Trăng Sáng Chiếu Lầu Tây

Quyển 9 - Chương 4


Vương Truyền Minh ngồi trong góc
tường không hề có hình tượng, cảm thấy còn chưa đủ an toàn nên lại kéo
một chiếc ghế gãy đến chắn trước người, lo lắng bất an nhìn ra ngoài cửa sổ.

Ngoài cửa sổ đen hun hút, ngay cả một ánh trăng cũng không có. Cả ngôi
miếu đổ nát như một chiếc thuyền đơn độc chìm nghỉm sâu dưới đáy biển,
yên tĩnh như chết.

Vốn cho rằng cùng Tây Lương vương đi sứ là cơ hội diễu võ dương oai hiếm có, bước đi trước mặt người nước Sóc cũng có thể hiên ngang, không ngờ
hiện thực lại bi thảm như thế, bị sát thủ nước Sóc đuổi giết dọc đường,
ngay cả cơ hội thở dốc cũng không có.

“Này, tôi bảo, ông làm thế không có ích gì đâu. Nếu có cao thủ đến, chỉ
một đao là chém luôn cả người lẫn ghế”. Hầu Hành Tiễn ngồi xuống chiếc
ghế gãy một chân đó, hừ một tiếng qua kẽ răng, nói khinh thường: “Đọc
nhiều sách như vậy có ích lợi gì, không chẻ được củi, không mang được
gánh, gặp phải một chút chuyện là chỉ biết run lên”.

Lời này đã đâm đúng chỗ đau của Vương Truyền Minh. Văn nhân tự có phong
cốt, há có thể để ngươi xem nhẹ như thế? Cũng không biết lấy dũng khí từ đâu ra, Vương Truyền Minh lập tức đứng bật dậy, vái một cái nói: “Lời
này của tướng quân sai rồi. Khổng Tử nói tam quân có thể đoạt soái, thất phu không thể đoạt chí. Trước có Phương Hiếu Nhụ lấy mười tộc tuẫn
quân, sau có Lục Tú Phu cõng ấu đế nhảy xuống biển. Hành động vĩ đại
chính trực ngay thẳng như thế được truyền tụng thiên cổ, khí tiết văn
nhân quả thật là sống lưng của xã tắc”.

Chiếc ghế thiếu một chân, Vương Truyền Minh đột nhiên đứng lên làm Hầu
Hành Tiễn giật mình, người hơi nghiêng một chút, rầm một tiếng cùng ngã

xuống đất với chiếc ghế gãy chân làm bốc lên một đám bụi bặm.

Bị sặc bụi ho mấy tiếng, Hầu Hành Tiễn phủi bụi trên đầu, hừ một tiếng
nặng nề qua mũi, nói: “Cái gì mà lấy mười tộc tuẫn quân, cõng ấu đế nhảy xuống biển, tôi thấy chính là ngu xuẩn, chôn vùi tính mạng của mình vô
ích thì lấy cái gì để liều mạng với quân địch?”

Vương Truyền Minh nghiêm mặt nói: “Lời này của tướng quân sai rồi. Mạnh
Tử nói ta phải dưỡng tính tình cương trực, quân tử có hạo nhiên chính
khí đã có thể trừ tà xua bệnh, luôn luôn thuận lợi, gậy đánh không gãy,
dao giết không tận, chính nhờ có khí tiết của văn nhân chí sĩ củi lửa
tương truyền, đời đời không tắt, mới có càn khôn thịnh thế được khai
sáng như hiện nay…”

Ông ta ở bên này thao thao bất tuyệt, Hầu Hành Tiễn nghe như rơi vào mây mù, đau đầu căng não, bò dậy lẩm bẩm: “Chả hiểu ông nói cái gì, nếu lợi hại như vậy, lần nào ông cũng trốn trong góc tường run rẩy làm gì?”

“Lời này của tướng quân sai rồi…” Sắc mặt Vương Truyền Minh nghiêm túc.

Lại tiếp nữa sao? Đúng là bị ngươi đánh bại rồi!

Hầu Hành Tiễn vừa nghe thấy mấy chữ này đã choáng váng, mặt như màu đất, hô to: “Dừng lại! Vương gia lệnh cho tôi bảo vệ ông, không biết chừng
sát thủ sắp đến rồi, ông cứ trốn ra sau ghế như lúc nãy đi!”

Vương Truyền Minh giật mình, lúc này mới nhớ ra mình đang ở trong một
ngôi miếu đổ nát chứ không phải đang tranh luận trên kim điện, vì vậy
đành phải im miệng lui ra sau lưng Hầu Hành Tiễn, nhìn về phía Lâu Dự
cách đó không xa, nhỏ giọng hỏi: “Vương gia, tại sao vương gia biết đêm

nay sát thủ sẽ đến?”

Lâu Dự nhắm mắt ngồi dưới một bức tượng Bồ Tát bằng đất không có đầu,
nghe vậy liền trả lời bình thản: “Ngày mai chúng ta sẽ tiến vào địa giới đế đô, đêm nay là cơ hội cuối cùng của bọn chúng, bọn chúng làm sao có
thể không đến?”

Sau khi vào đế đô, Ưng Đình cũng không tiện đuổi giết công khai nữa. Dù
sao bọn họ cũng đường đường là sứ đoàn Đại Lương, cho dù trong lòng Ân
Minh và Lưu Hoài Ân muốn chàng chết đến mấy, khi chàng đã đến đế đô,
ngoài mặt cũng phải làm đủ mọi chuyện theo lễ tiết bang giao. Trừ khi
nước Sóc muốn xé bỏ hợp ước, khơi nên đại chiến hai nước thì lại là
chuyện khác.

Vương Truyền Minh là đại thần ngoại giao từng trải, đương nhiên hiểu
những lí lẽ này liền gật đầu, lại nhớ tới một chuyện, không nhịn được
hỏi tiếp: “Tất cả mọi người chúng ta đều trốn trong ngôi miếu đổ này,
vạn nhất đối phương dùng trọng tiễn bắn một trận nữa chẳng phải là thành bia ngắm hết sao?”

Nhớ tới cơn mưa tên tập trung như châu chấu đêm đó, tim vẫn còn đập thình thịch.

“Ông cho rằng điều động xạ đội huyền tiễn là chuyện dễ dàng lắm sao?”
Hầu Hành Tiễn cuối cùng cũng tìm được cơ hội phản kích, nhếch miệng nói: “Xạ đội hàng ngàn người, lại mang cung cứng trọng tiễn, làm sao chạy
được nhanh như chúng ta? Xạ đội chó má đó bây giờ còn không biết đang ở
phía sau chúng ta mấy trăm dặm, Ưng Đình đi đâu tìm một xạ đội huyền

tiễn khác đến bắn giết chúng ta?”

“Chẳng lẽ không thể điều quân đội?” Vương Truyền Minh tỏ ý ham học hỏi, truy hỏi kĩ càng.

Hầu Hành Tiễn bày vẻ mặt “chuyện này ông không hiểu đâu”, nói: “Đây là
ám sát, cho dù dùng xạ đội huyền tiễn cũng bị Ưng Đình khống chế trong
phạm vi nhỏ nhất, số người biết không nhiều, sau đó có truy cứu cũng
không đưa ra được bằng chứng xác đáng nào. Nhưng nếu điều quân đội thì
lại khác hẳn, công văn điều động nào mà chẳng phải bằng chứng? Ân Minh
không ngu, làm sao lại vác đá đập chân mình”.

Vương Truyền Minh lập tức tỉnh ngộ hiểu rõ mọi chuyện.

Có làm bộ làm tịch thế nào thì bề ngoài hai nước vẫn duy trì quan hệ hòa bình theo hợp ước. Nếu chuyện ám sát sứ đoàn Đại Lương bị nắm được bằng chứng, chuyện đế quân nước Sóc bội bạc, trước mặt một đằng, sau lưng
một nhẽ sẽ khó tránh khỏi bị người đời thóa mạ.

Ân Minh rất muốn làm một đế vương thánh minh, sao có thể để lại một vết
bẩn có thể bị đời sau lên án trong quá trình thống nhất thiên hạ của
mình?

Nghĩ tới đây, trong lòng bội phục, Vương Truyền Minh vái Hầu Hành Tiễn
thật dài, nói thành khẩn: “Cổ nhân nói tam nhân hành tất hữu ngã sư, hạ
quan lần này cùng vương gia và các vị tướng quân đi sứ đã học được rất
nhiều, quả thật là được lợi không cạn”.

Hầu Hành Tiễn vừa nghe ông ta nói đã đau đầu: “Tôi nói này, đám người
đọc sách các ông quá vòng vèo, động cái lại thơ với thẩn, ngay cả ăn con cua cũng phải nói một câu, vẩy giấm rắc gừng thêm hưng phấn, các ông
không mệt sao?”

“Lời này của tướng quân sai rồi…” Vương Truyền Minh phủi bụi trên tay

áo, há mồm đang định nói mấy câu võ tướng không hiểu tính tình văn nhân
gì đó, lại thấy con báo đen đang uể oải nằm bò dưới chân Lâu Dự đột
nhiên dỏng tai đứng lên, đôi mắt xanh lét lóe lên ánh sáng khiếp người
trong bóng đêm.

“Đến rồi”. Hai mắt Lâu Dự sáng lên, chậm rãi đứng dậy.

Nóc nhà có tiếng loạt soạt rất nhỏ, đột nhiên ầm một tiếng, nóc nhà vốn
đã rách nát tả tơi đột nhiên xuất hiện một lỗ lớn, ngói vỡ rơi xuống
khăp nơi. Bốn bóng người màu đen cùng với bụi bặm màu trắng từ nóc nhà
bay xuống, không nói một lời, bốn thanh trường đao vây quanh Lâu Dự bày
thành trận khôi cương tứ tượng.

“Bốn Phó tổng quản cùng đến, trận thế lớn thật”.

Lâu Dự bị vây ở chính giữa, mặt không biểu cảm, giọng nói nhẹ như tuyết đọng trên đất, không mang theo một chút tâm tình nào.

Bốn người áo đen đưa mắt nhìn nhau, một người trong đó mở miệng nói:
“Quá khen! Ưng Đình phải đưa ra thành ý mới có thể lưu được Tây Lương
vương”.

Giọng nói ồm ồm nhưng lại chói tai hết sức khó nghe.

Lâu Dự nói lạnh lùng: “Đúng là giỏi tâng bốc chính mình. Chim ưng là bá chủ không trung, tự xưng là ưng, các ngươi cũng xứng?”

Trong mắt bốn người đều lộ vẻ tàn khốc, người vừa mở miệng cười nói âm
hiểm: “Xứng hay không xứng, Tây Lương vương lập tức sẽ có thể biết
được”.

Vừa dứt lời, bốn thanh đao đan xen dệt thành một lưới đao kín như bưng sáng như tuyết chụp về phía Lâu Dự.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.