra ngay hình ai, đến một phòng nhỏ phía cuối tầng. Một dãy bàn với hai mươi tư chỗ ngồi kê chữ nhật chính giữa phòng. Robert Isabell có giá của mình, tôi biết. Ông là người tổ chức tiệc có máu mặt ở New York, người duy nhất chắc chắn đánh đúng thị hiếu và không bao giờ bỏ sót một chi tiết: luôn đúng gu nhưng không theo trào lưu nào, sang trọng mà không xa xỉ nặng nề, độc đáo nhưng không quá trớn. Miranda gửi gắm Robert làm mọi yến tiệc, nhưng cho đến nay tôi mới biết công việc của ông qua sinh nhật mười tuổi của Cassidy và Caroline. Ông đã biến phòng khách theo phong cách thuộc địa của Miranda thành một phòng hiện đại (đủ thứ, từ quầy bar nước ngọt – uống bằng ly Martini, tất nhiên – sofa da lộn êm ái, lều trang trí kiểu Ma rốc có lò sưởi để khiêu vũ ngoài sân thượng), nhưng những gì tôi thấy ở đây mới là tuyệt đỉnh.
Tất cả trắng tinh. Trắng dịu, trắng ấm, trắng sáng, trắng thô, trắng lóa. Một bụi mẫu đơn trắng sữa như mọc giữa bàn, đúng tầm để mọi người còn nhìn thấy nhau lúc nói chuyện, đồ sứ Trung Hoa trắng ngà (có vân trắng chìm) ngự trên khăn bàn trắng mới hồ cứng, ghế gỗ sồi sơn trắng có tựa cao và bọc da lộn màu trắng mịn, tất cả trên một tấm thảm dày màu trắng riêng cho dịp này. Nến nhà thờ màu trắng trong giá cắm bằng sứ trắng đơn giản chiếu sáng những bông mẫu đơn từ phía dưới (nhưng kỳ lạ thay, không làm cháy cánh) và tỏa sáng một cách nhã nhặn và kín đáo. Màu sắc duy nhất trong toàn bộ căn phòng đến từ những tấm toan tinh xảo treo trên tường quanh phòng. Liếc nhanh qua, tôi hiểu là ông em của Mờ-Cờ-Đờ muốn bữa tiệc của mình diễn ra giữa các bức họa sơn dầu của Rothko, Steel, Kline, và tất nhiên, của Kooning. Màu trắng của bàn tiệc trong sự tương phản có tính toán và chọn lọc với màu sắc tưng bừng của các tấm thảm ngoại cỡ. Lúc quay đầu chiêm ngưỡng sự tương phản giữa trắng và màu ấy (“Robert quả là một thiên tài!”) thì một màu đỏ rực xoáy vào mắt tôi. Trong góc phòng, dưới bức Four Dark in Red của Rothko, Miranda đứng thẳng như tượng trong chiếc áo dài đỏ Chanel đính cườm đặt riêng cho buổi này, cắt lại cho vừa và giặt là. Trong giây phút này tôi hiểu ngay, vì sao bà khăng khăng đòi làm ở bảo tàng này và mặc bộ này, hiểu là bà dùng những bức tranh để tôn chiếc áo lên – khó có lời giải thích nào khác. Gì thì gì, đó là một kết quả hoàn hảo. Trông bà đẹp ngột thở. Bản thân bà là một tác phẩm nghệ thuật sống, cằm vươn ra kiêu hãnh và cơ bắp căng bóng, một bức phù điêu hậu cổ điển trong lụa và cườm của Chanel. Bà không đẹp – mắt hơi nhỏ, tóc búi quá chặt và nét mặt quá đanh – nhưng bà gây một ấn tượng mà tôi không gọi tên được; ngay cả khi cố tỏ ra bình thản và chăm chú ngắm nghía căn phòng, tôi vẫn không rời mắt khỏi bà được.
Như thường tình, tiếng bà dứt tôi khỏi cơn mơ màng: “Aan-dree-aa, chị biết mặt và tên khách đến tối nay chứ? Tôi cho là chị đã xem kỹ chân dung của mọi người. Tôi mong chị tối nay không làm tôi xấu mặt khi chào hỏi ai đó nhầm tên.” Bà nói, mắt nhìn vào hư vô, chỉ có tên gọi cho biết là câu vừa rồi dành cho chính tôi.
“À, vâng, tôi đã xem rồi,” tôi trả lời, suýt nữa thì đứng nghiêm chào, mắt vẫn đăm đăm nhìn bà như bị thôi miên. “Bây giờ tôi cẩn thận xem lại lần nữa cho chắc.” Bà nhìn tôi như muốn nói Thế thì làm đi, con ngố kia. Tôi cố gắng quay mặt đi và ra khỏi phòng. Ilana theo sau.
“Bà ấy vừa nói gì thế?” Cô thì thầm. “Chân dung? Bà ấy có điên không?”
Hai chúng tôi cùng muốn lánh nạn, trốn vào một hành lang tối và kiếm chỗ ngồi trên một chiếc ghế băng cứng. “À, chuyện ấy. Bình thường thì cả tuần nay tôi phải kiếm ảnh khách và học thuộc tên để tối nay chào họ với tên tuổi cụ thể,” tôi giải thích cho Ilana đang tròn mắt nhìn. “Nhưng tối nay bà ấy mới nói là tôi phải có mặt nên lên ô tô tôi chỉ có mấy phút để xem qua mấy cái ảnh. Nhưng sao cơ? Chị ngạc nhiên à? Khi Miranda mở tiệc thì đó là chuyện thường.”
“Tôi cứ nghĩ là hôm nay không có nhân vật nổi tiếng nào đến,” cô nói.
“Chà, không phải bỗng dưng mà dễ nhận ra những tỉ phú có địa ốc ở phía Nam tuyến Mason-Dixon. Như mọi khi thì muốn nhớ mặt khách, tôi chỉ việc vào mạng xem Thời trang Phụ nữ Hằng ngày hay những chỗ tương tự. Tôi định nói là ảnh của nữ hoàng Noor, của Michael Bloomberg hay Yohji Yamamoto nếu cần cũng dễ kiếm. Nhưng Mr. hay Mrs. Packard ở vùng ngoại ô quý phái nào đó của Charleston hay ở xó xỉnh quỷ quái nào đó thì tìm đâu ra. Cô trợ lý kia của Miranda đã săn lùng tại các mục tin vỉa hè địa phương hay trang mạng của các công ty, quả là một việc khó chịu, trong khi nhóm còn lại của văn phòng bận trang điểm tôi cho buổi tối hôm nay.”
Ilana nhìn tôi không chớp mắt. Tôi biết, vì lý do nào đó mà tôi nói như một rôbôt, nhưng không sao ngừng lại được. Vẻ mặt kinh hoàng của Ilana chỉ làm mọi thứ tồi tệ hơn.
“Chỉ còn vài người là tôi không nhận mặt được thôi. Nhưng tôi sẽ làm phép tính loại trừ là xong,” tôi nói.
“Sợ thật, tôi không rõ chị làm thế nào. Tôi mất buổi tối thứ Sáu là đủ bực mình rồi, không thể tưởng tượng lại có thể làm được việc của chị. Làm sao chị để người ta xỉ vả và đối xử với mình như thế?”
Tôi giật mình, Ilana đã đánh trúng chỗ hiểm của tôi với câu hỏi này. Cho đến nay chưa có ai vô cớ nói gì đó tiêu cực về công việc của tôi. Tôi luôn luôn tin là trong số hàng triệu cô gái xin chết để được nhận việc này thì chỉ có tôi là người duy nhất thấy tình cảnh của mình không tuyệt đối lý tưởng. Ánh mắt kinh hoàng của Ilana còn kinh khủng hơn hàng trăm chuyện ngu xuẩn mà tôi trông thấy hằng ngày ở văn phòng; lòng thương hại thuần khiết và thành thực của cô là giọt nước làm tràn ly trong tôi. Những gì tôi cố đè nén trong chừng ấy tháng quần quật làm việc cho một bà chủ vô nhân tính, dành cho thời điểm thích hợp, nay trào lên. Tôi bật khóc.
Ilana càng bị sốc mạnh hơn. “Ôi, tội nghiệp quá, tôi xin lỗi! Tôi không muốn thế. Chị là một thiên thần, nếu chị chịu được mụ phù thủy ấy, chị hiểu tôi không? Chị đi ra đây với tôi,” cô kéo tay tôi ra một phòng làm việc ở cuối một hành lang khác tối đèn. “Chị ngồi đây một phút, và không cần biết lũ ngu xuẩn ấy mặt mũi ra sao.”
Tôi sụt sịt, thấy chính mình ngu xuẩn.
“Chị không việc gì phải tự trách mình. Tôi cảm thấy chị giữ việc này quá lâu trong lòng rồi đấy. Thỉnh thoảng khóc cho nhẹ người là tốt.”
Trong lúc tôi cố gắng cọ mascara trên má, chị lục lọi trong ngăn bàn mình. “Đây rồi,” cô reo lên đắc thắng. “Cho chị, trước khi tôi vứt đi; nhưng nếu chị định kể cho ai thì tôi giết chết chị.” “Trông này, hay lắm,” cô mỉm cười đưa tôi một phong bì nâu dán nhãn “Mật”.
Tôi bóc nhãn và lôi một kẹp bìa ra. Trong đó có một tấm ảnh – màu thì đúng hơn – của Miranda, ngồi duỗi trên ghế đệm của một nhà hàng thượng hạng. Tôi nhận ra ngay tấm ảnh này: một phóng viên nhiếp ảnh xã hội nổi tiếng đã chụp nó mới đây tại một bữa liên hoan sinh nhật của Dona Karan ở Pastis. Ảnh đã xuất hiện trên tạp chí New York, sẽ có các tờ khác đăng lại. Trong ảnh Miranda mặc một chiếc áo khoác dài da rắn nâu trắng, một đồ đặc hiệu của bà, nó luôn gợi tôi nhớ đến con rắn.
Không chỉ mình tôi, vì trên tấm ảnh – đã tút sửa thêm – ai đó có tay nghề và năng khiếu đã ghép một đuôi rắn quẫy lộn vào thay cho cẳng chân. Kết quả trên cả thuyết phục: con rắn Miranda, cằm nổi bật tựa lên tay, duỗi dài trên ghế da, để một khúc đuôi rắn vắt qua bên cạnh. Hoàn hảo.
“Quá siêu, đúng không?” Ilana hỏi và vươn người trên vai tôi. “Một buổi chiều, Linda rầm rập vào phòng tôi sau khi mất một giờ đồng hồ đàm phán điện thoại với Miranda là tổ chức tiệc ở phòng nào. Mặc dù Miranda biết trước là bà muốn phòng Kooning, nhưng bà bắt Linda miêu tả từng li trên từng tầng. Linda điên tiết chỉ muốn bóp cổ bà ra, vì vậy tôi làm bức tranh nhỏ này cho cô ấy. Chị biết cô ấy làm gì không? Thu nhỏ lại trên máy foto để đút vừa vào ví! Tôi nghĩ nó là chút khích lệ cho chị. Kể cả khi chỉ để nhắc nhở là không phải một mình chị chịu trận. Chị hứng nhiều nhất, tất nhiên, nhưng không phải một mình.”
Tôi đút bức hình vào phong bì và trả lại cho Ilana. “Chị tốt quá,” tôi nói và đặt tay lên vai cô. “Tôi rất, rất cảm kích. Nếu tôi hứa sẽ không bao giờ kể cho ai thì chị có cho tôi xin một tấm được không? Tôi nghĩ là nó không vừa vào xắc Leiber này, nhưng rất muốn chị gửi cho tôi một tấm về nhà, được không ạ?”
Cô chấp thuận với một nụ cười. Tôi viết địa chỉ để lại, và tôi sau khi vội sửa lại son phấn, hai người quay về tiền sảnh bảo tàng (cô đi, tôi tập tễnh). Đã sắp bảy giờ. Khách đến bất cứ lúc nào, Miranda và Mờ-Cờ-Đờ nói chuyện với em trai kiêm thượng khách chú rể; trông dáng ông thì biết hồi đi học ở miền Nam ông đã chơi bóng đá, bóng chày, bóng ném và bóng bầu dục trước cặp mắt trầm trồ của các cô bé tóc vàng. Cô bé tóc vàng hai mươi sáu tuổi sắp lên xe hoa đứng bên cạnh, trầm trồ nhìn ông trìu mến, tay cầm thứ gì đó để phất và khúc khích tán thưởng những chuyện tiếu lâm ông kể.
Miranda ngoắc tay Mờ-Cờ-Đờ và toe toét cười nụ cười giả dối thượng hạng. Không cần nghe họ nói chuyện gì tôi cũng rõ, Miranda cùng lắm là trả lời nhát gừng lúc cần thiết. Những quy tắc giao tiếp xã hội không phải điểm mạnh của bà, và bà không chịu nổi chuyện xã giao – nhưng tôi biết, tối nay bà không ngần ngại tung hết tất cả các chiêu. Tôi nhận ra những người gọi là bạn của bà được chia làm hai loại: số người mà xếp vào loại cao hơn và nhất quyết muốn gây ấn tượng thì ít ỏi và toàn là những nhân vật quan trọng như Irv Ravitz, Oscar de la Renta, Hillary Clinton cùng toàn bộ các minh tinh màn bạc. Số còn lại đứng “dưới trướng” bà, là những người liên tục được che chở và xoa đầu để đừng quên thân phận của mình, về nguyên tắc bao gồm mọi phần tử còn lại: toàn bộ cộng tác viên Runway, người trong gia đình, bố mẹ các bạn của hai đứa con gái (nếu họ không tình cờ có mặt trong loại một), hầu hết các nhà tạo mốt và chủ bút các tạp chí khác cũng như tất cả – không có ngoại lệ – nhân viên dịch vụ trong nước ngoài nước. Buổi tối hôm nay hứa hẹn sẽ rất thú vị, chỉ riêng vì khách mời thật ra thuộc loại hai, nhưng nhờ quan hệ với Mr. Tomlinson và em ông mà phải được đối xử như loại một. Tôi vui sướng tận hưởng những dịp hi hữu được chứng kiến Miranda dùng nét duyên dáng giả cầy của mình để gây ấn tượng cho mọi người.
Tôi cảm thấy sự hiện diện của những vị khách đầu tiên, ngay cả khi họ chưa đến. Không khí trong phòng căng như dây đàn. Với trang in ảnh màu trong đầu, tôi vội bước đến cặp đầu tiên và xin phép đỡ hộ bà chiếc khăn lông thú đem cất tạm. “Mr. và Mrs. Wilkinson, chúng tôi rất vui mừng được ông bà hạ cố đến thăm tối nay. Cho phép tôi nhận đồ này. Ilana sẽ đưa ông bà tới sảnh trên đã bày sẵn cocktail.” Hy vọng là trong lúc độc thoại tôi không tọc mạch ngó một cách quá lộ liễu, nhưng trò hề này không phải hôm nào cũng thấy. Tôi đã thấy ở các bữa tiệc khác của Miranda đàn bà mặc như ca ve, đàn ông mặc như đàn bà và người mẫu mặc như cởi truồng, nhưng chưa bao giờ thấy người ta ăn mặc như ở đây. Dĩ nhiên, tôi biết hôm nay không phải buổi họp mặt của giới sảnh thời trang New York , song những gì phất phới tiến vào không gợi tôi nhớ đến các nhân vật trong bộ phim nhiều tập Dallas, mà giống đoàn người diện đồ đẹp đi dạo chơi Chủ nhật trong phim Deliverance.
Em trai của Mr. Tomlinson, thật ra là một hình ảnh đầy ấn tượng với mái tóc bạch kim, mắc lỗi trầm trọng là mặc áo đuôi tôm trắng (giữa trời tháng Năm!), nhét khăn ca rô vào túi ngực và chống ba toong. Cô vợ chưa cưới của ông khoác một cơn ác mộng làm bằng vải dệt màu xanh ngọc xếp li lùng bùng, nó đẩy bộ ngực vĩ đại của cô ra ngoài cổ khoét rộng đến nỗi cô có nguy cơ bị đôi gò silicon ép cho nghẹt thở. Bông tai bằng kim cương to như chén xúp treo lủng lẳng ở tai, nhưng không ăn thua gì so với hạt xoàn lấp lánh bên tay trái. Tóc cô tẩy trắng bằng hóa chất, như hàm răng, chân cô dận đôi giày có gót nhỏ và cao chóng mặt, trông cô lênh khênh đi lại như một cầu thủ bóng chày sắp về hưu non.
“Các bạn yêu mến, tôi rất vui khi các bạn đến dự bữa tiệc nhỏ của chúng tôi. Ai mà không thích tiệc, đúng không ạ?” Miranda véo von giọng mũi. Quý bà Tomlinson tương lai trông như sắp lăn ra ngất khi đứng sát Miranda Priestly. Nỗi phấn khích của cô làm tất cả khó xử, và thế là cả đoàn người đáng thương lục tục theo Miranda ra thang máy. Phần còn lại của buổi tối diễn ra đúng như lúc bắt đầu. Tôi nặn óc ra tên của mọi người có mặt và lạng tránh được mọi cái bẫy nguy hiểm. Đám diễu hành của áo đuôi tôm trắng, lượt là, tóc vấn cao, trang sức hoành tráng và phụ nữ vừa qua ngưỡng dậy thì cứ mỗi giờ lại giảm giá trị đối với tôi, chỉ có Miranda là vẫn hút hồn tôi. Một quý bà chính cống, đối tượng ghen tị và ganh đua của mọi phụ nữ có mặt ở bảo tàng tối hôm đó, luôn thèm khát vị thế và sự bặt thiệp của bà tuy biết rằng hai thứ đó không mua được bằng tiền.
Tôi mỉm cười thật lòng khi bà cho tôi về lúc giữa bữa ăn, như thường lệ không có một lời cám ơn hay chúc ngủ ngon (“Aan-dree-aa, tối nay chúng tôi không cần chị nữa. Chị có thể về nhà.”) Tôi nhìn quanh tìm Ilana, nhưng cô đã biến mất. Mười phút sau khi tôi gọi thì xe đến, thật ra tôi đã suy tính có nên đi tàu điện ngầm hay không, nhưng chiếc áo Oscar và đôi chân tôi phản đối kịch liệt. Mệt mỏi nhưng hài lòng, tôi ngã người xuống ghế sau.
Trên đường tới thang máy, tôi qua trước mặt John; ông rút dưới bàn ra một phong bì nâu đưa tôi. “Vừa đến cách đây mấy phút. Có đề Thư khẩn.” Tôi cám ơn ông và ngồi xuống góc sảnh, ngạc nhiên vì nhận được thư lúc mười giờ tối thứ Sáu. Tôi xé phong bì, rút một tờ thiếp ra:
Andrea thân mến,
Rất vui được gặp chị tối nay! Tuần sau mình cùng đi ăn sushi hay thứ gì khác nhé? Trên đường về nhà tôi đem thư này qua luôn, vì tôi nghĩ là chị cần một chút giải trí, sau một buổi tối như chúng mình vừa có hôm nay. Vui vẻ nhé!
Ôm hôn chị,
Ilana
Trong bì thư là ảnh con rắn Miranda mà Ilana đã phóng to lên cỡ A4. Tôi ngắm kỹ bức hình mấy phút liền trong khi xoa bóp đôi chân được giải phóng khỏi đôi Manolo, nhìn vào đôi mắt Miranda. Chúng mang vẻ dọa nạt và hèn hạ và như con người xấu xa mà tôi thấy mặt mỗi ngày. Nhưng tối nay chúng cũng biểu lộ sự buồn bã và cô đơn. Dán nó lên cửa tủ lạnh làm trò đùa với Alex và Lily cũng không làm chân tôi bớt đau hoặc trả lại tối thứ Sáu bị mất. Tôi xé tờ tranh rồi đi cà nhắc lên tàu.