Bạn đang đọc Trường Trung Học Avalon: Chương 2
Tôi nghĩ, đầu cần quá đáng như vậy. Cứ nổi như thế thì có gì là sai nào. Mà thực ra còn rất thú nữa là đằng khác. Bạn có thể nằm đó mà đọc sách, hoặc nếu cuốn sách chán quá, hoặc bạn đọc hết rồi mà lười không muốn đi ra lấy cuốn khác hay gì gì đó, thì có thể quan sát ánh mặt trời chiếu xuống mặt nước phản chiếu lên những tán lá phía trên đầu. Và bạn có thể nghe tiếng chim hót, tiếng ve kêu, phía xa xa là tiếng tạch- tạch- bùm vọng lại từ chỗ Học Viện Hải Quân trong bài tập bắn súng.
Thỉnh thoảng chúng tôi cũng có trông thấy họ. Mấy chú ‘hải’ ấy mà, hay bọn họ thích được gọi là những sinh viên hải quân hơn, những người được đào tạo để làm sỹ quan. Họ mặc những bộ đồng phục trắng tinh không một tì vết, đi thành từng cặp xuống phố, cứ lúc nào bố mẹ và tôi cùng đi mua sách mới cho tôi đọc và mua cà phê cho hai người họ ở Cửa hàng Cà phê và Sách Hard Bean. Bố tôi sẽ chỉ trỏ và nói: “Nhìn kìa, Ellie. Thuỷ thủ đấy.”
Thực ra thì điều đó cũng chẳng có gì kỳ quái lắm. Chắc là bố đang cố khiến cho con gái mở miệng nói chuyện đây mà. Vì mẹ tôi – một tay giết nhện – thì chả bao giờ thèm làm thế với tôi cả.
Tôi thì nghĩ mấy cái anh ‘hải’ đó trông cũng đáng yêu đấy. Nhưng tôi không đi nói với bố về chuyện mấy anh chàng đáng yêu đâu nhá. Tôi đánh giá cao việc bố muốn nói chuyện, nhưng theo cách nào đó thì nó cũng chỉ tệ hại ngang ngửa với cái câu “Sao mẹ con mình không đến thương xá nhỉ?” của mẹ tôi thôi.
Mà không phải bố tôi dành thời gian trong ngày để làm gì đó hay ho thú vị đâu. Cuốn sách mà bố viết thậm chí còn chán hơn cả sách mẹ viết nữa cơ, nếu xét theo thang đo độ dở tệ. Vì bố đang viết về một thanh kiếm. Một thanh kiếm cơ đấy! Mà nào có phải kiếm đẹp đẽ, đính đá quý, vàng hay gì. Nó cũ rích, đầy những vết gỉ sét, chẳng đáng một xu nào. Tôi biết chứ, vì Phòng tranh Quốc gia ở tít tận D.C. đã cho phép bố tôi mang nó về để nghiên cứu sâu hơn mà. Thế cho nên chúng tôi mới chuyển đến nơi này… để bố tôi có thể nghiên cứu thanh kiếm kỹ lưỡng hơn. Nó được đặt trong văn phòng của bố – đúng ra là văn phòng của một giáo sư có căn nhà mà chúng tôi đã thuê lại trong khi ông ta đi nghỉ phép tận bên Anh, có lẽ là để nghiên cứu cái gì đó thậm chí còn vô giá trị hơn cả thanh kiếm của bố cũng nên.
Các viện bảo tàng sẽ cho phép bạn mượn mấy thứ đồ và mang về nhà nếu như cái thứ đó là một đề tài để nghiên cứu (hay nói cách khác là, nó chẳng đáng giá gì hết) và nếu bạn là một ông hay bà giáo sư.
Tôi chả hiểu sao bố mẹ tôi lại chọn nghiên cứu về thời trung cổ. Đó là thời đại chán nhất trên đời, có lẽ chỉ trừ thời tiền sử. Tôi biết tôi là một trong số ít những người nghĩ như thế, nhưng đó là vì hầu hết mọi người cứ có một ý nghĩ hết sức sai lầm về chuyện hồi Trung Cổ thì mọi thứ như thế nào. Đa số mọi người cho rằng thời đó giống như những gì người ta chiếu trên tivi và trên phim ảnh. Bạn biết đấy, phụ nữ thì như bơi trong mấy cái mũ chóp nhọn, mặc váy đẹp và nói những là “thiếp” với lại “chàng”, và những hiệp sỹ thì cứ hô vang là hãy cứu lấy thời đại này.
Nhưng nếu có bố mẹ là những nhà nghiên cứu về thời trung cổ thì từ hồi còn nhỏ xíu bạn sẽ học được rằng, mọi thứ hồi đó không hề giống như thế tí nào hết. Thực ra, mọi người thời Trung Cổ ấy à, tất cả đều có mùi cơ thể kinh khủng khiếp, chẳng có răng và qua đời ở tuổi… hai mươi, tất cả phụ nữ thì bị áp bức và phải lấy những người họ thậm chí còn chẳng thích, và mọi người đều đổ lỗi cho phụ nữ nếu có bất kỳ sai sót nhỏ nhặt nào.
Ý tôi là, bạn cứ xem bà Guinevere thì biết. Tôi tin là tất cả mọi người đều cho rằng vùng Camelot không còn tồn tại nữa đều do lỗi của bà ấy.
Chỉ trừ có điều, từ bé tôi cũng khám phá ra, đem những chuyện như thế đi kể lể thì có thể khiến bạn mờ nhạt trong những bữa tiệc sinh nhật kiểu Công Chúa Ngủ Trong Rừng. Hay là ở nhà hàng Medieval Times. Hay là trong trò chơi Ngục tối & Rồng chẳng hạn.
Nhưng tôi còn biết làm gì được, cứ giữ kín miệng về cái chủ đề đó chắc? Thực sự tôi không thể. Cứ như là tôi sắp ngồi đó mà tuôn: “Ô phải, thời đó mọi thứ đều thật là tuyệt vời. Tôi ước gì mình có thể tìm được một cánh cổng thời gian và quay về thời đó nhỉ, như là đến năm 900 chẳng hạn, để đi thăm thú, bị lây bệnh chấy rận, rồi tóc tôi sẽ rối bù hết lên vì chưa có dầu xả, và, ô, nhân tiện nói luôn, nếu bạn bị bệnh tụ cầu khuẩn vòm họng hay viêm phế quản thôi thì bạn sẽ chết đấy, vì thời đó làm gì có thuốc kháng sinh.”
Um, không đâu. Và kết quả là, tên tôi không đứng đầu trong danh sách khách mời của một ai đó khi họ muốn gửi thiếp mời đến dự Lễ hội thời Phục Hưng.
Mà sao cũng được. Cuối cùng thì tôi chịu đồng ý với mẹ. Không phải về chuyện đi thương xá. Mà là chuyện đi chạy cùng với bố tôi.
Tôi cũng chẳng muốn đi.
Nhưng chuyện này khác với đi xem phim hay là đến thương xá. Ý tôi là, tập thể dục rất tốt đối với đàn ông trung niên, mà lâu lắm rồi bố tôi không tập. Hồi còn ở nhà cũ, vào tháng Năm tôi đã thắng cuộc thi chạy 200m nữ tổ chức ở quận đấy, nhưng bố tôi thì chẳng tập tành gì kể từ sau lần khám sức khoẻ hàng năm vào năm ngoái, khi bác sỹ bảo với bố rằng bố cần phải giảm gần 5 kg. Thế là bố đi cùng mẹ đến phòng tập được đúng hai lần rồi bỏ, vì bố bảo rằng cái chất testosterone khi tập đó khiến bố muốn phát điên lên được.
Mẹ tôi là người đã nói: “Ellie à, nếu con lôi được bố đi chạy, thì mẹ sẽ không phản đối chuyện nổi niếc gì đó nữa.”
Điều đó đối với tôi coi như xong. Ừm, điều đó, cộng với chuyện rằng bố tôi sẽ có cơ hội tăng được chỉ số nhịp tim lên – đó là điều mà tôi thấy người ta toàn nói trên chương trình Today show, rằng đó là điều vô cùng cần thiết với những người có tuổi.
Là một người tài giỏi, mẹ tôi đã xong việc tìm hiểu rồi. Mẹ đưa chúng tôi đến công viên cách ngôi nhà thuê hai dặm. Đó là một cái công viên rất xa xỉ, có tất cả mọi thứ: những sân tennis, sân bóng chày, sân chơi lacrosse, WC công cộng thì đẹp đẽ sạch sẽ, có hai đường chạy dành cho chó – một đường cho chó to, một cho chó nhỏ – và dĩ nhiên là có cả lối chạy bộ nữa chứ. Cũng giống như công viên Como ở nhà, nơi này không có bể bơi, nhưng tôi đoán những người hàng xóm hạng sang ở khu nhà chúng tôi mới thuê thì cần gì đến bể bơi công cộng. Ai mà chả có một cái ở sân sau nhà rồi.
Tôi chui ra khỏi ôtô và vươn vai duỗi mình vài cái trong khi len lén quan sát bố tôi chuẩn bị chạy. Bố đã cất cặp kính cũ có dây đeo – không đeo kính thì bố mù dở chả khác gì con dơi cả. Mà thực ra, nếu ở vào thời trung cổ thì có lẽ bố đã chết béng từ hồi mới ba hay bốn tuổi vì bị rơi xuống giếng hay gì đó rồi cơ; tôi thừa hưởng được thị lực 20/20 từ mẹ, thế nên chắc là tôi sống được lâu hơn bố một tí – và đeo vào cặp kính gọng nhựa dày có dây chun buộc vào đầu để giữ cho nó khỏi tụt xuống trong khi chạy. Mẹ gọi đó là cái Dork Strap của bố.
“Đường chạy này đẹp đấy,” bố tôi nói trong khi chỉnh lại cái Dork Strap. Khác với tôi lúc nào cũng ở ngoài bể bơi, da bố chẳng rám nắng tẹo nào. Hai chân bố trắng như giấy vở viết ấy. Nhưng mà có lông. “Một vòng chạy này dài bằng đúng một dặm. Nó xuyên qua vài chỗ rừng cây – một loại vườn ươm ấy mà – ở đằng kia. Con thấy không? Thế cho nên không phải chạy nhiều dưới nắng đâu. Có vài chỗ bóng râm đấy.”
Tôi đeo cái headphone lên. Tôi không thể chạy mà không có nhạc được, chỉ trừ khi chạy đua người ta không cho phép. Tôi thấy chạy bộ mà nghe rap thì đúng là lý tưởng. Tay rapper đó càng giận dữ càng tốt. Vừa chạy vừa nghe Eminem thì đúng là nhất, vì anh ta nổi cáu với tất cả mọi người, trừ đứa con gái anh ta.
“Hai vòng hả bố?” tôi hỏi.
“Ừ,” bố đáp.
Và thế là tôi bật cái iPod mini lên – tôi đeo nó ở cánh tay trong khi chạy, điều đó khác với Dork Strap – và bắt đầu chạy.
Lúc đầu thì khó khăn thật đấy. Thời tiết ở Maryland này ẩm ướt hơn ở nhà, tôi đoán đó là do có biển. Không khí như đặc lại, nặng nề. Cứ như thể chạy trong súp vậy.
Nhưng một lát sau, các khớp chân tôi dường như thả lỏng ra. Tôi bắt đầu nhớ lại là hồi còn ở nhà tôi thích chạy bộ đến như thế nào. Việc đó cũng vất vả ra phết. Đừng tưởng dễ. Nhưng tôi thích cái cảm giác đôi chân mình mạnh mẽ đến như thế nào khi chạy… như thể tôi có thể làm được tất cả. Tất cả mọi việc.
Trên đường hầu như chẳng còn ai khác – chỉ có những bà già đi bộ với chó – nhưng tôi chạy qua họ, bỏ lại sau lưng. Khi chạy qua, tôi cũng chẳng mỉm cười. Lúc còn ở nhà cũ, mọi người lúc nào cũng cười với người lạ. Còn ở đây, người ta chỉ cười khi bạn cười trước mà thôi. Bố mẹ tôi chẳng mất nhiều thời gian để quen được điều đó. Giờ thì họ bắt tôi mỉm cười – thậm chí còn phải vẫy – với mọi người chúng tôi đi qua. Mà nhất là với những hàng xóm mới lúc họ ra vườn nhổ cỏ hay làm gì đó. Hình ảnh, mẹ tôi nói thế đấy. Mẹ bảo, việc giữ gìn một hình ảnh tốt đẹp là rất quan trọng. Để người khác sẽ không coi chúng tôi là những kẻ hợm hĩnh.
Nhưng mà tôi cũng chả quan tâm mấy đến chuyện mọi người quanh đây nghĩ gì về mình.
Đường chạy mở ra như bình thường, hai bên đường là hàng cỏ cắt xén gọn, uốn lượn giữa sân đánh bóng chày và sân tập lacrosse, rồi qua đường chạy cho chó, vòng quanh bãi đỗ xe.
Và rồi hàng cỏ ở lại phía sau, con đường mất hút trong một khu rừng rậm rạp đến không ngờ. Một khu rừng thật sự ấy, hiện ra giữa chừng, với một tấm biển nhỏ màu nâu viết rằng CHÀO MỪNG ĐẾN VỚI KHU RỪNG Ở HẠT ANNE ARUNDEL ở bên đường.
Khi chạy qua chỗ tấm biển đó, tôi hơi bị sốc khi nhận thấy hai bên đường cây bụi mọc rậm rạp đến thế nào. Hoà mình vào bóng râm tối sẫm của khu rừng, tôi thấy những tán lá trên đầu mình dày đến nỗi hầu như chẳng có tia nắng mặt trời nào lọt qua được.
Tuy thế, cây cối mọc hai bên cạnh đường tôi chạy trông thật xum xuê và lắm gai. Tôi tin chắc trong đó còn hàng đống cây thường xuân độc nữa… cái cây mà hồi trung cổ bạn có lỡ bị nhiễm phải thì có thể bạn chết rồi, vì hồi đó chưa có thuốc cortisone mà.
Bạn hầu như chẳng thể nhìn thấy phía trước được quá sáu mươi centimet, những bụi gai và cây cối mọc san sát. Nhưng trong khu rừng này, nhiệt độ phải thấp hơn ngoài công viên đến mấy độ ấy. Bóng râm khiến ồ hôi đang chảy xuống mặt và ngực tôi trở nên mát hơn. Khi chạy qua khu rừng rậm đến như thế, thật khó tin rằng tôi vẫn đang ở gần với con người cơ đấy. Nhưng khi gỡ headphone xuống, tôi nghe thấy tiếng ôtô chạy trên con đường cao tốc bên kia những tán cây rậm rạp.
Điều đó khiến tôi hơi nhẹ người. Bạn biết đấy, an tâm vì tôi không vô tình lạc vào Công viên kỷ Jura hay gì đó ấy mà.
Tôi lại đeo headphone lên và chạy tiếp. Giờ thì tôi thở mệt nhọc rồi, nhưng vẫn thấy tuyệt. Tôi không thể nghe thấy tiếng chân mình chạy trên đường – chỉ có tiếng nhạc trong tai tôi thôi – nhưng có một phút nào đó tôi hình như thấy chỉ có mỗi mình mình trong khu rừng… có thể cũng là người duy nhất trên hành tinh này ấy chứ.
Điều đó thật ngớ ngẩn, vì tôi biết bố chạy đằng sau tôi không xa – có thể cũng chả hơn gì so với mấy bà già đi bộ, nhưng dù thế nào đi nữa bố cũng đang ở đằng sau tôi.
Tuy thế, tôi đã xem quá nhiều phim truyền hình mà trong đó có nhân vật nữ đang thơ thẩn chạy bộ và có một thằng điên nào đó chảy ra từ trong bụi cây rậm rạp giống như hai bên đường vậy, và tấn công cô ấy. Tôi không muốn liều. Ai mà biết cái loại dở hơi nào đang ẩn nấp? Đây là Annapolis, thủ phủ của bang Maryland, nơi đặt Học Viện Hải Quân Hoa Kỳ – và hầu như không có tội ác dã man nào cả.
Nhưng chả biết được thế nào đâu.
Thật may là đôi chân của tôi rất khoẻ. Nếu có kẻ nào nhảy xổ vào tôi từ trong chỗ cây cối thì tôi cũng khá tự tin rằng mình có thể đá vào đầu hắn một cú đâu ra đấy. Và cứ thế dẫm chân lên người hắn cho đến khi có người đến cứu.
Đúng lúc đang thầm nghĩ như thế thì tôi trông thấy hắn ta.