Thiên Hương Tiêu

Chương 12: Thả hổ về núi thâm nhập hang cọp


Đọc truyện Thiên Hương Tiêu – Chương 12: Thả hổ về núi thâm nhập hang cọp

Cốc Hàn Hương đột nhiên bước tới, ngã vào lòng Hồ Bách Linh cười rằng:

“Đại ca lần này quay về, hình như xa lạ với thiếp nhiều, muội là thê tử của chàng! Sao lại nói những lời như thế với muội?” rồi hai hàng nước mắt tuôn rơi.

Hồ Bách Linh thở dài, vuốt mái tóc của ái thê, trong lòng dâng lên cảm giác thê lương, nhủ thầm rằng:

“Mình vốn là dắt theo ái thê ẩn cư, sống ở chốn núi rừng như thần tiên, thế mà lại nổi lòng tranh dành chức minh chủ lục lâm, giờ đây leo lên lưng cọp khó trèo xuống, bên ngoài thì không được các nhân vật của danh môn chính phái tha thứ, bên trong thì không được đồng đạo lục lâm khuất phục, bọn Phong Thu thì sắp tái suất giang hồ, chắc chắn trong võ lâm sắp có chuyện kinh thiên động địa, giờ đây mình hai bên đều gặp địch …” nghĩ đến đây thì bất giác hùng tâm giảm xuống.

Cốc Hàn Hương chậm rãi ngẩng đầu lên lau nước mắt, nói:

“Đại ca trong lòng đã không vui, chao ôi! Muội không nên rơi nước mắt thế này …”.

Hồ Bách Linh giật mình, lấy lại tinh thần, cừơi lớn nói:

“Hương muội đừng quá lo lắng, ta nào có không vui, chúng ta hãy uống chén rượu!” rồi ngửa cổ uống cạn chén rượu trong tay.

Cốc Hàn Hương mỉm cười, bưng chén rượu uống cạn một hơi, nói:

“Đại ca, ngày sinh thần của huynh đã sắp đến”.

Hồ Bách Linh hơi suy nghĩ rồi nói:

“Muội nhớ thật rõ …”.

Cốc Hàn Hương cười:

“Lúc trước chúng ta suốt ngày chốn chạy, không có thời gian chúc mừng cho huynh, từ rày về sau muội sẽ làm nhiều món ngon, chúc mừng cho chàng một phen”.

Hồ Bách Linh quay đầu lại nhìn đứa trẻ, cười:

“Còn nửa tháng nữa là đến ngày sinh thần của ta, đến lúc đó hãy nói!”.

Đột nhiên đứng dậy:

“Ta vẫn còn có việc, không thể ở cùng các người”. Rồi đưa tay vỗ nhẹ lên đầu đứa trẻ, sải bước ra ngoài.

Thì ra Hồ Bách Linh đột nhiên cảm thấy mối nhu tình của Cốc Hàn Hương đã làm cho tráng chí của chàng giảm xuống, không dám ngồi lâu nữa, mới đứng dậy mà đi.

Hồ Bách Linh bước ra khỏi thạch động, một trận gió thổi vào mặt, tinh thần tỉnh táo.

Đột nhiên chợt nghĩ rằng:

“Phong Thu sư thúc trước nay quỷ kế đa đoan, để cho sư đệ đến Mê Tông Cốc đưa thư, chắc chắn không thể không dự phòng, mình đã có lòng cứu đời, sao không thăm dò âm mưu của bọn họ để ra tay đề phòng trước”.

Hồ Bách Linh đến chỗ một vách núi, đưa tay gõ lên vách đá ba lần.

Một lát sau, vách đá đột nhiên nứt ra một cánh cửa.

Một đại hán người mang đơn đao, mình mặc kình trang bước vội ra, cúi người làm lễ với Hồ Bách Linh, rồi đứng sang một bên.

Hồ Bách Linh hơi gật đầu, chậm rãi bước vào trong. Tòa thạch thất này chính là nơi kiên cố và bí mật nhất trong Mê Tông Cốc, dùng để nhốt những phạm nhân quan trọng.

Rẽ qua mấy núi vòng véo, thì đến một căn phòng rộng rãi, Trương Kính An đang nằm ngửa trên đống cỏ khô.

Hồ Bách Linh kêu lên:

“Sư đệ …”.

Trương Kính An chậm rãi mở mắt ra, nhìn về phía Hồ Bách Linh rồi hững hờ nhắm lại, nhìn ánh mắt tán lọan, thần thái yếu ớt, xem ra thương thế rất nặng.

Hồ Bách Linh quay nhìn đại hán người mang đơn đao đi sau mình, nói:

“Mở cửa ra”.

Đại hán trả lời một tiếng, lấy chìa khóa mở cánh cửa bằng sắt.

Hồ Bách Linh đẩy cánh cửa, chậm rãi bước về phía Trương Kính An, đưa tayvỗ lên huyệt huyền cơ ở trước ngực của y, nói:

“Thương thế của sư đệ có nặng không?”.

Trương Kính An đột nhiên mở hai mắt, ngồi dậy, mặt phẫn nộ nói:

“Chắc sư huynh đến đây lấy mạng của tiểu đệ?”.

Hồ Bách Linh lắc đầu than:

“Nếu muốn lấy mạng của đệ, ta sẽ không đến thăm đệ”.

Trương Kính An tiêu nghiểu chậm rãi nằm xuống, lạnh lùng nói:

“Phải chăng sư huynh muốn dùng tình xưa để lừa đệ nói ra bí mật trong lòng, sau đó giết chết đệ”.

Hồ Bách Linh nói:

“Sư đệ nếu đa nghi như thế, thật khiến cho tiểu huynh khó cãi”.

Trương Kính An nói:

“Nếu như sư huynh muốn lấy tính mạng của đệ, lại không muốn điều tra bí mật, vậy thì vào thạch lao này thăm đệ là có ý gì?”.

Hồ Bách Linh nói:

“Ta đến đây để trị thương cho đệ”.

Trương Kính An lạnh lùng nói:

“Đệ tự tin gia sư có thể trị thương thế của “Thiên tinh chỉ”, sư huynh nếu như quả thật có lòng thả đệ, chỉ cần đưa đệ ra khỏi Mê Tông Cốc là xong”.

Hồ Bách Linh một ý nghĩ lướt qua, nói:

“Dù cho ta thả đệ rời khỏi Mê Tông Cốc, lại còn đoạn đường xa vạn dặm, đệ người mang trọng thương, làm sao đủ sức đi?”.

Trương Kính An hé mắt, cười nhạt:

“Phải chăng sư huynh hoài nghi ở ngoài Mê Tông Cốc có người tiếp ứng đệ?”.

Hồ Bách Linh nghiêm mặt nói:

“Chúng ta rốt cuộc vẫn có tình đồng môn, sau khi đả thương đệ, trong lòng ta cảm thấy không yên, sau nhiều lần suy nghĩ, mới chạy đến đây thăm đệ, ta trị thương cho đệ xong sẽ đích thân đưa đệ đến gặp Phong sư thúc, thỉnh tội trước mặt của người”.

Trương Kính An hơi trầm ngâm, lạnh nhạt nói:

“Sư huynh quả nhiên bất phàm, tâm cơ thâm trầm, khiến cho người ta khó …”.

Hồ Bách Linh mỉm cười, nói tiếp:

“Thương thế của sư đệ rất nặng, không tiện nói nhiều, hãy mau vận khí đợi ta đả thông kinh mạch của đệ xong, ta sẽ đưa chân khí vào trong người đệ, chỉ cần huyết mạch thông suốt, thương thế sẽ không trầm trọng hơn”.

Nói xong, đưa tay đỡ vào người Trương Kính An.

Trương Kính An miệng tuy từ chối nhưng trong lòng thì làm theo lời Hồ Bách Linh, cố nén cơn đau, vận chân khí lên.


Hồ Bách Linh đặt bàn tay lên lưng Trương Kính An, lập tức cảm thấy được rằng y đã âm thầm vận công, cũng không nói ra điều ấy, mỉm cười nói:

“Sư đệ hãy cẩn thận, giờ đây tiểu huynh điểm tám đại huyệt sau lưng của đệ”. Tay trái đỡ lên vai Trương Kính An, tay phải đưa lên phất xuống, trong chớp mắt, đã liên tục vỗ vào tám đại huyệt của Trương Kính An.

Trương Kính An biết thương thế của mình rất nặng, nếu Hồ Bách Linh có lòng giết y thì đề phòng cũng vô dụng, trong lòng thì rất thản nhiên, không hề đề phòng.

Hồ Bách Linh vỗ xong tám đại huyệt ở sau lưng thì hơi ngừng lại, nói:

“Giờ đây ta sẽ dùng chân khí đánh vào huyệt mệnh môn của sư đệ, nếu như sư đệ có thể nén cơn đau, cố gắng vận khí tiếp ứng, như vậy công hiệu sẽ tăng lên gấp bội”.

Trương Kính An đã cảm thấy Hồ Bách Linh thật lòng thật dạ trị thương cho mình, hít dài một hơi, đáp rằng:

“Sư huynh căn dặn, tiểu đệ sẽ tuân lệnh”.

Hồ Bách Linh đưa tay đặt lên lưng Trương Kính An xong, một luồng khí nóng từ trong lòng bàn tay đánh thẳng vào người Trương Kính An.

Trương Kính An cảm thấy luồng khí nóng này như sông dài biển rộng cuồn cuộn tuôn vào người không ngớt, thế rồi lập tức tụ chân khí đẩy ra phía sau.

Hai luồng khí hợp nhau, Trương Kính An cảm thấy cơn đau trong người giảm xuống, người cũng nhẹ nhàng hơn nhiều.

Đồng thời cảm thấy khí huyết trong người bị một luồng khí nóng đẩy đi khắp tòan thân, đi đưa đến tứ chi và các khớp xương.

Khoảng một bữa cơm thì Hồ Bách Linh mới thu lại chưởng trái đặt ở huyệt mệnh môn sau lưng Trương Kính An, nói:

“Sư đệ hãy vận khí điều tức một vòng, tiểu huynh cũng ở đây, đợi cho đệ hành khí một vòng xong thì sẽ dùng một ít thuốc, thương thế sẽ giảm đi phân nửa, trong vòng hai ba ngày thì hoàn toàn hồi phục”.

Khi Trương Kính An quay đầu nhìn lại, chỉ thấy Hồ Bách Linh đang rút khăn tay lau mồ hôi trên mặt, mỉm cười nói:

“Tiểu đệ lần này nghĩ rằng chắc chắn sẽ chết, nào ngờ sư huynh lại hồi tâm chuyển ý, đích thân trị thương cho tiểu đệ”.

Hồ Bách Linh hạ giọng nói:

“Khí huyết của sư đệ vừa mới thông suốt, không tiện nói nhiều, hãy mau vận khí điều tức”.

Trương Kính An vận khí hành huyết một vòng xong, khi mở mắt ra, Hồ Bách Linh đã điều tức xong trước y, mỉm cười nói:

“Sư huynh …”.

Hồ Bách Linh xua tay, thì thầm:

“Thiệt thòi cho sư đệ, hãy tạm thời ở trong thạch lao này, tiểu huynh sẽ lập tức sai người đưa thức ăn, sư đệ sau khi dùng thức ăn thì hãy lập tức vận công điều tức, canh ba đêm nay, tiểu huynh sẽ đến thạch lao đón đệ, đích thân đưa đệ ra khỏi cốc”.

Trương Kính An hơi mỉm cười, nói:

“Sư huynh cứ tùy tiện”.

Hồ Bách Linh xoay người đi ra khỏi thạch lao, đóng cửa lại rồi bước ra ngoài.

Trương Kính An nhìn bóng Hồ Bách Linh khuất dần, trong lòng cứ suy đi nghĩ lại tại sao Hồ Bách Linh cứu mình, nghĩ hoài mà vẫn không tìm ra lý do …

Một lát sau cánh cửa sắt lại mở ra, một đại hán khỏang hai mươi tuổi bưng vào một khay gỗ, trong khay có mấy món thức ăn ngon và một bình rượu, tám miếng bánh dầu.

Trương Kính An trong bụng đã đói, ăn hết sạch những thứ vừa mới bưng vào.

Đại hán đưa thức ăn ấy kính cẩn đứng một bên, đợi Trương Kính An ăn xong thì thu dọn bát đũa đem ra.

Trương Kính An ăn uống xong, cảm thấy tinh thần hồi phục rất nhiều, cứ theo lời Hồ Bách Linh căn dặn mà tiếp tục vận khí điều tức.

Đến canh ba, Hồ Bách Linh quả nhiên theo hẹn mà đến, toàn thân mặc kình trang, mang theo cả kiếm và gậy, mở cửa nói:

“Sư đệ cảm thấy thương thế có đỡ hơn chưa? Trương Kính An nói:

“Thương thế đã đỡ rất nhiều, chỉ là đã làm phiền sư huynh đích thân đưa tiễn”.

Hồ Bách Linh không để y nói tiếp, chen vào:

“Sư đệ đã cảm thấy thương thế đỡ đi rất nhiều, chúng ta hãy lên đường, ta đã sai người chuẩn bị ngựa ở ngoài cốc”.

Tla đứng dậy, đi theo sau Hồ Bách Linh, những người tuần đêm gặp Hồ Bách Linh đều cung kính làm lễ bái kiến.

Khi ra đến cửa cốc, Hồ Bách Linh nhận lấy hai sợi cương ngựa từ trong tay đại hán, quay đầu lại nói với Trương Kính An:

“Sư đệ hãy lên ngựa”.

Trương Kính An tung người nhảy vọt lên lưng ngựa, nói:

“Mời sư huynh”.

Hồ Bách Linh nói:

“Tiểu huynh đi trước một bước dẫn đường cho sư đệ”. Rồi giật cương ngựa, phóng về phía trước, Trương Kính An quất ngựa đuổi theo.

Hai người chạy được khoảng hơn mười dặm, Trương Kính An đột nhiên kìm cương ngựa lại nói:

“Sư huynh hãy đi chạm một bước, tiểu đệ có mấy câu muốn nói …”.

Hồ Bách Linh ghìm ngựa lại nói:

“Sư đệ có lời gì, hãy cứ nói ra”.

Trương Kính An nói:

“Không dám giấu sư huynh, ở ngoài Mê Tông Cốc này có người đón tiếp sư đệ”.

Hồ Bách Linh mỉm cười, nói:

“Không biết người đón tiếp sư đệ đang ở đâu, chúng ta cùng đi gặp y!”.

Trương Kính An nói:

“Nếu sư huynh không nghi ngờ, tiểu đệ sẽ lập tức gọi y đến”.

Hồ Bách Linh trong lòng giật mình, nhưng bề ngoài thì vẫn bình tĩnh, nói:

“Sư đệ sao lại nói thế, tiểu huynh nào nghi ngờ, nếu tiểu huynh nghi ngờ thì đâu có đích thân đưa đệ ra”.

Trương Kính An đưa tay vào trong người, lấy ra một vật hình tròn, đặt trong tay, nói:

“Đây là loại dụng cụ truyền âm mà gia sư đã chế ra, không biết sư huynh đã gặp qua hay chưa”. Rồi vung tay ném một cái.

Chỉ nghe thấy tiếng vù vù vang lên không ngớt, phá vỡ màn đêm yên tĩnh.

Lực tay của Trương Kính An hơn người, vật ấy bay xéo khoảng hơn mười mấy trượng, âm thanh phát ra kéo dài cả một tuần trà.

Quả nhiên thấy ở sơn cốc phía tây có một bóng người mau chóng phóng đến, trong chốc lát đã đến chỗ hai người.

Hồ Bách Linh đưa mắt nhìn lại, chỉ thấy đó là một người tuổi trên dưới tam tuần, mình mặc kình trang, trên người mang theo một thanh trường kiếm.

Trương Kính An chỉ người ấy, nói với Hồ Bách Linh:


“Vị Châu huynh này là môn hạ của bằng hữu gia sư, lần này cùng đi với tiểu đệ đến đây, vốn là muốn cùng vào trong cốc bái kiến sư huynh, nhưng Châu huynh cảm thấy danh tiếng của sư huynh quá lớn, e rằng không chịu tiếp kiến, cho nên đợi ở ngoài cốc!”.

Hồ Bách Linh là người lợi hại, vừa nhìn người ấy đã biết kẻ này rất tự phụ, thế rồi ôm quyền, nói:

“Châu huynh”.

Chàng suy nghĩ rất kín kẽ, vừa nghe Trương Kính An tuy giới thiệu, nhưng vẫn không nói kẻ ấy là môn hạ của ai, biết được đối phương có lòng đề phòng với mình, cũng không hỏi nhiều nữa.

Người này quả nhiên kiêu ngạo, vừa thấy Hồ Bách Linh, như không thấy vậy, thần thái rất lạnh lùng, nhưng thấy Hồ Bách Linh ôm quyền làm lễ với y trước, thế là có chút hơi lung túng, vội vàng trả lễ, nói:

“Nghe danh Hồ huynh đã lâu, hôm nay mới gặp mặt, quả thực cảm thấy rất vui mừng”.

Hồ Bách Linh mỉm cười nói:

“Châu huynh đã quá khen”.

Trương Kính An đột nhiên tiếp lời nói:

“Anh hùng mến tài nhau, hai vị vừa gặp nhau đã như bằng hữu”.

Hồ Bách Linh quay nhìn Trương Kính An, nói:

“Sư đệ, chúng ta nhân lúc còn sớm hãy lên đường, ta nghĩ sư thúc chắc chắn là đang trông đợi tin tức của đệ”.

Trương Kính An chưa kịp trả lời, đại hán mặc kình trang ấy nói:

“Ở ngoài Mê Tông Cốc của Hồ huynh, có rất nhiều đại sĩ, hòa thượng, không biết là cớ gì?”.

Hồ Bách Linh nhíu mày, nhủ thầm:

“Hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang cũng hiếp người quá đáng, dù có lòng đề phòng đối với mình, cũng không nên trắng trợn như thế”.

Đại hán trung niên mặc kình trang ấy thấy Hồ Bách Linh trầm ngâm không nói, nén không được nói tiếp:

“Theo ý của tại hạ, những hòa thượng, đại sĩ này ai cũng có võ công thượng thừa, vả lại người mang theo binh khí, hình như không giống với du phương đại sĩ, hành cước hòa thượng bình thường, chắc chắn là có mưu đồ gì đây”.

Hồ Bách Linh trong lòng tuy phẫn nộ, nhưng có định lực hơn người, luôn giấu được sự hỷ nộ ở trong lòng, không để lộ ra ngoài, thế rồi mới mỉm cười nói:

“Những người ấy chắc là môn hạ của hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang”.

Trương Kính An nói:

“Sao? Sư huynh và hai phái ấy có mối hiềm khích ư?”.

Hồ Bách Linh cười nói:

“Trăm năm nay, các nhân vật trong giới lục lâm chúng ta lúc nào cũng xung đột với hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang, Mê Tông Cốc của tiểu huynh là tổng trại của lục lâm trong thiên hạ, chắc chắn đã khiến cho hai phái để ý …”.

Đại hán mặc kình trang ấy đột nhiên cười nhạt, nói tiếp:

“Hồ huynh khí độ ngất trời, rộng rãi như biển khơi, nếu là huynh đệ đã ra tay cho bọn chúng thấy!”.

Hồ Bách Linh trong lòng nhủ thầm:

“Kẻ này không biết là môn hạ của ai mà khẩu khí cuồng nạgo như thế”, để ý nhìn thì thấy hai huyệt thái dương của dẻ này nhô cao, ánh mắt như điện, quả là người có võ công thượng thừa, thế rồi mới mỉm cười nói:

“Huynh đệ tuy đã dành được chức minh chủ của lục lâm trong thiên hạ, nhưng các vị quần hào đều là bá chủ của một phương, trong nhất thời rất khó thống nhất ý kiến, không thể nào để ý đến chuyện bên ngoài, còn hai phái Thiếu Lâm, Võ Đang ngạo mạn như thế …”.

Chàng chưa nói xong đột nhiên ở sau một quả núi cách hơn một trượng có tiếng cười nhạt.

Tiếng cười nhạt này tuy rất nhẹ, nhưng ba người đều là cao thủ thuộc hàng nhất lưu, tai mất lanh lệ lạ thường, đều nghe rất rõ ràng.

Đại hán mặc kình trang ấy quát lớn một tiếng, nói:

“Ai?” rồi đưa tay vào trong lòng phất ra, hai chấm sáng phóng vút ra.

Chỉ nghe tiếng kim loại và đá giao nhau, dưới ánh trăng có ánh lửa lóe lên.

Hồ Bách Linh thấy y phóng ra ám khí không phải có lòng đánh người, chẳng qua là mượn thời cơ để biểu diễn mà thôi.

Trung niên mặc kình trang phóng ám khí ra, người cũng bay vọt lên, hai tay vung một cái, phóng thẳng lên cao đến một trượng năm sáu thước, sau đó thu hai chân lại, xoay người lên không, phóng xéo về chỗ phát ra tiếng cười, giống như một con chim đang lao xuống, thân phân, tư thế trông rất đẹp mắt, ki sắp đến gần hòn đá thì cổ tay phải lật lại, rút thanh trường kiếm ra khỏi bao, chém mạnh xuống.

Khi nhát kiếm này chém ra, một bóng người đột nhiên phóng vọt lên.

Chỉ nghe tiếng keng keng giao nhau, kiếm quang chợt tắt, hai bóng người vừa hợp đã phân, đều đồng thời từ trên không hạ xuống.

Hồ Bách Linh ngưng thần nhìn qua, chỉ thấy đó là một nhà sư già mặc áo bào màu xám, tay cầm ngang thanh thiền trượng, đứng hiên ngang dưới ánh trăng.

Đại hán trung niên mặc kình trang quay đầu lại nhìn Hồ Bách Linh, hỏi:

“Hồ huynh có quen vị hòa thượng này không?”.

Hồ Bách Linh tuy không quen, nhưng biết nhà sư này là người trong phái Thiếu Lâm, thế rồi mới nói:

“Vị sư phụ này trông rất lạ, chắc chắn là cao tăng trong chùa Thiếu Lâm!”.

Đại hán mặc kình trang cười dài nói:

“Nếu Hồ huynh không quen, thì hãy để cho huynh đệ đối phó!” rồi thanh trường kiếm trong tay phất tới, tiến tới phía trước hai cu, nói:

“Nghe nói hòa thượng chùa Thiếu Lâm ai nấy đều mang tuyệt thế võ công, nhưng tại hạ trước nay tiếc rằng không có cơ hội gặp mặt, nếu đêm nay đã thấy, thời cơ tốt khó …”.

Nhà sư mặc áo bào màu xám ấy đọc Phật hiệu, cắt ngang lời nói của đại hán mặc kình trang, bảo rằng:

“Bần tăng là Đạt Ma viện Thiên Vọng …”.

Đại hán mặc kình trang trung niên ấy lạnh lùng nói:

“Mặc ngươi là Thiên Vọng hay Địa Vọng, hãy tiếp của ta ba kiếm”.

Lời vừa nói ra, kiếm thế đã đâm thẳng tới trước ngực một chiêu “Thiên ngoại lai vân”.

Thiên Vọng đại sư nhíu mày, mặt lộ vẻ tức giận, một trượng đánh ra chiêu “Dã châu hoành độ” đánh bạt thanh kiếm ra.

Đại hán mặc kình trang tuổi trung niên không để cho Thiên Vọng đại sư trở tay, thanh trường kiếm trong tay lại quét trái điểm phải, đánh liền ra hai chiêu.

Chỉ thấy một mảng kiếm quang vẽ ra từng đóa kiếm hoa đánh thẳng về phía Thiên Vọng đại sư.

Thiên Vọng đại sư cười nhạt một tiếng, cây thiền trượng múa tiếp ra chiêu “Vũ đả lê hoa” hộ ở trước thân, chỉ nghe tiếng keng keng vang lên, thanh kiếm của đại hán mặc kình trang bị đánh bật ra, miệng thì niệm lớn:

“A di đà Phật!” rồi lật tay đánh ra một trượng “Hiệp sơn siêu hải”, từ trên đầu bổ xuống.

Chiêu này rất uy mãnh, dù cho đại hán mặc kình trang ấy có hung hăng đi nữa cũng không dám lấy kiếm mà đỡ gậy, hai vai lách một cái, thối lùi ra sau năm thước, né tránh được một trượng.


Đại hán mặc kình trang ấy lúc đầu đánh được vài chiêu, kiếm thế liên miên không ngớt, thế công sắc bén lạ thường, nhưng đánh được khoảng vài chục chiêu thì thế công dần dần bị phá giải, ngược lại Thiên Vọng đại sư thì càng đánh càng mạnh, trượng thế càng cường liệt hơn, luồng kiếm quang của đại hán trung niên bị cây thiền trượng của Thiên Vọng đại sư áp chế, càng lúc càng nhỏ lại.

Đại hán trung niên lúc ấy mới thay đổi cách đánh, từ thế công trở thành thế thủ, kiếm chiêu liên miên không ngớt, thủ kiếm ở môn hộ.

Thiên Vọng đại sư thì thi triển thế phản công mãnh liệt, cây thiền trượng xỉa thẳng quét ngang, trong tiếng gió thổi vù vù, uy thế càng lúc càng mạnh. Nhưng đại hán mặc kình trang có kiếm thế kín kẽ lạ thường, Thiên Vọng đại sư tuy đã nhốt được y vào trong màn trượng, nhưng trong nhất thời không thể nào đả thương y, xem ra hai người phải đánh rất lâu.

Hồ Bách Linh một mặt nhìn hai người đánh nhau, một mặt nhủ thầm:

“Kẻ này không biết là môn hạ của ai mà kiếm thuật tuy không thượng thừa nhưng cũng thuộc loại đăng đường nhập thất”.

Trương Kính An tuy rất để ý đến cuộc đấu của hai người, nhưng thần sắc không hế có vẻ quan tâm, tựa như hai người dù ai chết cũng được, chẳng liên quan gì đến mình.

Hồ Bách Linh lúc mới thấy thần sắc của Trương Kính An thì trong lòng không hiểu, suy nghĩ tiếp thì mới vỡ lẽ ra, nhủ thầm:

“Phải rồi, Phong Thu là người thâm trầm, không bao giờ để lộ sát cơ, Trương Kính An đi theo Phong Thu đã lâu, chắc cũng học được ít nhiều sự âm trầm, hiểm trá của y, nếu như kẻ kia bị thương trong tay Thiên Vọng đại sư, chắc chắn sẽ khiêu khích lòng báo thù của sư phụ của y, phái Thiếu Lâm lại có thêm một cường địch …”.

Đang lúc suy nghĩ, đột nhiên nghe một tiếng quát lớn, đại hán trung niên cầm kiếm đột nhiên phản công, trong chớp mắt luồng kiếm quang đại thịnh, phá được màn trượng dày đặc của Thiên Vọng đại sư, phóng vọt ra ngoài đến hơn một trượng.

Thiên Vọng đại sư giơ ngang trượng, không đuổi theo, cao giọng niệm Phật hiệu, cười ha ha nói:

“Thí chủ võ công không kém, lão nạp không nỡ đả thương thí chủ …”.

Đại hán trung niên ấy cười nhạt, nói:

“Ta chẳng qua một lúc phân tâm, bị ngươi điểm trúng huyệt đạo, trong vòng ba tháng ta sẽ đến rửa mối nhục này!”.

Thiên Vọng đại sư nói:

“Ngươi đã trúng “Kin cương chỉ” của ta, kinh mạch đã bị thương, nhưng khi hạ thủ, lão nạp đã để cho thí chủ một con đường rút lui, chỉ dùng ba thành công lực, tuy bị thương không nặng, nhưng ít nhất trong vòng ba tháng mới có thể khôi phục lại nguyên khí, Phật ta từ bi, dung nạp vạn vật, biển khổ không bờ, quay đầu là bến, A di đà Phật!”.

Hồ Bách Linh thầm nhủ:

“Cao tăng của chùa Thiếu Lâm quả nhiên tu dưỡng, định lực có chỗ hơn người, khi liều mạng với người ta mà vẫn có lòng từ bi như thế …”.

Chỉ nghe đại hán mặc kình trang ấy cười lớn:

“Lão hòa thượng hãy bớt thuyết giáo nhân quả báo ứng, trước tiên hãy tfhử mùi vị “Đoạt hồn tử mẫu thoa” của ta!”.

Đột nhiên tay trái phất lên một cái, một luồng ánh sáng màu vàng phóng thẳng tới Thiên Vọng thiền sư.

Hồ Bách Linh nghe thấy tên ám khí lá “Đoạt hồn tử mẫu thoa”, trong lòng chợt nghĩ đến một người, không khỏi thất kinh, nhủ thầm:

“”Đoạt hồn tử mẫu thoa” là loại ám khí nhất tuyệt trong võ lâm, lão hòa thượng này nếu như không biết, chỉ e sẽ thiệt thòi …”.

Thiên Vọng đại sư giơ trượng đánh thẳng về phía chiếc kim thoa.

Lão ra tay thật nhanh, trượng vừa giơ lên đã đánh trúng chiếc kim thoa, chỉ nghe một tiếng keng vang lên, chiếc kim thoa đột nhiên nổ thành một tấm màn màu xanh, chụp xuống.

Thiên Vọng đại sư nào ngờ trong chiếc kim thoa này lại có chứa độc hỏa, lúc ấy cảm thấy bất ngờ, muốn tránh cũng không kịp, chỉ cảm thấy ánh lửa lóe lên, tay áo, trước ngực đã bị cháy xém.

Lão võ công tinh thâm, định lực hơn người, tuy áo có mấy chỗ bị cháy, nhưng vẫn không lung túng, tung người vọt ra sau đến ba thước, giơ tay vỗ vào chỗ bị cháy ở trước ngực.

Nào ngờ khi tay phải chạm đến vết cháy ở trước ngực thì ống tay áo cũng bắt lửa cháy lên.

Trong khoảnh khắc, toàn thân bốc lửa, ánh lửa màu xanh chiếu sáng khuôn mặt của lão.

Thiên Vọng đại sư không dập tắt được lửa trên người, trong lòng đã cảm thấy lo lắng, đột nhiên mặt hiện lên vẻ bi phẫn, quát lớn một tiếng, lao về phía đại hán trung niên mặc kình trang.

Đại hán ấy đang dương đắc ý, đột nhiên thấy Thiên Vọng đại sư toàn thân bốc lửa lao tới, trong lòng kinh hãi, không dám chặn Thiên Vọng đại sư lại, tung người vọt lên, bay xéo ra ngoài.

Chỉ nghe Thiên Vọng đại sư gầm lên:

“Sử dụng loại ám khí độc địa như thế này, không thể tha ngươi được”. thanh âm bi tráng, giống như tiếng chuông đồng vậy.

Trong tiếng quát, người đầy lửa phóng vọt lên không một vòng lao về phía đại hán mặc kình trang.

Đại hán mặc kình trang ấy tung người vọt lên, đột nhiên cảm thấy chân phải tê rần, thì đã biết mình đã bị trọng thương, không khỏi thất kinh.

Quay đầu nhìn lại, cây thiền trượng của Thiên Vọng đại sư đã giáng xuống đầu.

Y trong lòng lo lắng, đâu còn dũng khí tiếp cây thiền trượng của Thiên Vọng đại sư nữa, xuất hết toàn lực, lại tung người nhảy vọt ra đến tám thước.

Thiên Vọng đại sư lạnh lùng hừ một tiếng, đánh cây thiền trượng xuống, cây thiền trượng chạm xuống đất, thân người lại vọt lên, đuổi theo.

Lão ta ba lần vọt lên, thân người không hề chạm đất, khinh công quả thật cao cường.

Đại hán mặc kình trang ấy tuy né tránh được lần thứ hai, nhưng thương thế của toàn thân đã phát tác, biết mình không thể tránh được đối phương nữa, thầm than:

“Xong rồi”. Tay phải cầm thanh bảo kiếm định dốc hết toàn lực tiếp lấy trượng thế của Thiên Vọng đại sư.

Đột nhiên nghe một tiếng quát chấn động trời xanh, một bóng người phóng vọt tới.

Người ấy đón đầu Thiên Vọng đại sư, giơ cao cây gậy sắt, tiếp cây thiền trượngc Thiên Vọng đại sư.

Tiếng kim loại giao nhau, hai bên đều chần động rơi xuống đất.

Thiên Vọng đại sư trên người đã trúng lửa độc ở nhiều nơi, nhưng lão cố nén cơn đau, chuẩn bị sau khi đánh chết đại hán trung niên sẽ tự đánh vỡ huyệt thiên linh cái của mình để tránh nỗi khổ bị thiêu đốt.

Nhưng nào ngờ Hồ Bách Linh đột nhiên ra tay, dùng gậy tiếp lấy cây trượng của y.

Chiêu này quả thực cả hai bên đều sử dụng chân tài thực học, không ai có thể chiếm được phần hơn.

Thiên Vọng đại sư đã cảm nhận được nỗi khổ bị lửa độc thiêu đốt, mồ hôi trên trán chảy xuống ròng ròng, đưa mắt nhìn về phía Hồ Bách Linh, nói:

“Lão nạp đã từng nghe Thiên Minh sư huynh nói, Hồ minh chủ có thần lực hơn người, võ công tuyệt thế, hôm nay gặp quả nhiên bất phàm, đáng tiếc lão nạp …” lửa cháy phừng phừng trên người lão, chiếc tăng bào đã cháy quá nửa. Hồ Bách Linh đột nhiên nói:

“Mong đại sư hãy giữ mạng lại để sau này tại hạ còn có cơ hội thỉnh giáo”.

Thiên Vọng đại sư vung hai tay, chiếc tăng bào đang bị cháy rách ra từng mảnh, rơi xuống đất.

Tuy lão đã vung rách chiếc tăng bào, nhưng mấy đốm lửa màu xanh trên người vẫn chưa tắt.

Té ra loại lửa độc này rất mạnh, chỉ cần bắt vào nơi nào thì sẽ cháy mãi không ngớt.

Hồ Bách Linh quay nhìn đại hán mặc kình trang, rồi lạnh lùng nhìn Thiên Vọng đại sư nói:

“Đại sư đã bị lửa độc cháy ở nhiều nơi, chỉ e chất độc đã xâm nhập vào trong người, dù cho có dùng cát dập tắt lửa độc cũng khó giữ được tính mạng”.

Yù muốn ngầm bảo lão ta hãy mau dùng cát dập tắt lửa trên người.

Thiên Vọng đại sư không đáp lại, tung người vọt lên, vọt đến hai ba lần thì biến mất vào trong góc núi.

Hồ Bách Linh biết lão không muốn ở trước mặt mình mà lăn lộn ở dưới đất mà mất đi thân phận, cho nên mới tránh đi.

Trương Kính An chậm rãi bước tới, nói:

“Lão hòa thượng này toàn thân bốc lửa, chỉ e rằng khó sống nổi”.

Hồ Bách Linh mỉm cười, cũng không hỏi nữa, trong lòng nhủ thầm:

“Chả lẽ loại lửa độc giấu trong “Đoạt hồn tử mẫu thoa” không có thuốc chữa hay sao?”.

Chỉ nghe Trương Kính An tiếp tục nói:

“Nếu khi y phục mới vừa bắt lửa, lập tức dùng cát để dập tắt, như thế lửa độc sẽ không phạm vào trong người”.

Hồ Bách Linh là người thông minh, đã biết Trương Kính An hiểu rằng mình ngầm chỉ cho Thiên Vọng đại sư cách dập tắt lửa, trong lòng nhủ thầm:

“Nếu mình không nghĩ ra cách hay, giấu đi chuyện này, chắc chắn sẽ khiến cho y nghi ngờ”.

Yù nghĩ ấy lướt qua, mỉm cười nói:

“Vị hòa thượng Thiếu Lâm này nếu như bị lửa thiêu chết ở đây, chắc chắn sẽ khiến cho các nhà sư Thiếu Lâm báo thù, sư đệ và Châu huynh thương thế vẫn chưa hết, một mình tiểu huynh e rằng khó chống đỡ …”.

Trương Kính An mỉm cười nói:

“Tiểu đệ đã nghe phái Thiếu Lâm được tôn xưng là Thái Sơn Bắc Đẩu trong chốn võ lâm, đệ tử môn hạ ai nấy đều võ công cao cường, ngày nay được gặp, quả nhiên không phải lời đồn suông”.


Hồ Bách Linh chậm rãi bước đến chỗ đại hán mặc kình trang, nói:

“Châu huynh thương thế thế nào, nếu không có gì trở ngại,chúng ta hãy lên đường, nếu như thương thế nặng nề thì hãy vào trong Mê Tông Cốc của huynh đệ, nghỉ ngơi vài ngày rồi đi cũng không muộn”.

Chàng hơi trầm tư rồi lại nói tiếp:

“Theo huynh đệ suy đóan, vị hòa thượng Thiếu Lâm này sau khi bị trọng thương, chắc chắn các nhà sư chùa Thiếu Lâm sẽ báo thù, nếu muộn nữa chỉ e rằng khó chạy thoát”.

Đại hán mặc kình trang tuy thương thế không nhẹ, nhưng không hề muốn tỏ ra rằng mình yếu đuối, cười lớn nói:

“Chỉ một vết thương nhỏ nhoi thế này, huynh đệ vẫn có thể chống chọi được, chúng ta hãy mau lên đường”. Rồi xoay người bước về phía trước.

Hồ Bách Linh phóng lên mình ngựa, giật dây cường, thớt ngựa phóng y như bay, khi đuổi đến bên cạnh đại hán mặc kình trang, đột nhiên đưa tay kéo đại hán lên yên ngựa, còn mình thì nhảy xuống, nói:

“Châu huynh đã bị thương nhẹ, đi bộ không tiện, hãy ngồi lên ngựa của huynh đệ”.

Đại hán mặc kình trang ấy quay đầu lại nhìn Hồ Bách Linh, không hề nói một lời cảm kích, phóng ngựa đi.

Đi được nửa đêm, khi trời sắp sáng sáng thì đã rời Mê Tông Cốc được khoảng hơn năm mươi dặm, Trương Kính An đột nhiên nhảy xuống lưng ngựa nói:

“Sư huynh đi bộ cả nửa đêm, chắc là đã mệt nhọc, hãy ngồi lên ngựa của tiểu đệ”.

Hồ Bách Linh mỉm cười, nói:

“Tiểu huynh không hề mệt mỏi, sư đệ đừng khách sáo”.

Trương Kính An chần chừ một lát rồi nói:

“Tiểu đệ có mấy câu chưa kịp nói với sư huynh, trong lòng rất không yên … xong … xong …” y ấp úng một hồi rồi không nói được câu gì.

Hồ Bách Linh nói:

“Sư đệ có lời gì khó nói?”.

Trương Kính An nói:

“Không dám giấu sư huynh, gia sư đã từng đến Bắc Nhạc, nhưng sư đệ không cho sư huynh hay”.

Hồ Bách Linh giật mình, nhủ thầm:

“Mình chỉ đoán mấy ngày nữa y sẽ đến Bắc Nhạc, không ngờ đã đến, xem ra âm mưu của bọn họ đã sớm phát động …”.

Hồ Bách Linh trầm ngâm một lát rồi nói:

“Phong Thu sư thúc làm việc, xưa nay xuất quỷ nhập thần, không biết người giờ hiện đang ở đâu, hãy mau dẫn tiểu huynh đến gặp người, huynh đã hơn mười năm không gặp Phong sư thúc”.

Trương Kính An mỉm cười nói:

“Gia sư ở gần đây, không biết hai thớt ngựa này nên xử lý thế nào?”.

Hồ Bách Linh là người thông minh, nghe Trương Kính An nói như thế, lập tức hiểu ra ý của y, hơi trầm ngâm rồi giơ tay vỗ lên thớt ngựa của Trương Kính An.

Thớt ngựa vươn dài cổ một cái rồi ngã xuống đất chết ngay.

Hồ Bách Linh ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy đại hán trung niên vẫn ngồi yên trên ngựa, hai tay chống lên yên, mắt nhắm chặt, mặt thì trắng bệt, không khỏi nhíu mày, nhủ thầm:

“Người này bị thương rất nặng, lại đi mấy mươi dặm đường, thế mà không té xuống ngựa”.

Rồi bước tới, tay trái đỡ lấy đại hán mặc kình trang, tay phải vỗ lên đầu ngựa.

Thớt ngựa hí một tiếng rồi ngã xuống đất chết.

Trương Kính An nhìn đại hán mặc kình trang, hỏi:

“Thương thế của Châu huynh có nặng không?”.

Hồ Bách Linh biết giờ đây y không thể cử động được, đưa tay đỡ lên lưng y, nói:

“Tiểu huynh sẽ cõng y đi!”.

Trương Kính An nói:

“Đã làm phiền sư huynh”. Rồi xoay người bước vào trong núi.

Hồ Bách Linh đi sát theo sau, đi vòng qua chân núi thì cảnh vật đột nhiên thay đổi.

Chỉ thấy hai vách núi kẹp một sơn cốc, trong cốc toàn là loại cỏ dại cao bằng đầu người, ngoài lối đi này, chẳng còn đường nào nữa, không khỏi ngạc nhiên nói:

“Sư đệ, chả lẽ Phong sư thúc ở trong bãi cỏ hoang này hay sao?”.

Trương Kính An nói:

“Không sai” người lách một cái, phóng vọt vào trong bãi cỏ.

Hồ Bách Linh đuổi sát theo sau vào trong đám cỏ. Cỏ ở trong sơn cốc này rất dày, chỉ đi vào vài thước, người đã bị cỏ che lấp.

Trương Kính An hai tay vặt cỏ, đi rất chậm rãi, tựa như đang dò đường.

Đi được khoảng hai ba dặm, Trương Kính An mới dừng lại, giơ cao hai tay, vỗ ba cái.

Trong khoảnh khắc, từ xa có tiếng vỗ tay trả lời.

Chỉ thấy bãi cỏ dập dờn, đột nhiên xuất hiện hai đại hán mặc kình trang, nhìn thấy Trương Kính An thì đều ôm quyền làm lễ.

Trương Kính An hỏi:

“Sư phụ ở đâu?”.

Đại hán mặc kình trang ở bên trái, nhìn Hồ Bách Linh sò xét rồi hỏi ngược lại:

“Người này là ai?”.

Trương Kính An nói:

“Vị này chính là đỉnh đỉnh đại danh đương kim lục lâm minh chủ, Hồ Bách Linh, Hồ sư huynh!”.

Hai đại hán ấy hơi cung tay, nói:

“Ngưỡng mộ đã lâu”. Rồi xoay người đi về phía trước.

Thân phận của hai người này rõ ràng không cao bằng Trương Kính An, nhưng nhìn vẻ mặt thì hình như không tôn trọng Trương Kính An.

Hồ Bách Linh cố ý ho nhẹ một tiếng, gây sự chú ý cho hai người ấy rồi hạ giọng nói với Trương Kính An:

“Tiểu huynh đi gặp Hắc đồng thời thế này, không biết có tiện không? Ta thấy chi bằng sư đệ hãy đi trước thông báo một tiếng”.

Trương Kính An chưa kịp trả lời, đột nhiên nghe giọng nói từ xa truyền vào tai:

“Không cần đâu!” giọng nói không lớn, nhưng lại nghe giật mình, từng chữ rõ ràng.

Hồ Bách Linh thầm thất kinh, nhủ rằng:

“Đó rõ ràng là giọng của Phong sư thúc, nhưng lão ta có thể nghe được lời mình nói với Trương Kính An, chả lẽ mười năm không gặp, lão đã luyện đến võ công thượng thừa trên có thể nhìn thấy, dưới có thể nghe được hay sao …” trong lòng cảm thấy không hay, cao giọng đáp:

“Đệ tử đã lâu không bái kiến sư thúc, lúc nào cũng nhớ trong lòng, lại không dám mạo muội bái phỏng, e làm kinh động đến sự thanh tu của sư thúc …”.

Chỉ nghe từ xa có tiếng cười lạnh lùng truyền vào trong tai, bảo rằng:

“Hiền sư điệp dành được chức lục lâm minh chủ, đem lại vinh quang cho sư phụ và ta, lão phu đang có khách bái phỏng, không rảnh để đích thân nghênh đón”.

Hồ Bách Linh cao giọng đáp:

“Nào dám làm phiền đại giá của sư thúc”.

Hai đại hán mặc kình trang nghe Phong Thu và Hồ Bách Linh đối thoại, đột nhiên khách sáo với Hồ Bách Linh, một trước một sau chia nhau vẹt cỏ dẫn đường.

Bọn Hồ Bách Linh, Trương Kính An lại đi được bốn năm trượng nữa, đến trước một tảng đá lớn, đại hán mặc kình trang dừng lại, cung kính vái tảng đá ấy một vái dài, nói:

“Đương kim lục lâm minh chủ Hồ Bách Linh cầu kiến sư tôn”.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.