Bạn đang đọc Tình yêu trở lại – Chương 37
Chương 37Tác giả: Madge SwindellsH oạt động trục vớt được bắt đầu từ tháng Năm, cho tới tháng Bảy thì những thỏi ni-ken đã được chất thành từng đống trong kho. Tấn ni-ken đầu tiên mang lại một trăm sáu mươi bảng. Công việc tiến triển hết sức thuận lợi. Simon cùng Otto vô cùng lạc quan khi đem tiền tới thanh toán cho ngân hàng. Trông họ dần bớt hốc hác hơn, thậm chí đôi khi còn nhoẻn miệng cười, nhưng từ lúc đó trở đi thời tiết xấu dần khiến cho việc vớt ni-ken trở nên khó khăn và nguy hiểm. Tuy nhiên trong ba tháng đầu tiên họ chỉ lặn có cả thảy mười chín hôm. Mùa đông mà được như thế kể ra cũng không tồi, họ nghĩ vậy.
Mùa xuân đến đem theo những cơn gió đông nam mạnh dữ dội khiến cho vùng biển Nam cực nổi sóng cồn, gió đập mạnh vào chỏm đất tận cùng của châu Phi với tất cả sự tàn bạo nhất mà nó có được. Cây cối oằn người trước những cơn gió, những đợt sóng khổng lồ trượt vào lớp băng trên biển làm những tảng băng vỡ tan ra thành nhiều mảnh nhỏ tạo thành một con đường trên biển. Những ngôi nhà gần biển ướt sũng bởi những tia nước muối. Sau đó tàu bè có thể thả neo, ra vào bến cảng.
Suốt mười bốn ngày trời họ không thể lặn được. Jim la cà quanh các quán rượu với tâm trạng bực bội, nóng lòng được làm việc ngay trong ngày hôm sau. Sang ngày thứ mười lăm, gió đã dịu đi, những người dân Đất Mũi thức dậy trong một buổi sáng mùa xuân huy hoàng, sảng khoái tâm hồn vì thấy trời yên biển lặng.
Otto và Jim hăng hái quay trở lại với công việc. Khi Simon đến vào lúc sáu giờ sáng, anh thấy họ đang lụi cụi chuẩn bị thuyền.
– Này, đừng có vội vàng như vậy. – Anh cảnh cáo. – Vẫn chưa hết gió đâu. Các cậu có trông thấy những đám mây trên ngọn núi Table kia không? Như vậy có nghĩa là gió đông nam sẽ lại tiếp tục thổi nữa đấy.
– Mình chưa thấy một cái gì ngớ ngẩn như việc dự báo thời tiết ở nơi này. – Otto bảo anh. – Mọi người đều coi núi Table như một cái chong chóng chỉ gió.
– Chính thế đấy cậu bạn ạ. – Simon đáp lại. – Bình thường thì mình mặc xác các cậu nếu các cậu có gặp bão ngoài biển, nhưng đằng này lại còn bao nhiêu là trang thiết bị trên thuyền nữa. – Rồi anh đi vào trong lán để ghi giờ đến làm của nhân công.
– Anh nói sao hả Perry? Hôm nay có vẻ như một ngày đẹp trời nhất mà chúng ta có từ suốt mấy tuần nay. Anh có nghĩ cậu ấy đúng về việc gió sẽ thổi trở lại không hả?
– Làm sao tôi biết được! – Perry đáp. – Nhưng tôi cũng chẳng nhìn ra lý do gì khiến Simon phải lo lắng đến thế. Chúng ta chỉ cách bến tàu có mười phút đồng hồ thôi mà, và nếu như có chuyện gì xảy ra thì chúng ta vẫn kịp tấp thuyền vào vịnh Ba Mỏ Neo trong vòng một phút.
– Một lũ ngu! – Simon lầm bầm khi anh trông thấy chiếc thuyền lướt nhanh trên mặt nước phẳng lặng trong vịnh với Otto. Jim, Tom là người đặt đường dây của họ cùng hai người thuộc bộ lộc Xhosa nữa. Anh muốn đi theo họ, nhưng như vậy thì anh sẽ bị muộn ở xưởng chữa tàu.
Tới khoảng giữa trưa khi Simon đang thu dọn đồ đạc, một cơn gió mạnh đột ngột nổi lên làm cho những hộp sơn văng tung tóe và chiếc thang đổ nhào vào đầu một người thợ sơn. Cơn gió hôm nay mạnh khác thường, chỉ trong vòng năm phút nó đã mạnh lên tới cấp mười. Những đợt sóng lớn dội mạnh vào trong vịnh. Khỉ thật! Simon cho thợ nghỉ sớm, thốt nhiên anh nghĩ tới Otto. Lúc này họ đang phải trên đường trở về nếu như họ có một chút linh tính.
Cách ngọn hải đăng Mouille Point năm trăm thước, Otto, Tom và hai người Xhosa đang bám chặt lấy mạn thuyền chống chọi với những ngọn sóng cao tới ba mươi foot cứ bất thần từ đâu đó hiện ra. Họ phải giữ cho động cơ hoạt động hết cỡ để chiếc thuyền không xô vào những tảng đá lởm chởm sắc nhọn như dao bị che khuất bởi những đám hơi nước mù mịt. Có lẽ phải náu tạm vào một tảng đá lớn nào đó thôi, Otto tuyệt vọng nghĩ thầm. Không biết Perry đang làm cái chết tiệt gì ở dưới ấy cơ chứ? Họ đã ra hiệu cho anh ta ngay từ khi cơn gió mạnh đầu tiên xuất hiện suýt làm lật thuyền và cũng thấy anh ta đáp lại bằng cách kéo mạnh dây thừng rồi, vậy mà Perry vẫn không ngoi lên. Sau đó họ còn ra hiệu thêm hai lần nữa.
– Chờ thêm năm phút, – Otto bảo người đặt đường dây, – nếu vẫn không thấy gì thì chúng ta sẽ kéo anh ta lên. – Nói vậy nhưng anh cũng không muốn mạo hiểm vì nếu như ống dẫn khí bị mắc xoắn vào một tảng đá thì Perry sẽ chết ngạt ngay lập tức. Cùng lúc ấy, con thuyền lại bị chao nghiêng đi nhưng vẫn không thấy tăm hơi Peny đâu cả. Cuộc sống của anh ta đang phụ thuộc hoàn toàn vào dòng không khí được bơm xuống qua một ống thở từ chiếc máy bơm trên thuyền. Hai người Xhosa điên cuồng tát nước ra khỏi thuyền trong khi cứ hết đợt sóng này sang đợt sóng khác dội lại bắn tung tóe vào mạn thuyền. Mặt biển lúc này giống như một cái chảo bọt khổng lồ, những cây tảo biển lớn bị sức mạnh của nước đánh bật cả rễ nổi lềnh bềnh giữa những ngọn sóng. Không gian dày đặc những tia nước muối lạnh buốt như đá.
– Kéo đi! Kéo đi! Tôi cảm thấy rồi. – Người đặt đường dây hét lên, Otto liền kéo mạnh. Hai người Xhosa lao tới giúp sức.
Một chiếc mũ sắt trồi lên cách thuyền độ ba chục thước và trên một ngọn sóng dâng cao họ trông thấy Perry nổi lên như một xác chết.
– Kéo anh ta vào đi! – Otto la lên, trong đầu anh nghĩ: Tại sao cái thằng cha trời đánh này lại ngoi lên kiểu ấy chứ? Hắn có thể bị gãy cổ như chơi nếu ngoi lên đúng vào dưới gầm thuyền.
Ba người bọn họ kéo mạnh đoạn dây thừng cho tới khi Perry nổi lên như một con cá voi béo húp bên cạnh mạn thuyền. Con thuyền suýt lật khi họ đỡ anh ta vào. Otto cố hết sức bình sinh để điều khiển con thuyền. Trong khoảnh khắc con thuyền lún sâu vào khoảng lõm giữa hai đợt sóng, họ không còn nhìn thấy ngọn hải đăng đâu nữa. Xung quanh họ chỉ còn là những tảng nước lấp lánh trông như những ngọn núi bằng thủy tinh xanh biếc.
– Chẳng còn làm gì được nữa rồi. – Người đặt đường dây nói. Anh ta đang lóng ngóng với tấm kính trước của chiếc mũ lặn trên đầu Perry.
– Nhanh lên! Quỷ tha ma bắt anh đi! – Otto la lên. – Bơm tiếp đi! – Anh hét lên với hai người Xhosa lúc này đã bỏ mặc chiếc bơm để lao ra tát nước. – Anh dẫn đường đi, – Otto bảo người đặt đường dây. – Tấp thuyền vào vịnh Ba Mỏ Neo! Chúng ta không kịp về bến đâu.
Một giây sau Otto nới lỏng được tấm kính, Peny đã gần như bất tỉnh. Otto rút chiếc mũ sắt ra khỏi đầu Peny. Lần tay vào túi đựng đồ và rút ra một chai rượu mạnh, anh đổ một chút vào giữa cặp môi tím tái. Peny ngộp thở, mở mắt ra và nói:
– Đừng lo cho tôi. Tôi ổn rồi. Anh có nghĩ chúng ta về bờ kịp hay không?
– Chắc chắn là về kịp rồi. Chúng ta đang tấp thuyền vào trong vịnh. Chuyện gì xảy ra với anh vậy? Anh ở dưới ấy lâu quá.
– Tôi bị nước cuốn đi.
– Lẽ ra anh không nên ngoi lên theo kiểu như thế Perry ạ. Tôi đã được chứng kiến nhiều thợ lặn bị gãy cổ vì ngoi lên ngay dưới đáy thuyền.
– Chẳng còn cách nào khác anh bạn ạ. – Perry nhăn mặt lại khi một đợt sóng nhô lên bắn nước tung tóe vào người họ. – Otto ơi! Hãy giúp tôi thoát khỏi cái nơi chó chết này đi! Nếu thuyền bị chìm thì tôi chết mất. Cứ mỗi lần tôi định tìm đường lên thuyền là tôi lại bị nước cuốn đi, có một lần dòng nước xoáy đã cuốn tôi đi xa tới ba trăm dặm ấy. Ở dưới kia biển động ghê quá. – Anh nói tiếp khi Otto kéo đôi ủng nặng trịch ra khỏi chân anh và bắt đầu cởi tới bộ đồ lặn dày cộp. – Như một vụ tự sát vậy. Chừng nào mà tôi còn sống thì tôi sẽ không bao giờ xuống dưới ấy nữa… – Anh ngừng lời khi con thuyền va mạnh vào một con sóng và chao nghiêng đi.
– Quay thuyền lại! – Otto lao tới bánh lái và hướng mũi tàu về phía bờ khi một đợt sóng khác ụp nhào xuống đầu họ.
– Hình như có dòng xoáy ngầm ở dưới kia đấy, – Perry la lên, chỉ cách chúng ta có một tẹo thôi. Lúc đang ở dưới biển, tôi chỉ cầu mong sao ình không bị va phải những tảng đá chết tiệt ấy đấy. Lẽ ra các anh nên kéo tôi lên sớm hơn mới phải.
– Anh không ra hiệu.
– Tất nhiên là tôi có rồi. Liên hồi ấy chứ. Các anh không nhận ra vì sóng ngầm đấy mà. Lạy Chúa! Tôi đã nghĩ là mình chết đến nơi rồi. – Đột nhiên anh nghiêng người qua một bên và nôn thốc nôn tháo.
Một trong hai người Xhosa đang cố la hét để át đi tiếng ầm ấm của gió: “Sai đường rồi, ông ơi, sai đường rồi”.
– Anh có biết những tảng đá nằm ở đâu không? – Otto hỏi to.
Hẻm núi dẫn vào trong vịnh đang ở đâu đó bên phải mạn thuyền, nhưng những tảng đá đã bị che khuất sau những tầng nước. Anh chàng Xhosa đưa tay chỉ, nhưng đúng lúc đó một đợt sóng lớn khủng khiếp ụp nhào xuống rồi nhấc bổng họ lên. Trong một phút, quá hoảng sợ, tất cả bọn họ đều cảm thấy như mình bị tóm lên trời bởi một cánh tay khổng lồ. Cơn sóng rút đi, con thuyền rơi bụp xuống một dải cát, ngay bên dưới một gờ bê tông cao ngăn cách những ngôi nhà trên bờ với biển.
Họ ngồi im sững sờ đến vài phút. Rồi Otto đứng dậy.
– Kỳ lạ! – Người đặt đường dây lẩm bẩm. – Kỳ lạ quá nhỉ!
– Chao ôi, trời giúp chúng ta rồi! – Otto reo lên, đưa tay gạt mồ hôi đang chảy ròng ròng trên mặt. – Về được bờ rồi, yên ổn rồi. Có ai làm sao không hả?
– Không, ông ạ.
– Anh ổn chứ, Perry?
Perry đang phải chống chọi với cơn đau nhức ở hai bàn tay bởi vì khi mà sự tê cứng mất đi thì anh mới nhận ra những cơn đau khủng khiếp. Các ngón tay của anh phồng rộp khi anh cố bám vào sợi dây thừng ở dưới biển, lớp da ở lòng bàn tay trầy đi hết và có mấy đốt xương bị gãy.
– Đưa cho anh ta thêm một ít rượu đi. – Otto nói. Khắp người Perry đầy những vệt tím tái.
– Chỉ là những vệt thâm tím thôi mà, chẳng có gì bị gãy ngoại trừ mấy đốt ngón tay. – Otto bảo Perry nhưng anh đang vã mồ hôi, kêu lên tiếng kêu thảm thiết như một con thú bị dồn vào bước đường cùng và sau đó anh bắt đầu rên rỉ.
– Chúng tôi sẽ đưa anh tới bác sĩ. – Otto bảo anh.
– Tôi cóc cần bác sĩ! Tôi chỉ cần thêm một chút cái thứ rượu chết liệt kia thôi! Này lũ con hoang, lấy rượu ra nhanh lên trước khi tao kịp đá văng đầu của chúng mày đi!
Vừa lớn tiếng chửi rủa, Perry vừa nhăn nhó chịu đựng những cơn đau đang dồn dập tấn công.
– Có lẽ tôi quay trở lại nước Anh thôi. – Đêm hôm đó Perry nói với Simon và Otto trong một quán rượu nhỏ nơi họ tới để ăn mừng sự trở về an toàn từ cơn bão biển gớm ghiếc. – Các anh cứ việc ở đây mà hưởng ánh mặt trời và những bữa rượu rẻ tiền. Còn tôi, tôi sẽ trở về nhà và sống như ngày xưa thôi.
Suốt mấy ngày liền họ cố gắng thuyết phục Peny trong khi đi tìm người thay thế, nhưng Perry vẫn rất cương quyết. Anh rời đi trên chuyến tàu biển đầu tiên cập bến, và họ chẳng tìm được một thợ lặn lành nghề nào trong khắp cả một vùng rộng lớn của Nam Phi.
*
* *
Anna đang ở trong bãi cỏ giúp lũ trẻ luyện ngựa khi Vera Mankowitz tới để đón Paul về Constantia. Anna không mong chờ cô ta vì Kurt đã tránh đề cập tới vấn đề này. Anh để mặc cho Vera tự xoay xở theo cách tốt nhất mà cô ta có thể.
Anna quan sát người đàn bà trẻ có vẻ rất đoan trang đang nghiêng người qua dãy hàng rào và vẫy tay với bọn họ. Một kẻ kình địch khác chăng? Anna nghĩ bụng, nhưng người này cô có thể loại bỏ một cách dễ dàng. Rõ là cô ta không thuộc tầng lớp của cô rồi. Cô yêu Paul như yêu chính hai đứa con đẻ của mình vậy, cô hiểu rõ khát vọng mãnh liệt của nó. Nó cũng giống cô, cũng là một kẻ sống sót. Kurt thật khắc nghiệt khi bắt nó đi khỏi nơi này.
– Cô có muốn cưỡi ngựa không? – Cô hỏi Vera một cách đầy dụng ý. Trong giây lát cô hình dung ra tảng “mỡ lợn” kia phải cố đến thế nào để giữ thăng bằng trên lưng ngựa. Cô ta sẽ rơi xuống đất và tan chảy trong ánh mặt trời.
– Tôi chưa bao giờ thử cả, thật không may. – Cô ta nói với vào.
– Thật à? Cô không biết cưỡi ngựa à? Tiếc quá nhỉ! Paul thích cưỡi ngựa lắm đấy.
– Có lẽ cậu ấy sẽ dạy tôi. – Cô gái vừa nói vừa mỉm cười, và trước sự khó chịu của Anna, Paul cũng cười đáp lại.
– Nhưng cũng chẳng được. – Anna tiếp tục. – Tất cả khu chuồng trại của Constantia đều trống trơn, làm gì có con ngựa nào.
– Paul có thể giữ con ngựa con của mình, cả chó hay bất cứ thứ gì mà cậu ấy thích. – Đôi mắt nâu của Vera rạng rỡ sau cặp kính gọng thép dày cộp. – Có phải vậy không Paul? – Cô ta sôi nổi nói to nhưng Paul không trả lời.
– Vấn đề là, giọng của Anna nghe có vẻ khắc nghiệt hơn, – phải có một ai đó biết cách chăm sóc chúng chứ.
– Chà, nếu như Paul không thể chăm sóc các con vật của mình thì cậu ấy không xứng đáng được nuôi chúng.
– Tất nhiên là cháu biết cách mà.
– Cậu có dạy tôi không hả Paul? Tôi chưa bao giờ nuôi ngựa hoặc nuôi chó cả.
Paul không trả lời. Cậu đưa cặp mắt tò mò nhìn Vera. Anna đã báo trước cho cậu biết về việc Kurt thuê người để trông nom cậu và cậu đã hy vọng một ai đó già dặn hơn, giống như một cô giáo hơn là người đàn bà phúng phính, đầy mụn nhọt với cặp kính dày cộp này. Ở cô ta có một vẻ gì đó như rất ham sách vở. Trong mắt cô ta sáng bừng một nhiệt tình ham hiểu biết. So với cậu, cô ta chỉ là một đứa trẻ, cậu kết luận như vậy. Paul cảm thấy mình vô cùng già dặn, già dặn hơn hai đứa trẻ “sinh đôi”, già dặn hơn bất cứ cậu bé nào trong trường. Cậu hiểu rõ những trò chơi của người lớn nhưng lại không muốn tham gia vào bất kỳ trò nào cả. Cậu không hiểu tại sao, nhưng bất cứ ai muốn làm thân với cậu đều phải rút lui trong thất bại. Nếu như một người đàn bà cố tỏ ra yêu thương cậu, hay một đứa trẻ muốn được kết bạn với cậu thì họ sẽ tỏ ra hết sức ủy mị, thậm chí còn đáng thương hại nữa là đằng khác. Nhưng họ càng cố đi xa hơn thì họ lại càng trở nên gớm guốc hơn, như trường hợp của Madeleine. Chỉ có mình cô Anna là thành công bởi vì cô ấy rất cứng rắn và nghiêm khắc, chỉ thỉnh thoảng mới tỏ ra niềm nở. Cậu chưa bao giờ nghĩ ra điều này, cậu không hiểu được rằng chiến tranh đã khiến cho cậu sợ hãi với những trò mạo hiểm mới. Mọi chuyện đều đã được chôn sâu trong tiềm thức của cậu rồi. Tất cả những gì cậu biết bây giờ là tình bạn thật đáng sợ và cũng hết sức nhạt nhẽo vô vị. Vera là một người đàn bà đơn giản với một bộ óc chứa đầy kiến thức, và cô ta đang muốn truyền đạt hết cho cậu. Cậu có thể sẽ trở thành một con chuột trong phòng thí nghiệm, nhưng cô ta không tỏ ra nguy hiểm.
– Có thể. – Một lúc sau Paul mới đáp, rồi cậu quay đi, cho ngựa chạy nước kiệu sang đầu kia bãi cỏ nơi hai đứa trẻ đang chờ.
Anna quay sang Vera:
– Mời cô vào nhà uống một chút trà, – cô nói nhanh.
Vera mỉm cười.
– Cám ơn, nhưng tôi muốn được quan sát Paul trước đã. Tôi sẽ vào sau.
Anna chậm rãi đi trở vào nhà, trong lòng rối bời. Kurt đã thắng, cô buồn rầu nghĩ. Nhưng liệu có bao giờ anh ấy hiểu được rằng Paul đâu cần tới cái bánh mì kẹp nho khô kia chứ.
*
* *
Một buổi tối Chủ nhật, như thường lệ, Otto và Simon đang ngồi trong văn phòng của mình đặt kế hoạch làm việc cho tuần tới. Vấn đề rắc rối của họ vẫn là lo tiền để trả cho công nhân và mua số sơn mà họ cần.
– Bây giờ mà bỏ cuộc thì cũng không được, – đột nhiên Otto nói. – Chúng ta phải vớt cho bằng được số ni-ken đó. Cậu thử nghĩ mà xem, số ni-ken ấy nằm im dưới đáy biển, chỉ chờ được vớt lên. Khỉ thật! Simon, đó là ni-ken của chúng ta mà. Ôi Chúa ơi, giá mà Perry…
– Đúng vậy, nếu được thế thì còn gì bằng.
Otto nhìn trừng trừng vào Simon. – Cậu nói dối.
– Thôi câm đi, Otto! Cậu đừng có mà phỉnh phờ mình nữa đi. Mình đã trông thấy cái bản mặt của các cậu lúc các cậu dạt được vào bờ rồi. – Simon đổ vào miệng một chút bia rồi nói tiếp. – Cậu nói đúng, đó là ni- ken của chúng ta và chúng ta đang cần tiền, nhưng chính mình sẽ là người lặn xuống. Mình rất giỏi môn đó. Mình đã lặn từ khi còn là một thằng nhóc cơ. Mẹ mình thường sai mình lặn xuống biển để mò tôm cho bữa tối và mình không được phép về nhà cho đến khi mò được. Cậu bạn ơi, nước lúc nào cũng lạnh buốt. – Anh uống một ngụm đầy bia từ lon. – Phải thừa nhận rằng mình không biết nhiều về các trang thiết bị phục vụ cho việc lặn nhưng mình sẽ học.
Otto thở dài và lắc đầu:
– Thật chó má, – anh nói. – Mình lại chẳng biết tí gì về sửa chữa tàu thuyền cả. Cậu lại là một thiên tài về máy móc động cơ. Chúng ta sẽ sạt nghiệp mất thôi nếu như cậu để mình điều hành đám thợ da đen ấy. – Anh nghĩ một thôi một hồi rồi lại lắc đầu. – Không, không thể như vậy được. Mình sẽ là người lặn xuống dưới ấy cho đến khi chúng ta tìm được người thay thế Perry.
Simon im lặng. Anh chưa từng trải qua những gì mà Otto đã phải chịu đựng dưới biển nhưng cũng được nghe kể nhiều về cảm giác ấy rồi. Họ đang hoạt động rất có quy củ trong lĩnh vực sơn và sửa chữa tàu thuyền, và nếu như không vì cần tiền để đầu tư mua sắm trang thiết bị thì họ đâu đến nỗi khốn khổ thế này.
– Thôi được rồi, nhưng cậu phải hứa với mình là sẽ tin tưởng vào khả năng dự báo thời tiết của mình cơ. – Anh nói. – Mình biết rõ về biển và quy luật hoạt động của thủy triều ở vùng biển này. – Suy cho cùng, anh nghĩ, thì Otto cũng không thể gặp nguy hiểm ở một chỗ nước cạn như vậy.
*
* *
Edwina dè dặt để chồng hóa đơn lên mặt bàn. Otto vô cùng xấu hổ khi phải trông thấy cô buồn bã tới dường kia. Từ nhiều tháng nay gia đình anh đã phải từ bỏ lối sống sung túc; thậm chí tới mức những thứ tối cần thiết nhiều khi cũng vượt quá khả năng tài chính của họ. Anh biết rằng cô chỉ đưa ra những tờ hóa đơn khi mà cô không còn cách nào khác; thường thì cô cất chúng rất kỹ. Anh đứng dậy và đặt một tay lên vai cô.
– Đừng lo, em yêu, mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi. Trong vòng hai năm nữa chúng ta sẽ được đền bù lại quãng thời gian phải chi tiêu tằn tiện này.
Cô mỉm cười, trông xanh xao và ủ rũ. Tóc tai cô rối bời còn quần áo thì xơ xác. Cô cũng đã cố gắng tìm cho ra một người giữ trẻ có thể trông nom được hai bé gái để cô rảnh rang ra ngoài kiếm việc làm nhưng chẳng có ai là đạt yêu cầu của cô cả. Những phụ nữ khác một khi muốn đi làm thì đều phải bỏ con lại cho những vú em da đen nhưng Edwina lại không muốn thế. Rosemary mới được mười tám tháng và Margaret thì cũng chỉ hơn ba tuổi. Cô không thể nghĩ tới việc giao chúng ột bàn tay thiếu kinh nghiệm chăm sóc.
– Bọn anh sẽ trở lại vớt ni-ken vào sáng ngày mai nếu như thời tiết tết. Mọi việc rồi sẽ ổn cả thôi mà. – Anh chờ đợi những lời hỏi han nhưng Edwina chẳng buồn để ý đến việc ngụp lặn ấy.
Sự việc xấu hơn là mình tưởng, Otto nghĩ bụng khi anh nằm trên giường đêm hôm đó. Nhưng có lẽ vài hôm nữa thì mình sẽ quen thôi mà.
Anh đã lầm. Mọi việc dường như còn tồi tệ hơn anh hình dung rất nhiều. Cảm giác bị cô lập khi anh mặc vào người bộ đồ lặn thật là khủng khiếp, anh sẽ không thể nào gỡ nó ra được khi không có người giúp đỡ. Như là người bị cầm tù vậy! Khi họ chụp chiếc mũ sắt ấy lên đầu anh và chuẩn bị siết ốc vít ở mặt kính thì anh chỉ muốn cất tiếng van xin họ đừng làm như vậy, nhưng lời nói không bật ra được và anh chỉ còn biết đưa cặp mắt buồn rười rượi nhìn về phía chân trời. Anh đứng lên, kéo lê đôi chân nặng trịch trong bộ đồ lặn. Tom ra ý động viên khi chiếc thuyền quay mũi sang bên. Anh muốn nói một điều gì đó nhưng không thể. Giọng nói của anh cứ lùng bùng sau tấm kính mờ đục và mọi liên lạc giữa anh với thế giới bên ngoài bây giờ duy nhất là một sợi dây thừng. Áp lực của nước làm tai anh ù đi và đau nhức. Anh dừng lại một phút để chỉnh van, rồi bằng một nỗ lực vô cùng to lớn anh rời tay khỏi chiếc thang, nhìn lên mặt nước lúc này tựa như trần nhà màu trắng sủi bọt đang lùi xa dần. Anh chạm chân xuống đáy biển, cúi gập người ra phía trước và chạm tay xuống đất. Lớp trầm tích dâng lên quanh anh thành một đám mây dày đặc rồi lại từ từ lắng xuống. Tiếng không khí rít bên tai anh và một mùi hôi nồng nặc xộc thẳng vào mũi. Lạy Chúa! Làm sao mà Perry lại có thể chịu đựng được mà không hề ca thán nhỉ? Lần lặn sau anh sẽ bắt lũ mọi rợ chết tiệt trên kia phải tắm trước khi chúng chạm lay vào máy bơm mới được. Không khí mà bọn chúng bơm xuống cho anh thở nồng nặc mùi mồ hôi lưu cữu. Hai tay anh bắt đầu lạnh buốt vì những dòng chảy ở vùng Nam cực này quanh năm giá băng ngay cả trong mùa hè. Chẳng mấy chốc những ngón tay của anh bắt đầu tê cóng.
Lúc này nỗi sợ hãi lại càng trở nên tồi tệ hơn. Khắp người vã đầy mồ hôi và run bắn, anh trông thấy hàng tấn nước biển chỉ chực đè anh bẹp gí và những mối nguy hiểm thì đang lẩn lút quanh quẩn đâu đây. Anh gần như không cưỡng lại được sự thôi thúc muốn nổi lên trên mặt nước.
– Lạy Chúa, xin Người hãy cho con thêm sức mạnh để vượt qua thử thách này. – Anh buộc mình phải nghĩ tới Edwina và những đứa con đang trông đợi anh mang tiền trở về. – Không có ni-ken, – anh nói to với chính bản thân mình, giọng anh nghe thật kỳ quặc, the thé và ngân vang, – gia đình mình sẽ chết chìm mất thôi.
Anh chậm chạp quay người lại, nhìn đường dẫn không khí, một ống cao su dày được gia cố thêm bằng một tấm lưới sắt bao bên ngoài đang dập dờn theo sóng biển. Anh thận trọng để không bị vướng vào đó. Sợi dây thừng quấn chặt lấy cổ tay anh – sợi dây nối anh với cuộc sống. Ba người trên thuyền kia sẽ kéo sợi dây đó để đưa anh lên mặt nước trong nháy mắt. Ý nghĩ đó khiến anh vững lòng hơn. Anh nhìn xuống hai bàn tay mình: trông chúng lúc này trắng bệch và nhỏ nhoi vô cùng. Từng đàn cá con bơi lội xung quanh những con cá mập. Đã đến lúc phải đi thôi, nhưng hai đầu gối của anh yếu ớt chỉ chực khuỵu xuống. Rồi chợt thấy rằng đó chỉ là do mình đang quá hoảng sợ, anh lấy lại can đảm, cố gắng nhấc chân lên bước trên mặt đất gồ ghề trong một cuộc tìm kiếm ni- ken chán ngắt và dài đằng đẵng.
Mấy phút sau anh tìm được ống ni-ken lớn đầu liên. Anh kéo mạnh vào sợi dây thừng và chờ đợi. Rồi anh trông thấy đáy của con thuyền, một bóng đen to tướng, từ từ tiến lại làm bọt sủi tung ở phía trên chiếc mũ sắt của anh, thấy rõ cả những mái chèo đang khua nước. Một chiếc giỏ được thả xuống. Otto đổ đầy ni-ken vào đó rồi nhìn nó từ từ được kéo lên trên. Cứ như vậy, anh nhặt từng thỏi ni- ken sáng loáng lên trong nước bỏ vào giỏ. Cuối cùng, đống ni-ken đó cũng hết, anh bắt đầu đi tìm một đống mới. Anh hướng mắt về phía tảng đá lớn nơi anh biết chắc có xác tàu nằm. Ở đó chắc chắn có rất nhiều ni-ken, nhưng không phải hôm nay. Ôi không! Một ngày nào đó khi anh vững tâm hơn và thành thạo hơn với công việc này. Anh ngoặt về phía nam, năm phút sau lại trông thấy một đống ni-ken khá lớn. Con thuyền lại tiến đến, chiếc giỏ lại được thả xuống.
Ngày trôi qua một cách chậm chạp. Otto cầu mong cho nó chóng hết để được lên trên. Đồng hồ chỉ ba giờ đúng, anh khóa van lại và từ từ ngoi lên mặt nước. Vài giây sau, anh đã trèo được vào thuyền. Tom vội vã tháo tấm kính trước mặt anh ra.
– Chúa ơi, tôi đã làm được. – Otto nói, hít một hơi thật sâu làn không khí trong lành và mát rượi.
– Tom này, có lẽ lần sau anh nên chú ý tới những người điều khiển máy bơm hơn. – Anh nói. – Mùi hôi thối khiến tôi suýt chết ngạt đấy. – Anh chửi thề một câu khiến Tom há hốc miệng ra vì kinh ngạc. Trước đây Otto chưa bao giờ chửi bậy cả. – Tôi cần phải được thở không khí trong lành, – anh nói thêm.
Tom sững sờ nhìn anh.
– Tôi không bao giờ nghĩ về chuyện ấy cả, – anh nói. – Perry chẳng ca thán bao giờ.
Lúc này khi đã được an toàn, người Otto bắt đầu run bắn. Hai bàn tay anh tê cóng, thâm tím và nhăn nheo. Sau đó, khi sức sống đã trở lại với chúng thì cũng là lúc những cơn đau bắt đầu dội lên. Cho tới bốn giờ chiều hôm đó thì anh cảm thấy đau buốt tới từng đầu dây thần kinh. Chân tay anh bắt đầu giật mạnh như một con rối, một bên mắt bắt đầu co cứng lại. Simon từ xưởng tàu trở về kêu lên. – Trời đất ơi, nhìn cậu kìa! Hãy từ bỏ công việc ấy đi, vì Chúa!
Anh đưa cho Otto một chai rượu brandy. Otto dốc thẳng vào miệng một ngụm thật lớn. Khi dòng rượu cay nồng chạy xuống tới cổ họng, nó khiến anh cảm thấy dễ chịu hơn đôi chút, nhưng như vậy vẫn chưa đủ. Anh rót ra một cốc thật đầy.
Edwina ngạc nhiên khi trông thấy Otto trở về nhà sớm hơn thường lệ. Cô nhận rõ có điều gì đó không ổn.
– Cái gì vậy hả? Chuyện gì xảy ra thế?
– Chẳng có gì đâu. – Anh ngắt lời và giận dữ quay về phía cô.
– Nhưng anh làm sao vậy?
– Lạy Chúa, cô câm ngay đi cho tôi nhờ, đừng có rên rỉ như thế nữa!
Trước đây anh chưa bao giờ nói với cô bằng giọng như vậy. May sao căn nhà họ ở lại có hai phòng và cô có thể đi sang phòng bên cạnh để đặt hai đứa bé gái lên giường. Cô nán lại đó lâu hơn thường lệ để đọc cho Margaret nghe một vài câu chuyện.
Khi cô trở lại phòng khách thì Otto đang ngồi uống rượu whisky nguyên chất, và nhìn vào chai cô có thể đoán ra được anh đã uống khá nhiều. Chẳng giống với Otto tẹo nào.
– Nếu như anh cứ uống rượu với cái bụng trống rỗng thế kia thì anh sẽ bệnh mất thôi. Anh có muốn ăn trứng rán không? Em xin lỗi, nhưng đó là tất cả những gì mà chúng ta có hiện giờ. Hay món ốp-lết nhé?
– Đừng có xin lỗi nữa đi, – anh gầm gừ. – Khi cô xin lỗi trông cô thật đáng ghét. Tại sao cô không nói thẳng toẹt ra rằng chúng ta chỉ còn mỗi trứng để ăn vì tôi không đưa đủ tiền cho cô hả?
– Em có ca thán gì đâu! – Cô nhẹ nhàng nói, trong lòng hết sức lo ngại.
– Vâng, nhưng tôi lại muốn cô ca thán cơ, – anh hét lên. – Như vậy tôi còn thấy dễ chịu hơn đấy.
Anh rót thêm rượu ra cốc nhưng Edwina đã nhoài người ra lấy cốc rượu khỏi tay anh. Đặt chiếc cốc lên mặt lò sưởi, cô nói:
– Hãy ăn trước đã, rồi sau đó cứ việc mà uống đến sáng. Nhưng dù có chuyện gì xảy ra đi chăng nữa thì rượu cũng chẳng giúp ích được gì đâu.
– Em nói sai rồi, – anh lẩm bẩm. Rượu cực kỳ có ích vì hàng triệu đầu dây thần kinh đang đau nhức của anh dần trở nên tê dại đi một cách dễ chịu bởi chất gây ngủ có trong rượu. Trạng thái căng thẳng dần biến mất khỏi tay, chân và lưng anh. Anh biết là anh đã say rồi, nhưng thà say còn hơn phải chịu đựng cảm giác sợ hãi, sợ hãi những ngày tháng đang trải ra trước mắt anh với tám tiếng đồng hồ mỗi ngày dưới đáy biển. Bốn trăm tám mươi phút mà dài như cả trăm năm ấy. Anh cũng biết rằng anh phải tiếp tục làm ít nhất là cho tới khi những thỏi ni-ken được vớt hết lên.
– Mong sao mình có thể chết được, – anh lẩm bẩm. Thình lình anh ném mạnh chiếc cốc vào bức tường đối diện. Chiếc cốc vỡ tan thành từng mảnh nhỏ, cào rách cả lớp giấy dán tường rồi rơi vung vãi xuống đất. Trước sự ngạc nhiên của anh, Edwina lẳng lặng lấy chổi và bắt đầu quét dọn những mảnh vỡ.
– Ôi Chúa ơi, – anh lắp bắp. – Anh xin em, anh xin em đừng làm như vậy. – Anh giằng lấy chiếc chổi từ tay cô và bắt đầu nhặt nhạnh những mảnh vỡ, một mảnh cứa sâu vào tay anh bật máu.
Đột nhiên Edwina không còn giữ được bình tĩnh nữa.
– Lạy Chúa, Otto, anh say mất rồi! – Cô khóc nức lên. – Thôi cứ để nó ở đấy đi, em sẽ không ca thán gì đâu. Hãy để em làm việc đó, chỉ có điều xin anh hãy nói cho em nghe chuyện gì đã xảy ra.
Nhưng Otto đã đi vào phòng trong và chẳng bao lâu anh lăn ra ngủ say như chết.
Đối với Otto cuộc đời này đã biến thành một cơn ác mộng, nhưng anh lại quá xấu hổ khi phải thừa nhận điều đó với người khác, đặc biệt là với Edwina và Simon. Làm sao một người lớn như anh lại có thể sợ nước đến thế? Nhất lại là một cựu thủy thủ. Anh đã từng phải đối mặt với hàng tá tàu ngầm của Đức trong cái bộ đồ lặn đáng sợ ấy. Mặc dù đã hỏi ở rất nhiều công ty trên khắp thế giới nhưng họ vẫn không thể tìm được một thợ lặn lành nghề nào muốn tới làm việc ở Nam Phi. Mà không có ni-ken thì họ sẽ bị phá sản. Anh cần phải lấy lại tinh thần. Ngày mai, anh sẽ tới chỗ xác tàu.
Sớm hôm sau khi Otto lặn được xuống đáy biển, anh trông thấy những con cá mập bơi sát qua, một con còn huých mạnh vào người làm anh lảo đảo chới với trong nước. Anh quỳ xuống rút dao ra, định bụng nếu con vật có quay trở lại sẽ đâm thẳng vào bụng nó. Nhưng con cá mập chỉ lảng vảng ngoài xa. Hôm nay nước trong một cách khác thường. Otto xúc đầy mấy giỏ ni-ken trước khi dấn bước về phía những mỏm đá cao. Với chiếc thuyền dài đi theo lơ lửng phía trên đầu, Otto thận trọng bước dọc những tảng đá thấp và bắt đầu trèo vào nơi xác tàu đang nằm.
Chiếc tàu thủy cũ nằm lật nghiêng giữa một đám những tảng đá lởm chởm kéo dài tới tận ngọn hải đăng. Bên dưới nó là tàn tích của những xác tàu còn cũ kỹ hơn nhiều. Có một vết cắt dài và sâu ở phần thân tàu, nhưng ở phía đuôi thì hầu như còn nguyên vẹn. Những chỗ khác đã bị phá nát bởi sức mạnh của những dòng chảy ngầm. Anh rón rén bước vào phía trong. Ni-ken nằm rải rác nhưng không nhiều lắm, áng chừng chỉ đủ cho vài ngày làm việc thôi. Phần còn lại có lẽ ở trong khoang tàu. Anh do dự bước qua lỗ thủng đen ngòm để trèo vào bên trong. Một đám mù trầm tích dâng lên che khuất tầm nhìn của anh. Anh thấy chân mình trượt trên một vật gì đó trơn tuột đang quằn quại. Khi đám trầm tích đã lắng xuống, anh nhìn thấy hàng chục, hàng trăm con cá chình đang bò lúc nhúc giữa những mảnh vỡ. Anh có thể hiểu được tại sao và đột nhiên cảm thấy buồn nôn. Một điều gì đó ở nơi này khiến anh ghê sợ. Anh giật dây ra hiệu rồi bước ra ngoài những tảng đá. Khi chiếc giỏ được thả xuống, anh quay trở vào, vội vã nhặt ni-ken xếp đầy giỏ.
Phía bên ngoài, những con cá mập vẫn đang lơn vởn như thể chờ đợi. Giống như lũ kền kền đang chờ đợi một người chết vậy, Otto nghĩ bụng.
Đến lần thứ ba sau khi chiếc giỏ được kéo lên thì anh không thể chịu đựng được nữa. Anh đóng van để ình nổi lên trên mặt nước. Hai chân hai tay dang ra như cánh đại bàng, anh va mạnh vào mũi thuyền, vai đau nhói như bị trật khớp. Khó khăn lắm họ mới kéo được anh lên thuyền.
– Chuyện gì vậy? – Tom hỏi khi họ đã tháo được tấm kính chắn trước mặt anh ra.
– Cá mập. – Otto đáp. – Và cả cá chình nữa, hàng trăm con.
– Tôi chưa bao giờ nghe nói cá mập tấn công thợ lặn cả, chúng sợ bọt bong bóng lắm. Nhưng anh phải cẩn thận những ngón tay anh với lũ cá chình nhé!
– Được rồi. – Otto nói và rùng mình.
– Chà, tôi cho như vậy là đủ cho ngày hôm nay rồi, có phải vậy không? – Tom hỏi tiếp nhưng Otto cảm thấy ngượng nên vẫn khăng khăng đòi xuống tiếp.
Bây giờ, chẳng còn thấy bóng dáng con cá mập nào nữa nhưng lần lặn thứ hai này còn tồi tệ hơn lần đầu khi anh buộc mình phải trèo vào bên trong xác tàu và làm đầy những chiếc giỏ với thứ kim loại chết tiệt ấy. Một lần nữa, đám cá chình lại bò nhung nhúc quanh chân anh.
Chiều hôm đó, vừa về đến nhà là Otto vớ ngay lấy chai rượu. Chẳng kịp chào hỏi vợ con lấy một câu, anh nuốt chửng từng ngụm rượu lớn và cứ uống mãi cho tới giờ lên giường đi ngủ. Những cơn ác mộng ập đến ngay khi anh vừa chợp mắt. Anh rền rĩ, vật vã chân tay, thậm chí một lần còn đấm cả vào người Edwina như thể đấm vào một kẻ thù vô hình vậy.
Ngày hôm sau, trong cơn liều lĩnh tuyệt vọng, Edwina dốc hết tất cả số rượu họ có trong nhà xuống cống. Và khi Otto quay trở về tối hôm đó, anh thấy tủ rượu trống trơn.
– Em đổ hết đi rồi. – Edwina nghiêm nghị nói. – Chẳng còn tí rượu nào trong nhà nữa đâu. Anh đã trở thành một gã nát rượu mất rồi.
Otto trừng trừng nhìn Edwina với vẻ thất vọng. Cô ấy đâu thấu hiểu những gì mà anh sẽ còn phải chịu đựng cho tới khi công việc này kết thúc cơ chứ. Không, anh có thể nhìn thấy trên khuôn mặt của cô rằng cô sẽ không bao giờ hiểu được. Anh quay đi, lẳng lặng rời khỏi nhà và chỉ trở về vào lúc nửa đêm. Từ hôm đó anh dành hết những buổi tối của mình lê la ngoài quán rượu.