Tên Tôi Là Đỏ

Chương 33


Đọc truyện Tên Tôi Là Đỏ – Chương 33

TÔI ĐUỢC GỌI LÀ SIYAH

Trở thành góa phụ, bị bỏ rơi và buồn phiền, Shekure yêu dấu của tôi bỏ đi với những bước chân nhẹ như lông, và tôi đứng như bị choáng trong sự tĩnh lặng của ngôi nhà Người Do Thái bị treo cổ, giữa mùi hoa hạnh đào và những giấc mơ về cuộc hôn nhân mà nàng đã để lại sau gót chân nàng. Tôi bối rối, nhưng đầu óc tôi đang quay cuồng quá nhanh đến độ hầu như làm tôi đau buốt.

Không có lấy một cơ hội để khóc thương thỏa đáng trước cái chết của Enishte của tôi, tôi nhanh chóng quay về nhà. Một mặt con sâu nghi ngờ đang gặm nhấm tôi: Có phải Shekure đang sử dụng tôi như một con tốt trong một âm mưu lớn, hay nàng đang lừa tôi? Mặt khác những tưởng tượng về cuộc hôn nhân đầy hạnh phúc vẫn cứ vờn trước mắt tôi.

Sau khi nói chuyện với bà chủ nhà, người cật vấn tôi ngay cửa trước xem tôi đi đâu và đến đâu vào lúc sáng sớm này, tôi lên phòng lấy hai mươi hai đồng vàng Venice trong lớp vải lót chiếc khăn quàng vai mà tôi giấu dưới nệm, đút vào ví bằng những ngón tay run rẩy. Khi trở ra đường, tôi biết ngay mình sẽ thấy đôi mắt lo âu đầy lệ, đen thẫm của Shekure suốt ngày hôm đó.

Tôi đổi năm đồng tiền vàng Venice ở chỗ người đổi tiền Do Thái lúc nào cũng mỉm cười. Sau đó, chìm trong suy tư, tôi đi vào khu vực có cái tên mà tôi chưa đề cập vì tôi không thích nó: Yakutlar, nơi Enishte quá cố của tôi và Shekure cùng các con nàng chờ tôi tại nhà họ. Khi tôi hầu như chạy trên các con đường, một cây tiêu huyền cao có vẻ trách cứ tôi sao quá vui sướng trước những giấc mơ và kế hoạch về đám cưới vào đúng cái ngày Enishte của tôi qua đời. Kế đến, khi băng đã tan, một vòi nước bên đường rít vào tai tôi: “Đừng quá quan tâm các vấn đề này, hãy lo giải quyết những công việc và niềm hạnh phúc của riêng bạn.” , “Điều đó thật hay, thật tốt,” một con mèo đen mang điềm gở đang liếm lông trong góc phản đối, “nhưng mọi người, kể cả chính anh, đều nghi anh có dính vào vụ giết dượng anh.”

Con mèo ngưng liếm khi bất chợt tôi nhìn vào đôi mắt thôi miên của nó. Tôi không cần phải nói với bạn những con mèo Istanbul này trở nên hỗn láo như thế nào bởi dân địa phương nuông chiều quá mức.

Tôi tìm được Thầy tế Kính mến, với mi mắt sùm sụp và đôi mắt to đen khiến ông ta lúc nào cũng có vẻ buồn ngủ, không phải tại nhà ông ta mà trong sân thánh đường gần đó. Ở đó tôi hỏi ông ta một câu hỏi theo luật pháp thông thường: “Khi nào người ta bị buộc làm chứng tại tòa?” Tôi nhướng mày khi lắng nghe câu trả lời kiêu ngạo của ông ta như thể tôi nghe thông tin này lần đầu. “Việc cung cấp chứng cứ là không bắt buộc nếu đã có những nhân chứng khác,” Thầy tế Kính mến giải thích, “nhưng trong trường hợp chỉ có một nhân chứng, thì ý Thượng đế muốn người đó phải cung cấp bằng chứng.”

“Đó chính là tình trạng khó xử của tôi hiện nay,” tôi nói, tiếp tục câu chuyện. “Trong một tình huống mà mọi người đều biết, tất cả các nhân chứng đã trốn trách nhiệm và tránh đến tòa với lý do rằng “đó là chuyện tự nguyện,” và do đó những lo âu cấp bách của người tôi đang cố giúp đỡ đã hoàn toàn bị bỏ qua.”

“Này,” Thầy tế Kính mến nói, “sao anh không nới lỏng dây buộc ví tiền của anh ra một chút?” Tôi lấy chiếc túi da ra cho ông ta xem những đồng tiền vàng Venice đầy nhóc bên trong; không gian rộng lớn của sân thánh đường, gương mặt của tay thầy tế, mọi thứ bất ngờ được soi sáng bởi vẻ lấp lánh của vàng. Ông ta hỏi tôi gặp phải tình huống khó xử gì.

Tôi giải thích tôi là ai. “Enishte Kính mến đang bệnh,” tôi kể. “Trước khi chết ông muốn con gái ông được chứng nhận là góa phụ và được hưởng một khoản trợ cấp.”

Tôi thậm chí không cần đề cập đến người được ủy quyền của quan tòa Uskudar. Thầy tế Kính mến hiểu ngay lập tức và nói rằng cả khu này từ lâu đã lo lắng về số phận của Shekure bất hạnh, và nói thêm rằng tình trạng này kéo dài đã quá lâu. Thay vì đi tìm một nhân chứng thứ hai theo yêu cầu cho một vụ ly thân hợp pháp ở chỗ quan tòa Uskudar, Thầy tế Kính mến đề nghị em trai ông ta. Bây giờ nếu tôi đưa thêm một đồng vàng cho người em, vốn cũng sống trong khu này và biết rõ tình trạng khó xử của Shekure và những đứa con nàng, thì tôi đã làm được một việc tốt.

Cuối cùng, chỉ vì hai đồng vàng mà Thầy tế Kính mến thỏa thuận xong với tôi về nhân chứng thứ hai. Chúng tôi lập tức đồng ý. Thầy tế Kính mến đi tìm em trai mình.

Phần còn lại trong ngày của chúng tôi hơi giống những câu chuyện “Mèo và chuột” mà tôi đã xem những người kể chuyện trong các quán cà phê Aleppo diễn xuất. Vì mọi trò phiêu lưu và lừa đảo này, nên những câu chuyện như thế, được viết thành những bài thơ tự sự và đóng thành tập, không bao giờ được coi là nghiêm túc cho dù được trình bày bằng nghệ thuật thư pháp cực đẹp; nghĩa là, chúng không bao giờ được minh họa cả. Mặt khác, tôi hoàn toàn sẵn lòng chia cuộc phiêu lưu cả ngày này của tôi thành bốn cảnh và hình dung mỗi cảnh trong những trang minh họa tưởng tượng của mình.

Trong cảnh đầu, nhà tiểu họa phải vẽ chúng tôi ngồi giữa những người chèo thuyền bắp thịt cuồn cuộn và đầy râu ria, băng qua eo Bosphorus xanh ngắt tiến về phía Uskudar trên con thuyền đỏ bốn tay chèo đã đón chúng tôi ở bến Unkapani. Ông giáo sĩ và người em đen đúa gầy gò của ông, vui sướng với chuyến hành trình thú vị này, tham gia tán chuyện vui vẻ với các tay chèo. Trong khi đó, giữa những giấc mơ hạnh phúc về cuộc hôn nhân nhảy múa không ngừng trước mắt, tôi nhìn sâu vào dòng nước eo biển Bosphorus trong hơn thường lệ giữa buổi sáng mùa đông đầy nắng này, cảnh giác tìm một dấu hiệu điềm gở trong dòng chảy của nó. Chẳng hạn tôi sợ mình có thể thấy xác của một con tàu cướp biển bên dưới. Vì vậy, cho dù nhà tiểu họa có tô màu biển và mây tươi tắn thế nào đi nữa, anh ta phải vẽ thêm một cái gì tương đương với vẻ tối đen trong những sợ hãi của tôi và cũng mạnh mẽ như những giấc mơ hạnh phúc của tôi – chẳng hạn một con cá trông khủng khiếp nằm sâu dưới nước để người đọc về cuộc phiêu lưu của tôi sẽ không cho rằng tất cả đều màu hồng.


Bức tranh thứ hai phải thể hiện những lâu đài của các vua chúa, những cuộc họp của Thượng Hội đồng, tiệc chiêu đãi các sứ thần châu Âu, và những khu nội thất đông đúc được vẽ cẩn thận và chi tiết với một sự tinh tế ngang tầm Bihzad; nghĩa là, bức tranh phải mang nét mỉa mai và những trò đùa vui nhộn. Do đó, trong khi Quan tòa Kính mến xòe tay làm động tác ngưng lại, hàm ý “không bao giờ” hoặc “không được” với khoản hối lộ của tôi thì bàn tay kia của ông ta phải được vẽ đang miễn cưỡng đút những đồng tiền vàng Venice của tôi vào túi, và kết quả cuối cùng của trò hối lộ này phải được vẽ trong cùng một bức tranh: Shahap Kính mến, người theo phái Shafii được ủy quyền chủ trì thay cho quan tòa Uskudar. Việc mô tả đồng thời những sự kiện liên tiếp chỉ có thể đạt được thông qua khả năng bố cục trang khéo léo của một nhà tiểu họa thông minh. Vì vậy, khi người quan sát, kẻ đầu tiên thấy tôi đưa tiền hối lộ, nhận ra ở một nơi khác trong bức tranh rằng người đàn ông đang ngồi xếp bằng trên nệm quan tòa là người được ủy quyền, thì, cho dù không đọc câu chuyện, anh ta vẫn sẽ nhận ra rằng vị quan tòa đáng kính đã tạm thời từ bỏ vị trí để người thừa ủy quyền của ông ta có thể phê chuẩn cho Shekure được ly dị.

Bức minh họa thứ ba phải thể hiện cũng chính cảnh đó, nhưng lần này phần trang trí trên tường phải tối hơn và được thể hiện theo phong cách Trung Hoa, những cành lá xoăn rậm rạp và rối rắm hơn, và những đám mây sặc sỡ phải xuất hiện ngay bên trên vị thừa ủy quyền của quan tòa để thủ đoạn bất lương trong câu chuyện trở nên rõ ràng. Dù Thầy tế Kính mến và em trai ông ta thực sự làm chứng riêng từng người trước mặt vị thừa ủy quyền của quan tòa, nhưng bức họa thì vẽ họ đang cùng nhau giải thích việc ông chồng của Shekure đau khổ không trở về sau chiến tranh ra sao, nàng lâm vào cảnh thiếu thốn khi không có chồng chăm sóc thế nào, hai đứa con mồ côi cha của nàng khóc liên tục và đói khát, rồi nàng không có hy vọng tái giá bởi vẫn bị coi là gái có chồng, và trong tình cảnh này nàng thậm chí không thể nhận được một khoản tiền vay mượn nếu không được chồng nàng cho phép. Họ đầy sức thuyết phục đến độ ngay cả một kẻ vô tri như đá cũng sẽ cho nàng được phép ly dị qua màn mưa nước mắt. Tuy nhiên, vị thừa ủy quyền nhẫn tâm, không có chút thương cảm, liền hỏi xem ai là người giám hộ hợp pháp của Shekure. Sau một phút do dự, tôi lập tức xen vào, tuyên bố rằng người cha đáng kính của nàng, người từng là phái viên và sứ thần cho Đức vua, vẫn còn sống.

“Chừng nào ông ta chưa ra tòa làm chứng, thì tôi chưa cho phép cô ta ly dị!” vị thừa ủy quyền nói.

Tới đây, vô cùng bối rối, tôi giải thích rằng Enishte Kính mến của tôi đang bệnh, nằm liệt giường và đang vật lộn giành sự sống, mong muốn cuối cùng của ông là được thấy con gái mình được phép ly dị, và tôi là người đại diện cho ông.

“Cô ta muốn gì nếu được phép ly dị?” vị thừa ủy quyền hỏi. “Tại sao một người đang hấp hối lại muốn thấy con gái mình được ly dị với một người chồng đã mất tích từ lâu trong chiến tranh? Nghe đây, tôi hiểu rằng nếu đã có một ứng viên đáng tin cậy cho vị trí con rể thì ông ta sẽ khỏi phải chết trong cảnh ước nguyện chưa thành, phải vậy không nào.”

“Đó là một triển vọng, thưa ngài,” tôi nói.

“Ai có thể là người đó?”

“Chính là tôi!”

“Nào! Anh là đại diện cho người giám hộ mà!” vị thừa ủy quyền của quan tòa nói. “Anh làm ở ngành nào vậy?”

“Ở các tỉnh miền đông, tôi làm thư ký, chánh thư ký và phụ tá thủ quỹ cho nhiều tổng trấn. Tôi đã hoàn tất một pho sử về các cuộc chiến tranh Ba Tư mà tôi có ý định dâng lên Đức vua. Tôi rất rành về minh họa và trang trí. Tôi đã yêu mãnh liệt người đàn bà này suốt hai mươi năm.”

“Anh là bà con của cô ta?”

Tôi quá bối rối trước việc bất ngờ này và đột ngột bị rơi vào thế nhún nhường hèn mọn trước mặt vị thừa ủy quyền của quan tòa, cuộc đời tôi bị lột trần giống như một vật thể tầm thường không có chút bí ẩn gì, đến độ tôi im lặng.

“Thay vì đỏ mặt lên như gấc, hãy cho tôi một câu trả lời, chàng trai, nếu không tôi sẽ không cho phép cô ấy ly dị.”


“Cô ấy là con gái của dì tôi.”

“Hừm, tôi biết. Anh có thể làm cho cô ta hạnh phúc chứ?” Khi hỏi câu này, tay ông ta phác một cử chỉ thông tục. Nhà tiểu họa phải bỏ qua hành động thiếu tế nhị này. Chỉ cần vẽ tôi đỏ mặt đến cỡ nào là đủ rồi.

“Tôi có thu nhập không tồi.”

“Vì tôi theo phái Shafii, nên không có gì trái ngược với Thánh Thư hoặc giáo phái của tôi khi tôi phê chuẩn ly dị cho Shekure bất hạnh này, vốn có chồng đã mất tích ngoài mặt trận bốn năm rồi,” vị thừa ủy quyền kính mến nói. “Tôi cho phép ly dị. Và tôi phán quyết rằng chồng cô ta không còn quyền hạn gì nếu anh ta trở về.”

Bức minh họa tiếp theo, thứ tư, phải mô tả vị thừa ủy quyền ghi vụ ly dị này vào sổ cái, thả ra những binh đoàn chữ nghĩa mực đen trung thành, trước khi đưa cho tôi văn bản tuyên bố rằng Shekure giờ đã là quả phụ và không có rào cản nào ngăn không cho nàng tái giá ngay. Dù có vẽ những bức tường trong phòng xử màu đỏ, hay đặt bức tranh trong những đường viền đỏ như máu cũng không biểu lộ được tia sáng hạnh phúc nội tâm tôi cảm thấy được trong lúc đó. Chạy ngược qua đám đông những nhân chứng giả và những người khác đang tập họp trước dinh quan tòa để xin ly dị cho chị em, con gái, thậm chí cả cô dì của họ, tôi bắt đầu chuyến trở về.

Sau khi băng qua eo biển Bosphorus và thẳng tiến đến khu Yakutlar, tôi chia tay ông Thầy tế Kính mến, cả ông lẫn người em đều muốn làm phép cưới cho chúng tôi. Vì tôi nghi ngờ mọi người tôi thấy trên đường đang âm mưu một trò ma quái nào đó vì ghen tỵ trước hạnh phúc khó tin mà tôi sắp đạt được, tôi chạy thẳng đến con đường nhà Shekure. Làm thế nào mà lũ quạ xấu xa đoán được sự hiện diện của một xác chết trong nhà và nhảy nhót lung tung đầy kích động trên mái ngói? Tôi chìm trong cảm giác tội lỗi vì không thể khóc thương Enishte của tôi hoặc thậm chí nhỏ một giọt nước mắt; tuy vậy, qua những tấm rèm và khung cửa đóng chặt của ngôi nhà, qua sự im lặng, và thậm chí qua dáng vẻ của cây lựu, tôi biết rằng mọi thứ đang được tiến hành theo kế hoạch.

Tôi đang hành động theo trực giác một cách hết sức vội vã.Tôi ném một viên đá vào cổng sân nhưng trượt. Tôi ném một hòn khác vào nhà. Nó rớt xuống mái. Thất vọng, tôi bắt đầu ném đá liên tục vào nhà. Một cửa sổ mở. Nó là cửa sổ tầng hai nơi cách đây bốn ngày, hôm thứ Tư, lần đầu tôi thấy Shekure sau những cành lựu. Orhan xuất hiện, và qua khe hở của tấm rèm tôi có thể nghe tiếng Shekure la rầy nó. Rồi tôi thấy nàng. Trong phút chốc chúng tôi nhìn nhau đầy hy vọng, người phụ nữ duyên dáng của tôi. Nàng quá đẹp và hấp dẫn. Nàng làm một cử chỉ mà tôi cho là hàm ý “chờ” rồi đóng cửa sổ lại.

Còn khá lâu trời mới tối. Tôi chờ đợi đầy hy vọng trong khu vườn vắng vẻ, bỗng thấy sững sờ trước vẻ đẹp của thế giới, cây cối và con đường lầy lội. Không lâu sau, Hayriye đến, ăn mặc không giống đầy tớ mà như một quý cô trong nhà. Không đến gần nhau, chúng tôi đi về phía tán cây vả.

“Mọi thứ diễn biến theo kế hoạch,” tôi nói với chị ta. Tôi cho chị ta xem văn bản của vị thừa ủy quyền. “Shekure đã được ly dị. Về phần ông giáo sĩ ở khu kia…” tôi định nói thêm, “tôi sẽ lo chuyện đó,” nhưng rồi lại nói, “ông ta đang trên đường tới đây. Shekure phải chuẩn bị sẵn.”

“Shekure muốn có một đám rước dâu, cho dù nhỏ, rồi một bữa tiệc đãi láng giềng. Chúng tôi đã chuẩn bị một nồi hầm quả hạnh đào với quả mơ rồi.” Trong cơn kích động, chị ta có vẻ muốn nói với tôi về những món khác chị ta đã nấu, nhưng tôi gạt ngang. “Nếu tổ chức lễ cưới chu đáo như thế thì Hasan và người của anh ta sẽ biết,” tôi thận trọng nói, “họ sẽ đột kích ngôi nhà, làm nhục chúng ta, đám cưới sẽ bị hủy và chúng ta sẽ không thể làm gì được. Tất cả những cố gắng của chúng ta lúc đó sẽ trở nên vô ích. Chúng ta cần bảo vệ mình không chỉ trước Hasan với cha anh ta, mà còn trước kẻ ác đã giết Enishte Kính mến nữa. Chị không sợ sao?”

“Làm sao mà bọn tôi không sợ chứ?” Chị ta nói và bắt đầu khóc.

“Chị không được nói với ai bất cứ chuyện gì,” tôi nói. “Mặc quần áo ngủ cho Enishte, trải nệm của ông ra rồi đặt ông lên đó, sao cho không giống một người chết mà như thể ông đang bệnh. Đặt mấy cái ly với vài chai xi rô cạnh đầu giường ông, đóng rèm kín lại. Bảo đảm rằng không có đèn trong phòng để ông có thể đóng vai người giám hộ của Shekure, người cha đang bệnh nặng của nàng, trong lễ cưới. Bây giờ không có chỗ cho đám rước dâu đâu. Chị có thể mời dăm ba hàng xóm vào phút cuối, vậy thôi. Khi mời họ, chị phải nói đây là ước nguyện cuối cùng của Enishte…Đây không phải là một đám cưới vui, mà là một đám cưới buồn. Nếu chúng ta không tự vượt qua chuyện này, họ sẽ hủy diệt chúng ta, và cũng trừng phạt cả chị nữa. Chị hiểu rồi chứ?”


Chị ta gật đầu trong khi vẫn khóc. Leo lên con ngựa trắng, tôi nói tôi đi lo vụ nhân chứng và sẽ trở lại ngay, rằng Shekure phải chuẩn bị sẵn, rằng từ đây về sau tôi sẽ là ông chủ nhà, và rằng tôi sẽ đến chỗ ông thợ cạo. Trước đó tôi không hề nghĩ bất cứ điều gì về chuyện này. Khi tôi nói, các chi tiết đã nảy ra, và thỉnh thoảng đúng như tôi cảm thấy trong các trận chiến, tôi tin chắc rằng tôi là một đầy tớ đầy ơn phúc và được yêu thương của Thượng đế và Người đã bảo vệ tôi; vì vậy mọi thứ hóa ra tốt đẹp.

Khi bạn cảm nhận được sự tin tưởng này, hãy cứ làm bất cứ điều gì nảy ra trong đầu theo trực giác của mình rồi bạn sẽ thấy nhũng hành động của mình là đúng.

Tôi cưỡi ngựa qua bốn dãy phố từ khu Yakutlar đến phía cửa sông Halic để tìm tay giáo sĩ có khuôn mặt tươi vui và râu đen ở thánh đường Yasin Pasha ở khu kế cận; chổi trong tay, ông ta đang xua lũ chó lì lợm ra khỏi khoảng sân lầy lội. Tôi nói với ông về tình trạng khó xử của tôi. Tôi giải thích rằng, bởi ý muốn của Thượng đế, Enishte của tôi sắp chết, và theo ước nguyện cuối cùng của ông tôi sẽ cưới con gái của ông, bởi theo quyết định của quan tòa Uskudar thì nàng đã được phép ly dị người chồng đã mất tích trong chiến tranh. Nhà giáo sĩ phản đối rằng, theo các điều khoản trong luật Hồi giáo, phụ nữ đã ly dị phải chờ một tháng mới được tái giá, nhưng tôi phản bác bằng cách giải thích rằng người chồng trước đây của Shekure đã vắng mặt suốt bốn năm; và do đó không có chuyện cô ấy có thai với ông chồng đó. Tôi vội nói thêm rằng quan tòa Uskudar đã đồng ý cho ly dị hồi sáng này để cho phép Shekure tái giá, và tôi cho ông ta xem giấy chứng nhận. “Thầy tế Kính mến của tôi, ông có thể tin chắc rằng không hề có trở ngại nào với việc cưới xin này!” tôi nói. Thực tình, nàng là bà con ruột, nhưng anh em bên ngoại không phải là một trở ngại; cuộc hôn nhân trước của nàng đã bị hủy bỏ; giữa chúng tôi không hề có những khác biệt về tiền bạc, xã hội hay tôn giáo. Và nếu ông ta nhận những đồng tiền vàng mà tôi đưa trước, nếu ông cử hành nghi thức hôn lễ được dự trù sẽ tiến hành trước mặt toàn bộ hàng xóm, ông cũng sẽ hoàn thành tốt một hành vi sùng đạo trước mặt Thượng đế cho những đứa trẻ không cha của một quả phụ. “Thưa thầy tế Kính mến”, tôi hỏi, “Thầy có thích món xúp rau với hạnh nhân và mơ khô không?”

Ông ta đồng ý, nhưng vẫn còn bận tâm đến lũ chó ở cổng. Ông ta nhận mấy đồng vàng. Ông nói để ông mặc áo choàng cưới vào; sửa soạn dáng vẻ, xem lại khăn xếp và đến đúng giờ đặng tiến hành những nghi thức cưới. Ông ta hỏi dường đến nhà và tôi chỉ cho ông ta.

Cho dù đám cưới có vội vã đến đâu đi nữa – dẫu đó là một đám cưới mà chú rể đã mơ ước suốt mười hai năm qua – còn gì có thể tự nhiên hơn việc anh ta quên những lo âu và rắc rối của mình mà đầu hàng trước bàn tay trìu mến và sự chòng ghẹo nhẹ nhàng của một bác thợ cạo cho việc cạo râu và cắt tóc trước lễ cưới? Cửa hàng bác thợ cạo, nơi bàn chân tôi đưa tôi đến, nằm gần chợ, trên con đường có ngôi nhà đổ nát ở Aksaray, mà Enishte quá cố của tôi, bà dì và Shekure xinh đẹp của tôi đã rời đi nhiều năm sau thời niên thiếu của chúng tôi. Đây là bác thợ cạo tôi đã gặp năm ngày trước đó, ngày đầu tôi trở về. Khi tôi bước vào, bác ta ôm tôi, và như bất kỳ bác thợ cạo tử tế nào ở Istanbul sẽ làm thay vì hỏi tôi đã đi đâu về đâu cả chục năm qua. Bác ta lại lao vào những chuyện đồn đãi mới nhất trong vùng, rồi kết thúc cuộc nói chuyện với một lời bóng gió về nơi mà tất cả chúng ta sẽ đến vào cuối cuộc hành trình đầy ý nghĩa được gọi là cuộc đời này.

Bác thợ cạo tài giỏi này đã già. Lưỡi dao bác cầm trong bàn tay nhăn nheo đã run khi bác quơ nó trên gò má tôi. Bác say sưa suốt và đã nhận một thợ học việc trẻ mắt xanh, môi mọng, da trắng hồng – kẻ nhìn ông thầy mình với vẻ kính sợ. So với mười hai năm trước, cửa hàng này giờ sạch sẽ và ngăn nắp hơn. Sau khi đổ đầy nước ấm vào cái chậu treo bằng một sợi dây xích mới từ trần nhà thòng xuống, ông ta cẩn thận gội đầu và rửa mặt cho tôi bằng nước lấy từ chiếc vòi bằng đồng dưới đáy chậu. Những cái chậu rộng cũ này được hàn mới lại không có dấu hiệu gỉ sét, những thùng than sưởi trông sạch sẽ, và những dao cạo có tay cầm bằng mã não thì bén ngót. Bác mặc chiếc áo chẽn lụa sạch bong, thứ bác miễn cưỡng mặc cách nay mười hai năm. Tôi cho rằng cậu thợ học việc tao nhã này, cao so với tuổi và thân hình mảnh khảnh, đã góp phần đem lại sự ngăn nắp cho cửa hàng và chủ nhân của nó, và trong khi thả mình theo những cảm giác sảng khoái của một cuộc cạo râu nhiều xà phòng ấm đẫm mùi hoa hồng, tôi không thể không nghĩ về chuyện hôn nhân mang lại sự thịnh vượng và sức sống mới không chỉ cho ngôi nhà của một người độc thân mà cả cửa hàng và công việc của anh ta nữa.

Tôi không biết thời gian trôi qua bao lâu. Tôi chìm vào hơi ấm của thùng than đang dịu dàng sưởi cho cửa tiệm nhỏ này và những ngón tay thành thục của bác thợ cạo. Với việc cuộc sống bất ngờ tặng cho tôi những món quà tuyệt vời nhất hôm nay, cứ như cho không, và sau quá nhiều đau khổ, tôi cảm thấy vô vàn đội ơn Allah cao cả. Tôi cảm thấy cực kỳ tò mò, tự hỏi thế giới này của Người đã xuất hiện từ thế cân bằng bí ẩn nào, và tôi buồn thương cho Enishte, người đang nằm chết trong ngôi nhà nơi mà lát nữa đây tôi sẽ trở thành ông chủ. Tôi đang sẵn sàng lao vào hành động thì có tiếng ồn ào ngay cánh cửa luôn mở rộng của tiệm hớt tóc: Shevket!

Bối rối, nhưng với vẻ tự tin thường lệ, nó chìa ra một mẩu giấy. Không nói được lời nào và linh cảm một điều tồi tệ, lòng tôi run rẩy như bị trúng một cơn gió lạnh khi tôi đọc thấy:

Nếu không có lễ rước dâu, em sẽ không cưới – Shekure.

Nắm lấy vai Shevket, tôi nhấc có lên đùi. Tôi thích trả lời cho Shekure yêu quý của tôi bằng thư. “Như em muốn, em yêu!”. Nhưng trong cửa tiệm của một bác thợ cạo thất học thì lấy đâu ra giấy với viết? Vì vậy với sự kín đáo có tính toán, tôi thì thầm câu trả lời của tôi vào tai thằng bé: “được rồi.” Vẫn thì thầm, tôi hỏi nó ông ngoại nó đang làm gì.

“Ông đang ngủ.” Bây giờ tôi có cảm giác rằng Shevket, bác thợ cạo, và cả bạn nữa đều đang nghi ngờ về tôi và cái chết của Enishte (Shevket, dĩ nhiên, cũng nghi ngờ những điều khác nữa). Thật tội nghiệp! Tôi gượng hôn nó, và nó nhanh chóng bỏ đi, bất mãn. Trong lễ cưới, mặc bộ lễ phục, nó từ xa nhìn tôi với vẻ thù địch.

Vì Shekure không rời nhà cha nàng để đến nhà tôi, và tôi sẽ dọn đến nhà cha vợ trong vai trò chàng rể, nên đám rước dâu chỉ là chuyện phụ. Dĩ nhiên tôi không đủ khả năng sắm sửa cho những họ hàng và bạn bè giàu có của tôi và nhờ họ cười ngựa đứng đợi ở cổng nhà Shekure như những chú rể khác vẫn làm.

Tôi chỉ mời có hai người bạn từ thời thơ ấu mà tôi tình cờ gặp trong sáu ngày qua từ khi trở về Istanbul (một người làm thư ký giống tôi còn người kia đang điều hành một nhà tắm) và cả bác thợ cạo thân mến của tôi nữa, đôi mắt ông ngấn lệ trong khi ông vừa cạo râu và cắt tóc cho tôi vừa chúc tôi hạnh phúc. Cưỡi trên con ngựa trắng mà tôi đã cưỡi trong ngày đầu tiên đó, tôi gõ cổng nhà Shekure yêu dấu của tôi như thể đã sẵn sàng để mang nàng đến một ngôi nhà khác và một cuộc sống khác.

Với Hayriye, người mở cổng, tôi tặng một món tiền hào phóng. Shekure, mặc chiếc áo dài cưới đỏ tươi với những băng giấy hồng của cô dâu thả đài từ tóc đến chân, xuất hiện giữa những tiếng khóc, tiếng nức nở và thở dài (một phụ nữ quở mắng bọn trẻ), những tiếng la “Cầu Thượng đế phù hộ cô” và duyên dáng trèo lên con ngựa trắng thứ nhì mà chúng tôi mang đến. Khi tay trống và người thổi sáo mà bác thợ cạo tử tế đã thu xếp cho tôi vào phút cuối, bắt đầu chơi một giai điệu chậm mừng cô dâu thì đám rước dâu buồn bã, nghèo nàn nhưng đầy tự hào của chúng tôi đã khởi hành.

Khi ngựa của chúng tôi bắt đầu đi nước kiệu, tôi hiểu rằng Shekure, với sự tinh ranh thường lệ của nàng, đã chuẩn bị cảnh tượng này để bảo vệ đám cưới. Sau khi đã thông báo lễ cưới của chúng tôi với cả khu xóm, cho dù chỉ vào giờ chót, đám rước dâu của chúng tôi về cơ bản đã giành được sự tán đồng của mọi người, do đó hóa giải được bất kỳ phản đối nào sau này đối với đám cưới của chúng tôi. Tuy nhiên, việc loan báo chúng tôi sắp cưới và tổ chức lễ cưới công khai – cứ như thách thức kẻ thù của chúng tôi, chồng trước của Shekure và gia đình anh ta – đã gây thêm nguy hiểm cho toàn bộ sự việc. Nếu chuyện này do tôi quyết định, tôi sẽ tổ chức lễ cưới trong vòng bí mật, không nói với một ai, không tổ chức lễ cưới; tôi thích trở thành chồng nàng trước và bảo vệ đám cưới sau.

Tôi dẫn đầu đoàn diễu hành trên con bạch mã tính khí thất thường của tôi, và khi chúng tôi đi qua khu xóm, tôi lo lắng dò tìm Hasan và người của anh ta mà tôi e rằng sẽ phục kích chúng tôi sau một con hẻm hoặc một cánh cổng tối nào đó. Tôi nhìn thấy những chàng trai, người lớn tuổi trong khu phố và những kẻ lạ dừng bước và đang ở cửa vẫy tay, tuy không hoàn toàn hiểu hết những gì đang diễn ra. Trong một khu chợ nhỏ mà chúng tôi ngẫu nhiên tiến vào, tôi hiểu ra rằng Shekure đã khôn khéo khởi động đường dây rỉ tai của nàng, và việc nàng ly dị rồi cưới tôi đã nhanh chóng được cả khu xóm tán đồng. Điều này thấy rõ qua vẻ hào hứng của người bán rau quả, ông này tuy không hề bỏ bê những quả táo, cà rốt và mộc qua của ông ta quá lâu song vẫn đi theo chúng tôi vài bước và gào lên “Cầu Thượng đế che chở hai người”, qua nụ cười của người bán hàng ủ rũ, qua những ánh mắt đồng tình của chủ tiệm bánh mì, người đang cho thợ học việc cạo các mảng khét bám trong nồi. Tuy nhiên tôi vẫn bồn chồn, cảnh giác đề phòng một cuộc đột kích bất ngờ, hoặc thậm chí một lời cật vấn thô bỉ. Vì lý do này, tôi hoàn toàn không bị bối rối vì sự nhộn nhạo của đám trẻ con kiếm tiền đang theo đuôi khi chúng tôi rời khu chợ. Qua nụ cười của các bà tôi thoáng thấy đáng sau các cửa sổ, song cửa và những tấm rèm, tôi hiểu rằng nhiệt tình của đám trẻ ồn ào này đã bảo vệ và ủng hộ chúng tôi.


Khi tôi thấy con đường chúng tôi đang đi nãy giờ, tạ ơn Thượng đế, sau cùng cũng quành trở lại nhà, tôi thấy thông cảm với Shekure và nỗi buồn của nàng. Thực ra, không phải nỗi bất hạnh của nàng khi phải kết hôn vào ngày cha nàng bị giết khiến tôi buồn, mà bởi vì lễ cưới này quá đơn sơ và nghèo nàn. Shekure yêu dấu của tôi xứng đáng với những con ngựa có dây cương bằng bạc và yên chạm trổ, những kỵ sĩ mặc áo lông chồn và lụa thêu chỉ vàng, hàng trăm cỗ xe chất đầy quà và của hồi môn; nàng xứng đáng được dẫn đầu một đám rước vô tận gồm các con gái những vương hầu, vua chúa và những cỗ xe chở đầy những cung nữ già đang tán gẫu về những xa hoa của một thời đã qua. Nhưng đám cưới của Shekure còn thiếu cả bốn người cầm sào giương cao tấm trướng bằng lụa đỏ thường dùng để che cho các trinh nữ nhà giàu khỏi những cặp mắt soi mói; cũng không có cả một đầy tớ dẫn đầu đám rước mang những cây nến cưới to và những cây trang trí đính hoa quả, vàng lá, bạc lá và những viên đá bóng loáng. Không chỉ áy náy, tôi còn cảm thấy một nỗi buồn khiến tôi chực trào nước mắt mỗi lần bọn thổi sáo và đánh trống thản nhiên ngừng chơi khi đám rước bị chìm trong đám người đi chợ hoặc các đầy tớ đang hứng nước tại vòi ở quảng trường vì chúng tôi không có người dọn đường hô to “Cô dâu đến.”

Khi chúng tôi về gần tới nhà, tôi thu hết can đảm quay người lại nhìn nàng, và thấy nhẹ người khi bên dưới tấm mạng đỏ và dải kim tuyến hồng của cô dâu không hề có vẻ buồn rầu bởi những thiếu sót tội nghiệp đó, nàng trông khá phấn khởi khi biết rằng chúng tôi đã kết thúc đám rước và chuyến đi mà không gặp tai nạn hay rủi ro nào. Vì vậy, như mọi chàng rể, tôi đỡ cô dâu xinh đẹp vừa mới cưới của tôi xuống ngựa, khoác tay nàng và thong thả bốc từng nắm đồng xu bạc tung qua đầu nàng vào đám đông náo nhiệt. Trong khi đám trẻ nãy giờ theo chân đám rước nghèo nàn của chúng tôi tranh nhau những đồng bạc, Shekure và tôi bước vào sân, theo lối đi lát đá, và ngay khi bước vào nhà thì phả vào chúng tôi không chỉ có cái nóng mà có cả sự khủng khiếp của mùi thối rữa nặng nề.

Trong khi mọi người theo đám rước tìm chỗ ngồi nghỉ trong nhà Shekure và đám người có tuổi, các phụ nữ và trẻ em (Orhan trong góc nhà đang nghi ngại nhìn tôi) trò chuyện huyên náo cứ như không hề có gì trục trặc và trong phút chốc tôi nghi ngờ cảm giác của mình; nhưng tôi biết các xác chết bị bỏ nằm ngoài nắng sau trận chiến thì có mùi thế nào, quần áo của họ tả tơi, giày và thắt lưng bị đánh cắp, còn khuôn mặt, mắt và môi họ thì bị sói và chim rúc rỉa. Đó là một mùi hôi thối vẫn đầy khắp miệng và phổi tôi gần như ngộp thở đến độ tôi có thể nhận ngay ra nó không chút lầm lẫn.

Xuống nhà bếp, tôi hỏi Hayriye về xác của Enishte Kính mến, với ý thức rằng tôi đang nói với chị ta lần đầu tiên trong vai trò gia chủ.

“Như ông bảo, chúng tôi để ông cụ nằm trên nệm, mặc đồ ngủ cho ông, quấn ông trong mền bông và đặt mấy chai xi rô cạnh ông. Nếu ông ấy tỏa ra mùi khó chịu, chắc là do hơi nóng của thùng than sưởi trong phòng”, chị ta nói qua nước mắt.

Một hai giọt nước mắt của chị ta rớt xuống, kêu xèo xèo trong cái chảo chị ta đang dùng để chiên thịt cừu. Qua cách chị ta khóc, tôi cho rằng Enishte Kính mến đêm đêm đã dẫn chị ta vào giường của ông. Esther, nãy giờ ngồi im lặng và tự hào trong một góc bếp, nuốt những gì chị ta đang nhai rồi đứng dậy.

“Hãy coi hạnh phúc cho cô ấy là ưu tiên hàng đầu của anh,” chị ta nói. “Hãy công nhận giá trị của cô ấy.”

Trong ý nghĩ tôi như nghe có tiếng đàn luýt mà tôi đã nghe được trên đường ngày đầu tiên tôi về đến Istanbul. Ngoài nỗi buồn, giai điệu của nó còn có sự mãnh liệt. Sau này tôi còn nghe được giai điệu đó một lần nữa trong căn phòng mờ tối nơi Enishte của tôi đang nằm trong bộ đồ ngủ, khi Thầy tế Kính mến làm phép cưới cho chúng tôi.

Bởi vì Hayriye đã ngầm mở cửa cho thông gió căn phòng trước đó và đặt một ngọn đèn dầu trong góc cho nó chỉ sáng lờ một nên người ta khó mà nghĩ rằng Enishte của tôi bị bệnh chú đừng nói là đã chết. Vì vậy, ông đã đóng vai người giám hộ hợp pháp cho Shekure trong suốt buổi lễ. Người bạn thợ cạo của tôi, cùng với một ông già hàng xóm cái-gì-cũng-biết làm nhân chứng. Trước khi buổi lễ kết thúc với những lời chúc phúc và khuyên răn của ông giáo sĩ và những lời cầu nguyện của mọi người tham dự, một ông già thóc mách, do quan tâm đến sức khỏe của Enishte của tôi, định cúi cái đầu hoài nghi của ông ta xuống người chết; nhưng ngay khi giáo sĩ vừa hoàn tất nghi lễ, tôi liền nhảy ra khỏi chỗ đứng, chộp lấy cánh tay cứng ngắc của Enishte của tôi mà hét thật to:

“Xin đừng lo lắng, Enishte thân yêu. Con sẽ làm mọi chuyện trong khả năng mình để chăm sóc Shekure và bọn trẻ, bảo đảm cho chúng được ăn ngon, mặc đẹp, được yêu thương và không gặp rắc rối.”

Kế đến, làm như Enishte của tôi đang cố thì thào với tôi trên giường bệnh, tôi cẩn thận và đầy tôn kính áp tai sát miệng ông, giả như đang chăm chú lắng nghe ông với đôi mắt mở to như những người trẻ vẫn làm khi một người già mà họ tôn trọng đưa ra mấy lời khuyên rút ra từ toàn bộ cuộc đời, những lời khuyên mà lúc đó họ nuốt ừng ực như một loại thánh dược. Thầy tế Kính mến và ông già hàng xóm có vẻ trân trọng và tán đồng lòng trung thành và sự tận tụy đến cùng mà tôi thể hiện với cha vợ. Tôi hy vọng không ai nghĩ rằng tôi có dính dáng vào vụ giết ông.

Tôi thông báo với khách dự đám cưới vẫn còn trong phòng rằng ông cụ khốn khổ này muốn được ở một mình. Lập tức họ bắt đầu rút lui, đi qua phòng kế bên nơi mọi người tập họp để thưởng thức món cơm chiên thập cẩm và thịt cừu của Hayriye (lúc này tôi không còn phân biệt nổi mùi của xác chết với mùi thơm của hành tây, cây thìa là và thịt cừu rán). Tôi bước ra hành lang rộng, và giống như một gia chủ đãng trí và đăm chiêu đi lang thang khắp nhà mình, tôi mở cửa vào phòng Hayriye, không để ý đến những phụ nữ đang hoảng hốt vì có một người đàn ông xuất hiện giữa bọn họ, trìu mến nhìn Shekure, đôi mắt nàng ánh lên niềm hạnh phúc khi thấy tôi, rồi tôi nói:

“Cha gọi em, Shekure. Chúng ta đã cưới nhau, em nên hôn tay cha.”

Đám phụ nữ hàng xóm mà Shekure mời vào phút chót và các cô gái trẻ mà tôi nghĩ là bà con tỏ vẻ đã trấn tĩnh và che mặt lại đồng thời liên tục ngắm nghía tôi đến thỏa thuê.

Ngay sau hồi chuông báo giờ cầu kinh tối, khách dự đám cưới giải tán, sau khi nhiệt tình nạp đầy bụng những quả óc chó, hạnh đào trái cây khô và kẹo trái cây. Trong khu vực của các bà, tiếng khóc không ngớt của Shekure và tiếng cãi nhau của lũ trẻ ngỗ nghịch làm không khí lễ hội mất vẻ hào hứng. Giữa các ông, sự im lặng lạnh lùng của tôi trước những chọc ghẹo của hàng xóm về đêm tân hôn thú vị được cho là bởi lo lắng về bệnh tình của cha vợ. Giữa tình cảnh chẳng lấy gì làm vui ấy, hình ảnh ghi khắc rõ nhất trong ký ức của tôi là cảnh tôi đưa Shekure vào phòng của Enishte trước bữa tối. Sau cùng chúng tôi cũng được ở một mình với nhau. Sau khi hai đứa tôi hôn bàn tay lạnh và cứng của người chết với lòng kính trọng chân thành, chúng tôi rút vào một góc tối trong phòng và hôn nhau như cố thỏa mãn một cơn khát dữ dội. Trên đầu lưỡi nóng bỏng của vợ, mà rốt cuộc tôi cũng nút được vào miệng mình, tôi nếm được những viên kẹo mà lũ trẻ đã ăn lấy ăn để.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.