Bạn đang đọc Tình yêu trở lại – Chương 40
Chương 40Tác giả: Madge SwindellsL úc này đã là tháng Sáu năm 1949, thời khắc bắt đầu của một mùa đông, căn phòng trống trải của họ trở nên giá lạnh. Margaret và Rosemary thường xuyên bị sổ mũi nhưng điều này không làm Edwina phải lo lắng nhiều cho lắm bởi vì bây giờ cô và Otto đã trở nên tâm đầu ý hợp. Kể từ đêm hôm đó, cái đêm mà không ai trong hai người muốn nhắc lại, mối quan hệ vợ chồng của họ đã trở nên hòa thuận hơn. Edwina quản lý sổ sách kế toán, Otto lo kiếm hợp đồng và quản lý thợ thuyền. Tom, người đặt đường dây, đã chứng tỏ là một quản đốc cừ khôi thế chỗ cho Simon. Nhưng bây giờ gánh nặng điều hành dồn hết lên vai Otto. Hàng đêm anh phải làm việc muộn hơn để đương đầu với các khoản nợ, với việc mua sắm các phụ tùng thay thế, và sau cùng là việc lập kế hoạch làm việc cho các toán thợ.
Thời tiết đã trở nên xấu thậm tệ từ tháng trước nên Otto không thể tiến hành công việc vớt ni-ken được. Anh khó chịu khi nghĩ tới phần còn lại đang nằm dưới đáy biển. Cho tới giờ họ đã bán được hơn hai mươi sáu tấn với giá một trăm tám sáu bảng mỗi tấn và đã trả được cho ngân hàng hơn năm nghìn bảng. Ở một nơi nào đó rải rác quanh xác tàu là những thỏi ni-ken quý giá của họ. Anh đồ chừng còn có một phần ni-ken nằm dưới những mảnh vụn ở trong khoang tàu.
Cuối tháng Bảy họ sẽ phải trả thuế trục vớt cũng như một số khoản Nhà nước thu để sửa chữa và xây dựng cơ sở hạ tầng. Họ sẽ dễ dàng thanh toán được hết nếu việc vớt ni-ken được tiến hành đều đặn. Otto không ngừng tìm kiếm một người thợ lặn nhưng vẫn chưa có ai cả. Không còn sự lựa chọn nào khác, anh sẽ lại phải lặn ngay sau khi thời tiết trở nên khá hơn.
Vào buổi sớm mùa đông lặng gió đầu tiên của tháng Sáu, Otto ra khơi cùng với Tom trong một làn sương giá lạnh và hai người quét dọn boong tàu.
Mặt biển tựa như một tấm thép, phẳng lặng, xám xịt đầy bất trắc. Những ngọn núi bị che khuất bởi mây mù, không phải thứ mây báo hiệu gió đông nam sẽ thổi, nhưng là những đám mây mưa dày và đen. Một đợt gió lạnh buốt thổi tới từ hướng tây bắc, đem theo một cơn mưa phùn khi họ tới được điểm phía trên xác tàu và bắt đầu tháo dỡ những hòm đồ nghề. Otto chẳng bao giờ thấy đủ ấm cả. Gần đây Edwina đã đan cho anh những cái áo len cổ lọ thật dày, những chiếc áo lót, những chiếc quần mặc trong và tất dài bằng len còn nguyên lông cừu nhưng anh vẫn rùng mình vì lạnh.
Khi Tom siết chặt tấm kính trước mặt anh, hai người phụ việc bắt đầu quay tay cầm của máy bơm khí thì Otto nghe thấy tiếng rít the thé của luồng không khí chạy qua van, một âm thanh giờ đã trở nên quen thuộc với Otto cũng giống như nhịp đập của trái tim anh vậy.
Không còn lý do gì nữa để mà chần chừ, càng xuống sớm bao nhiêu anh lại càng được trở về nhà sớm bấy nhiêu. Anh giơ ngón tay cái lên ra hiệu cho Tom và trèo qua mạn thuyền, bám chặt vào những thanh sắt của chiếc thang rồi lần xuống bậc thang cuối cùng. Anh thả người ra và nhanh chóng chìm xuống đáy biển.
Anh bắt đầu tìm kiếm xung quanh bên ngoài xác tàu, thấy được vài đống ni-ken lớn. Anh khẩn trương xếp chúng vào giỏ. Cách xác tàu chừng năm chục thước, đột nhiên, một dòng nước mạnh ào tới khiến anh loạng choạng ngã dúi vào tảng đá gần nhất. Anh bám chặt lấy nó rồi ngồi xuống trong vòng vài giây, nhìn dòng nước cuộn ào ào. Đám tảo biển dập dềnh trong nước giống hệt những cây cọ rạp xuống trong cơn gió mạnh. Anh trông thấy một vài con cá bơi qua bơi lại; những con cá stin-bra, một con cá hồi đá, gần đây anh đã có thể phân biệt chúng. Một ý nghĩ chợt lóe lên trong óc anh rằng nếu như anh đừng quá sợ hãi thì công việc này quả cũng có nhiều điều thú vị.
Anh tự hỏi liệu mình có nên quay trở lên thuyền, nhưng chẳng thấy có một xoáy nước nào nữa và cũng không thấy những người trên thuyền giật mạnh dây thừng để báo hiệu gì cả nên anh cho rằng đó chỉ là một cơn sóng lạc. Sau đó anh tiến lại gần xác tàu và đứng nhìn nó một cách phân vân. Vết nứt ở thân tàu dường như đã bị thay đổi vị trí. Ảo giác chăng, anh nghĩ. Tuy vẫn còn lưỡng lự, nhưng cuối cùng anh cũng dấn bước về phía xác chiếc tàu thủy bám đầy động vật chân tơ, cúi xuống và chui vào trong khoang tàu.
Otto quơ mạnh chân ra xung quanh để dọa lũ cá chình và cua bể, rồi anh đứng yên, đợi cho đám trầm tích lắng xuống. Một lát sau, anh đã có thể nhìn ra xa tới bốn thước. Ở phía trên đầu anh, mọi vật đang nổi lềnh bềnh chạm tới trần cao nhất của khoang tàu; ni-ken nằm thành từng đống lớn xung quanh những thứ đổ nát, nhưng khi anh nhấc chân lên thì đám trầm tích lại nổi lên thành một đám mây đen kịt.
Càng đi sâu vào trong, khoang tàu lại càng trở nên tối đen như mực. Anh bật cây đèn pin và mất tới nửa giờ để thăm dò. Anh phát hiện ra rằng ở trong này quả có rất nhiều ni-ken, chí ít cũng đủ cho họ thanh toán các khoản nợ.
Anh đang chuẩn bị trở ra phía lỗ hổng thì đột nhiên con tàu rùng mạnh và trượt dài bên mạn phải. Hoang mang và sợ hãi, Otto có cảm tưởng như xác tàu không phải đang mắc kẹt giữa những tảng đá mà đang quay cuồng trong dông bão. Lỗ hổng rõ ràng đang chuyển dịch! Rồi anh chợt ý thức được rằng nếu như con tàu mà bị lật úp thì lỗ hổng sẽ bị vùi xuống cát, và lối ra duy nhất của anh sẽ bị lấp kín.
Một giây sau, một đợt sóng to khác lại xô đến làm xác tàu tròng trành. Lớp trầm tích dâng lên vây kín quanh anh làm cho chiếc đèn pin trở nên vô dụng, trong khi đó những chiếc thùng to và những thanh chắn nặng nề dập dềnh trong nước. Anh vấp vào những thứ đổ nát trong lúc gắng tìm đường ra ngoài.
Xác tàu lại lắc mạnh và quay như chong chóng vì hết đợt sóng này đến đợt sóng khác xô vào. Có tiếng ầm ào của sự gãy nát, những vật thể to lớn kềnh càng va mạnh vào người anh khiến anh ngã nhào. Otto cố sức chống trả và cuối cùng khoang tàu cũng sáng dần lên khi anh tới được gần lỗ hổng. Bây giờ anh đã có thể nhận ra rằng mình đã đúng, xác con tàu đang đu đưa như một con lắc giữa những tảng đá và lỗ hổng đã gần như bị bít lại tới một nửa ở dưới đáy biển.
Cảm ơn Chúa vì anh đã ra kịp. Anh nửa chạy nửa bò qua lỗ hổng và thoát ra khỏi xác tàu. Rồi anh quay lại… trừng trừng nhìn nó! Lúc này biển đã lặng trở lại; cát, sò biển, đất đá… đang dần dần lắng xuống trông hệt như một cơn bão tuyết. Xác tàu vượt cao lên phía trên anh, han gỉ và cũ kỹ. Một cảnh tượng thật là rùng rợn!
– Mày suýt nữa đã nhốt tao vào trong rồi đấy, – anh lẩm bẩm. nhưng khi anh dợm bước tính quay trở lên thuyền thì anh mới nhận ra rằng ống dẫn khí đã bị mắc kẹt lại trong xác tàu. Anh chửi thề bước lần trở lại và vẫn giữ chặt lấy ống, anh giật nó thật mạnh, nhưng nó đã bị kẹt thực sự.
Anh buộc phải quay vào trong để gỡ nó ra. Một hành động hết sức nguy hiểm và trong một thoáng anh đã do dự, nhưng một cơn sóng cồn mạnh đã lại nhao tới làm xác con tàu trồi lên và anh nhìn thấy ống dẫn khí của mình bị mắc vào một tảng đá, rồi thân tàu chìm xuống, đè bẹp vào nó.
Ngay lập tức luồng không khí bị chặn lại, nhưng Otto vẫn còn vài giây và từ đó trở đi, mọi thứ diễn ra như phim quay chậm. Anh đóng van, dè sẻn phần không khí còn sót lại trong bộ đồ lặn rồi rút dao ra, cắt mạnh vào ống dẫn khí. Bây giờ chỉ còn việc giật mạnh ba cái vào sợi dây thừng để kêu gọi cứu trợ, và những người trên thuyền sẽ kéo anh lên. Nhưng đến giờ anh mới lại phát hiện ra rằng sợi dây thừng cũng bị thắt nút và trở nên vô dụng. Lúc này, cả dây dẫn khí và dây thừng đều đã bị cắt. Anh cố sức ngoi lên nhưng lại bị mắc kẹt trong bộ quần áo và giày lặn nặng nề. Đầu anh bắt đầu ong lên, cơ thể lả đi vì kiệt sức, mọi hành động trở nên yếu ớt, rời rạc. Cố gắng lắm anh mới tháo được một chiếc ủng ra, nhưng khi anh cúi xuống để tháo nốt chiếc kia thì anh đã gần như ngất hẳn. Rồi người anh dạt đi dạt lại theo những đợt sóng cồn, xoáy quanh xác tàu trong khi ở trên mặt biển gió mỗi lúc một mạnh…
*
* *
Trong những tháng đau buồn sau đó, Edwina đã quá kiêu hãnh để không liên lạc với Simon. Cô chưa bao giờ là một phụ nữ tự lập, bây giờ cô lại càng bất lực hơn vì sự đau đớn và nỗi khắc khoải. Tom cố hết sức và đã tìm được một người đồng ý mua lại phần công việc cùng với trang thiết bị của Otto với giá mười nghìn bảng. Edwina chấp nhận, nhưng vài tuần trôi qua, số tiền cứ teo dần; có quá nhiều nhu cầu đòi hỏi phải chi tiêu trong lúc cô cũng phải thanh toán khoản nợ ngân hàng và trả thuế trục vớt nữa.
Cho tới cuối tháng Chín, Edwina chỉ còn lại có ba trăm bảng, hai đứa con thơ, một lên sáu, một lên ba phải nuôi nấng và chẳng có lấy một người thân hay một người bạn nào trên đất nước xa lạ này. Cô cũng đã nghĩ tới việc quay trở lại nước Anh, nhưng mẹ cô đã mất và cô cũng chẳng có đủ tiền để mua vé trở về.
Hồi còn ở Anh, Edwina đã từng là cô giáo nhưng các trường học ở đây đã kín chỗ cả rồi mặc dù cũng có một vài nơi hứa hẹn với cô một chỗ dạy tiếng Anh ngay sau khi có một giáo viên nghỉ việc. Cuối cùng cô đành phải nhận lời tới làm việc tại quầy bán đồ kim chỉ trong một cửa hàng bách hóa của địa phương, nơi cô chỉ có thể kiếm được ba mươi hai bảng mỗi tuần. Cô buộc phải để các con mình lại nhà cho người tớ gái, một người luôn khiến cô e sợ. Và một buổi tối trở về nhà cô thấy cô ta say khướt nằm dài trên mặt đất với Margaret ngồi chồm hổm ở bên cạnh, mặt tắm đầy bọt ướt. Phải mất tới hai ngày để tìm người thay thế, khi cô quay trở lại chỗ làm thì cô đã bị gã quản lý lớn tiếng đe dọa đuổi việc. Cô cắn răng chịu đựng lời quở trách, trong lòng vẫn canh cánh lo về các con.
*
* *
Anna đang trong một tình thế khó xử. Cô đã đọc được trên một tờ báo về cái chết của Otto, nhưng có vẻ như Simon chưa biết gì cả, nếu biết chắc chắn anh ta lao ngay đến để giúp đỡ Edwina rồi. Cô phải làm gì bây giờ? Cô cân nhắc suy nghĩ suốt mấy tuần liền, trong lòng thầm mong rằng Edwina sẽ lẳng lặng biến đi. Một vài sự lựa chọn mở ra trước mắt cô: cô có thể cấp tiền cho cô ta trở về nước Anh, nhưng như vậy thế nào Simon cũng sẽ đi theo cô ta sang đấy. Anna chắc chắn một điều rằng cuối cùng rồi Simon cũng sẽ nghe được tin Otto chết và sẽ dang tay ra giúp đỡ bà quả phụ của anh ta. Không, không thể như vậy được, nhưng cũng không thể để ẹ con họ sống trong cảnh thiếu thốn cơ cực. Cuối cùng cô quyết định rằng Edwina cần phải sống tự lập và nơi an toàn nhất không đâu khác là ngay ở thị trấn Stellenbosch này.
Cô bắt đầu tiến hành kế hoạch theo cách quen thuộc của mình. Luật sư của Edwina liên hệ với cô, thông báo rằng ông đã được ban giám hiệu của một trường tư thục ở Stellenbosch liên hệ, vì họ đã đọc được lời quảng cáo tìm việc mà ông đã thay mặt cô cho đăng trên báo. Họ đang thiếu một giáo viên Anh văn, lương không cao nhưng mẹ con cô sẽ có nhà để ở. Cô liền tới đó và được chấp nhận ngay lập tức. Khi cô biết rằng Rosemary có thể tham gia học dự bị và Margaret sẽ được nhận vào lớp Một thì cô bật khóc vì quá đỗi sung sướng. Cô cám ơn rối rít! Tới tháng Giêng cô bắt đầu dạy học. Cùng lúc đó cô được dọn đến chỗ ở mới, một ngôi nhà nhỏ có ba phòng ngủ. Cô hầu như không thể tin nổi vào vận may của mình và bắt đầu thấy yêu mến những bức tường chật chội, yêu cánh cửa chạm trổ theo lối xưa và mảnh sân rải đá cuội ngộ nghĩnh ở trước nhà.
Chỉ còn mỗi một trở ngại duy nhất: ngôi trường này lại nằm ngay trong thị trấn nơi vợ của Simon đang sinh sống và các con của cô ta cũng tới đây để học tập. Điều này quả thực cũng khó xử nhưng liệu cô còn tìm được ở đâu một cơ hội tuyệt vời thế này?
– Đây không phải là nước Anh, – cô bảo các con. – Không bao giờ là nước Anh cả, nhưng chúng ta sẽ ở lại đây cho tới chừng nào dành dụm đủ tiền để trở về nhà. – Và cô bắt đầu mua sắm một số vật dụng cần thiết trong nhà với số tiền còn lại.
*
* *
Một buổi chiều thứ Năm, Anna đã đợi tới gần một tiếng đồng hồ trong phòng tiếp đón bệnh nhân của bác sĩ.
– Con bé ra sao rồi ạ?
Cuối cùng vị bác sĩ cũng xuất hiện. Cô cố tỏ ra vui vẻ, một sự vui vẻ giả tạo mà người lớn thường dùng khi phải đối diện với những đứa con đau ốm.
Katie phờ phạc ra theo. Mấy ngày nay con bé cứ ủ rũ đi lại trong nhà trông thật thảm hại với hai quầng thâm to đùng ở dưới mắt. Rõ ràng nó bị mắc bệnh gì đó và Anna đã chuẩn bị tinh thần cho tình huống xấu nhất.
– Ổn cả mà, ổn cả mà, – ông bác sĩ cũng đáp lại bằng một giọng vui vẻ. – Chẳng có vấn đề gì về thể chất đâu. Nếu cô hỏi thì tôi cho là Katie đang cố tìm cách để không phải đi học đây mà.
Rõ ràng là ông ta thừa biết bây giờ đang là kỳ nghỉ cơ mà, cô bực bội nghĩ thầm.
Katie ném cho ông một cái nhìn khó chịu. Cô bé quay sang phía mẹ.
– Con đã bảo mẹ là con không sao rồi, vậy mà mẹ không nghe. – Cô bé mỉm một nụ cười mệt mỏi.
– Giờ thì cháu hãy ngồi đây vài phút nhé, Katie, trong khi bác nói chuyện với mẹ cháu. Sẽ không lâu đâu.
Bụng của Anna đau nhói khi cô theo ông vào trong phòng khám bệnh.
– Như tôi đã nói, chẳng có gì đáng ngại về sức khỏe của con bé cả. – Anna cảm thấy nhẹ cả người tới từng thớ thịt. – Chỉ có điều nó không vui về một chuyện gì đó. Ở nhà cô có chuyện gì không? Điều gì có thể khiến con bé bối rối tới vậy? Cha nó đi xa tới Namaqualand phải không, nó nói với tôi như vậy. Có lẽ con bé héo hon đi vì buồn rầu. Nó có gần gũi với cha nó không?
– Có thể là như vậy, – Anna băn khoăn trả lời, – nhưng mà anh ấy thường xuyên đi xa mà, cứ đi rồi lại về. Cô ngả người ra sau, nhắm chặt mắt lại, nghĩ về bi kịch của việc nuôi dạy con cái là không tạo được một môi trường hoàn hảo cho chúng mặc dù các bậc cha mẹ đã luôn cố gắng hết sức mình. Bọn trẻ nhớ cha chúng lắm, cô biết điều ấy, nhưng Simon vẫn không quên gọi điện về nhà hai lần một tuần và hàng tháng vẫn lái xe về thăm chúng cơ mà. Cô không thể phàn nàn tư cách làm cha của anh được. Cô cũng biết rằng anh rất nhớ lũ trẻ. Vả lại, gần đây cô đã bắt đầu dành nhiều thời gian cho chúng hơn trước. Koos quản lý trại gà rất cừ với sự giám sát của cha cô; việc tìm mua và vận chuyển gia súc đã có một đội ngũ nhân công chuyên nghiệp; Kurt điều hành việc buôn bán kinh doanh. Lần đầu tiên trong nhiều năm ròng Anna lại thấy mình được rảnh rỗi. Cô toàn tâm toàn ý chơi đùa với lũ trẻ. Có lẽ do cô nghĩ rằng Katie là một đứa con đánh cắp nên cô đã chiều chuộng nó gấp đôi, mua cho nó hàng núi quà tặng cùng quần áo sang trọng nhưng lại rất ít khi dẫn nó ra ngoài.
Những buổi chiều nhàn tản, Anna thường dẫn lũ trẻ đi cưỡi ngựa, đi bơi hoặc đi câu cá tùy thuộc vào việc đứa nào nài nỉ nhiều hơn. Katie quay cuồng như một con thoi giữa những buổi tập múa, tập đàn, tập hát, tập kịch và cả thể dục nữa; Acker lại yêu thích công việc của trang trại hơn. Vậy cái gì có thể khiến cho Katie buồn tới vậy? Chắc chắn là phải có một điều gì đó không ổn.
Anna đưa Katie về nhà. Họ chỉ dừng lại dọc đường để mua một chiếc xuồng nhỏ bằng cao su. Họ sẽ đem nó ra chơi ngoài đập nước vì tất cả đều là những tay bơi cừ khôi.
– Con có muốn tới nghỉ với cha không? – Trong xe, Anna hỏi Katie như vậy.
– Ồ, không đâu. – Con bé choàng mở mắt, làm bộ hoảng sợ. Nó thường xuyên đóng kịch và mọi người hầu như không thể xác định được khi nào là nó thật lòng, nhưng lần này con bé có vẻ bối rối thực sự làm Anna ngạc nhiên hết sức.
Hôm sau trời mưa cả ngày. Đối với Acker, điều đó chẳng thành vấn đề vì cậu có hàng triệu công việc cần phải làm, nhưng Katie thì lại cứ quanh ra quẩn vào với bộ dạng ủ rũ cho tới khi mẹ nó tình nguyện chơi đàn cho nó hát. Thường thì đấy là một sở thích của Katie nhưng hôm nay nó lại không hào hứng chút nào cả. Hai mẹ con chơi hết những bản nhạc mà họ thích, nhưng Katie hát với một thái độ hết sức miễn cưỡng chứ không vui vẻ như thường ngày. Đột nhiên, nó òa lên khóc nức nở. Anna dẫn nó đến bên đi văng, đặt nó lên lòng và ôm chặt lấy nó.
– Nào Katie, con hãy nhìn mẹ đây này, con giấu mẹ như vậy là đủ lắm rồi. Mẹ muốn biết chuyện gì đang xảy ra với con. Con đã mười một tuổi rồi, ôi chao, lớn lắm rồi đấy nhỉ. Đừng khóc nữa đi nào! Con hãy tin vào mẹ. – Anna dỗ dành nó sau một hồi im lặng.
Katie bắt đầu nói vòng vo:
– Chú Kurt sắp ly dị rồi bởi vì cô Madeleine đã bỏ nhà ra đi. Bây giờ Paul sẽ ra sao?
– Gì cơ? Paul sẽ sống với chú Kurt chứ còn sao nữa. Một cô gia sư tuyệt vời tên là Vera sẽ đến trông nom Paul mà. – Cô nhìn nó băn khoăn.
– Thế nếu như mẹ ly dị cha và lấy chú Kurt, thì cha vẫn cứ là cha của con chứ? – Con bé thốt lên.
– Nhưng mẹ đâu có định ly dị cha con và cũng không muốn lấy chú Kurt mà. – Anna nói và cười lớn. – Cái gì đã khiến con có ý nghĩ điên rồ ấy trong đầu thế hả… – Cô cảnh giác ngừng lời. Chỉ mới vài ngày trước đây Kurt mới nói với cô về vụ ly dị chưa được giải quyết. Ngoài họ ra không còn ai biết nữa. Vậy tại sao Katie lại biết? Hôm Kurt đến là ngày Chủ nhật, cô nhớ lại, lúc đó cô đang luyện một con ngựa cái mới trong bãi cỏ. Anh bảo có chuyện muốn nói ngay với cô nên họ đã đi vào chuồng ngựa. Cô cố gắng nhớ lại xem anh đã nói những gì nhưng chỉ có thể nhớ được lý do chính của cuộc nói chuyện hôm đó.
Anh đang rất giận dữ vì sau bảy tháng rời nhà ra đi, Madeleine vẫn cự tuyệt quay về. Anh đã phát hiện ra rằng cô đang sống chung với một nghệ sĩ. Madeleie bây giờ lại quay sang trò vẽ vời và đang dự định mở một cuộc triển lãm tranh. – Anh đang trở thành trò cười cho cả thành phố này. Anh sẽ ly dị cô ta. Sự thực thì tòa đã gửi giấy triệu tập rồi. Trong vòng ba tháng nữa mọi việc sẽ hoàn tất. – Anh bật ngón tay tanh tách. – Ở đất nước này chuyện đấy quá là dễ dàng, nhỉ. – Anh ngoác miệng ra cười – Bây giờ chàng nông dân của em cũng đã bỏ đi rồi, vậy là chẳng còn gì ngăn cản chúng ta nữa phải không?
Anh bắt đầu đi đi lại lại trên mặt sàn bê tông, trạng thái căng thẳng của anh lan sang cả những con ngựa khiến chúng cứ ngọ nguậy không ngừng.
– Em đã do dự nhiều năm rồi, Anna, và anh đã đến được ngã tư của cuộc đời anh. Hoặc là em ly dị Simon để cưới anh, hoặc là anh sẽ bán tất cả để quay trở về Đức.
Anna lúng túng tìm cách thoái thác; bất kỳ lý do gì trừ sự thực. Bọn trẻ cần Simon, André, cần gia đình mình; cô không dám đối mặt với một vụ tai tiếng.
Kurt vận dụng hết tài năng thuyết phục của mình.
– Vụ lai tiếng ư? Lạy Chúa, Anna. Em nghĩ Simon là một thầy tu hay sao? Em nghĩ là không ai biết chuyện Edwina à?
– Thôi đi, anh thôi ngay đi! – Cô rít lên. – Đấy không phải là việc của anh. Em không cần biết.
– Còn Paul thì sao? – Kurt nói xen vào. – Nó cần có một người mẹ, chính em đã nói vậy mà.
– Nó sẽ luôn được chào đón ở đây. – Mặt cô ủ dột.
– Em hãy nghĩ kỹ đi Anna, trước khi quá muộn. Simon lấy em chỉ vì tiền thôi. Anh ta có bao giờ thèm đoái hoài gì đến em đâu, còn anh lại rất yêu em mà. Chúng ta đã từng rất hạnh phúc và chúng ta sẽ lại tiếp tục hạnh phúc. Anh sẽ để em suy nghĩ một tuần nhé.
Cau có, bực bội, anh ép sát cô vào tường và hôn thật mạnh.
– Anh sẽ không bao giờ có thể quên được những đêm chúng ta ở bên nhau. – Anh lẩm bẩm.
– Còn em lại không thể quên Bosluis. – Cô vùng người ra. – Chính vì lỗi của anh mà Simon đã bỏ đi đấy.
Anh giận dữ quay đi, để lại cô trong tình trạng bối rối. Có lẽ chuyện ly dị ảnh hưởng đến anh nhiều hơn anh tưởng, hay cũng có thể đó chỉ là những chấn động tâm lý của tuổi bốn mươi.
Cô không gặp lại anh kể từ ngày hôm ấy, nhưng mỗi khi chuông điện thoại reo vang cô lại thầm mong đó là Kurt.
Anna không thể đợi cho tới khi Flora gọi bọn trẻ đi ăn tối. Cô chạy vào trong chuồng ngựa và tìm quanh. Có thể có một cái gác xép ở đây, cô nghĩ. Trèo lên một chiếc thang, ngó ra xung quanh. Trong một góc khuất, cô trông thấy một cái ổ rơm nhỏ có cả sách vở, bánh kẹo, côca và cả chiếc ống nhòm của ông André nữa. Ôi, kinh khủng quá! Vậy là chúng đã nghe được mọi chuyện rồi.
*
* *
Đêm hôm đó khi đọc truyện cho lũ trẻ nghe, cô lục rất lâu trong tủ sách cho tới khi tìm được bản dịch câu chuyện về chàng Hercules. Câu chuyện dường như thích hợp với mọi thời đại.
– Đấy, các con thấy không, – cô nghiêm nghị nói với bọn chúng. – Rất nhiều người muốn cưới Penelope trong khi Hercules đi xa nhưng cô ấy đều từ chối. Cô ấy đợi cho tới ngày Hercules trở về.
Nhưng có lẽ điều ấy vẫn còn khó hiểu đối với những đứa trẻ mười một tuổi.
– Đàn ông luôn muốn lấy những người phụ nữ cự tuyệt họ. Tất nhiên là không nên cư xử khiếm nhã với họ, nhưng cũng nên dứt khoát. Mẹ chắc chắn sẽ không lấy ai khác ngoài cha của các con đâu – Cô nhẹ nhàng nói.
Acker quay lại phía Katie.
– Anh đã bảo em đừng nói với mẹ rồi mà, em đúng là đồ ngờ nghệch.
– Em có nói đâu. – Cô bé la lên.
– Chắc chắn là em nói rồi. Em thường làm vậy mà. – Cậu nhìn mẹ chăm chú, ra chiều nghĩ ngợi. Cậu yêu mẹ và cả những nhược điểm lẫn ưu điểm của bà. Đó quả là một tình yêu kỳ lạ.
– Đàn bà thật ngốc nghếch, – cậu nói. – Mẹ chỉ cần nói là: Kurt, em không yêu anh tới mức có thể cưới anh đâu. Mẹ sợ chú ấy sẽ cuốn gói ra đi chứ gì? Thật ra mẹ ạ, đó là cuộc đời của chú ấy, chú ấy làm như vậy thì cứ kệ chú ấy thôi.
– Con không thực sự mến chú Kurt phải không? – Cô hỏi, thấy mình thực ngốc nghếch.
– Không. Con không thích chú ấy.
– Nhưng phải có lý do gì khiến con không thích Kurt chứ.
– Mẹ không hiểu được đâu, – cậu trả lời rồi quay mặt đi, kéo chăn trùm kín lên đầu.
Anna ngồi lại và cầm tay Katie cho tới khi con bé ngủ thiếp đi.