Bạn đang đọc Tình yêu trở lại – Chương 15
Chương 15Tác giả: Madge SwindellsS “ẽ tới và thứ Hai” bức điện thông báo. “Nhớ cháu nhiều. Chú Acker”.
Anna đã đọc đi đọc lại bức điện tới cả chục lần. Cô nóng lòng muốn gọi điện tới vùng Tây Nam cho chú nhưng cuối cùng lại thôi. Thôi cứ để chú ấy đến, Anna nghĩ vậy. Cô tin chắc rằng cha mẹ cô giờ vẫn còn đang ở nước ngoài đã nhờ chú Acker tới đây để xem cô sinh sống thế nào.
Sau bữa lối thất bại với Kurt Friedland, cô đã mua thêm hai cái ghế, một cái bàn ăn và một giường đơn ở chợ bán đồ cũ Malmesbury. Và vì không muốn gặp lại Kurt nữa nên cô tránh tới mua bán ở cửa hàng của ông Olivier.
Thực ra, Anna cũng phải miễn cưỡng bỏ tiền ra để mua sắm những thứ đó bởi vì cô đang muốn dành tiền mua thêm bốn nghìn con gà con. Thời gian qua quả là bận rộn, cô phải chuẩn bị lò ấp trứng và trồng thêm bốn thửa ruộng ngô để làm thức ăn cho gà.
Chú Acker không nói rõ sẽ tới đây như thế nào, bằng xe buýt hay bằng tàu hỏa. Cô tới ga hỏi thăm và được biết rằng một tuần chỉ có hai chuyến tàu tới đây vào ngày thứ Ba và thứ Năm. Vì vậy, Anna lại quay sang làm việc như thường lệ. Lau và phân loại trứng là một công việc đòi hỏi hầu hết thời gian của cô. Mặc dù vậy, bức điện cũng đã làm đảo lộn hết những thói quen hàng ngày của Anna. Cô vẫn nghĩ tới chú Acker và khó khăn lắm mới tập trung vào công việc. Những ngày nghỉ ở nhà chú Acker mới tuyệt làm sao. Mặc dù phải đi săn để kiếm sống nhưng chú ấy vẫn dành thời gian để dạy cô cách săn bắn, cách tìm dấu vết trong những bụi cây. Trên hết, cô rất thích được chăm sóc lũ thú hoang mà chú đã bẫy được và đang thuần hóa. Đó là những con chim, bầy hươu nai, mèo rừng và có lần là cả một con báo con nữa. Khi ở nhà mình hay ở trong rừng, trông chú thật thông minh lanh lợi. Sự rụt rè biến mất, nhường chỗ cho khả năng giao tiếp với thiên nhiên. Còn trong những chuyến viếng thăm hiếm hoi tới Fontainebleu, chú trở nên vụng về, ít nói, thường xuyên va vấp vào một thứ gì đó. Dù thế nào, Anna vẫn rất thích chú… Thế mà lúc này đây, lần đầu tiên trong đời, cô không muốn gặp chú.
Ngoài việc bảo Lena nướng một mẻ bánh sữa và quay một cái đùi cừu cô không có thêm một sự chuẩn bị đặc biệt nào để đón chú Acker cả. Mặc dù vậy, suốt cả ngày hôm đó cô ngóng đợi một tiếng xe và đã vài lần tưởng rằng mình nghe thấy, nhưng hóa ra đó chỉ là tiếng máy cày của Simon đang ngoan cố cày mảnh đất trồng lúa mì ở cách đó hai dặm. Anh ấy mới ngu ngốc, mới bướng bỉnh làm sao. Họ đã có một cuộc khẩu chiến gay gắt về việc năm nay có trồng lúa mì hay không. Anna thì kịch liệt phản đối. Giờ đã có nước rồi, họ có thể phát triển đàn bò sữa – như vậy hay hơn. Thế nhưng Simon vẫn tâm niệm muốn có một trang trại trồng lúa, và anh dồn toàn bộ tâm trí và sức lực vào việc đó.
Rồi cũng có tiếng một chiếc xe tiến lại gần. Anna nín thở vì sợ hãi; có quá nhiều suy nghĩ phức tạp đang nhảy nhót lộn xộn trong đầu cô. Liệu chú Acker đã nghe mẹ kể chuyện về mình chưa nhỉ? Họ nói thế nào về cô? Chắc chắn một điều là họ rất lo lắng rồi. Anna chưa bao giờ tha thứ cho cha mẹ vì đã bỏ rơi cô như vậy, và điều này lại chỉ càng khiến cô cay đắng hơn mà thôi.
Chiếc xe đỗ lại trong sân. Anna lao ra khỏi khu chuồng bò, chỉ nhìn thấy Kurt đang đứng ngoài cửa bếp. Cô cắn chặt môi lại vì thất vọng. – Ồ, anh đó à. – Cô đi ngang qua sân về phía anh.
– Chính tôi đây, có vẻ như tôi được hưởng một sự tiếp đón chu đáo hơn lần trước thì phải.
– Xin lỗi, tôi cứ tưởng là chú tôi đến. Tôi không biết chính xác khi nào chú ấy tới cả. – Cô lo lắng nhìn sang phía những ngọn đồi bên cạnh rồi quay lại Kurt. – Chắc là anh không nhìn thấy chú ấy nhỉ?
Kurt nhìn cô tò mò. Mắt cô mở lớn, khuôn mặt trắng bệch. Trông cô thật mệt mỏi và lo lắng.
– Không, nhưng tôi sẽ đi tìm nếu cô muốn.
– Chắc là chú ấy chưa đến rồi. – Cô lưỡng lự. – Anh có muốn uống một chút cà phê không? – Cô mời, nửa muốn anh từ chối. Sau buổi tối thảm hại cách đây một tháng, cô đã cầu xin Simon đừng mời anh ta tới chơi lần nào nữa. Cô nói rằng cô không thích anh ta, nhưng sự thực là cô đã bị anh ta lôi cuốn, như thể họ đã biết nhau từ lâu lắm rồi. Anh ta đe dọa cái tổ kén an toàn vô cảm mà cô đã giấu mình vào đó. Không có chỗ cho bạn bè, không có thời gian để bỏ phí, chỉ lao động và lao động. Không một ai được phép chen vào những hoài bão của cô.
– A, một cái bàn, lại cả ghế nữa này… Công việc ở trại gà chắc là phát đạt lắm rồi nhỉ. – Anh ngồi xuống ghế, cười to. – Tôi còn ngửi thấy cả mùi trứng và thịt lợn hun khói.
Cô mỉm cười:
– Anh chờ tôi một chút.
Chỉ mất vài phút để ngọn lửa trong bếp lò reo lên nhảy múa. Cô nhìn xéo sang anh trong lúc chuẩn bị bữa điểm tâm. Thật lạ, lúc nào trông anh ta cũng sang trọng dù vẫn là bộ quần áo ấy thôi. Đôi bàn tay của anh ta thật nuột nà mặc dầu công việc khá vất vả, cổ tay áo sơ mi ló ra khỏi tay áo vét một đoạn vừa độ. Chắc chắn ở Đức anh ta phải thuộc tầng lớp thượng lưu. Đối với phụ nữ hẳn anh ta cũng rất xa cách: đôi mắt lạnh lùng, cặp môi mỏng dính, tuy vậy trông anh ta cũng khá đẹp trai.
– Sắp có chiến tranh rồi, Anna ạ. – Kurt nói khi cô đưa cho anh một cái đĩa. – Người Đức sắp xâm chiếm Ba Lan và nếu nước Anh tới giúp đỡ Ba Lan thì tôi sẽ gia nhập quân đội.
Anh nhìn cô chăm chú, nhưng cô không mảy may để lộ chút gì nuối tiếc cả.
– Khi nào hết chiến tranh, tôi sẽ quay trở lại.
– Trở lại đây á? Để làm gì?
– Tôi biết cô cũng có một cảm xúc giống như tôi. – Anh nói tiếp tảng lờ câu hỏi của Anna.
– Vậy sao? – Cô chua chát hỏi.
Anh nhún vai bực bội.
– Tôi không tin rằng tình cảm của tôi chỉ là đơn phương. – Cặp mắt anh nhìn cô như muốn nói tất cả.
Anna đáp:
– Chúng ta mới chỉ gặp nhau có một lần, tại sao chứ? Chúng ta thậm chí còn chưa kết bạn với nhau và anh đang quên rằng tôi đã có chồng. Tôi không muốn nghe thêm một lời nào như vậy nữa đâu.
– Nhưng cô không có hạnh phúc.
– Đó không phải là việc của anh.
Anna thấy đôi môi của Kurt mím chặt lại thành một đường chỉ mảnh. Chắc từ hồi còn bé anh ta đã từng được nuông chiều lắm đây, cô nghĩ thầm. Nhìn cặp má kìa. Một gã đàn ông mới gặp một phụ nữ lần đầu đã nghĩ ngay rằng mình yêu người đó. Thế mà anh ta vẫn đơn độc.
Cô thấy sốt ruột quá nên kín đáo liếc nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay. Mười giờ kém mười lăm phút rồi, thật khỉ quá! Với bảy nghìn con gà mái đẻ, thời gian trở thành nỗi ám ảnh. Trung bình một tuần, cô lau, phân loại và chở đi bán được hai mươi tám nghìn quả trứng. Trong những khoảng thời gian rỗi hiếm hoi, cô phát hiện ra rằng tay cô vẫn cứ lần vào những quả trứng tưởng tượng như một người điên. Trong những giấc mơ của mình, cô thấy trứng bay lượn nhảy múa khắp bầu trời, mỗi lúc một nhiều cho tới khi cô choàng tỉnh dậy, khắp người ướt đẫm mồ hôi vì sợ hãi. Chỉ cần cô ngừng việc một lúc là mối lo âu sẽ ập xuống cô như một con bọ ve đậu trên lưng con bò thiến buộc cô phải quay trở lại phòng để trứng. Cô bắt đầu trở thành một người luôn bồn chồn và rất dễ nổi cáu.
Nhận thấy vẻ sốt ruột của cô, Kurt hỏi:
– Anna này, khi cô ra thành phố để bán trứng, phải mất bao nhiêu lâu cô mới lại kiếm thêm được một hợp đồng mới?
– Sao cơ, tôi cũng chẳng để ý nữa. – Cô cười lớn.
– Có đến một tiếng không?
– Vâng, chắc cũng phải vậy. Nhưng anh hỏi buồn cười thật đấy.
– Vậy thì cô có thể bỏ ra vài phút với tôi được không, bởi vì tôi mang tới đây cho cô một hợp đồng mới. – Anh nói, vỗ nhẹ vào túi áo ngực. – Cung cấp trứng cho quân đội.
– Nhưng Kurt, – cô nói, đột nhiên cảm thấy ân hận. – anh làm công việc phân phối thực phẩm cơ mà. Hãy giữ hợp đồng ấy ình!
– Nhưng tôi không phân phối trứng và thịt gia cầm. Vả lại tôi cũng sắp đi rồi, chắc chỉ vài tuần nữa.
– Anh nói hơi quá đấy thôi. – Cô nghiêm nghị bảo anh – Chiến tranh vẫn còn chưa xảy ra cơ mà. Mà có lẽ nó cũng sẽ không xảy ra đâu.
Kurt nhìn cô bực bội.
– Cô cần phải đối diện với thực lại, Anna ạ.
– Thực tại với tôi bây giờ là con cái, là trang trại và lũ gà.
Kurt vẫn nhìn cô chăm chú như muốn cô nói thêm điều gì.
Để phá tan sự im lặng ngượng ngùng đang diễn ra, Anna nói lảng sang chuyện khác.
– Simon vẫn chưa săn được con báo ấy. Từ hôm đó tới nay chẳng thấy bóng dáng nó đâu cả. – Cô mỉm cười với anh nhưng Kurt lại tỏ vẻ mếch lòng. Anh rút hợp đồng ra khỏi túi áo, đặt nó lên mặt bàn và ra về.
Cố gắng rũ bỏ những ý nghĩ về Kurt ra khỏi đầu, Anna quay trở lại làm việc, mải mê tới mức lúc đầu cô không nghe thấy tiếng một chiếc xe tải hạng nặng đang lăn bánh về phía nhà mình. Chỉ tới khi nó chậm chạp bò qua con dốc cuối cùng và làm rung chuyển cả những quả trứng thì cô mới chú ý. Cô chạy ra ngoài, rất ngạc nhiên khi trông thấy chiếc ô tô to đùng của cha mình đang vụng về vòng qua chỗ rẽ cuối cùng. Rồi cô trông thấy chú Acker.
– Ôi, thật vui được gặp lại chú. – Cô la lên. – Chú khỏe không? Mọi người thế nào? – Khi Acker từ trên xe nhảy xuống, cô lao luôn vào vòng tay của ông. Ông là người cô yêu quý nhất, nhưng hình như đã có chuyện xảy ra.
Chú Acker vốn là một người đàn ông cao lớn với ha sải tay dài hơn mức bình thường và đôi chân to khỏe. Ông nặng tới hai trăm pound. Giờ đây người ông teo tóp lại, cánh tay trở nên gầy guộc, không tương xứng với khổ người to lớn của ông. Mái tóc trước đây ông rất chăm cắt nay mọc dài lởm chởm và biến từ màu vàng hoe sang màu bạc trắng, bao quanh khuôn mặc hốc hác phờ phạc. Chỉ có cặp mắt là vẫn không thay đổi, xanh thẳm, ngập tràn ánh nhìn ấm áp và có vẻ ngượng ngùng.
– Chú của cháu, chú gầy quá! – Cô nói, bước lùi trở lại và ngước mắt lên ngắm nhìn chú. Ông mới có năm mươi tư tuổi nhưng trông như đã sáu mươi. – Dạo này chú thế nào? – Cô lo lắng hỏi.
– Ổn cả, ổn cả, cháu gái của chú à. – ông xoa hai bàn tay lên mặt, một cử chỉ quen thuộc. – Chỉ vì đường sá đi lại khó khăn quá. Cần phải làm lại đường cháu ạ. – ông cau mày. – Chú chỉ lo cho cái đàn pianô của cháu thôi.
– Đàn pianô à? – Cô nghi ngờ hỏi lại.
– Có vài thứ khác nữa mà mẹ cháu bảo chú mang tới cho cháu.
– Mẹ cháu về rồi à? – Anna suýt nhảy cẫng lên vì vui sướng.
– Chưa, chưa về. – Acker đáp. Niềm vui chợt tắt. – Mẹ cháu chỉ viết thư cho chú thôi.
Khuôn mặt của ông tối sầm lại khi trông thấy cái bàn bếp xù xì thô thiển, nhưng ông không bình luận gì về cảnh nghèo khổ của cô. Ông chỉ nói chuyện với cô về mười nghìn con cừu karakul và những thiệt hại mà ông phải chịu trong đợt hạn hán năm ngoái trong khi ăn một lát bánh sữa và uống một tách cà phê đen đặc mà Anna đem ra mời.
Hai đứa trẻ thức giấc, la hét ầm ĩ đòi ăn. Chúng đã được năm tháng tuổi nhưng cô vẫn chưa cai sữa cho chúng. Anna tự hào đem chúng tới khoe với chú Acker trước khi đưa chúng vào phòng trẻ cho bú.
Chú Acker tỏ vẻ rất hài lòng vì thấy cậu bé con được đặt theo tên mình, nhưng ông lại nói:
– Bọn trẻ không giống cháu lắm mặc dù ơn Chúa trông chúng cũng khỏe mạnh. Kể ra chúng lớn thêm vài tháng nữa thì thích hơn.
– Chú muốn nói chuyện với cháu một lát. – ông nói khi cô quay trở lại. – Chú muốn hít thở không khí trong lành. Cháu dẫn chú đi thăm trang trại của cháu nhé, có thể gặp luôn cả chồng cháu cũng hay.
Họ đi ra ngoài dưới trời mưa và bước đi hụt hẫng trên những triền đồi tới phía trại gà trong khi Anna kể cho ông nghe về cuộc bán đấu giá, về những hy vọng của cô đối với đàn gà và về nguồn nước mà cô đã tìm thấy. Rồi cô chỉ cho ông xem những đám cỏ linh lăng, lúa mạch và rau mà cô mới tưới nước. Cô chỉ tay về phía xa xa nơi Simon đang hì hụi cày đất để trồng lúa mì.
– Đất này không thích hợp cho việc trồng lúa mì đâu. – ông ái ngại nói với cô.
– Nhưng Simon vẫn nghĩ rằng với phân bón và nước anh ấy sẽ thành công. – Cô bực bội trả lời.
– Thế còn cháu, cháu nghĩ sao?
Cô nhún vai:
– Đây là trang trại của anh ấy mà. Khi họ quay trở về, bếp lò đã cháy đượm và hơi ấm lan tỏa khắp căn bếp. Nhưng chú Acker ăn món cừu nướng, bí ngô và khoai tây ngọt không mấy ngon lành.
– Chú gầy đi nhiều quá. – Cô bảo ông. – Cháu nghĩ là chú ăn uống không đủ chất.
– Khi nào cháu già như chú thì cháu sẽ không ăn được nhiều đâu – ông nói. – Nhưng Simon đâu nhỉ? Tại sao nó không về ăn trưa với chú vợ của nó?
– Anh ấy vẫn còn giận. – Cô thừa nhận. – Phải làm lụng vất vả để nuôi cả nhà mà. Với lại chú biết không, cha cháu chả cho cháu lấy một chút của hồi môn.
– Điều đó đâu có bắt buộc, bây giờ có mấy ai cần đến của hồi môn nữa đâu.
– Cháu biết, nhưng anh ấy nghĩ cha cháu giàu thế, còn anh ấy chả có gì… Ồ, nhưng mà chắc chú cũng biết hết chuyện rồi, chú Acker nhỉ? Cháu sẽ không kể lể làm gì cho chú thêm buồn. – Nhưng con người cũng cần phải có phép lễ độ.
– Cháu đã làm anh ấy thất vọng. Cháu không phải là một người vợ mà anh ấy mong muốn. Chú thấy đấy, cháu đang tự mình kiếm sống và đặt kế hoạch cho tương lai.
Khi họ ăn trưa xong, Anna không thể chờ thêm được nữa.
– Cháu có thư không hả chú? Mẹ cháu nói gì với chú vậy?
– Anna, chú tới đây để báo cho cháu một tin buồn. – ông nói. Mẹ cháu đã mất ở Thụy Sĩ rồi. Ba tuần trước, nhưng phải mất hai tuần thư mới tới được tay chú và chú vội vàng bay ngay sang đấy.
– Chết và chôn rồi sao? – Cô thẫn thờ hỏi lại, nhưng trong đầu cô lại đang nghĩ: Chính mình đã giết chết mẹ. Nếu mình không cư xử như vậy thì giờ đây chắc chắn mẹ vẫn còn sống.
Chú Acker bối rối nhìn Anna. Chẳng có một dấu hiệu tình cảm nào lộ ra trên gương mặt của cô cháu gái cả. Trông nó giờ đây như một bức tượng bằng đá, hoàn toàn vô cảm. Một số người là vậy, họ không thể hiện điều gì khi đón nhận một tin tức đau buồn. Họ chôn chặt nỗi đau ấy trong lòng. Nhưng nếu khóc ra được thì tốt hơn. ông thở dài và đưa cho Anna bức thư của mẹ cô.
– Mẹ cháu đã viết bức thư này cho cháu trước khi bà ấy mất, và cha cháu đã gửi nó tới chỗ chú.
– Cháu sẽ đọc sau, chú Acker ạ. – Anna nói.
– Anna này – ông bảo cô. – Đừng tự đổ lỗi ình như vậy! Maria mắc bệnh thấp khớp từ khi cháu còn bé cơ, và căn bệnh này đã làm quả tim của bà ấy yếu đi. Chính cháu cũng biết rằng sau đó rất nhiều lần Maria phải chịu đựng những cơn đau tim mà. Khi cháu rời đi bà ấy cũng bị một cơn đau tim như vậy và cha cháu đã quyết định đưa bà ấy sang Thụy Sĩ chữa bệnh. Mới đầu họ chỉ định ở bên đó mấy tháng thôi nhưng sau đó Maria vẫn còn yếu nên họ đã ở lại thêm.
Ông thở dài và nói tiếp:
– Mẹ cháu cũng đã viết thư cho chú cùng thời gian bà ấy viết bức thư này cho cháu. Bà ấy đã liệt kê ra một danh sách dài những thứ đồ chú phải mang đến cho cháu. Nhưng chú chưa đem con ngựa tới đâu, chú nghĩ nên hỏi ý kiến cháu trước đã.
– Josep thế nào ạ?
– Khỏe, nhưng béo lắm. Nó không được luyện tập thường xuyên, cần phải sớm uốn nắn.
– Cháu không có thời gian đâu chú ạ. Với lũ gà và hai đứa trẻ con thì cháu chẳng bao giờ có thì giờ rỗi cả. – Cô vẫn lạnh lùng.
– Chú hiểu. – Acker nói khẽ. Ông ra về sớm hơn dự định, trong lòng vẫn còn đang giận vì sự vắng mặt của Simon.
Anna buồn bã đứng trong sân nhìn theo chiếc xe tải đi xa dần. Không điều gì có thể tệ hơn được nữa, cô nghĩ thầm trong lúc chiếc xe tải dần khuất khỏi tầm nhìn.
Đêm hôm đó, khi Simon và hai đứa trẻ đã ngủ say, Anna mở bức thư của mẹ ra. Ngồi bên chiếc bàn trong bếp với chiếc đèn bão để bên cạnh, cô vuốt phẳng mảnh giấy nhỏ.
“Anna thân yêu ”, cô đọc, “Mẹ đã suy nghĩ rất nhiều về con trong thời gian qua và mẹ đã đi đến kết luận là cuộc đời này quá ngắn ngủi, chúng ta không nên nuôi dưỡng lòng hận thù. Con đã thiếu chín chắn và đã phạm phải một sai lầm đáng tiếc mà mẹ chắc rằng giờ đây con cũng đã có đủ thời gian để mà hối hận Mẹ quyết định tha thứ cho con trong lúc mẹ vẫn còn có thể làm như vậy.
Các bác sĩ bảo mẹ cần phải nghỉ ngơi tĩnh dưỡng nhưng làm sao có thể ngồi yên được trong một khung cảnh tuyệt diệu như thế này. Mẹ đi dạo rất nhiều và thường xuyên nhớ lại những kỷ niệm mà chúng ta đã có tại nơi đây.
Mẹ chưa bao giờ yên tâm được với bệnh tim quái ác nên mẹ đã dự định thế này: Con cũng biết ở Malmesbury mẹ sở hữu hai trang trại, một trong số đó có một ngôi nhà nhỏ nơi người đốc công đang sống. Và có một căn nhà nhỏ trong làng hiện đang ột gia đình người Đức thuê. Những đứa con của gia đình ấy đã từng học cùng trường với con, chắc con vẫn nhớ? Và mẹ còn có một số cổ phần tại cửa hàng của hợp tác xã làng ta cùng với một cánh đồng ở gần Durbanville. Tất cả những thứ này mẹ sẽ để lại cho các con của con, con nên chia đều cho chúng khi chúng tới tuổi trưởng thành. Mẹ cũng hiểu là con cần tiền tới mức nào nhưng mẹ không thể tin tưởng vào Simon được và mẹ sợ là nó sẽ lấy mất từ tay con. Ít ra bằng cách này con cũng được yên tâm là các con của con sẽ được hưởng một tương lai tốt đẹp và lợi nhuận từ những thứ này cũng để để trang trải việc học hành cho chúng nên con sẽ bớt đi được phần nào gánh nặng gia đình.
Khi nào mẹ trở về, và mẹ hy vọng là điều ấy sẽ sớm đến, chúng ta sẽ lấy lại quãng thời gian đã mất. Mẹ mong được gặp con và các cháu ngoại của mẹ. Con sinh con trai hay con gái? Viết thư ẹ sớm nhé! Mẹ yêu con nhiều”.
Anna thắp nến và đốt bức thư. Đó là những trang trại tốt nhất trong vùng và hiện nay trị giá tới mười hai nghìn bảng mỗi cái. Nhưng khi lũ trẻ tới tuổi trưởng thành thì những trang trại đó sẽ còn đáng giá hơn nhiều. Cô quyết định sẽ không nói điều này cho Simon biết. Không phải bây giờ và có lẽ sẽ không bao giờ. “Dù sao thì mình cũng sẽ thành đạt”, cô lẩm bẩm và lấy ra một tờ giấy, viết cho cha một bức thư ngắn để chia buồn. Cũng chẳng có nhiều điều để nói và cô cũng không muốn cha viết trả lời. Cô dán phong bì lại và đặt nó vào túi xách. Rồi cô đi về giường trong một tâm trạng buồn bã.