Đọc truyện Tình sử Angélique – Chương 69
Một pho tượng được dựng ở đầu góc một ngôi nhà vách đất. Nguyên đó là một pho tượng Đức Chúa cha trên trời, ăn cướp được ở nhà thờ Đức Thánh Pie – chăn bò. Nhưng ở đây các con chiên chỉ toàn dâng lên tượng Chúa những lời nguyền rủa tục tĩu. Đi qua nơi đó, còn phải vượt thêm một quãng đường chằng chịt những lối mòn nhớp nhúa ghê tởm mới tới được Vương quốc của đêm tối và kinh hoàng. Bức tượng Đức Chúa Trời này là cái mốc ranh giới mà không một tên lính hay cảnh sát nào dám vượt qua. Những người lương thiện lại càng không bước qua ranh giới đó. Với lại họ đến đấy làm gì, trong cái xóm không tên ấy, với những ngôi nhà đổ nát, những túp lều vách đất, những xe bò, xe ngựa hỏng, những cối xay và thuyền bè cũ nát được mang tới đây bằng cách nào không biết, dùng làm nhà ở cho hàng ngàn gia đình.
Bản thân những người dân ở đây cũng chẳng có tên tuổi, gốc tích, lại không cả nơi nương tựa, ngoài khu vực của dân du đãng này.
Angiêlic biết rằng nàng vừa bước vào lãnh địa của Hành-khất-Đại-đế. Bóng tối ở đây, dày đặc hơn mọi nơi, và cảnh vật im lặng khác thường như một tấm màn bọc lấy người nàng.
Những tiếng hát vọng lên từ những quán rượu ở cách xa đó cứ lịm dần đi. Ở đây không có quán rượu, không có ánh đèn, chẳng có tiếng hát, không có gì ngoài sự nhơ nhớp đến tột cùng, với những rác rưởi ngập ngụa, chuột, chó bò chạy khắp nơi.
Angiêlic đã đến đây một lần, đã từng đi trong khu vực riêng biệt này của ngoại ô Xanh-Đơni, nhưng vào ban ngày và cùng đi với Calăngbrơđen. Hắn đã chỉ cho nàng xem dinh lũy riêng của Hành-khất-Đại-đế, một ngôi nhà kỳ cục có mấy tầng gác, hình như trước đây là một tu viện vì hãy còn thấy những gác chuông và những đống đổ nát, vết tích của một nhà tu kín; những ụ đất, những tấm ván, cây sào, đống đá cuội, tất cả để giữ cho ngôi nhà đứng vững. Mặc dù được chống đỡ tứ phía, ngôi nhà vẫn xiêu vẹo, ọp ẹp, phô ra những vết thương toang hoác trên các vòm và các cửa kính hình vòng cung, đồng thời lại trưng ra một cách ngạo nghễ những chùm lông chim trên các tháp nhỏ. Đó chính là lâu đài của vị Vua ăn mày.
Hành-khất-Đại-đế sống ở đây với đám cận thần, đàn vợ, bọn thủ hạ thân tín và thằng ngốc của lão. Và cũng ở đây, núp dưới cánh ông chủ lớn, tên Giăng-Thối-rữa cất giấu hàng hóa của hắn, gồm những trẻ con bắt trộm được – bất kể là con hoang hay con hợp pháp.
Khi Angiêlic bước vào khu vực đáng sợ này, nàng để ý tìm ngay hang ổ ấy. Linh tính báo cho nàng biết rằng Phlôrimông đang ở đấy. Nàng dấn bước và được đêm tối như mực che chở. Những kẻ qua lại không hề chú ý đến người đàn bà rách rưới này vì nàng giống như đám dân sống trong những túp lều tồi tàn kia. Nếu có ai đi đến thật gần, nàng cũng có thể tránh được mọi nghi ngờ, vì đã khá quen với ngôn ngữ, cử chỉ của giới du đãng.
Tuy nhiên, nàng vẫn phải thận trọng để không ai nhận ra mình. Hai băng cướp thù địch với băng Calăngbrơđen hiện đang sống trong khu vực này.
Để an toàn hơn, nàng quỳ xuống, lấy bùn bôi nhem mặt.
***
Vào giờ này, nhà của Hành-khất-Đại-đế phân biệt với các nhà khác vì có ánh đèn. Đây đó, ở các cửa sổ chập chờn ánh sáng đỏ quạch của một ngọn đèn đêm tù mù thắp bằng một búi giẻ cũ ngâm trong cái bát đầy dầu. Ẩn sau một chòi canh gần ranh giới, Angiêlic quan sát hồi lâu. Nhà cửa của tên Vua ăn mày cũng là nơi ồn ào nhất. Đấy là nơi gặp gỡ của dân bị gậy với dân dao búa, cũng như ở tháp Nexlơ. Bọn chúng đang đón tiếp quân của Calăngbrơđen trong ngôi nhà đó. Đêm ấy trời lạnh nên tất cả các cửa đều có những tấm ván cũ dựng lên bịt kín.
Cuối cùng Angiêlic lại gần một cửa sổ và nhìn qua một khe hở giữa hai tấm ván. Nàng nhận ra vài bộ mặt quen: tên Hoạn quan nhỏ, tên Giăng Râu xám, quân sư của V có bộ râu dài, và sau hết là Giăng-Thối-rữa.
Giăng-Thối-rữa đang bó tay trên ngọn lửa và nói chuyện với tên quân sư:
– Tớ cho là một trận thắng đấy, thầy giáo ạ. Cảnh sát đã không gây tổn hại gì cho ta, mà còn giúp ta rất đắc lực để đánh tan bè lũ tên Calăngbrơđen láo xược.
– Tớ cho là cậu nói tếu khi bảo rằng cảnh sát không làm gì hại cho chúng ta. Mười lăm đứa bị treo cổ ở Môngfôcông không qua phán xét tra hỏi gì cả. Và cũng không chắc là Calăngbrơđen có trong đám bị chết treo đó.
– Xì! Dẫu sao, đầu hắn cũng nát bét ra rồi, và còn lâu lắm mới trở về đây được… nếu hắn may thoát được về. Điều này hắn khó tin lắm. Rôđôgôn đã chiếm hết các căn cứ của hắn rồi.
Giăng-Thối-rữa không nghe hắn nói nữa:
– Cậu đừng có bi quan. Tớ đã quơ được một mẻ bẫm biết mấy ở tháp Nexlơ. Chừng hai chục đứa trẻ loại tốt: chúng sẽ thu về cho ta một món lời kha khá, toàn những đồng tiền leng keng.
– Thế lũ nhóc của cậu ở đâu rồi?
Giăng-Thối-rữa khoát tay chỉ lên trần nhà nứt rạn:
– Trên kia, khóa chặt trong đó… Này cô nàng Mađơlen ơi, lại đây cho tôi xem đứa con nít của cô nào.
Một mụ béo như bò mộng, nhấc một đứa bé đang ẵm trong lòng, trao cho gã bỉ ổi ấy. Hắn tiếp lấy đứa bé và nâng lên thán phục:
– Thằng nhỏ xứ Morơ này đẹp đấy chứ? Chừng nào nó lớn, mình sẽ cho nó bận đồ màu xanh da trời và đem bán ở Triều đình.
Angiêlic không nghe thấy Giăng-Thối-rữa và Râu xám nói gì nữa.
Nhưng giờ đây, nàng tin chắc một điều: những đứa trẻ bị bắt cóc ở tháp Nexlơ đang ở trong nhà này, chắc là trong một căn phòng bên trên gian phòng lớn này.
Nàng bước thật chậm vòng quanh ngôi nhà. Nàng tìm ra lối vào dẫn đến một cầu thang. Nàng tụt giày ra, đi chân trần. Chiếc cầu thang ngoằn ngoèo dẫn đến một hành lang trên tầng một, tường và sàn nhà trát bùn trộn rơm. Phía tay trái là một phòng trống, có một ngọn đèn leo lét. Có những dây xích gắn vào tường. Ở đây chúng nó xích ai treo lên tường nhỉ? Chúng tra khảo ai?… Cảnh im lặng trong nhà này thật đáng sợ.
Angiêlic tiếp tục bước đi. Một con chuột lướt qua người làm nàng suýt kêu lên.
Lúc này như có một âm thanh mới từ trong lòng ngôi nhà đưa ra. Tiếng kêu khóc trước còn văng vẳng, dần dần rõ hơn. Tim nàng nhảy thót lên: đó là những tiếng kêu khóc của trẻ con. Nàng như nhìn thấy bộ mặt của Phlôrimông với đôi mắt đen kinh hoàng, nước mắt đầm đìa trên khuôn mặt xanh nhợt, nó sợ đêm tối. Nó đang kêu gọi… Nàng rảo bước. Lại leo một cầu thang nữa, và đi qua hai phòng: trong đó những ngọn đèn nhỏ hắt ra thứ ánh sáng mờ mờ. Nàng nhận ra những cái chiêng bằng đồng treo trên tường, những bó rơm rải trên sàn, vài chiếc cốc có quai lăn lóc ở đó. Tất cả đồ đạc trong căn nhà hắc ám này chỉ có thế.
Nàng đoán mình đã gần tới đích vì nghe rõ tiếng trẻ con nức nở hòa thành một khúc hợp tấu bi thảm.
Đi tiếp dọc hành lang, Angiêlic bước vào một phòng nhỏ phía tay trái. Một chút ánh sáng chập chờn trong một chỗ khuất, nhưng không thấy có người. Vậy mà, những âm thanh kia phát ra chính từ nơi này. Nàng nhìn thấy ở cuối phòng một tấm cửa nặng chịch đóng chặt bằng những ổ khóa lớn. Lần đầu tiên nàng đụng phải một cái cửa đóng kín, trong khi tất cả các phòng khác cửa đều mở toang.
Một cái lỗ nhỏ để cài then được trổ qua tấm ván cửa. Không nhìn thấy gì qua lỗ ấy, nhưng nàng nhận thấy lũ trẻ bị nhốt trong ngục tối này thiếu không khí để thở.
Nàng dán môi vào cánh cửa và khe khẽ gọi:
– Phlôrimông! Phlôrimông!
Tiếng nức nở dịu đi một chút rồi một tiếng nói từ bên trong thì thào:
– Phải cô đấy không, bà Chúa Thiên thần?
– Ai đó?
– Cháu đây, Linô đây. Lão Giăng-Thối-rữa đã quơ cả bọn cháu đi cùng với Flipô và những đứa kia.
– Phlôrimông có đấy cùng với các cháu không?
– Có
– Nó có khóc không?
– Có, nhưng cháu đã dỗ nó, bảo rồi cô sẽ đến tìm.
Angiêlic hứa với em:
– Chịu khó nhé. Rồi cô sẽ tìm cách cho các cháu ra khỏi đây.
Nàng lùi lại quan sát cánh cửa. Ổ khóa có vẻ chắc chắn nhưng có thể làm long bản lề ở hai bên rìa tường ọp ẹp. Nàng lấy móng tay cào vào mặt tường.
Bỗng nàng nghe thấy một tiếng động lạ sau lưng. Một tiếng rúc rích, mới đầu còn nén lại, dần dần to lên, cho đến khi bật thành tiếng cười ầm ĩ.
Angiêlic quay phắt lại, và trông thấy Hành-khất-Đại-đế ở ngay lối đi vào cửa.
Con quái vật đó bíu tay vào một cái xe thấp có bốn bánh. Hắn cứ trườn đi bằng cách đẩy xe đi như thế, di chuyển qua những dãy hành lang trong cái mê cung đáng sợ này.
Từ ngưỡng cửa căn phòng, lão nhìn người thiếu phụ bằng con mắt độc ác. Tê liệt vì hoảng sợ, Angiêlic nhớ lại đã từng thấy con người này xuất hiện ở giữa khu nghĩa địa Xanh-Inôxăng.
Lão vẫn cười rộ lên, xen những tiếng nấc cụt ghê rợn làm rung chuyển cả tấm thân tàn tật với đôi chân ngắn cũn, khập khiễng gầy như ống sậy. Rồi vẫn không ngừng cười, lão ta không đến chỗ nàng, mà đi chếch qua phòng. Nàng chợt nhận ra ở trên tường có một cái chiêng mà nàng đã từng thấy trong các phòng khác. Một thanh sắt nằm trên sàn.
Hành-khất-Đại-đế sắp sửa đánh chiêng, và nghe hiệu lệnh đó, từ những nơi sâu thẳm của ngôi nhà, tất cả bọn ăn mày trộm cướp, tất cả những ma quỷ trong địa ngục này… sẽ xông vào Angiêlic, vào Phlôrimông.
Nhưng mắt con thú, với cổ họng bị rạch ngang, đã đờ dại đi rồi
Một tiếng nói cất lên
– Ôi, chị đã giết nó rồi!
Cũng trên ngưỡng cửa ấy, nơi tên Vua hành khất đã xuất hiện khi nãy, một cô gái trẻ, chỉ già dặn hơn đứa trẻ con chút ít, với gương mặt phúc hậu như Đức thánh mẫu.
Angiêlic trân trân nhìn con dao găm đỏ lòm máu. Rồi nàng trầm giọng xuống:
– Đừng kêu, kẻo tôi lại buộc giết cô đấy!
– Ồ không đâu! Em sẽ không kêu đâu, em rất mừng là chị đã giết được nó.
Cô gái nhỏ đến gần hơn và thì thào:
– Không có ai can đảm giết nó. Ai cũng sợ nó. Mà nó chỉ là một thằng thấp tè,
Rồi cô ngước đôi mắt đen nhìn Angiêlic:
– Nhưng chị phải chạy đi thôi, nhanh lên!
– Em là ai thế?
– Em là Rôdin, vợ sau cùng của tên Vua đó.
Angiêlic giắt dao vào thắt lưng, bàn tay của nàng chìa ra, run run đặt lên chiếc má tươi mát, hồng hào:
– Rôdin ơi, hãy giúp chị. Con chị ở sau cánh cửa này. Thằng Giăng-Thối-rữa đã khóa cửa nhốt nó ở trong. Chị phải đưa nó ra.
Cô gái nói:
– Chìa khóa đôi cánh cửa này kia kìa. Giăng-Thối-rữa đã đưa chìa khóa ấy cho tên Rôlanh Ngồi xổm này giữ. Trong chiếc xe lăn của hắn ấy.
Cô bé cúi xuống đống thịt bất động, vẻ tởm lợm. Angiêlic tránh không nhìn. Rồi Rôdin vươn thẳng người lên:
– Đây rồi.
Cô gái tự tra chìa khóa vào lỗ khóa, tiếng kêu lách cách. Cửa mở, Angiêlic chạy xô vào, ôm lấy Phlôrimông. Linô đang bế nó trên tay. Đứa trẻ không khóc, cũng không kêu, nhưng người bé lạnh như băng, và đôi tay nhỏ xíu bíu chặt đến nỗi nàng gần nghẹt thở.
Nàng bảo Rôdin:
– Giờ em giúp chị ra khỏi nơi này.
Linô và Flipô túm lấy váy nàng. Nàng vùng ra:
– Tôi không thể đem tất cả mấy người cùng đi được.
Nàng giẫy ra khỏi những bàn tay đen đủi, đầy bụi đất, nhưng hai đứa nhỏ ranh mãnh vẫn lằng nhằng chạy theo:
– Bà chúa Thiên thần ơi! Đừng bỏ chúng cháu.
Rôdin kéo họ lên cầu thang, chợt đưa ngón tay lên miệng:
– Suỵt! Có ai đi lên!
Tiếng bước chân nặng chịch vang lên trên mặt sàn phía dưới.
– Thằng Bavôtăng đần độn đấy. Ta đi lối này vậy.
Cô ta vụt chạy thục mạng. Angiêlic chạy theo cùng hai thằng bé. Họ vừa ra đến ngoài phố thì một tiếng gầm như một con thú dội lên từ giữa lòng hang ổ của Vua ăn mày.
– Tên Bavôtăng đang biểu lộ nỗi thương tiếc cái xác của tên trùm mà từ bao lâu nay gã vẫn hết lòng hầu hạ.
Rôdin lại giục:
– Chạy đi!
Hai người với hai đứa trẻ hổn hển chạy theo sau, băng qua mạng lưới chi chít những lối đi nhỏ, tối om như trong một đường hầm. Chân không giày dép, họ trượt lên những hòn đá dính nhớp. Cuối cùng, cô gái nhỏ đi chậm lại.
– Ánh sáng đây rồi, phố Xanh-Mactanh đấy.
– Phải đi quá nữa. Chúng có thể đuổi theo sau.
– Bavôtăng nó câm mà, có nói được đâu. Bọn chúng sẽ không hiểu đầu đuôi gì hết. Có thể, chúng lại nghĩ rằng chính thằng đần độn giết ông chủ đấy. Rồi bọn chúng sẽ tôn một tên Vua khác. Em thì không bao giờ trở lại nơi đó nữa. Em sẽ ở luôn với chị, vì chị đã giết nó.
Linô hỏi:
– Thế nhỡ Giăng-Thối-rữa tìm thấy bọn ta thì sao?
– Nó sẽ không tìm ra cháu đâu. Cô sẽ bảo vệ các cháu.
Rôdin chỉ một quầng sáng mờ mờ ở tít xa, phía cuối phố, làm các ngọn đèn đường thêm leo lét:
– Trông kìa, đêm tối đã qua rồi.
Angiêlic buồn bã nhắc lại:
– Ồ, đêm đã qua rồi thật.