Bạn đang đọc Thành Phố Không Mặt Người: Chương 21. Trăng khát
21. Trăng khát
Truyện ngắn của Trần Thị Quỳnh Nga
Đường phố về đêm, một đêm tháng ba lành lạnh. Trời đầy hơi sương đọng những hạt nước li ti trên tấm áo mưa màu tím của Thuỳ thành một mảng bụi mưa lấm tấm, đôi chỗ nước chảy thành một hàng nhỏ theo chiều thẳng đứng với mặt đất. Chiếc xe lộc cộc đi. Tiếng xẻng trên thùng xe đánh nhẹ vào thành thùng tạo nên một âm thanh quen thuộc. Âm thanh của người đi chở rác đêm.
Thuỳ sống độc lập từ bé. Ngay cả khi có mẹ ở bên, Thuỳ cũng không bao giờ ỉ lại, hay làm nũng bà. Có phải vì do cá tính hay không, hay từ bé đến khi biết được mọi thứ Thuỳ không có thói quen ấy. Mẹ Thuỳ là một người đàn bà đẹp và kín đáo. Thuỳ chưa bao giờ thấy bà nói chuyện với bố bao giờ, chỉ thi thoảng trước mặt Thuỳ, bà lẳng lặng gắp cho bố khi khúc cá, khi miếng thịt ngon trong mâm ăn. Thuỳ yêu mẹ nhưng không hay lại gần, đôi lúc muốn lại gần ôm lấy mẹ như bao đứa khác nhưng mỗi khi se sẽ đi lại, định thộp mẹ từ sau lưng Thuỳ đều sững người lại. Hình như mẹ không để ý đến những gì xung quanh. Mẹ ngồi đan len , nhưng ánh mắt, tâm hồn mẹ để vào đâu trong nhánh hoa khế ngoài kia đang độ nở. Hồi đó, Thuỳ nghĩ mẹ yêu những bông hoa tím muốt đến dịu dàng đó đến mê mải, cứ như Thuỳ, yêu cái màu hồng hồng của hoa chua me đất mọc trong những lùm cây bên bờ dậu rậm rạp và cái vị chua chua thanh thanh của nó. Yêu thế rồi quên ngay. Nhưng đến mãi sau này, khi lớn lên, khi đã quá quen với sự tự ý thức về bản thân mình, Thuỳ mới nhận ra ánh nhìn của mẹ hồi đó không trẻ con như Thuỳ thường nghĩ. Mẹ không nhìn hoa khế, mẹ không nhìn vào đâu cả. Có hay chăng chỉ là chóp nhọn của ngôi nhà thờ thoáng xa xa sau lùm mây đang trôi ngoài kia mà thôi.
Thuỳ lớn lên tự nhiên như cái cây ngoài bờ đường kia, không tưới tắm, không chăm bẵm. Tự mình vượt qua bao bão giông, mưa gió để toả bóng mát rợp cả một đoạn đường. Thuỳ không đẹp nhưng có duyên và dễ gần. Tất cả những nét trên mặt Thuỳ đều tươi, duy chỉ có đôi môi là thoáng chút buồn, nét buồn cong lại, mím chặt để không vỡ oà thành tiếng khóc. Nhưng như thế quen rồi. Quen đến quên đi tất cả những nỗi buồn hiển hiện trong lòng, chỉ đôi lúc chợt giật mình nhớ ra nổi buồn đó giống như một người bạn cũ gặp trên đường mà không thể nào gọi tên nổi.
*
Thuỳ đi vào chỗ ngõ quen, ở đó có một dãy bàng và hai hàng cột điện. Cứ mỗi bóng tắt lại một bóng đỏ. Cây bàng chưa kịp tạo một chỗ bóng đen trên mặt đường liền bị bóng đèn kia thế chỗ. Ánh sáng mờ đỏ, đục ngầu của những chiếc bóng đã quá già làm cho đoạn đường trông có vẻ liêu trai. Nhất là về đêm. Thảng mới có đôi ba chiếc xe máy đi ngước đường dọi những ánh sáng chói loà cả khu phố rồi tắt ngấm. Thuỳ gọi đây là phố buồn.
Thực ra con phố này có tên hẳn hoi. Đường Nguyễn Trãi. Các cụ tổ dân phố thường đùa rằng. Đường mang tên cụ Nguyễn vừa tài hoa vừa thăng trầm dâu bể nên đường cũng có cái mệnh như thế. Nghe đâu từ ngay từ khi làm đường này, người ta mở thêm đường ra sát bờ sông. Phố đẹp mà nên thơ nhường ấy, vậy mà người dân ở đây tự dưng làm ăn lụn bại, bán xới đất đai bỏ đi cả. Phố rộng trở nên buồn tênh. Đôi chỗ xây nhà trọ cho thuê. Ánh sáng neon kéo cả một dãy dài đầu ngõ. Ánh sáng tụm lại một chùm. Con phố trông giống như chiếc kim khâu, càng đến đầu mũi càng sâu hun hút. Tối tối, các cụ già tập thể dục bên bờ sông. Ngồi uống nước chè xanh mà bàn tán đủ điều chuyện ngày xửa ngày xưa phút chốc lại ùa về như mới hơm qua, hôm kia vậy. Các cụ nhớ con phố nhỏ ngày xưa. Tiếng trẻ thơ đùa nhau rộn ràng khắp cả dãy trên xóm dưới. Bây giờ thì buồn buồn. Phố đã vắng , ngày lạnh càng vắng hơn. Các cụ thói quen ngồi chơi quán chị Nhạn, nán chờ tiếng xe rác của Thuỳ đi ngang, dừng lại nói chuyện một hồi. Khi tiếng cộc cộc nhỏ dần là ai về nhà nấy như thói quen định sẵn vậy.
Đêm nay, trời có trăng. Trăng tháng ba nhàn nhạt. Ánh trăng có mùi hoa xoan thoang thoảng. Thuỳ đêm nay đi làm muộn. Bố Thuỳ vừa về hồi chiều. Trông ông gầy đi rất nhiều. Ông tấp con thuyền vào sát sau cầu ao cuối vườn, xách xâu cá lưới được đi vào nhà bằng cánh cửa sau. Thuỳ đứng ở cửa bếp nhìn bố rưng rưng mừng chảy nước mắt. Ông cười, đôi mắt ánh lên niềm xúc động, trao cho Thuỳ xâu cá rồi đi vào nhà. Tối hôm đó, bữa cơm im ắng bên ngọn đèn điện đỏ quạch soi rõ bóng hai người chợt lâu hơn thường lệ. Lúc Thuỳ đẩy xe đi, rời cũng đã tối lắm rồi.
Tiếng xe đi vào con phố buồn quen thuộc. Phố vắng tênh, Thuỳ kéo chiếc khoá áo khoác lên đến tận cổ cho đỡ lạnh và quấn lại chiếc khăn len bố mới mua hồi chiều, lòng ấm như bếp lửa đang đỏ. Đã bao lâu rồi, chắc là từ khi có mặt trên đời, Thuỳ mới có được một món quà quý giá như thế. Thuỳ mơ màng dụi má vào chiếc khăn ấm cúng, chợt nghe sóng vỗ ục ục vào bờ và thoảng có tiếng trẻ con oà khóc. Tưởng mình nghe nhầm. Thuỳ đứng mãi, tựa lưng vào thành tường của một ngôi nhà cũ nhìn vào khoảng sáng mờ đục chỗ ngọn đèn đường bị tắt. Thuỳ đã quen với kiểu ánh sáng đó rồi. Phố bao giờ cũng thế. Ánh sáng mờ nhạt không làm Thuỳ sợ hãi nữa. Lại có tiếng trẻ con khóc. Và lần này là thật.Tiếng khóc vang bên cạnh Thuỳ, trong một chiếc nôi mây trùm kín. Đó là một đứa trẻ bị bỏ rơi bên bờ sông. Thuỳ sợ hãi, đẩy xe chạy ngược về con đường lớn. Chạy được một lúc, Thuỳ dừng lại, cảm giác sợ hãi tan biến. Tình thương, cộng với sự tò mò đã đưa Thuỳ đến gần đứa bé. Đứa bé nhỏ thó, nằm lọt thỏm trong đống quần áo. Thuỳ đứng trân một lúc rồi không nói không rằng cô bế đứa trẻ, một tay xách đồ đi nhanh về phía quán chị Nhạn. Tiếng bé con khóc sữa làm Thuỳ bối rối. Đôi chân đi không vững, nhiều lúc quỵ xuống muốn ngã.
Nghe tiếng trẻ con khóc, chị Nhạn xô mạnh cách cửa đã long hết bản lề, bụi rơi đầy trên đầu chị:
Ai đấy? Em, Thuỳ đây – Thuỳ thở hổn hển.
Chị Nhạn đứng lùi lại, nép một bên của cho Thuỳ vào. Cái bọc trên tay oà khóc dữ dội.
Em thấy đứa bé này ở bờ sông. Lạnh quá- chị Nhạn đón lấy đứa bé, vừa siết chặt tay ôm vừa chửi- cha bố nó, để con trong lúc đêm hôm thế này nhỡ gió lạnh chết rét làm sao.
Thùy không nói gì từ lúc nãy. Bây giờ đã hết run rồi. Cô hết nhìn chị rồi nhìn đứa trẻ. Đứa trẻ đang đói, khóc dãy dụa trong tấm chăn trùm mới cứng.
Mày lấy hộp sữa pha cho tao một ít cho nó ăn. Tội nghiệp chắc là đói lắm đây. Để xem ông trời cho chị cái gì nào- chị vừa nói vừa mở chăn trùm đứa bé, thoáng chốc chị cười to- chà một thằng cu nhé.
Thùy lặng im nhìn chị cho thằng bé ăn mà thương. Chị Nhạn năm nay đã hơn 40 rồi mà vẫn không chịu lấy chồng. Không phải chị không muốn mà chị cứ ngại ngại làm sao ấy. Đi thanh niên xung phong về thì đã quá lứa rồi. Trai tráng trong làng không còn ai cả. Lứa chị chỉ mình chị trở về lành lặn thân thể lại bị bệnh bên trong. Chất độc màu da cam đã ngấm sâu vào tóc chị, làm ái tóc xanh một thời ngả bạc xạm màu. Chị không lấy ai, không muốn những đứa con mình sinh ra lại khác người. Chị ôm nỗi khổ tâm ấy suốt một thời gian dài trong im lặng, cho đến ngày hôm nay. Khi bế trên tay đứa bé bị bỏ rơi này, bản năng làm mẹ tột cùng trong chị lại nổi dậy. Nhìn chị vui mà nước mắt ứa tràn trên hai gò má làm Thùy suýt khóc.
Như chợt tỉnh ra, chị ngước lên nhìn Thuỳ:
Mày biết không, lúc sáng tao nghe có con chim khách hót đầu ngõ, thế mà có tin vui mày ạ- Nói rồi chị chỉ vào đứa bé- đời tao chỉ cần từng này thôi thế là đủ.
Thuỳ đứng trân nhìn chị. Vừa trút được gánh nặng trong lòng vừa thương chị.
Mày đi làm đi, mai qua tao nhé. Dạ
Tiếng xe lộc cộc đẩy đi trong đêm đen một lúc một sâu hơn. Cái lạnh cuối xuân vẫn còn vương sương nhè nhẹ. Hương hoa xoan thơm nồng phủ mờ những ngọn đèn đường già cỗi, đỏ quạch. Phố lạnh buồn buồn.
*
Thuỳ suốt cả một đêm không ngủ được. Giường bên, bố cô vẫn còn đang ngủ. Nhìn ông ngủ, đôi mắt nhắm nghiền thụt sâu trong gương mặt đen sạm nhăn nheo. Đôi tay gầy nổi những đường gân to đen sẫm. Thuỳ nhìn đôi tay ấy. Đôi tay bưng bát cơm ăn vội vàng khi có người hô cứu người chết đuối. Cũng đôi tay ấy, vớt xác người trên dòng sông này không biết bao nhiêu lần mà kể. Mỗi lần như thế, Thuỳ lại nhớ mẹ nhiều hơn. Mẹ Thuỳ cũng thế, trôi trên dòng sông này, bố cũng đã sục sạo tìm khắp cả khúc sông mà không hề thấy xác. Trong thư mẹ nhắn lại “đừng tìm” vậy mà bố vẫn cứ ân hận. Khóc suốt một thời gian dài, tóc bạc trắng hết cả. Suốt một thời gian dài ông chìm trong men rượu, đôi lúc say khật khưỡng bước qua bậc cửa nhà, ngồi chong chong nhìn dòng sông cho đến sáng. Sông thì vẫn cứ thao thiết chảy. Mùa lạnh nước dềnh dàng cả vệ cỏ. Rồi ông quyết định bỏ nhà xuống thuyền ở. Khuyên mãi ông cũng chỉ ậm ờ. Thảng hoặc ông ghé qua nhà vài ngày rồi lại đi. Chỉ đến khi nghe tin Thuỳ bỏ học giữa chừng vào năm cuối cấp thì ông trở lại. Chẳng nói chẳng rằng, ông sống lặng im như một cái bóng, lúc nào cũng ngong ngóng vào một điểm nào đó rất đỗi xa xôi.
Thuỳ bỏ học đúng vào ngày thi học kì. Cũng không biết tại sao, nhiều lúc Thuỳ nghĩ mẹ chưa chết. Mẹ chỉ đi đâu đó làm ăn thôi rồi mẹ sẽ trở về nếu mẹ nghe được tin Thuỳ bỏ học. Nhưng cô đã lầm. Đến nay đã bảy năm rồi mà mẹ vẫn không quay trở lại. Mẹ chết rồi còn đâu, con sóng nào đã cuốn mẹ vùi sâu dưới ngàn đáy nước. Nghĩ thế Thuỳ khóc, nước mắt chảy hết vào tim đau nhói đến nghẹt thở. Thuỳ bỏ nhà ra đi. Bố đi tìm. Thuỳ trở về. Bố lại ra đi. Cuộc đời của hai bố con cứ vòng quanh như thế. Nhiều lúc đang đêm Thuỳ chợt giật mình, nghe tiếng bố nói một mình như hẳn rằng có một nỗi đau nào đó rứt ráy trái tim ông đến nghẹn thở. Rồi bố khóc, nước mắt đùng đục chảy hai bên gò má nhăn nheo, lọt qua hai kẽ tay ướt đầm cả ống tay áo đã bạc màu, cáu bẩn.
Bây giờ, Thuỳ không ngủ được. Cô định nói câu chuyện hồi đêm cho ông nghe nhưng không biết phải nói bằng cách nào. Đã lâu rồi, ông mới có được giấc ngủ ngon và sâu đến vậy. Thuỳ đi ra cửa, ánh trăng chênh chếch bên thềm. Sương đêm trắng loãng như sữa non bám đầy trên má Thuỳ. Nó bất chợt làm cô nhớ đến người ấy. Người đàn ông cô gặp một lần duy nhất trong lần cô bỏ nhà ra đi.
*
Thuỳ ngồi một mình trên bãi biển. Gió đêm lành lạnh thổi vào sâu gáy Thuỳ nhồn nhột. Thuỳ không nghĩ gì hơn. Cuộc sống mới của cô rồi đây sẽ như thế nào, Thuỳ cũng không biết nữa, không biết đến ngày mai mình sẽ ra sao. Tất cả câu hỏi xoáy sâu trong đầu Thuỳ không một lời giải thích. Tất cả chỉ là gió. Gió u u thổi. Trong phút chốc Thuỳ thấy mình được nhấc bổng lên khỏi mặt đất, nước xấp xoã lên tóc, lên vai, lên ngực cô. Vị mặn ngấm vào lưỡi và ánh trăng soi sáng cả bầu trời cao lồng lộng, to và rộng đến rợn ngợp. Thuỳ thấy mình nhỏ bé như một cây trâm sáng lấp lánh bằng những hạt đá đính ở ngực áo. Thuỳ thả lỏng người, nhắm mắt lại và nghĩ đến Chúa. Từ ngày mẹ mất, Thuỳ thường đi lễ nhà thờ. Hồi có mẹ, cứ chiều thứ sáu là mẹ đạp xe đi. Đi một mình. Trong nhà chỉ có mẹ hay đi lễ. Nghe nói trước đây, thời con gái mẹ cũng là người theo đạo, lâu dần lấy bố rồi thôi. Bây giờ Thuỳ muốn thay mẹ làm việc ấy. Cứ thứ sáu lại đạp xe đến nhà thờ nghe cha giảng đạo. Thực ra thì không phải để nghe. Thuỳ đến vì muốn lấp đi nổi trống trải của mình khi không còn mẹ, để giữ thói quen của mình ngồi bên bờ rào xương rồng nhìn mẹ tất tả đạp xe đi vội vã. Chính những lúc ấy, Thuỳ thấy mẹ đẹp và thánh thiện. Hình ảnh đó ám ảnh Thuỳ mãi suốt những năm tháng sau này. Đã có lần Thuỳ trông thấy mẹ quỳ giữa thánh đường. Khuôn mặt mẹ bị ánh nắng chiếu đỏ. Mẹ nhắm nghiền mắt, hai bên thái dương chốc chốc giật giật liên hồi, sợi tóc xoăn loà xoà trước trán ánh mỏng như tơ trời vậy. Riêng Thuỳ không thấy nhập tâm, đã bao nhiêu lần xưng tội ở nhà thờ, đã bao nhiêu lần nhìn chằm chằm vào bức tượng Chúa bị câu rút trên cây thánh giá cầu xin những điều mình muốn, Thuỳ không thấy hiển linh.Thuỳ không tin vào Chúa, không gửi gắm vào người tất cả những điều bí mật như mẹ. Nhưng chính đêm nay, ngay trong lúc này, Thuỳ đã nhìn thấy Chúa. Người đứng sững trước mắt Thuỳ, dang rộng vòng tay ôm lấy Thuỳ khi Thuỳ chấp chới bay vào một khoảng không nào đó vô định.
Thật ra, Thuỳ là một người ngoại đạo. Thuỳ thích đi lễ nhà thờ vào những ngày chủ nhật cũng chỉ là để giải thoát mình ra khỏi những tháng ngày buồn bã cô đơn. Nhà thờ nằm sát bên bờ biển, lọt thỏm trong rừng phi lao xanh hun hút.. và cát. Ở đó có cát. Cát mềm mịn và ẩm ướt in dấu bàn chân bé nhỏ nhưng vững chãi của Thuỳ. Mặt cát đánh dấu bàn chân cô đơn bằng những bước nhỏ, chân trái nối tiếp chân phải thành một đường zíc zắc. Và giờ đây, Thuỳ nằm im bất động, mở mắt nhìn vào bóng tối. Trời đã khuya lắm rồi. Không biết được thời gian. Chỉ thấy xung quanh mình là bóng tối mờ mờ xanh thẫm và một người đàn ông ngồi bên cạnh bất động. Hình như anh ta đang ngủ. Đôi vai to rộng tựa vào tảng đá trắng muốt. Quần áo ướt sũng dính hết vào nhau. Bên cạnh hai người, đống củi đã bắt đầu rã lửa. Thuỳ vơ vội nắm lá dương khô ném vào đống lửa. Gió thổi bùng lên soi rõ khuôn mặt người đàn ông lạ. Một cảm giác ấm lòng đến nghẹt thở. Bàn tay Thuỳ vuốt nhẹ mái tóc người đó rồi chợt giật mình. Người đàn ông mở mắt, mỉm cười thật hiền rồi im lặng. Tất cả thanh âm lúc này chỉ là gió, gió rít trên những ngọn phi lao, gió chạy băng băng trên những con sóng bạc đầu ầm ào phía biển. Không ai nói chuyện với ai. Im lặng kéo dài cho đến khi tiếng gà gáy sáng văng vẳng cất lên giữa màn sương dày đặc. Người đàn ông khẽ cựa mình áp sát đầu Thuỳ lên ngực anh. Thuỳ xích lại gần anh thêm nữa cho đến khi môi anh chạm khẽ vào môi cô rồi dừng lại ở đó. Đêm cũng dừng lại. Gió cũng dừng lại. Ánh sáng ban mai toả rực rỡ khắp mặt biển. Từng ôm sóng đỏ sáng lên phía mặt trời mọc. Hai người ngôi bên nhau một lúc rồi chia tay nhau. Thuỳ nắm chặt tay anh, mắt nhắm nghiền. Người đàn ông dùng dằng đặt nụ hôn cuối cùng lên trán cô rồi đứng dậy bước đi. Cả hai đi về hai hướng, không ai quay lại nhìn ai. Chỉ biết rằng khi mình quay đầu trở lại thì tất cả những kỉ niệm hồi đêm sẽ không còn nữa. Thuỳ không biết tên, chỉ mang máng nhớ khuôn mặt hiền hiền. Ấy thế mà nó theo Thuỳ đến mãi lúc này, sau những năm tháng không hề gặp lại nhau lần nữa.
*
Thuỳ đã không thể yêu ai từ ngày đó. Hàng ngày vẫn đi trên phố. Chiếc xe rác vẫn cứ làm ca đêm. Hết đông sang hè, dãy phố buồn vẫn hai dãy đèn đường, một bóng tắt một bóng đỏ. Thi thoảng cứ ngỡ ngàng, hình như có ai đó nhìn dõi theo mình mà lòng thì vô vọng. Thuỳ đánh bạn với chị Nhạn, xem như hai chị em đồng trang cùng lứa với nhau. Chị Nhạn thực ra cũng gần bằng tuổi mẹ Thuỳ rồi nhưng vẫn vô tư, hồn nhiên như thế. Chị có những nỗi niềm riêng của mình. Chịu đựng những đắng cay mất mát đến thành thói quen để rồi không có nỗi đau nào làm chị khóc được nữa. Chị từng kể cho Thuỳ nghe về người đàn ông của đời chị. Anh đi lính, chị đi thanh niên xung phong. Hai người bặt tin nhau cho đến khi nhận được tin từ nhau thì người này ngỡ người kia đã chết. Anh về quê lấy vợ. Nghèo. Hèn. Chị bỏ nhà ra đi. Anh bỏ quê lang thang kiếm sống…rồi gặp chị. Hai người đành lỗi hẹn. Chị không muốn vì mình mà anh khổ. Cứ dùng dằng mãi. Câu chuyện của chị vẫn chưa hồi kết thúc. Nhiều đêm nằm bên cạnh chị, Thuỳ cứ thắc mắc hoài. Có lần nhìn ánh trăng, Thuỳ nói với chị mà như nói một mình:
Tại sao ấy chị Nhạn à. Em nghĩ mẹ mình chưa chết. Mày làm sao thế- chị Nhạn quay lưng lại ôm vai Thuỳ. Bố em đã đi tìm mẹ suốt dọc hai bờ sông cũng không tìm thấy xác. Nếu sống sao bà ấy không về. Em cũng không biết nữa. Không biết thì mày ngủ đi. Băn khoăn hoài thế ệt cả người.
Chị nói rồi quay lưng nằm ngủ. Tiếng thở của chị đều đều. Thuỳ nằm một lúc rồi cũng ngủ lúc nào không biết. Thuỳ cũng không thể biết rằng, suốt cả một đêm dài chị Nhạn đã không hề chợp mắt.
*
Đêm đang lạnh dần. Trăng nhễ nhại chảy tràn cả con ngõ nhỏ có hai hàng chè mận hảo. Bóng đêm chếnh choáng say trăng. Thi thoảng từng đám mây giỡn gió bị thồi vào giữa quầng trăng làm che mất đi một khoảng ánh sáng xanh xanh dịu nhẹ. Thuỳ vào giường nằm, mắt không hề chớp nhìn vào bóng sáng ngoài hiên. Lá đang lay lay thành những bóng đen di động. Bên giường kia có tiếng trở mình, húng hắng ho. Thuỳ cố nhín thở nằm im vờ ngủ để bố khỏi giật mình. Câu chuyện chưa kịp nói ra giờ Thuỳ không muốn kể. Dù gì thì ngày mai mình cũng nói với bố. Bố ngồi dậy một lúc rồi nhìn sang giường Thuỳ. Thuỳ nhắm mắt. Ông vuốt nhẹ mái tóc Thuỳ một lúc rồi đi ra ngoài. Con ngõ sáng ánh trăng thành một vệt dài trắng cong queo hình con rắn trắng. Thuỳ rón rén đi theo ông đến tận quán chị Nhạn. Thẫn thờ. Sau tấm liếp, đứa trẻ oe oe khóc. Người đàn bà nhẹ nhàng:
Cảm ơn anh. Ơn gì- bố nói- đứa bé đó bị bỏ rơi trên sông hồi qua. Anh nghĩ em cần nuôi một đứa trẻ nên mang về đặt chỗ con bé Thuỳ hay đi xe rác. Con bé sẽ mang vào cho em. Sao lại có người bỏ con thế nhỉ- tiếng chị Nhạn- thất đức thật. ừ- tiếng bố- có nhiều người như thế, chắc là do hoàn cảnh.
Rồi im lặng kéo dài.
Anh thấy đỡ không- tiếng chị Nhạn lại cất lên- vết thương cũ cứ trở trời là tái phát đấy. Cẩn thận, đừng ở thuyền nữa. Về ở với cái Thuỳ đi. Nó lớn rồi. Anh không thể. Mẹ nó bỏ đi khỏi cái xứ này cũng vì nó. Con bé càng lớn càng giống cha Phạm, anh không muốn đến một ngày nào đó nó biết được sự thật là anh không phải là bố nó.
Thuỳ đứng trân. Được một lúc thì ù té chạy. Cô chạy mãi, con phố chợt rộng và dài hơn ngày bình thường gấp mấy lần. Tất cả xung quanh đều trở nên lạ lẫm và khác trước. Thuỳ chạy đến khúc quanh, chỗ gốc xoan đâu già vẫn thơm hoa vào mỗi tối khi cô đi làm rồi sững lại. Bàn chân tê dại như sắp ngã. Cô tựa lưng vào tường, nghe tiếng chuông nhà thờ thoảng qua. Tiếng chuông đánh liên hồi, rồi từng người từng người đổ xô về hướng ấy. Không kịp nghĩ mình đang làm gì đang ở đâu, Thuỳ chạy theo họ.
Thánh đường rộng mênh mông chan hoà ánh trăng bảng lảng. Thuỳ thấy trăng đêm nay có gì đó là lạ, cứ trắng đùng đục, ướt sền sệt như bàn tay có thể chạm vào được. Thuỳ đứng bên dưới tháp chuông rụt rè đưa bàn tay ra và ngửa mặt lên trời. Tháp chuông như một lưỡi giáo nhọn đâm thẳng lên bầu trời cao rộng. Thuỳ có một cảm giác lạnh buốt chạy từ mặt xuống cổ rồi xuống ngực như hẳn ngọn giáo kia đã chọc thủng bầu trời trĩu nặng chứa đầy nước đổ tràn lên người cô. Rồi Thuỳ thấy một người vừa thoáng chạy qua. Là người đàn ông ấy. Vội vã. Người đàn ông không kịp nhận ra Thuỳ. Thuỳ chạy theo, bàn chân không nhấc lên nổi. Cô gọi to, tiếng gió u u vọng lại. Bóng người khuất sau thánh đường mênh mang gió.
Cô chạy một mạch về đến nhà, con phố rộng đầy trăng xanh nhợt nhạt. Không hiểu sao bây giờ Thuỳ ghét nó, căm thù nó kinh khủng. Thuỳ ước sao cho ông trăng kia có sức nóng bằng ánh mặt trời để cho con phố tràn ngập ánh sáng. Một thứ ánh sáng chói loà che đi mội ngóc ngách của sự tối tăm. Ánh sáng soi rõ chỉ lối cho cuộc đời Thuỳ rồi đây sẽ đi về hướng nào giữa cuộc đời thông thống gió. Hoặc nó hãy tắt đi, để đêm tối thui như mực. Lúc ấy, Thuỳ cũng sẽ nhắm mắt lại, đặt chân bước trên đường bằng những linh cảm. Bây giờ đây, Thuỳ cảm thấy cô đơn cực độ. Không biết chọn lối nào để đi. Con đường bây giờ không đủ ánh sáng, trái tim bây giờ không đủ tự tin. Tất cả chỉ là sự sợ hãi, một nỗi sợ chiếm lấy cơ thể Thuỳ, bóp chặt trái tim Thuỳ bằng vuốt cấu của sự thật trần trụi.
Mồ hôi Thuỳ vã ra như tắm. Cô khát. Trăng cũng khát. Ánh trăng đột nhiên đỏ bầm lại đáng sợ. Cô vục nước khoả lên mặt. Mặt nóng bừng. Cô xối hết nước lên người rồi nằm ngây ra giữa nền giếng vắng lặng. Cô có cảm giác mình đang tan thành nước. Nước chảy ra bờ sông, rồi từ ngã ba sông ấy đổ ra biển. Ở đó nước duyền lênh nâng cô lên rồi đặt cô xuống chỗ đúng hôm cô gặp người đàn ông lạ đó. Người đàn ông có khuôn mặt giống Chúa. Rất trẻ. Lại nghe văng vẳng tiếng người nói cười, hình như mọi người đang chúc mừng vị cha xứ mới, người mới về để thay cho cha xứ Phạm vừa tạ thế hồi đêm.
Hội VHNT Hà Tĩnh