Đọc truyện Thiên Hạ Kỳ Duyên – Chương 28: Thiếu nữ hiến kế (3)
Thanh Hoa lũ lụt, mùa màng mất trắng. Nạn dân đổ về Đông Kinh mỗi lúc một nhiều. Mấy ngày qua, đi đâu người ta cũng có thể bắt gặp những gương mặt tiều tụy, hốc hác, những dáng người lảo đảo, xiêu vẹo. Nạn dân dật dờ khắp các hang cùng ngõ hẻm trong kinh thành. Cát bụi dặm trường làm mặt mũi họ lấm lem. Quần áo họ rách tươm sau những trận quần thảo nhằm giành lấy chút đồ ăn thừa. Người nông dân bản tính vốn hiền hòa, chỉ vì miếng ăn, vì sinh tồn mà gây ra không biết bao nhiêu chuyện hỗn loạn ở kinh thành. Lính tuần tra được tăng cường lên gấp đôi. Ban đầu, họ cũng không muốn mạnh tay với đám nạn dân này. Nhưng người thì đông, nhẫn nại lại thiếu, nạn dân chen chúc như một bầy kiến lửa đói khát, không lúc nào ngừng gây loạn. Để duy trì tình hình trị an, binh lính không thể không mạnh tay áp chế.
Một vài lần bị trừng trị, đám nạn dân đã trở nên hiền hòa hơn. Không còn cảnh tranh giành, cướp bóc nữa. Bọn họ đã chấp nhận số phận tha phương cầu thực theo đúng nghĩa. Đồng thời, bọn họ cũng rất sợ bị trục xuất ra khỏi Đông Kinh. Mỗi lúc có quan binh của triều đình đi qua, nạn dân lại nhanh chóng dạt về hai bên đường, không giấu nổi sự bất an cùng khiếp nhược trong ánh mắt.
Run rẩy như cành liễu trước gió, thất thểu và nhợt nhạt như những bóng ma, nạn dân dần dần trở thành nỗi ám ảnh vô hình trong tâm trí mọi người.
Trong quán cơm nhỏ phía nam Đông Kinh, một người đàn ông ăn đang ngồi bên rượu tê hà. Người này tuổi ngoại lục tuần, tóc hoa râm, thân hình cao lớn, dáng vẻ rắn rỏi trầm uy, thoạt nhìn đã biết là người theo nghiệp võ. Tê hà là loại rượu dân gian mà bình sinh ông ta thích nhất. Dưới hàng lông mày rậm màu xám tro, đôi mắt hơi cụp xuống, chú mục nhìn vào chén rượu sóng sánh trên tay. Phía ngoài kia, thỉnh thoảng lại hiện lên mấy thân ảnh dật dờ. Người đàn ông lơ đãng nhìn ra bên ngoài, tự lẩm nhẩm gì đó với bản thân mình rồi ngửa cổ uống cạn một hơi.
Một canh giờ trôi qua, bình rượu tê hà đã vơi đi quá nửa.
“Nguyễn đại nhân, làm hạ quan tìm ngài mãi, hóa ra ngài lại trốn đến đây uống rượu một mình.” Một người trẻ tuổi mặc võ phục, tướng mạo đĩnh đạc từ ngoài bước vào, không nhanh không chậm ngồi xuống ghế đối diện. Đến khi nhìn thấy bình rượu đặt trên bàn, sắc mặt hắn sáng rực lên: “Là rượu tê hà sao? Rượu tê hà này ngửi từ xa đã thấy hương thơm nhẹ nhàng thanh khiết, uống vào người vị cay nồng lưu luyến mãi không thôi, là loại rượu nhất đẳng dân gian. Ha ha, Nguyễn đại nhân, ngài đúng là biết thưởng thức nha.”
Người đàn ông phong thái trầm uy lão luyện này không ai khác chính là đương triều điện tiền chỉ huy sứ Nguyễn Đức Trung. Còn người mới tới là hiệu úy Lưu Sở.
Nguyễn Đức Trung rót cho Lưu Sở một chén rượu.
“Đã đến đây rồi thì uống với ta một chén.”
Rượu tê hà không phụ kẻ có tâm. Lưu Sở đón lấy chén rượu từ tay lão tướng họ Nguyễn, hít hà mãi rồi mới uống, uống xong lại không tiếc lời khen rượu ngon.
“Thứ lỗi cho hạ quan lắm lời.” Mãi không thấy đối phương có phản ứng gì, Lưu Sở cười chữa ngượng: “Nhưng trông sắc mặt đại nhân kì quặc lắm. Ngài đang có tâm sự gì phải không?”
Nguyễn Đức Trung thở dài rồi chỉ ra bên ngoài:
“Ngươi nhìn xem.” Giọng ông ta hơi khàn: “Thanh Hoa lũ lụt, mùa màng mất trắng, nạn dân đổ về chật kín kinh thành. Bệ hạ mới đăng cơ chưa lâu, triều chính bộn bề chưa giải quyết hết. Thân là thần tử triều đình, lại chứng kiến cảnh dân chúng nheo nhóc khốn cùng, ta sao có thể tránh khỏi thương tâm?”
Lưu Sở tỏ vẻ thông cảm. Nạn dân đổ xô về Đông Kinh đã không còn là chuyện ngày một ngày hai. Nói đâu xa, mới hôm qua hắn cũng phải đón gia đình người anh họ từ Thanh Hoa lên. Gọi là một gia đình nhưng quân số đám người này cũng trên dưới hai chục, từ nam phụ đến lão ấu, thậm chí có những người chào hắn xong mà hắn vẫn chưa nhớ được tên. Nhìn những người này, trong lòng Lưu Sở không khỏi âm thầm kêu khổ. Nhưng họ Lưu chỉ có mình hắn làm quan to ở kinh thành, nhà cao cửa rộng, Lưu Sở không thể trọng phú khinh hèn, càng không thể bỏ mặc người của dòng họ trong cảnh khốn khó. Vì thế, hắn đành miễn cưỡng làm người hào phóng, cùng một lúc thu nhận gần hai chục miệng ăn mà không dám oán thán lấy nửa lời.
“Ngài nói đúng. Hạ quan cũng vì việc này mà đau đầu nhức óc.” Nghĩ đến đám người chờ ăn ở nhà, hắn cảm thán một câu thật lòng.
“Nghe nói phương nam đến quá nửa đang lâm vào cảnh khó khăn, có làng dân chúng bỏ đi biệt xứ không còn một ai. Quan viên địa phương lực đã tận, chỉ còn biết trông chờ vào triều đình…”
Lưu Sở tỏ vẻ lo lắng:
“Ở phương bắc, nhà Minh như hổ đói rình mồi. Giờ lại thêm chuyện Lỗi Giang nữa, đúng là lo càng thêm lo mà.”
Nguyễn Đức Trung thở dài:
“Ngươi nói không sai. Những năm qua, Đại Việt chúng ta xảy ra khá nhiều chuyện, triều chính bất ổn, dân tình hoang mang. Cũng may bệ hạ thiên tư hùng tài, ngài mới đăng cơ chưa lâu nhưng đã bình ổn nội chính, dẹp yên dư đảng Lệ Đức hầu, xã tắc cũng vì thế mà bớt đi một mối loạn.”
Tiểu nhị lại mang đến một bình rượu. Lưu Sở trước mắt kính thiên tử một chén, sau kính Nguyễn Đức Trung một chén. Hắn là quan võ, xưa nay chỉ quen với cung tên, đao kiếm. Nói hắn thờ ơ với cảnh ngộ của nạn dân thì không phải. Nhưng đối với mấy việc cám cảnh kiểu này, hắn không biết cách thể hiện. Mà đã không biết cách thể hiện, chi bằng cứ ngồi im thì hơn.
Nói chuyện nạn dân được một lúc, hai người họ liền đổi chủ đề. Vốn cùng là quan võ, tránh đi tránh lại cũng không tránh được chuyện nhà binh. Chuyện nhà Minh đòi triều cống, chuyện Chiêm Thành quấy nhiễu biên giới phía nam… Trà dư tửu hậu. Trên bàn, ba bình rượu tê hà đã cạn. Sắc mặt hai người vẫn tỉnh táo hồng hào. Trong chốn quan trường, có mấy ai không phải cao thủ uống rượu?
Lúc cuộc rượu gần tàn, lại có thêm một người bước vào quán. Người này mặc một bộ quần áo màu nâu đã sờn rách, da dẻ vàng bủng, hai hốc mắt sâu hoắm, đôi môi tím thâm. Nàng ta e dè đảo mắt một vòng, không giấu nổi vẻ thèm thuồng khi nhìn vào những bàn ăn đầy cơm thịt.
Một vài người đang uống trà chỉ lười nhác ngẩng đầu lên, sau đó lại tiếp tục câu chuyện của mình. Đối với họ, việc nạn dân vào các hàng quán xin ăn đã không còn là chuyện quá xa lạ.
Lưu Sở cũng vậy. Hắn nhấp mắt nhìn người kia, không muốn bình luận.
Bị hắt hủi thờ ơ, cô gái kia buồn bã định quay lưng đi thì bỗng nghe tiếng gọi bên tai, quay sang nhìn, nàng ta liền thấy một mâm cơm ụ đặt trước mặt, lại có một gương mặt tươi cười thân thiện nhìn mình, gật gật đầu ý bảo cứ ăn tự nhiên. Trời hạn gặp mưa rào, nàng ta chỉ kịp lắp bắp cảm ơn ân nhân rồi vồ lấy mâm cơm mà ăn ngấu nghiến. Sợ nàng ta mắc nghẹn, thiếu nữ áo trắng chu đáo đưa cho nàng ta một cốc nước. Nàng ta không chút suy nghĩ, uống cạn một hơi, rồi lại phồng mồm trợn má ăn tiếp.
Kẻ cùng đường sẽ không để ý đến thể diện. Chẳng mấy chốc, bàn cơm vốn đầy ụ đã sạch bóng không còn một hạt.
“Đỡ đói hơn chưa?” Thiếu nữ áo trắng ân cần hỏi han.
Cô gái nạn dân kia bỗng nhiên quỳ sụp xuống, vái lạy thiếu nữ áo trắng ba vái. Nụ cười hiền hòa trên môi thiếu nữ áo trắng chợt ngưng lại. Giữa chốn đông người được kẻ khác vái lạy, nàng có chút không quen.
“Đừng làm như thế, mau đứng lên đi.” Thiếu nữ áo trắng vội vàng nâng đối phương dậy: “Chỉ là một bữa ăn thôi mà, cô không cần phải đa lễ như vậy đâu.”
Người kia miễn cưỡng đứng lên, rơm rớm nhìn ân nhân của mình. Chỉ là một bữa ăn? Ở quê nàng ta, nó chính là báu vật.
“Cô cũng là nạn dân phương nam đến đây phải không?” Thiếu nữ áo trắng lại hỏi.
Người kia gật đầu, vài sợi tóc rối khẽ rủ xuống trán, rồi nàng ta bắt đầu kể lại mọi chuyện.
Gia đình nàng ta vốn làm nghề nông ở Thanh Hoa. Chẳng may vùng ấy gặp cảnh thiên tai, công sức cày cấy cả năm trời cũng theo đó mà mất trắng. Trong nhà không còn nổi một hạt gạo, cả gia đình đành dẫn nhau lên Đông Kinh tha phương cầu thực. Không ngờ nửa đường bọn họ gặp phải thổ phỉ, cha mẹ bị hại chết, chị gái vì bảo toàn danh tiết nên đã cắn lưỡi tự sát, nàng ta và một người em gái khác bị bọn thổ phỉ đưa về giam sào huyệt của chúng. Lợi dụng đêm tối, nàng ta lén lút mở cửa chạy trốn, cứ nhằm hướng bắc mà chạy, dọc đường ăn xin, ròng rã cả tháng trời cũng đến được Đông Kinh…
Nàng ta kể xong, không kìm lòng được khóc nấc lên một tiếng. Mà ngồi bên cạnh, thiếu nữ áo trắng cũng đã nước mắt như mưa. Nàng thật không ngờ những nghịch cảnh tưởng chừng chỉ có trong phim ấy, giờ lại hiển hiện trước mắt mình, vô cùng chân thực, chân thực đến đau lòng.
Thiếu nữ áo trắng không biết nói gì hơn, chỉ đành an ủi vài câu. Càng nói, nàng càng phát hiện ra khả năng an ủi người khác của mình vẫn còn quá kém.
“Còn đói nữa không? Ăn thêm chút gì nhé.”
Nụ cười của thiếu nữ áo trắng vẫn ấm áp như gió xuân.
Hình như người kia định gật đầu, nhưng cuối cùng, tất cả những gì nàng ta làm chỉ là nghi ngờ nhìn về phía đối phương. Thiếu nữ áo trắng kia tuy giản dị nhưng không tầm thường, từ điệu bộ đến cử chỉ đều mang phong tư tao nhã, trầm ổn, rất giống người xuất thân từ gia đình giàu sang. Trong khi đó, bản thân nàng ta chỉ là một nạn dân tứ cố vô thân, sống hôm nay chưa biết đến ngày mai. Đẳng cấp chênh lệch như vậy, sự đãi ngộ lại quá lớn, trong thoáng chốc, nàng ta thực sự không thể lí giải.
“Tại sao lại đối tốt với tôi như vậy?” Ngữ điệu nàng ta có phần hoài nghi.
Thiếu nữ áo trắng hơi sững người. Lại có người sợ bị giúp đỡ ư? Cuối cùng, nàng hiểu ra vấn đề, ôn tồn giải thích:
“Cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp. Tuy tôi không có năng lực gì lớn lao, nhưng cũng không thể thấy chết không cứu.”
Trong quán cơm nhỏ ấy, dường như đang phát ra một quầng sáng, không diễm lệ, không chói lóa, bình dị mà đẹp đẽ vô cùng.
Cùng lúc ấy, trong không gian tĩnh lặng vang lên tiếng vỗ tay tán thưởng. Thiếu nữ áo trắng nhìn sang bàn bên, thấy một vị võ tướng đạo mạo đang mỉm cười với mình.
“Khen cho câu cứu một mạng người hơn xây bảy tòa tháp.” Nguyễn Đức Trung nói: “Lão hủ này vốn dĩ cũng định cứu người, nhưng xem ra cô nương còn làm tốt hơn cả ta rồi.”
Thiếu nữ áo trắng mỉm cười đáp lễ, từ chối cho ý kiến.
Trời về chiều. Mây xám lác đác tận chân trời.
Thấy thời gian cũng không còn sớm, Lưu Sở đề nghị:
“Nguyễn đại nhân, cũng không còn sớm nữa, để hạ quan tiễn ngài về phủ.”
Nguyễn đại nhân? Người này là quan? Động tác của thiếu nữ áo trắng hơi dừng lại. Nàng kín đáo nhìn sang bàn bên cạnh.
Ngoài kia, từng đàn chuồn chuồn vẫn bay là là mặt đất.
Tiếng nạn dân kêu khóc thê thảm, não nề.
Thiếu nữ áo trắng nghĩ ngợi một hồi lâu, cuối cùng chậm rãi đứng lên:
“Ngài là mệnh quan triều đình?” Nàng e dè hỏi.
Nguyễn Đức Trung làm quan đến chức điện tiền chỉ huy sứ, lại có công phò trợ hoàng thượng lên ngôi, đến thái hậu còn phải nể mặt ông ta ba phần, vậy mà thiếu nữ áo trắng này lại dám hỏi thẳng thừng như vậy. Lưu Sở bất mãn thay Nguyễn Đức Trung, đang định thị uy vài câu thì lại nghe tiếng hắng giọng quen thuộc. Hắn đành chấp nhận làm khán giả bất đắc dĩ.
“Tại hạ là Nguyễn Đức Trung.” Ông gật đầu: “Không biết cô nương là…”
Thấy đối phương không tỏ ra trịch thượng xa cách, thiếu nữ áo trắng cũng cảm thấy thoải mái hơn.
“Tôi là ai không quan trọng. Hôm nay có đôi lời muốn nói, hy vọng đại nhân bớt chút thời gian lắng nghe.”
Thầm cảm thấy thiếu nữ này có điểm kì quái, nhưng vì ngữ khí nàng bình thản ôn tồn, lại thêm cảm tình gây dựng từ trước đó, Nguyễn Đức Trung liền đáp:
“Không biết cô nương có nhã hứng bàn luận về chuyện gì?”
Một cơn gió thoảng qua. Vạt áo trắng lay động rất khẽ. Thiếu nữ áo trắng cười như có như không:
“Chuyện thiên tai.”