Tử Huyết Tóc Full

Chương 13: Làng Mèo


Bạn đang đọc Tử Huyết Tóc Full – Chương 13: Làng Mèo

“Chuyện gì vậy… anh Thành?” Tuấn thì thào, đầu vẫn giữ nguyên vị trí.


“Em có nhìn thấy người phụ nữ vừa bước lên xe không? Cô ta đang ngồi sau anh…” Anh Thành thì thào.

“Vâng… Thì sao ạ?”

“Cô ta…không hề có chân…”- câu trả lời của anh Thành làm Tuấn sởn gai ốc. Tiếng mưa, thời tiết ẩm lạnh đã làm nguội đi giác quan của Tuấn. Bình thường anh có thể phân biệt được giữa người và ma, dù nhìn qua họ rất giống nhau. Chỉ có khi bé, Tuấn mới hay nhầm, vậy mà… vừa rồi anh lại không hề chú tâm lắm.

“Tách”- một tiếng thật lớn, một luồng bụi bay đến tạt vào gáy Tuấn cùng với hương thơm thảo mộc xộc lên mũi.

“Agrrrrrr…” Tiếng anh Thành gằn lên. Tuấn quay vội ra sau thì nhìn thấy cảnh tượng kinh hoàng: Cổ anh Thành đang bị gói chặt bởi rất nhiều tóc, mặt anh đang dần tím tái. Ở giữa các ngón tay của anh vẫn đang giữ một lá bùa cháy dở, bốc ra mùi hương lạ Tuấn ngửi thấy. Mùi hương xộc lên cũng khiến con ma nữ phía sau phải run rẩy. Tóc bắt đầu tràn vào mũi, miệng của anh Thành làm anh khó thở.

Từ ngay bên cạnh Tuấn, lúc anh vẫn chưa kịp phản ứng gì, thầy Kính đã đứng dậy, tay làm ấn chú giương thẳng về phía ma nữ, nó bật ngửa ngay ra đằng sau, mái tóc dài chấm chân ngày càng dài tràn xuống dưới đất. Điểm kì lạ rằng dường như mọi người xung quanh đều không nhận thấy gì khác biệt, họ nhìn vào điện thoại hoặc nhìn ra ngoài màn mưa chăm chăm vô hồn.

Anh Thành được giải thoát, ôm cổ ho sặc sụa. Thầy Kính bước ra khỏi chỗ, vớ lấy chiếc vòng cổ của anh Thành, giật mạnh ra. Chân thầy dẫm vào phần tóc của con ma nữ, nó vươn đôi tay dài lấm bẩn về phía thầy nhưng đã bị thầy ấn chiếc mặt ngọc của dây chuyền vào trán. Miệng thầy không ngừng nhẩm chú. Con quỷ hét lên những tiếng như từ địa ngục, liếc đôi mắt hằn học về phía thầy Kính rồi tan đi như mây.

Chuyến xe lại trở về bình thường. Chỗ con ma nữ ngồi giờ chỉ còn một vũng nước mưa ướt sũng.

Anh Thành vẫn đang ho khục khặc. Lúc này mọi người mới nhìn ra phía ba người. Thầy Kính ngồi xuống cạnh anh Thành, đưa dây chuyền bạch ngọc cho anh.

“Sao không gọi tôi… Anh liều quá, giờ sao mà đấu lại…”


“Nãy gấp gáp quá, nếu tôi không hành động trước thì nó sẽ nhắm vào tôi ngay rồi. Ngồi ngay sau tôi… Nếu tôi gọi anh thì không kịp…”

“May mà có dây chuyền ngọc này. Tôi xin lỗi vì không kịp hỏi trước khi lấy nó ra. Lúc đó phải ứng biến mà đồ pháp khí thì lại để hết trong vali dưới gầm xe rồi…Cô bé vẫn thiêng nhỉ…”

“Ừm…Tôi không muốn nhờ nó, mà giờ tôi ra khỏi gia phả rồi, chẳng được tổ tiên phù trợ nên đạo pháp cũng không được như xưa…” Anh Thành nói giọng trầm buồn.

“Tôi hiểu mà. Tới kia hoặc hôm về Quảng Châu tôi sẽ kiếm cho anh sợi dây chuyền khác”

“Không sao, tôi vẫn nên đeo nó thì hơn…” Anh Thành cầm sợi dây bị đứt, đeo lại lên cổ, buộc thắt nút vào như bình thường.

Tuấn chứng kiến cuộc trò chuyện mà vẫn không hiểu căn nguyên sâu xa của từng lời nói. Có vẻ như sợi dây chuyền bạch ngọc là một pháp khí khá mạnh. Qua tay thầy Kính nó mới có thể đuổi vong ma kia ra khỏi đây. Con quỷ đó quả thực liều lĩnh, còn mò lên tận xe để ám hại ba người.

Trong suốt chặng đường còn lại, thầy Kính ngồi lim dim, tay để khẽ trên đùi, miệng nhẩm kinh chú bình an. May sao, chuyến xe đến được Vân Nam vào lúc quá trưa. Trời vẫn xầm xì mưa nhỏ, Thành hỏi thăm người dân tỉnh để bắt taxi tới gần khu vực làng Hảo Mão. Ba người thuê một căn phòng ba giường trong một nhà nghỉ xập xệ để lại đồ, sau đó tiếp tục tìm đường vào làng Hảo Mão. Làng đó được người dân cho rằng là một ngôi làng xa xôi và khó đi, nằm dưới chân núi, cạnh con sông lớn.

“Làng đó gọi là làng Mèo, một ngôi làng khá kì lạ” Người đàn ông bán hàng tạp hóa ven đường nói với anh Thành như vậy.

Trong lòng ba người dấy lên sự tò mò khi nghe được những thông tin như vậy. Tới chiều, chiếc taxi sau một quãng đường vật lộn qua một con đường dài sỏi đá lún sụt thì cũng xịch đỗ trước cổng vào của làng Hảo Mão. Ngay trước cổng làng có tượng đá của một con mèo đã mòn vẹt đi dưới nắng. Tượng mèo được đặt trên cao, trên một khối đá hình trụ có khắc tên ngôi làng.

“Đúng ngôi làng này rồi…Hảo Mão chi thôn…” Anh Thành lẩm nhẩm đọc.

Trả tiền taxi xong, ba người tiến dần vào ngôi làng. Nhìn sơ qua có thể thấy đây là một ngôi làng nông thôn đặc trưng điển hình của Trung Quốc với những mái nhà thâm thấp liền kề nhau. Con đường dẫn vào làng vẫn là đường đất lèn đá, loang lổ và không được sạch sẽ lắm. Phía sau, bao trùm lấy ngôi làng là một ngọn núi lớn. Phía bên trái, hơi gió sông thổi vào tanh tanh nơi đầu mũi. Sông Dương Tử đang len lỏi vào cuộc sống của những người dân nơi đây.

Bước vào một vài ngôi nhà đầu tiên, cả ba đã hết sức kinh ngạc. Khắp nơi trong làng, trẻ con chạy chơi rất đông đúc, những đứa trẻ vùng quê có làn da nâu mộc mạc, quần áo còn lấm bẩn đất, cười đùa khắp nơi. Có vẻ như chúng không được đi học.


Anh Thành vào hỏi một số người dân ở các ngôi nhà đầu làng về người đàn ông tên Lăng Trạch.

Người dân nhiệt tình chỉ đường vào trong làng. Giờ là giờ đi làm nên chỉ có một số phụ nữ ở nhà và vài người đang làm việc ngoài bờ sông.

“Lão nghiện ấy chắc giờ có nhà…” Một người phụ nữ nói.

Tuấn lúc ấy đã thấm mệt sau nhiều ngày bôn ba, đứng bần thần đợi thầy Kính và anh Thành hỏi đường, mắt nhìn ra xa xăm. Bất chợt từ trên mái nhà, một vật thể lao thẳng xuống đầu Tuấn.

Tuấn giật mình sợ hãi, loạng choạng suýt ngã về phía sau. Vật thể đó đã kịp để lại trên mi mắt và má anh một vết xước dài.

“Méo!” Nó kêu lên rồi nhảy xuống đất. Tuấn nhận ra đó là một con mèo. Điểm kì lạ hơn, con mèo đó có đôi mắt trắng dã không có con ngươi. Nó chạy vụt đi.

Thế rồi từ khắp nơi: trên mái nhà, trong các ngõ, các ngóc ngách, những con mèo đủ màu sắc bắt đầu chui ra. Chúng chạy chơi với lũ trẻ, leo lên mái nhà nằm liếm bộ lông hoặc phơi nắng. Một cảnh tượng kì lạ mà lúc mới bước vào Tuấn không để ý. Đúng là làng Mèo – khắp nơi đều có mèo cư ngụ. Loài mèo ở đây rất gần gũi với con người. Tuy nhiên, điểm đặc biệt hơn: đây hoàn toàn là những con mèo mù với lòng mắt trắng, vẫn nhởn nhơ đi lại như thể không có khiếm khuyết gì trên cơ thể. Anh Tuấn chấm chấm vết thương trên mặt vẫn đang đau rát rồi đi theo thầy Kính vào sâu trong làng.

Ngôi làng này dựa lưng vào bìa rừng, bên kia lại là ven sông lớn. Một điều kì lạ nữa đó chính là ở giữa ngôi làng, trong khu vực ven rừng có một vài ngôi mộ lớn. Mộ ở Trung Quốc có dáng vẻ hao hao những ngôi mộ ở Việt Nam nhưng lại có cách bài trí khác biệt. Mộ thường hình tròn có xây đá xung quanh, có bia ở trước và đặc biệt trên mộ cắm rất nhiều những thanh gỗ có đính hoa đặc biệt, đôi khi là thanh giấy đỏ được tết xoắn, tua rua cắm trên mộ, trông rất lạ mắt. Có lẽ là Tết thanh minh vừa qua đi nên người dân ở đây đã chăm sóc mộ người thân chu đáo như thế. Mộ ở trên có phủ cát đen như cát sông. Có khi nào một trong những ngôi mộ ở đây là âm phần họ đang cần tìm không?

Đến trước cửa ngôi nhà xập xệ được cho là của ông Lăng Trạch, anh Thành đập cửa. Mãi một lúc sau mới có tiếng cửa mở.

“Gì thế?” Một người đàn ông gầy gò hiện ra ở khung cửa, má ông ta hóp lại, mắt trũng sâu, tròng mắt đỏ ngầu như thiếu ngủ, thần thái lờ đờ.

“Đây có phải nhà anh Lăng Trạch không?” Anh Thành hỏi.


“Đúng tôi…”

“Tôi mạn phép hỏi một chút được không… Cách đây hai tháng anh có từng đem bán một mái tóc phải không?”

“Cái gì? Cái gì? Các người là cảnh sát hả? Không! Tôi chẳng biết gì hết! Cút đi…”

Người đàn ông đột ngột thay đổi thái độ một cách sững sờ. Chưa kịp nói thêm câu gì, người đàn ông đã cục cằn dằn mạnh cánh cửa cái sập trước mặt ba người.

Anh Thành gọi với theo để thanh minh. “Chúng tôi không phải cảnh sát! Chúng tôi chỉ cần hỏi một chút thôi. Anh Trạch ơi!”

Gõ cửa mãi ở ngoài nhưng Lăng Trạch không hề đi ra, chỉ nói từ bên trong vọng ra đuổi đi. Mặt ba người sa sầm hẳn lại vì tức tối. Đi cả một quãng đường dài đến đây mà người cần gặp lại không hợp tác.

“Giờ tính sao ạ? Tiên sư thằng cha này nữa!” Tuấn vẫn còn khó chịu vì vết thương trên mắt, đá thúng đụng nia đám sỏi dưới chân.

“Tuấn!…” Thầy Kính lên tiếng nhắc nhở ngôn từ của anh. Thế rồi thầy nói: “Giờ đành phải đi hỏi han lân cận xem sao. Người dân chắc họ cũng biết về người đàn ông này hoặc biết thêm gì đó về người phụ nữ trẻ mới mất trong làng thì sao?”

“Được rồi, để tôi hỏi cho…”

Thế rồi ba người lại quay trở về đầu làng, nơi có một cửa hàng tạp hóa nho nhỏ. Ba người vào mua chai nước uống cho xuôi cơn tức rồi mới hỏi han chủ cửa hàng. Ở trong cửa hàng này cũng đang có vài con mèo chạy chơi, nằm ưỡn dài trên mặt bàn thu ngân.Vì khác biệt ngôn ngữ nên thầy Kính và Tuấn chỉ biết đứng chờ đợi anh Thành hỏi chuyện. Mặt trời đang dần lặn xuống qua dãy núi. Người dân làng cũng từ con đường lớn bắt đầu ùa về sau giờ làm. Có lẽ cũng sắp tới lúc phải rời khỏi đây không trời sẽ tối hẳn.

Sau cuộc trao đổi không quá dài, anh Thành quay sang nói với Tuấn và thầy Kính.

“Người chủ nói rằng tên Lăng Trạch đó là một tên bất hảo trong làng, vô công rồi nghề, nay đây mai đó trộm cắp vặt vãnh kiếm tiền mua ma túy. Vì thế nên hắn hay ru rú trong nhà hút chích và sợ cảnh sát đến tìm lắm. Ngoài ra ngôi làng này cũng không thiếu những tên côn đồ rỗi việc sai bảo hắn ta. Chỉ cần có tiền là làm thôi nên cũng không ai biết hắn sẽ làm những gì. Tuy nhiên hắn ta có một người anh họ xa trong làng, hay giúp đỡ vận động hắn. Mà người đàn ông này lâu lâu mới về làng một lần vì bận công tác bên tỉnh khác. Cũng may cho chúng ta là ngày hôm nay anh ta sẽ ghé về làng hai ngày cuối tuần rồi lại đi. Tối nay có thể gặp được là chắc chắn nhất. Còn giờ có gọi bảy năm nữa tên Lăng Trạch kia cũng không để chúng ta gặp được đâu”

“Vậy thì chúng ta ở lại đâu được chứ? Khu này heo hút lắm…”


“Có một nhà trọ trong làng, thường dùng để người dân đi lao động xây núi xây đường ở khu này ngủ lại. Chúng ta có thể ở nhờ một đêm vậy”

“Ở đêm lại đây thì không có gì cả, tuy nhiên có thể sẽ thấy một vài hiện tượng lạ lùng đấy…” Người chủ cửa hàng nói nửa đùa nửa thật với anh Thành làm anh có chút hoang mang nhưng cuối cùng cả ba vẫn quyết ở lại giải quyết mọi chuyện sớm nhất cho xong.

Thế là sau bữa tối tạm bợ mua ở trong cửa hàng, ba người đến tìm gặp người đàn ông tên Viễn Tri, anh họ của Lăng Trạch.

Trong khoảng thời gian chờ đợi, ba người tranh thủ trở về nhà nghỉ thu gom đồ rồi trở lại, dạo quanh ngắm nghía ngôi làng và còn hỏi được một số chuyện quan trọng.

Anh Thành muốn hỏi thăm thêm một số người dân xem có người phụ nữ khá trẻ nào mới mất ở trong làng không, đặc biệt là có mái tóc đẹp. Anh Thành chủ yếu nhắm tới những người phụ nữ nội trợ, những người có lẽ nắm rõ nhiều chuyện nhất. Và anh đã đúng. Những người phụ nữ bế con đang làm việc trong sân nghe thấy anh hỏi cũng nhảy vào góp chuyện. Người dân ở đây khá vui vẻ và cởi mở.

“Phụ nữ trẻ của làng ư? Lâu lắm rồi không có ai như vậy… Làng này đa phần chỉ có trẻ con, người già, đàn ông và phụ nữ xấu chúng tôi thôi haha! Có mấy đứa trẻ cũng lớn nhưng chưa đủ gọi là phụ nữ đâu. Duy chỉ cách đây nửa năm, có một người phụ nữ từ nơi khác đến… mà chúng tôi cũng hơi…không thoải mái lắm. Cô ta mất tích rồi, không còn ở đây nữa.”

Bắt được mùi mờ ám, anh Thành mới đào sâu vào thêm:

“Như thế nào nữa? Cô ta ra sao? Sao lại không thoải mái?” Anh Thành vừa hỏi vừa quay sang phiên dịch cho hai người còn lại cùng nghe.

“Cô ta được phân về đây làm giáo viên để giảm bớt nạn thất học tỉnh này. Lúc đầu cô ta tỏ ra tận tâm lắm…Nhưng đột nhiên hai tháng trước mất tích. Người đâu mà vô trách nhiệm. Chắc ở đây khổ quá nên chuồn rồi. Tính ra như anh hỏi thì có mỗi cô ta là có khả năng nhất”

“Vậy cô ta trông như thế nào? Có được như tôi tả không?”

Những người phụ nữ nhìn nhau, có người xoa xoa hai bắp tay, nét mặt họ đã trầm ngâm đi tỏ rõ vẻ khó xử. Thế rồi bằng giọng trầm trầm, một người phụ nữ nói với đôi mắt mở to, hai đầu lông mày nhíu lại:

“Thế nào à… Đẹp. Cô ta rất đẹp. Nhưng mà…quái đản lắm…”

(còn tiếp)


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.