Bạn đang đọc Thực tâm giả – Chương 5 Part 2
Quả nhiên, anh không muốn nói đến cái tên đó, coi như chưa nghe những gì Phương Đăng hỏi.
“Cha của Phó Chí Thời gọi là Phó Kính Thuần, ông nội của ông ta và ông nội tôi là hai anh em ruột, ông cố tôi – Phó Học Trình có bốn người con, ba nam một nữ. Con trai lớn là Phó Truyền Bản, con trai thứ hai là Phó Truyền Cách, con trai thứ ba là Phó Truyền Thanh, con gái là Phó Truyền Vân”.
“Tôi biết cụ ông của anh, thầy giáo lịch sử ở trường đã nói nhiều về ông ấy, còn có Phó Truyền Thanh, bọn họ đều là những người phi phàm. Phó Truyền Vân… có phải đó là nghệ sĩ dương cầm nổi tiếng không?” Phương Đăng nói xong không khỏi ngẩn ngơ một lúc, nghĩ đến những người để lại dấu ấn trong lịch sử ít nhiều gì đều là cố nhân lưu dấu ở đây đều nằm trong họ tộc của anh ta, chảy cùng dòng máu với anh ta, đúng là một cảm giác vô cùng kỳ diệu.
Phó Kính Thù gật đầu: “Trong số ba người con trai của cụ, người con lớn Truyền Bản đã sớm qua đời, chỉ để lại duy nhất một người con trai là Duy Nhân, cũng chính là ông nội của Phó Chí Thời, là bác Cả của tôi. Mẹ của bác Cả hiếm muộn, không có anh chị em thân thích, ông là một người nhân hậu an phận, không ham đua chen sóng gió thương trường, lúc còn trẻ dù gia đình giàu có, ông vẫn nhất định ở trên đảo làm thầy dạy học, gia sản rộng lớn đều giao cho Tam gia thay mặt quản lý. Trước giải phóng, Phó gia chuyển ra nước ngoài sinh sống, bác Cả cũng không chịu đi, lý do vì nơi đây là cội rễ của ông, cả đời ông dạy học, cư xử trong sạch, bất cứ thời cuộc biến hóa thế nào cũng không ảnh hưởng đến ông. Trên thực tế sau này ông vô cùng khổ sở, chuyện đó cũng một phần vì người của Phó gia lưu lạc ở bên ngoài”.
“Sao ông ta lại đem cả sản nghiệp Phó gia mà bán cho bà chủ Trịnh, bà chủ Trịnh là ai?”
“Ah, chuyện này đợi một lúc tôi sẽ kể cho cô nghe, sau giải phóng không lâu, người ở trong nhà Phó gia không phải là người của nhà họ Phó, chính phủ đã tịch thu nhà làm của công. Nghe lão Thôi nói, thời điểm này có hơi hai mươi mấy hộ chen chúc vào ở, ồn ào náo nhiệt không thể tưởng, cổng chính trong hoa viên đều dựng thành phòng nhỏ”.
Phương Đăng cười chế nhạo: “Thật tức cười, anh đúng là kẻ no cơm không biết đói là gì. Tôi từ nhỏ đã sống cảnh “náo nhiệt” y như vậy, bây giờ cũng chẳng “cô độc” hơn chút nào. Nói không chừng trong hai mươi mấy nhà lúc đó có cả tổ tiên thân thích nhà tôi nữa đó”.
Phó Kính Thù cười nhẹ, tiếp tục kể lại chuyện cũ về gia tộc của mình.
“Sau đó, nhờ chính sách ổn định kiều dân, chính phủ đem ngôi nhà này trả lại cho Phó gia, những người đó mới bắt đầu dọn đi. Lúc ấy ngôi nhà lớn phía Tây đã hư hỏng không thể tưởng, ngôi nhà phía Đông tôi đang ở hiện giờ tuy nhỏ hơn nhà ở phía Tây, người ở tuy chật, nhưng cũng chưa đến nỗi tàn tạ thảm hại. Nhà của bác Cả đã ở bên ngoài hai mươi mấy năm, bọn họ bị giày vò đến mức vô cùng sợ hãi, không muốn liên can bất cứ chuyện nào của gia tộc nữa, hơn nữa từ trước đến nay bọn họ vốn đã không có nhà. Cho nên trước khi bác Cả Duy Nhân qua đời, đã đem sản nghiệp mà mình làm chủ, cũng chính là căn nhà lớn của Phó gia, bán lại cho người trông coi sản nghiệp Tam gia, vợ của ông nội tôi – bà chủ Trịnh.”
“Vợ của ông nội” – từ này nghe có chút không mấy tự nhiên, Phương Đăng hiểu điều khác thường trong đó, nhưng sợ chạm đến tử huyệt của anh, không dám tùy tiện hỏi nữa.
“Sau khi ký tên, nhà của Phó gia đã hoàn toàn không còn liên quan gì đến nhà bác Cả nữa. Phó Kính Thuần còn có một người anh, sau khi bác Duy Nhân qua đời, hai anh em bọn họ bán nhà chia tiền vượt biên. Người con lớn đi về phương Bắc, nghe nói cũng không qua được. Phó Kính Thuần làm ăn thua lỗ nhất thời hồ đồ, thời điểm thảm nhất còn bị người ta truy sát đòi nợ, ngay cả nhà cũng không dám trở về. Cũng may khi cải cách mở ra, bọn họ cùng người nhà Phó gia bên ngoài có chút liên lạc, Nhị gia, Tam gia đều biết Đại gia sống không dễ thở, thường xuyên tiếp tế, nên so với đại đa số người trên đảo, nhà bọn họ sống cũng tốt lắm rồi”.
“Bọn họ đúng là thứ khinh người!” Sắc mặc của Phương Đăng lúc nghĩ đến người nhà của Phó Chí Thời giận đến mức không thể nói nên lời.
“Ai mà không muốn sống thanh cao, đều là do thực tế ép buộc thôi, bọn họ là sợ nghèo, hận vì bản thân không có tài cán gì. Tôi nghĩ trong lòng họ không phải quá oán hận, đều là nhà họ Phó, thân nhân ở hải ngoại vẫn còn sống tốt, bọn họ lại thay người một nhà đứng ra lãnh tội”.
“Vậy cũng không thể bắt anh ra lãnh được!”
“Sợ mạnh hiếp yếu vốn chính là quy tắc của thế giới này.” Phó Kính Thù nói thật nhẹ: “Những người kia viện trợ cho họ, bọn họ tự nhiên vị nể. Tôi không cho họ được bất cứ cái gì, chuyện này rất bình thường”.
“Kế tiếp là Nhị gia. Gia đình Nhị gia Phó Truyền Cách thì đơn giản hơn nhiều, ông cụ tôi từng có một người vợ lẽ, chỉ sinh ra một gái là Phó Truyền Vân, vì sợ người vợ lẽ sau này không có nơi nương tựa nên ông cụ mới quyết định đem con trai của người quản gia về cho bà nuôi dưỡng”.
“Hả, nói vậy Nhị gia Phó Truyền Cách không phải là con ruột của ông cụ sao?”
“Đúng vậy, nhưng ông ấy đối với ông cụ cũng không khác gì con ruột, một lòng hiếu thuận. Nhị gia Phó Truyền Cách tin vào tôn giáo, lúc đó cưới con gái của nhà họ Khâu vốn là gia đình danh tiếng ở Đài Loan, cũng là tín đồ Cơ đốc. Họ tiếp quản việc làm ăn của cụ tổ, kinh doanh phát đạt, từng giàu có một phương. Nhị gia có bốn người con trai, hai con gái, là gia đình có nhân số đông đảo nhất Phó gia”.
“Đáng tiếc dù sao đi nữa, dòng máu trên người ông ta cũng không phải huyết mạch của Phó gia, khó trách Tam gia lại chiếm ưu thế”. Phương Đăng ưu tư nói.
“Thế mới nói cô đúng là tiểu hồ ly, cái gì cũng hiểu rõ mấy phần”. Phó Kính Thù cầm cọng cỏ đuôi chồn đuổi muỗi hai bên gò má. “Mặc dù trong tông phổ họ đích thị là người của Phó gia, nhưng Nhị gia cũng biết dù sao mình cũng không phải huyết mạch chính thống, cho nên từ đó Phó Truyền Cách bắt đầu tạo dựng sự nghiệp lâu dài ở Đài Loan, một lòng dựng nguồn cội ở đó. Mặc dù khu nhà tổ Phó gia này có một phần là của họ, thật ra họ cũng chẳng sống ở đây được mấy ngày, chuyện của gia tộc cũng rất ít khi hỏi đến, Đại gia không có chí lớn, nên Tam gia ngồi vị trí bề trên. Bọn họ nhớ công đức ông cụ tổ, ở Đài Loan nghe nói cũng cho xây một tổ đường giống y thế này, cũng gọi là Phó gia Hoa viên. Tuy nói là bắt chước, nhưng so với Phó gia hoa viên hiện giờ ở đây nhất định đẹp hơn rất nhiều lần. Hậu nhân của Nhị gia đông đảo, tôi cũng tình cờ nghe được tin tức của họ, nghe nói phân nửa số đó không theo nghiệp kinh doanh, nếu không phải là bác sĩ thì làm nghệ thuật, phần lớn đều sống trong dư dả”.
Phương Đăng chưa từng nghe anh nói một hơi nhiều như vậy, nhưng nhìn bộ dạng của anh cũng không chán, dường như anh cũng cần có lúc trút bầu tâm sự thế này. Nghe anh nói với Phương Đăng cũng như là một kiểu hưởng thụ, ngay cả phải chịu đựng muỗi bay trong sân cũng không cảm thấy chán ghét.
“Tam gia Phó Truyền Thanh chính là ông nội của anh, danh tiếng của ông ta cũng không khác gì ông cố anh mà!”
“Ông nội tôi Phó Truyền Thanh là con út của ông cụ, do chính bà vợ lớn sinh ra, coi như báu vật. Ông cũng rất nhanh nhẹn, từ nhỏ đã giỏi tính toán, thông minh quả cảm, phong độ khí phách như ông cụ năm xưa, nên ông cụ cũng thương ông nhất. Năm hai mươi tuổi, ông nội dưới sự an bài của gia tộc đã tới Tây Á cưới con gái của Tổng đốc xứ này, họ Trịnh, cũng chính là bà chủ Trịnh mà mọi người nói đến hiện giờ. Sau khi cưới, ông chính thức thay cha xử lý kinh doanh, thừa kế cơ nghiệp, phát triển mua bán gỗ và cao su rất lớn. Ngoài dốc sức thay ông cụ cai quản cơ nghiệp, bản thân ông còn sắm thuyền buồm, khai thác thuyền vụ. Đó là thời điểm cường thịnh nhất của Phó gia, tiền vào như nước, giàu có vô cùng, nhà tổ của gia tộc cũng là do tay ông làm mới, chỉnh đốn hoa viên, xây thêm tòa nhà phía Đông ba phòng cho vợ con ở. Tên chữ của ông nội tôi là Phong Đào, tòa nhà phía Đông lúc đó gọi là Phong Đào biệt viện, chính là nơi tôi ở bây giờ”.
“Ông nội anh có mấy người vợ? Mấy người con?” Đây mới là mấu chốt của vấn đề nên Phương Đăng dè dặt hỏi.
“Tam gia không có nhiều con cái như Nhị gia, ông nội tôi chỉ có một người vợ, chính là bà chủ Trịnh đó”.
Phương Đăng gật đầu nói: “Thế thì…”
Phó Kính Thù thật giống như một lão hồ ly tu luyện ngàn năm, luôn có thể nhìn xuyên tâm tư của đối phương. Anh xuôi theo câu nói của Phương Đăng: “Bà chủ Trịnh vốn là một tài nữ, nhân phẩm và tài mạo cũng không thua ông nội tôi. Bà vốn là con một, tính tình khôn khéo, hoạt bát thông minh, lúc chưa gả chồng cách ăn nói cũng rất biết cân nhắc. Khi gả vào Phó gia, bà mang theo của hồi môn kếch sù. Có thể nói, nếu như không có bên nhà mẹ bà giúp đỡ, Phó gia ở Nam Dương không thể nào tồn tại bốn đời chưa lụi tàn. Khi còn sống ông nội tôi cũng rất kính trọng bà…”
“Tôi hiểu rồi, là ông nội anh sợ bà ấy” – Phương Đăng vỗ tay cười, nhưng tự thấy ngượng, lấy tay che mặt lại.
Phó Kính Thù cũng cười một mình: “Tóm lại, bà chủ Trịnh vốn là người vợ hiền của ông nội tôi. Chỉ là… Sau khi cưới vài năm, bà sinh được một trai một gái, tất cả đều chết yểu, sau đó rất lâu cũng không sinh thêm được đứa con nào.”
“Sau đó thì sao..?”
Cuối thập niên bốn mươi, thế cục trong nước dần dần tươi sáng hơn. Ông nội tôi đồng ý với đề nghị của bà chủ Trịnh, đem Tam gia tạm thời di cư sang Mã Đại. Nhị gia thì vẫn ở đảo Đài Loan, trong Phó gia Hoa viên, trừ Đại phòng, còn có hai nhà không ai trông coi và chẳng người ở”.
“Tôi muốn hỏi sau đó ông nội anh còn có người con khác hay không?” Phương Đăng muốn nói, thật ra cô chỉ quan tâm đến thân thế cùng vận mệnh của Phó Kính Thù, còn tất cả đối với cô chẳng liên quan.
“Cô đúng là thiếu kiên nhẫn”. Phó Kính Thù cười nhạo cô. “Tôi đang nói về vấn đề đó đây. Đêm trước ngày giải phóng, tam phòng Phó gia, thật ra cũng là người thừa kế sản nghiệp của Phó gia, tất cả các vật dụng đáng tiền đều được mang đi, chỉ để lại một người canh giữ vườn, cũng chính là lão Thôi, cùng một người hầu… còn có… hài nhi trong bụng của người hầu đó”.
“Đó chính là cha anh sao?” Vừa nói dứt câu, Phương Đăng tự vả vào mặt mình một cái nhẹ, hễ hấp tấp là đầu óc cô trở nên ngu ngốc. Dù sao cũng là chuyện nhiều năm trước rồi, đúng là vậy, Phó Thất tuyệt đối không bận tâm đến câu hỏi của cô gái tiểu yêu tà này.
Phó Kính Thù chỉ vào trán cô, cười nói: “Phương Đăng, cô đúng là…” . Nụ cười của anh lúc nào cũng rất nhanh, chỉ chớp mắt một cái là tắt mất. “Đúng vậy đó chính là cha tôi, ông tên là Phó Duy Nhẫn”.
“Sao người khác tin đó là con trai của ông chủ, mà không phải là con của người hầu với người làm vườn chứ?” – Phương Đăng âm thầm cầu nguyện lão Thôi không nghe được lời của cô.
“Vì người hầu với người làm vườn đó chính là hai chị em. Một năm sau, ông nội tôi đích thân gửi giấy tờ thừa nhận đứa con trai này, còn ủy thác cho nhiều người trong gia đình quan tâm cậu bé đó. Ông vốn định chờ vài năm, khi bà chủ Trịnh đã phần nào bớt giận sẽ đón hai mẹ con họ về, nhưng chỉ chớp mắt thời cuộc không cho phép ông làm điều đó, bẳng đi một thời gian đã qua mấy chục năm’”
Phương Đăng nói: “Vậy là lúc đầu cô người hầu bị để lại, cũng là do ý của bà chủ Trịnh”.
Phó Kính Thù đáp: “Có lúc cô rất thông minh, có khi lại quá ngốc. Nhưng lúc thông minh cũng khá thường xuyên. Người hầu đó gọi là Tiểu Xuân, ai cũng gọi là Tiểu Xuân cô nương. Bà là con gái của vú nuôi ông nội tôi, lớn hơn ông nội tôi vài tuổi”.
Phương Đăng há hốc mồm kinh ngạc: “Vậy sau này Tiểu Xuân cô nương đó, hay cũng chính là bà nội anh đã sang Mã Đại sao?”
“Không, bà đã chết. Thật ra cũng tính là đi được. Dù sao Tiểu Xuân cô nương đó cũng đã sinh hạ huyết mạch duy nhất cho ông nội tôi, không ngờ bà chủ Trịnh tìm danh y chữa bệnh, lúc ba mươi lăm tuổi lại sinh một đôi song sinh trai gái. Cho nên không muốn đón thêm người con nào nữa. Đến khoảng mười năm trước, ông nội tôi qua đời, đã dặn dò bà chủ Trịnh nhất định phải đem Phó Duy Nhẫn về chăm sóc thật tốt. Bà chủ Trịnh nhớ tới ân tình vợ chồng mấy chục năm, cuối cùng mới đồng ý.” Chuyện này Phó Kính Thù chỉ nói qua có vài lời.
“Tại sao Tiểu Xuân Cô Nương lại chết? Sao anh không cùng cha anh đi Mã Đại chứ?”
“Cô hỏi nhiều quá. Tôi không đi, vì bà chủ Trịnh chỉ làm theo lời dặn của ông nội tôi, đem con trai về Mã Đại, không dẫn theo bất kỳ người nào khác”.
“Anh cũng là người khác sao?” – Cô mơ hồ cảm thấy nguyên do đó nhất định có liên quan đến cô Chu Nhan, nếu không Phó Duy Nhẫn cũng không thể nào bỏ lại vợ con một mình đi xa, nhưng điều này Phương Đăng không dám hỏi.
Chuyện Phó Kính Thù không muốn nói, không ai có cách khiến anh mở miệng.
“Cô bị muỗi cắn đủ chưa? Không chừng mai đến trường cô sẽ bị người ta gọi là con bé mặt rỗ đó!” – Anh ta chuyển sang đề tài khác.
Phương Đăng nghiêng đầu nhìn sang chỗ anh. Ở góc sân có một ngọn đèn mờ, sắc mặt Phó Thất dưới đèn vẫn bình thường, nhưng Phương Đăng thấy rất rõ ràng, đôi mắt lúc nào cũng trong sáng đó lúc này lại có chút mơ màng, dường như vẫn còn bị lạc trong khoảng thời gian xưa cũ mà nãy giờ anh nhắc đến.
“Vậy tôi về, mặt tôi ngứa lắm rồi”. Phương Đăng đi đến chân tường, quay đầu nhìn lại nói với anh một câu: “Thật tốt, tôi thật ngưỡng mộ anh”.
“Ngưỡng mộ tôi?” – Câu nói không đầu không đuôi của cô làm cho Phó Kính Thù có hơi kinh ngạc.
Phương Đăng gật đầu nói: “Người nhà của anh đều như người sống trong chuyện xưa vậy, khó trách mọi người đều nói trên đảo này, Phó gia là một gia tộc hàng đầu. Nếu tôi là anh, tôi nhất định sẽ cảm thấy rất kiêu hãnh”.
Phó Kính Thù dùng tay véo một cành cỏ đuôi chồn ném vào trong bụi cỏ, bật cười, trong lời nói có chút buồn bã: “Cô thật sự cảm thấy ngoài cái họ này, tôi và người nhà Phó gia thật sự giống nhau sao?”
“Dĩ nhiên!” Phương Đăng đáp ngay không do dự. “Nói không chừng so với bọn họ anh còn tốt hơn… anh xem, anh còn biết vẽ, biết trồng hoa”. Cô cũng có cảm giác lời nói của mình hơi lung tung, nên gãi gãi đầu, cười nói: “Dù sao tôi cũng chẳng quen người nhà Phó gia nào còn sống, trừ anh ra…thằng quỷ nhỏ Phó Chí Thời cùng người nhà hắn thì không tính, bọn họ không xứng, giống như trong ổ Phượng Hoàng mà sinh ra con chồn vậy, chỉ biết làm mấy chuyện trộm gà trộm chó thôi”.
Phương Đăng vừa nói xong đã phóng thẳng lên đầu tường rào, tư thế xem ra cũng không dịu dàng gì. Cô đanh thép nói người khác là kẻ trộm gà trộm chó, còn mình thì đi ra khỏi nhà người ta bằng cách này. Hai chân cô lanh lẹ chạm đất nhảy ra ngoài, Phương Đăng còn chưa hiểu lúc đưa mắt nhìn cô nhảy khỏi tường, Phó Kính Thù cười cái gì nữa. Chỗ anh đang ngồi khá ảm đạm không có ánh sáng, nhưng nụ cười đó lại giống y như là ánh trăng trên mái hiên nhà.
Hoặc là tất cả đều xuất phát từ trí tưởng tượng của cô.