Bạn đang đọc Tay súng cuối cùng: Chương 24- P01
Đã mấy ngày nay Web chưa đọc tờ báo nào. Cuối cùng anh mua một tờ Washington Post và đọc lướt qua những trang báo khi ngồi uống cà phê bên một chiếc bàn kê gần đài phun nước ở Trung tâm Reston Town.
Trước đó anh đã lượn lờ khắp các phố xá Washington và tích lũy một lượng hóa đơn đáng kể cho Cục thanh toán. Thỉnh thoảng Web lại ngẩng đầu lên và mỉm cười ngắm nhìn những đứa bé cố leo lên bờ tường để tung những đồng xu vào đài phun nước trong khi những bà mẹ thì cẩn thận níu chặt đuôi áo chúng để con mình chẳng may không cắm đầu xuống nước.
Anh đã xem lướt qua các trang Thể Thao, Đô Thị, Phong ách. Đọc ngược từ trang cuối về trang nhất. Đến trang A6 thì thái độ hờ hững của anh vụt biến mất. Anh đọc đi đọc lại bài báo đến ba lần liền và chăm chú nhìn những bức ảnh đi kèm. Khi anh ngồi lại và bình tĩnh suy nghĩ về những gì vừa đọc trong đầu Web bắt đầu xuất hiện những kết luận tường chừng như không thể và ít nhiều gượng gạo. Bất giác anh sờ lên phần mặt bị thương của mình rồi lần lượt áp đầu ngón tay vào những lỗ sẹo do đạn gây ra trên người. Chẳng nhẽ sau ngần ấy thời gian anh lại sắp phải đối mặt với nó nữa sao?
Anh bấm số gọi nhanh trên máy. Bates không có trong văn phòng.
Web bèn nhắn vào máy nhắn tin của anh ta. Vài phút sau anh ta gọi lại cho anh. Web vội kể cho anh ta nghe về bài báo.
“Luis Leadbetter. Đó là vị thẩm phán ở Richmond người đã làm chủ tọa phiên tòa xét xử vụ án Hội Tự Do. Bị bắn. Watkins là công tố viên trong vụ này. Ông ta bước vào nhà và nó nổ tan tành. Cả hai vụ đều xảy ra cùng một ngày. Rồi còn những gì xảy ra với Đội Charlie nữa. Chúng tôi chính là đội được huy động theo yêu cầu của Văn phòng Địa bàn Richmond. Chính tôi đã hạ hai tên trong nhóm này trước khi bị bỏng mặt và lãnh hai viên đạn. Rồi còn tên Ernest B. Free kia nữa. Hắn trốn tù. Cái gì? Cách đây ba tháng rồi, anh biết chưa? Hắn đã mua chuộc một người lính gác, nhờ anh ta kiếm một chiếc xe thùng, rồi cắt cổ anh ta để bịt đầu mối.”
Câu trả lời của Bates làm Web sững sờ. “Chúng tôi biết hết rồi. Web.” Máy tính của Cục đang sục sạo thông tin liên quan đến vấn đề này thì hai cái chết kia, hai vụ mưu sát thì đúng hơn xảy ra. Và còn chuyện này nữa.”
“Gì vậy?”
“Tốt nhất là cậu vào đây mà xem.”
Khi đến trụ sở của WFO. Web được dẫn lên phòng Điều hành Tác chiến Chiến lược với tất cả những loại chuông báo động và còi hụ mà người ta thường thấy ở một cơ quan phòng chống tội phạm giàu sụ của Nhà nước Liên bang, cả những bức tường bọc đồng tiêu chuẩn, những hệ thống an ninh nội bộ cực kỳ hiện đại, tiếng sóng nhiễu ù ù chống nghe lén ở tất cả những khu vực dễ bị tổn thương, máy soi võng mạc và nhận dạng vân tay, hàng dãy siêu máy tính đắt tiền, những thiết bị hiển thị hình ảnh và quan trọng nhất là thừa mứa cà phê ngon vừa pha cùng cơ man nào là bánh rán Krispy Kreme nóng hổi.
Web tự rót ình một cốc cà phê và lịch sự chào vài nhân viên đang hối hả chạy qua chạy lại trong căn phòng lớn. Anh chăm chú nhìn những sơ đồ vẽ bằng máy tính về khoảnh sân định mệnh và những tòa nhà xung quanh được gắn lên các tấm bảng lớn treo trên tường. Trên sơ đồ gắn chi chít những chiếc đinh ghim nhiều màu sắc, Web biết chúng thể hiện những khu vực quan trọng có bằng chứng hoặc đầu mối liên quan. Tiếng bước chân, tiếng lách cách trên bàn phím không bao giờ dứt. Điện thoại lúc nào cũng réo vang, giấy tờ loạt soạt và không khí căng thẳng trong phòng cho Web biết có chuyện quan trọng đang diễn ra. Trước kia anh cũng từng là một phần của những cơ quan tham mưu tác chiến như thế này rồi.
“Vụ đánh bom ở Oklahoma ([48]) tạo ra một tiền lệ với tiêu chuẩn quá cao,” Bates nói với một nụ cười mỉa mai khi Web ngồi xuống đối diện với anh ta. “Bây giờ mọi người mặc nhiên cho rằng chúng tôi chỉ cần xem xét vài chiếc xe, kiểm tra mấy cuốn băng vi deo, lùng tìm mấy cái biển số, gõ vài phím máy tính và a lê hấp! Tên tội phạm sẽ bị tóm sau vài tiếng.” Anh vứt toẹt tập giấy đang cầm trên tay xuống bàn. “Nhưng hầu như chẳng bao giờ có chuyện gặp may như thế cả. Dù là người hay máy thì cũng phải có lúc nghỉ chứ. Mẹ kiếp, chúng tôi vừa nhận được cơ man nào là điện mật. Chắc chắn có kẻ đang muốn chúng ta biết hắn đã thoát ra ngoài.”
“Tôi sẽ đi tiên phong trong mọi trường hợp. Perce. Dù kẻ đó là ai chăng nữa cũng có thể kiểm soát được tất cả những gì xảy ra sau đó.”
“Cậu có biết là tôi đã rất bực mình khi cậu quyết định rời bỏ WFO để chơi trò leo dây và bắn súng lớn không? Nếu như cậu vẫn ở lại với tôi rất có thể ngày nào đó cậu sẽ trở thành một đặc vụ FBI hàng đầu rồi.”
“Nhiều khi nghề chọn người chứ người có chọn được nghề đâu. Anh bảo là anh có tin gì mới mà.”
Bates gật đầu và thảy một tập tài liệu vào tay Web. Web đọc lướt nhanh.
“Scott Wingo…tên này nghe quen chứ?”
“Tất nhiên, ông ta bào chữa cho anh bạn cũ Ernest B. Free của chúng ta. Tất nhiên là tôi không có mặt ở phiên tòa. Lúc đó tôi vẫn đang được điều trị trong bệnh viện. Nhưng những người có mặt ở đó có nói đến Wingo.”
“Một tay khôn ngoan và xảo quyệt. Ông ta cứu hắn thoát án tử hình còn gì. Và giờ thì ông ta cũng chết.”
“Bị giết?”
“Chất Atropin được bôi lên ống nghe điện thoại trong phòng làm việc của ông ta. Anh nhấc điện thoại lên, tất nhiên là anh sẽ áp nó vào da mặt gần lỗ mũi và những vùng nhạy cảm khác. Atropin được hấp thụ vào cơ thể qua màng nhầy nhanh hơn nhiều so với đường máu. Nó khiến mạch của anh đập loạn nhịp gây khó thở, tạo ảo giác chỉ trong vòng khoảng một giờ gì đó. Nếu anh bị suy thận hay những trục trặc khác về tuần hoàn máu khiến cơ thể không thể đào thải chất độc đó thì tác động của nó còn phát huy nhanh hơn nhiều. Wingo bị đái tháo đường, tim mạch cũng có vấn đề nghiêm trọng và lại phải ngồi xe lăn, nên atropin là sự lựa chọn quá lý tưởng. Thứ Bảy nào ông ta cũng tới văn phòng một mình, vì vậy không có ai ở bên cạnh để giúp đỡ khi ông ta bắt đầu cảm thấy những ảnh hưởng của atropin trong người mình. Hơn nữa, cuối tuần nào ông ta cũng trả lời rất nhiều cuộc điện thoại, đó là những gì các đồng nghiệp ở Richmond cho chúng ta biết.”
“Vậy kẻ mưu sát ông ta phải biết rõ về tiểu sử bệnh và thói quen làm việc của Wingo?”
Bates gật đầu. “Leadbetter thì bị bắn khi ông ta bật đèn trong xe lên để đọc một bài báo nào đó mà một thẩm phán khác đã khuyên ông ta nên đọc. Người sĩ quan cảnh sát tư pháp nhận cuộc gọi nói rằng đó là một ông thẩm phán Mackey nào đó. Tất nhiên, đó là một kẻ mạo danh.”
“Lại là điện thoại.”
“Chưa hết đâu. Người hàng xóm của Watkins lái xe về đúng lúc Watkins đang đi bộ vào nhà. Ông ta khai với cảnh sát rằng ông ta trông thấy Watkins cho tay vào túi áo và lấy điện thoại ra. Ông ta không nghe thấy tiếng chuông điện thoại, nhưng ông ta cho biết hình như Watkins đang trả lời cuộc gọi nào đó. Trong nhà có khí gas; ông ta ấn nút nghe máy. Bùm!”
Web vội nói, “Khoan đã. Một chiếc điện thoại di động đâu phải là cái công tắc điện. Tia lửa điện của nó cũng không đúng loại và cũng không đủ lớn để làm nổ khí gas.”
“Chúng tôi đã kiểm tra chiếc điện thoại; những gì còn lại của nó thì đúng hơn. Mấy tay pháp y và giám định hiện trường đã phải nạo nó ra khỏi tay Watkins. Có kẻ đã cài một cuộn đây Sôlênôit vào trong điện thoại để tạo ra tia lửa điện cần thiết có thể làm cháy bùng khí gas.”
“Vậy là phải có kẻ ăn trộm điện thoại của Watkins lúc ông ta ngủ say hoặc bỏ nó ở đâu đó trong khoảng thời gian dài, hắn cài cuộn dây vào trong điện thoại, và chắc chắn hắn còn phải theo dõi ông ta khi mọi chuyện xảy ra thì mới bảo đảm sự trùng khớp về thời gian như thế chứ.”
“Đúng vậy. Chúng tôi đã cho kiểm tra danh sách các cuộc gọi đến máy của Watkins và của viên cảnh sát tư pháp kia. Cả hai đều là những thuê bao trả trước, dùng xong là bỏ. Không có dấu tích gì nữa.”
“Giống như những gì các đặc vụ chìm vẫn dùng. Tôi đoán là tay đặc vụ chìm của anh vẫn chưa lộ diện?”
“Quên anh ta đi.”
“Không đời nào, tôi sẽ nói chuyện về anh ta sau. Nào, tin mới nhất về thằng Free này là gì?
“Chẳng có gì. Dường như hắn trốn sang một hành tinh khác vậy.”
“Tổ chức của hắn vẫn hoạt động chứ?”
“Thật đáng tiếc là vẫn. Có lẽ cậu còn nhớ là chúng đã phủ nhận sự liên quan đến vụ tấn công vào trường học ở Richmond và Ernie cũng không chịu phản lại đồng bọn, hắn khai rằng một mình hắn lên kế hoạch tấn công trong khi tổ chức hoàn toàn không biết gì hết, thế là vụ án đành khép lại. Những đồng bọn khác thì đều đã chết, mà chính cậu đã hạ hai thằng đấy thôi. Chúng ta không tóm được thành viên nào khác nên không thể bắt chúng ra làm nhân chứng, thế là Hội Tự Do vẫn bình yên vô sự.
Hoạt động của chúng có chìm xuống một thời gian vì bị dư luận lên án dữ dội, nhưng nghe đồn là chúng đang trỗi dậy khá mạnh mẽ.”
“Hiện chúng đóng ở đâu?”
“Miền nam Virginia, gần Danville. Cậu phải biết là chúng tôi đã có người theo dõi rất sát sao nơi đó. Chúng tôi cho rằng thằng Ernie sẽ quay về đó sau khi đào thoát. Nhưng từ đó đến nay vẫn chưa thấy tăm hơi hắn đâu cả .”
“Sau tất cả những chuyện vừa xảy ra, chúng ta vẫn không có lệnh khám xét sào huyệt của chúng sao?”
“Gì cơ? Chúng ta đến tòa án và bảo họ rằng vừa có ba vụ giết người. Sáu vụ, nếu tính cả nhà Watkins, và chúng ta nghi Hội Tự Do đứng sau việc này. Trong khi chúng ta hoàn toàn không có bằng chứng gì cho thấy chúng có liên quan đến vụ tấn công vào HRT hoặc bất kỳ ai khác sao? Anh tưởng bọn Liên minh Dân quyền Mỹ sẽ để yên à?” Bates ngừng lại. “Cho dù tất cả đều rất rõ ràng. Nạn nhân là công tố viên, thẩm phán, trả thù là động cơ hoàn hảo nhất.”
“Nhưng tại sao lại cả luật sư bào chữa? Chẳng phải ông ta đã cứu hắn thoát án tiêm thuốc độc à?”
“Đúng thế, nhưng chúng ta có nói đến những kẻ có đầu óc bình thường đâu cơ chứ, Web. Theo tôi, chúng căm hận vì tên đồng bọn điên rồ của chúng đã phải ngồi tù, dù là một ngày thì cũng là ngồi tù. Hoặc có thể Ernie đã có cãi vã gì đó với tay luật sư nên khi trốn được ra ngoài hắn quyết định thanh toán tất cả cho gọn.”
“Hừ, ít ra thì mọi việc giết chóc coi như xong. Không còn ai nữa cả.”
Bates với một tập hồ sơ và rút ra một tờ giấy có dán ảnh khác. “Chưa chắc. Cậu có nhớ là có hai giáo viên bị bắn chết trong trường học đó không?”
Web hít một hơi dài nặng nề khi những ký ức đau đớn ồ ạt tràn về.
“Cả thằng bé nữa, David Canfield.”
“Đúng vậy. Một giáo viên trong đó đã có chồng. Và cậu biết gì không? Cách đây ba hôm chồng cô ta đã thiệt mạng ở phía tây bang Maryland trên đường lái xe đi làm về nhà lúc trời tối.”
“Giết người à?”
“Không chắc lắm. Đó là một vụ đâm xe. Cảnh sát vẫn đang điều tra. Trông như một vụ đâm rồi bỏ chạy.”
“Có liên quan gì đến điện thoại không?”
“Có một chiếc điện thoại trong xe. Sau khi chúng ta liên lạc; cảnh sát địa phương cho biết họ sẽ kiểm tra danh sách gọi trong máy để xem anh ta có nhận được cuộc gọi nào ngay trước khi xảy ra tai nạn không.”
“Thế còn gia đình người giáo viên còn lại?”
“Người chồng và những đứa con đã chuyển đến Oregon. Chúng tôi đã liên hệ với họ và giờ thì họ đang được bảo vệ 24/24 rồi. Nhưng thế chưa phải đã là xong đâu. Cậu còn nhớ bố mẹ của David Canfield chứ, Bill và Gwen ấy?”
Web gật đầu. “Tôi nằm trong bệnh viện MCV ở Richmond một thời gian dài. Billy Canfield đã đến thăm tôi vài lần, ông ta là một người tốt. Ông ấy gần như suy sụp sau cái chết của đứa con trai, mà có ông bố bà mẹ nào không thế chứ? Tôi chưa bao giờ gặp vợ ông ta. Và từ đó đến nay tôi cũng không gặp lại Billy nữa.”
“Họ đã chuyển chỗ ở. Hiện họ đang sống ở Hạt Fauquier, điều hành một trang trại ngựa giống.”
“Có chuyện gì bất thường xảy ra với họ không ?”
“Ngay sau khi nhận ra mối liên hệ giữa các vụ việc này. chúng tôi đã liên lạc với họ. Họ cho biết hiện chưa có gì bất thường xảy ra cả. Họ cũng đã biết việc Free đã vượt ngục. Và theo lời Billy Canfield thì ông ta không hề muốn nhận sự giúp đỡ của chúng ta và ông ta còn hy vọng là tên vô lại đó đang bám theo mình vì ông ta muốn được tự tay mình bắn nát đầu hắn.”
“Billy Canfield không phải là kẻ nhát gan đâu. Tôi có thể nói như vậy ngay từ lần đầu tiên ông ta đến bệnh viện thăm tôi; mạnh mẽ đến mức thô bạo, cứng rắn và ương ngạnh. Một số đồng đội của tôi tham gia làm chứng trước tòa đã kể với tôi là trong quá trình xét xử ông ta cũng cãi vã rất hăng. Mấy lần liền ông ta suýt bị tòa cáo buộc là có thái độ khinh mạn.”
“Hồi đó ông ta có một công ty vận tải, nhưng sau khi con trai chết, ông ta đã bán lại công ty đó.”
“Nếu bọn Tự Do đứng đằng sau những vụ mưu sát ở Richmond thì Hạt Fauquier rõ ràng là gần hơn bang Oregon rất nhiều. Rất có thể gia đình Canfield đang gặp nguy hiểm.”
“Tôi biết. Tôi đang cân nhắc đến việc đến đó một chuyến để cố nói chuyện phải quấy với ông ta.”
“Tôi sẽ đi với anh.”
“Cậu chắc chứ? Tôi biết chuyện xảy ra trong trường học đó không phải là điều mà cậu muốn nhắc đến mà.”
Web lắc đầu. “Có những chuyện mà anh không bao giờ bỏ lại sau lưng được, Perce, cho dù có mất cả đời chăng nữa. Hai cô giáo đã bị bắn chết trước khi chúng tôi đến, đó là chuyện hoàn toàn nằm ngoài khả năng của tôi, nhưng David Canfield thì bị chúng giết hại ngay trước mặt chúng tôi, đó lại là chuyện hoàn toàn khác.”
“Cậu đã làm nhiều hơn bất kỳ ai có thể làm, kể cả suýt mất mạng. Và tấm huân chương vĩnh cửu vẫn còn kia trên mặt anh đấy thôi. Cậu chẳng có gì để phải cắn rứt cả.”
“Thế thì anh không hiểu tôi rồi.”
Bates chăm chú nhìn Web. “Thôi được, nhưng đừng có quên. Nếu như xóa sổ đội Charlie là mục tiêu của Hội Tự do thì chúng vẫn còn chưa xong việc đâu. Vì anh là tay súng cuối cùng còn sống đấy.”
Thoi thóp thì đúng hơn, Web nghĩ. “Đừng lo, tôi sẽ quan sát cả hai bên mỗi khi sang đường.”
“Tôi đang nói nghiêm túc, Web. Nếu chúng đã thử một lần, chúng sẽ thử nhiều lần nữa. Đây là một bọn bệnh hoạn.”
“Vâng, tôi biết rồi. Hãy nhớ là tôi có tấm huân chương vĩnh cửu đây mà.”
“Còn chuyện này nữa. Tại phiên tòa Wingo đã đâm đơn kiện ngược lại HRT và FBI về việc giết người vô cớ.”
“Chuyện nhảm nhí.”
“Đúng thế. Nhưng đó là cách chúng sẽ khám phá được một số thông tin về HRT. Rất có thể Hội Tự do đã biết được nhiều điều về phương thức hoạt động của các anh, quy trình, cơ cấu tổ chức…Đó có thể là những thông tin giúp chúng bố trí trận phục kích vừa rồi.”
Web chưa hề cân nhắc đến khả năng này. Giờ thì mọi chuyện có vẻ đã rõ ràng hơn rất nhiều.
“Tôi hứa là nếu tôi có nhận được cú điện thoại mờ ám nào, anh sẽ là người đầu tiên được thông báo. Và tôi sẽ kiểm tra ống nghe xem có atropin không. Giờ thì hãy cho tôi biết về tay đặc vụ chìm của anh đi. Rất có thể bọn Hội tự do là chủ mưu, nhưng nhất định chúng phải có tay trong chứ. Nào, tôi đã biết anh ta là người da đen, và tôi cũng không tin là bọn cuồng tín như Hội Tự do lại làm việc với một người không phải da trắng như chúng, nhưng nói chung ngay lúc này chưa thể loại bỏ nghi vấn nào hết. Anh nói với tôi là Cove sống độc thân. Anh còn biết những gì về anh ta nữa nào?” Web vẫn chưa nhận được thông tin gì từ Ann Lyle liên quan đến Cove, nên anh quyết định hỏi thẳng Bates.
“Ô, nhiều chứ. Tất cả nằm trong tập hồ sơ kia kìa, có gắn nhãn “Những Điều Cần Biết Về Các Đặc Vụ Chìm Của FBI”
“Perce, rất có thể tay này chính là chìa khóa.”
“Không có chuyện đó đâu! Cứ tin tôi đi.”
“Tất cả những gì tôi muốn nói là tôi đã làm những loại công việc này rồi. Và ngược lại với điều anh nghĩ tôi không hề quên cách làm việc của một đặc vụ FBI khi tôi gia nhập HRT. Tôi có một người thầy giỏi – anh không cần phải phổng mũi làm gì. Và dù sao hai cái đầu vẫn hơn là một cái đầu. Chẳng phải anh vẫn luôn cố nhồi nhét cho tôi bài học đó sao?”
“Nhưng tôi không thể làm thế được, Web, rất tiếc. Quy định là quy định.”
“Hình như tôi nhớ là ngày trước anh dạy tôi khác đấy.”
“Thời gian thay đổi, con người thay đổi.”
Web ngồi ngả người ra sau ghế và cân nhắc anh có nên tung ra con át chủ bài của mình không. “Được rồi. Vậy anh nói sao nếu tôi cho anh biết một điều cực kỳ quan trọng mà anh không biết?”
“Tôi sẽ hỏi là vì lý do chó chết nào mà cậu không nói cho tôi từ trước?”
“Tôi chỉ vừa mới biết.”
“Hừ, thế đấy.”
“Tóm lại là anh có muốn nghe hay không nào?”
“Đổi lại cậu sẽ nhận được gì?”
“Tôi cung cấp cho anh tin liên quan đến cuộc điều tra, anh cũng làm như vậy cho tôi.”
“Thế nếu tôi cứ bắt cậu phải nói vô điều kiện thì sao nào?
“Thôi nào, hãy vì những ngày xưa yêu dấu.”
Bates gõ gõ nên tập hồ sơ trước mặt. “Sao tôi biết đó là một thông tin hữu ích?”
“Nếu không giá trị thì anh chẳng nợ gì tôi hết. Tôi tin tưởng sự đánh giá khách quan của anh.”
Bates chằm chằm nhìn anh một lúc. “Nói đi.”
Web kể lại cho anh ta việc Kevin Westbrook bị đánh tráo. Trong khi anh nói, mặt Bates mỗi lúc một đỏ bầm lên và Web có thể dám chắc là mạch của anh ta chắc chắn phải vượt xa sáu mươi tư, và thậm chí lên cả ba con số chứ chẳng chơi.
“Chính xác thì anh biết chuyện này từ khi nào? Nói cụ thể đến từng phút vào cho tôi.”
“Lúc tôi đang ngồi uống bia với Romano và tôi nhắc đến việc Kevin Westbrook mà tôi gặp có một vết sẹo do đạn bắn trên má. Nhưng anh ta lại nói là thằng bé chẳng có vết sẹo nào. Cortez cũng kể đúng như vậy. Mà anh đừng trách họ. Tôi đã hứa là sẽ thông báo cho anh trong thời gian sớm nhất có thể.”
“Đúng là sớm thật. Nhưng ai đã đánh tráo thằng bé và tại sao?”
“Tôi có đoán mò cũng không nghĩ ra. Nhưng tôi xin khẳng định với anh rằng thằng bé tôi cứu trong con hẻm và thằng bé mà Romano bàn giao cho tay tự xưng là đặc vụ FBI kia là hai đứa hoàn toàn khác.” Anh gõ gõ lên mặt bàn, anh thấy sao? Đáng giá đấy chứ?”
Bates đáp lại bằng cách mở tập hồ sơ, mặc dù anh ta thuộc lòng những gì có trong đó. “Randall Cove. 44 tuổi. Gia nhập FBI từ khi bắt đầu đi làm. Anh ta từng là một cầu thủ bóng bầu dục ở Oklahoma, nhưng bị vỡ đầu gối trước khi thử việc ở NFL ([49]). Đây là ảnh mới chụp của anh ta.” Bates đẩy bức ảnh qua bàn và Web chăm chú nhìn. Người đàn ông trong ảnh có bộ râu quai nón tỉa ngắn, tóc bện thành nhiều lọn và đôi mắt chỉ có thể gọi là sắc lạnh. Bộ ngực và đôi vai lực lưỡng cho thấy anh ta là một người khổng lồ, cao khoảng gần hai mét. Trông anh ta thừa sức đối đầu với một con gấu xám và có lẽ còn hạ nó một cách dễ dàng. Web cúi hẳn người về phía trước làm ra vẻ xem xét kỹ khuôn mặt của người đàn ông trong ảnh, nhưng thực ra mắt anh đang gắn chặt vào tập hồ sơ mà Bates đang mở toang trên mặt bàn. Những năm tháng làm một đặc vụ FBI chính thống đã dạy anh nhiều thủ thuật để chỉ cần nhìn lướt qua là có thể ghi nhớ rất nhanh và lâu. Anh cũng quá lão luyện trong cách đọc ngược trang giấy.
Bates lên tiếng, “Anh ta là người biết chăm sóc bản thân, thông thạo đường phố hơn bất kỳ tên trùm xã hội đen nào. Lạnh lùng và bình tĩnh ngay trong những hoàn cảnh áp lực nhất.”
“Hừm, thì xưa nay mấy tay bánh mì trắng ([50]) tốt nghiệp Princeton mang những cái họ như William hay Jeffrey có bao giờ hòa nhập được với Thành phố Ma túy của nước Mỹ, nhiều lúc tôi cũng tự hỏi là tại sao nhỉ ” Web nói. “Anh có nói là anh ta không vợ không con. Anh ta chưa bao giờ lấy vợ à?”
“Có chứ, nhưng vợ anh ta chết rồi.”
“Vậy họ không có con sao?”
“Đã từng có.”
“Chuyện gì đã xảy ra với chúng vậy.”