Bạn đang đọc Suối Nguồn (The Fountainhead): Phần 4 – Chương 16a
XVI.
Trên mặt chiếc bàn gỗ gụ dài bóng loáng được dành riêng cho hội đồng quản trị có hai chữ viết lồng vào nhau bằng gỗ được sơn màu. GW. Chúng được làm dựa theo chữ ký của ông. Dòng chữ này luôn làm cho các thành viên hội đồng quản trị khó chịu. Nhưng bây giờ họ không có thời gian để ý tới chúng. Chỉ thỉnh thoảng một ai đó liếc nhìn vào hai chữ đó – và khi ấy, cái liếc nhìn lộ vẻ hài lòng.
Những thành viên hội đồng đang ngồi quanh bàn. Đây là lần đầu tiên hội đồng quản trị tổ chức họp mặt mà không do Wynand triệu tập. Người ta đã tự triệu tập buổi họp mặt và Wynand đã đến. Đây là tháng thứ hai kể từ khi đình công bắt đầu.
Wynand đứng cạnh chiếc ghế của ông ở đầu bàn. Trông ông giống như một bức vẽ từ tạp chí dành cho đàn ông – một người ăn mặc cực kỳ chải chuốt, với một chiếc khăn mùi xoa màu trắng nằm trong túi ngực của bộ trang phục màu đen. Những thành viên hội đồng quản trị thấy mình đang nghĩ những ý nghĩ kỳ quặc: người thì nghĩ về những người thợ may Anh quốc, những người khác thì – nghĩ về Thượng viện Anh – về tháp London – về vị vua Anh đã bị xử tử – hay người bị xử tử là đại pháp quan nước Anh[167] nhỉ? – ông ta đã chết một cách thật ngoạn mục.
Họ không muốn nhìn vào người đàn ông đang đứng trước họ. Họ nghĩ về cảnh những người biểu tình ngoài kia – về những phụ nữ sực nức nước hoa với những móng tay được sơn sửa kỹ lưỡng đang hét lên ủng hộ Ellsworth Toohey trong những buổi thảo luận ở các phòng khách – về một cô gái mặt bè bè và phẳng lì đang đi đi lại lại dọc đại lộ số năm với tấm áp phích “”Chúng tôi không đọc báo Wynand” – để ủng hộ và thể hiện lòng dũng cảm dám công khai những gì họ đang nói.
Wynand nghĩ đến một bức tường đổ nát ở mép sông Hudson. Ông nghe thấy tiếng bước chân từ rất xa tiến về phía mình. Chỉ khác là lần này không có những đường dây điện tỏa đi từ bàn tay ông để giữ cho cơ bắp trong người ông sẵn sàng.
“Mọi thứ điên mất rồi. Đây là một tổ chức kinh doanh hay là một hội từ thiện nhằm bảo vệ bạn bè riêng?”
“Ba trăm ngàn đô vào tuần trước… Đừng mất công tìm hiểu làm sao tôi biết được điều đó, Gail, không có gì bí mật cả, chủ ngân hàng của ông đã nói cho tôi biết. Được thôi, đó là tiền của ông, nhưng nếu ông muốn dùng tiền công thì để tôi nói cho ông biết là ông không qua được mắt bọn tôi đâu. Ông không thể đổ tiền của chúng tôi ra được, không một xu nào, ông không thể thoát được vụ này đâu, quá muộn rồi Gail, đã hết thời ông có thể làm mưa làm gió rồi.”
Wynand nhìn vào đôi môi dày của người vừa nói, và nghĩ: Chính các người đã vận hành tờ Ngọn cờ, ngay từ đầu, các người đã không biết điều đó, nhưng ta biết, chính là các người, đó là tờ báo của các người, bây giờ thì chẳng còn gì để mà cứu vớt cả.
“Phải, Slottern và bè lũ của ông ta sẵn sàng quay lại ngay lập tức, tất cả những gì họ đòi hỏi chỉ là chúng ta phải chấp nhận những yêu cầu của công đoàn, và họ sẽ ký lại hợp đồng, theo những điều khoản cũ, thậm chí không cần phải đợi ông khôi phục lại số lượng phát hành báo như trước – việc này theo tôi sẽ mất khá nhiều công sức đấy, ông bạn ạ – và tôi nghĩ họ đối xử như thế là rất rộng lượng với chúng ta. Hôm qua tôi nói chuyện với Homer và ông ta đã hứa với tôi – Wynand, ông có biết vụ này tốn bao nhiêu tiền không, hay là ông biết mà không cần tôi nói?”
“Không, thượng nghị sĩ Eldridge không muốn gặp ông… Dào, bỏ qua đi, Gail, chúng tôi biết là ông đã bay đến Washington tuần trước. Có điều ông không biết là thượng nghị sĩ Eldridge hứa sẽ không đụng tay vào vụ này, thậm chí có đụng tay qua một cái sào dài cũng không. Và sếp Craig tự nhiên bị gọi đột xuất đi Florida, đúng không? – để đến thăm một bà cô bị ốm ư? Không ai trong số họ sẽ giúp ông trong vụ này, Gail. Đây không phải là một hợp đồng làm đường hay là một vụ lừa đảo mệnh giá cổ phiếu nho nhỏ. Và ông không còn là ông hồi trước nữa.”
Wynand nghĩ: Ta chưa từng có “hồi trước”, ta chưa từng thuộc về đây, tại sao các người lại sợ không dám nhìn vào mặt ta? Các người không biết ta là kẻ yếu nhất trong số các người à? Những người phụ nữ Những phụ nữ khoả thân nửa người trong tờ phụ trương Chủ nhật, những đứa bé trong mục tranh tự in, những bài xã luận về những con sóc ở công viên – chúng là biểu hiện của linh hồn các người, chúng trực tiếp từ linh hồn các người mà ra – còn linh hồn của ta thì ở đâu?
“Quỷ tha ma bắt tôi đi nếu tôi có thể hiểu được chuyện này. Nào, nếu như họ đòi tăng lương, như thế thì tôi còn hiểu được; thế thì tôi sẽ bảo chúng ta hãy chiến đấu với bọn vô lại đấy đến cùng. Nhưng cái gì thế này – một vấn đề tri thức trời đánh thánh vật nào đó ư? Chẳng nhẽ chúng ta trắng tay chỉ vì những nguyên tắc trừu tượng hay là cái quái gì tương tự thế sao?”
“Ông không hiểu à? Tờ Ngọn cờ bây giờ đã trở thành một tờ báo nhà thờ. Ông Gail Wynand trở thành người truyền giáo. Chúng ta có thể chả có xu nào, nhưng chúng ta lại có lý tưởng.”
“Nào, nếu như đó là một vấn đề thực sự, một vấn đề chính trị thì đã đành – đằng này chỉ là chuyện một thằng khùng cho nổ tung một khu dở hơi! Mọi người đang cười vào mũi chúng ta. Nói thật nhé, Wynand, tôi đã cố đọc các bài xã luận của ông và nếu ông cần ý kiến trung thực của tôi thì đó là thứ tệ nhất từng được lên báo. Ông nghĩ là ông đang viết bài cho các giáo sư đại học à?!”
Wynand nghĩ: Ta biết ngươi – ngươi là kẻ sẵn sàng bỏ tiền ột con điếm chửa hoang còn hơn là ột thiên tài đang chết đói – ta đã nhìn thấy ngươi ở đâu đó – ta đã nhặt ngươi lên và đem ngươi đến đây – khi gặp khó khăn trong công việc của các anh, hãy nhớ tới gương mặt của người đàn ông đó, nhớ rằng các anh đang viết cho ông ta đọc – nhưng, ngài Wynand, làm sao có thể nhớ được mặt ông ta – có thể đấy, cậu bé, có thể nhớ được đấy, cái mặt ấy sẽ trở lại để nhắc anh phải nhớ – nó sẽ quay trở lại và đòi được trả nợ – và ta sẽ trả – ta đã ký một tờ séc trắng từ lâu và bây giờ nó xuất hiện để đòi nợ – nhưng một cái séc trắng sẽ luôn ghi tất cả những gì mà ta có.
“Vụ việc này cũng mông muội như thời Trung cổ và là sự sỉ nhục với nền dân chủ.” Một giọng nói khác than vãn. Đó là giọng của Mitchell Layton. “Đã đến lúc những người khác phải có quyền lên tiếng ở đây. Một người điều hành tất cả các tờ báo theo ý thích của ông ta – thế là thế nào, chúng ta đang ở thế kỷ mười chín à?” Layton bĩu môi; anh đảo mắt về hướng một ông chủ ngân hàng bên kia bàn. “Đã có ai thèm hỏi ý kiến của tôi chưa? Tôi cũng có ý kiến chứ? Tất cả chúng ta đều có cả đống ý tưởng. Ý của tôi là phải cùng làm việc, như một dàn nhạc giao hưởng lớn. Đã đến lúc tờ báo này phải có một đường lối hiện đại, tự do và tiến bộ! Ví dụ, về vấn đề thuê đất của nông dân…”
“Câm miệng đi, Mitch,” Alvah Scarret nói, những giọt mồ hôi chảy dọc theo hai bên thái dương ông; ông không hiểu tại sao; nhưng ông muốn ban giám đốc giành được phần thắng; có cái gì đó ở trong phòng… ở đây quá nóng bức, ông nghĩ, giá ai đó mở cửa sổ ra thì tốt.
“Tôi sẽ không câm miệng lại!” Mitchell Layton gào lên. “Tôi giỏi chả kém gì…”
“Thôi nào, cậu Layton,” ông chủ nhà băng nói.
“Được thôi,” Layton đáp lời, “được thôi. Đừng quên đằng sau Ngài Siêu Nhân thì ai là người giữ nhiều cổ phiếu nhất ở đây.” Anh ta vẩy ngón cái về phía Wynand, nhưng không dám nhìn vào ông. “Đừng quên điều đó. Hãy đoán xem ai sẽ là chủ ở đây.”
“Gail,” Alvah Scarret vừa nói vừa nhìn elen Wynand, cặp mắt của ông chân thành và đau khổ kỳ lạ. “Gail, chẳng ích gì đâu. Nhưng chúng ta vẫn có thể cứu vãn được tình thế. Hãy xem, chỉ cần chúng ta thừa nhận rằng chúng ta đã nhầm về vụ Cortlandt và… nhận Harding trở lại làm việc, ông ấy là một người có giá trị, và… có thể cả Toohey…”
“Không ai được phép nhắc đến tên Toohey trong buổi họp này,” Wynand nói.
Mitchell Layton há miệng ra rồi khép miệng lại.
“Đúng rồi! Gail!” Alvah Scarret kêu lên. “Tuyệt vời! Chúng ta có thể thương lượng và đưa ra một đề nghị đối với bọn họ. Chúng ta sẽ đảo ngược quan điểm về vụ Cortlandt – đó là việc chúng ta phải làm, không phải là vì cái công đoàn chết tiệt, mà là vì chúng ta phải khôi phục lượng phát hành như trước, Gail – như vậy chúng ta sẽ đề nghị với họ như thế và chúng ta sẽ nhận Harding, Alien và Frank quay lại làm việc, nhưng không có To… không có Ellsworth. Chúng ta nhượng bộ và họ cũng nhượng bộ. Ai cũng giữ được thể diện. Được không, Gail?”
Wynand không nói gì.
“Tôi cũng nghĩ thế, ông Scarret,” ông chủ nhà băng nói. “Tôi nghĩ đó là giải pháp. Kiểu gì thì ông Wynand cũng phải được phép giữ uy tín ình. Chúng ta có thể hy sinh… một cây bút để có thể giữ hòa khí.”
“Tôi không hiểu!” Mitchell Layton thét lên. “Tôi không hiểu một chút nào cả. Tại sao chúng ta phải hy sinh ông… một nhà tự do vĩ đại, chỉ vì…”
“Tôi đồng ý với ông Scarret” – người lúc trước nói về mấy viên thượng nghị sĩ bây giờ lên tiếng. Những người khác cũng cất giọng phụ họa. Một người khác, người lúc trước đã chỉ trích những bài xã luận bây giờ nói át những tiếng ồn xung quanh: “Tôi nghĩ ngài Gail Wynand là ông chủ tuyệt vời!” Mitchell Layton ra dấu phản đối nhưng ông ta lờ đi. Ông ta nhìn về phía Wynand với hy vọng được bảo vệ. Nhưng Wynand không để ý đến ông ta.
“Gail?” Scarret hỏi. “Gail, ý ông thế nào?”
Không có câu trả lời.
“Quỷ tha ma bắt, Wynand, bây giờ hoặc không bao giờ! Không thể để tiếp tục tình trạng này được!”
“Ông quyết định đi hoặc là để người khác quyết định!”
“Tôi sẽ mua đứt cổ phần của ông!” Layton gào lên. “Muốn bán không? Muốn bán và bỏ chạy không?”
“Vì chúa, Wynand, đừng có ngốc như vậy!”
“Gail, đó là tờ Ngọn cờ… ” Scarret thì thầm. “Đó là tờ Ngọn cờ của chúng ta…”
“Chúng tôi sẽ luôn đứng về phía ông, Gail, tất cả chúng tôi sẽ tham gia, chúng ta sẽ cùng kéo tờ báo trở lại vị trí cũ, chúng tôi sẽ làm những gì ông muốn, ông sẽ là ông chủ của chúng tôi – nhưng vì chúa, hãy xử sự như một ông chủ đi, ngay bây giờ!”
“Trật tự nào, thưa các vị, hãy trật tự! Wynand, đây là quyết định cuối cùng: chúng ta sẽ thay đổi quan điểm về vụ Cortlandt, chúng ta sẽ cho Harding, Alien và Falk quay lại làm việc, và chúng ta sẽ cứu vãn được tình thế. Đồng ý hay không?”
Không có câu trả lời nào.
“Wynand, ông biết chỉ có giải pháp đó – hoặc là ông phải đóng cửa tờ Ngọn cờ. Ông không thể giữ nó lại, ngay cả khi ông mua đứt cổ phiếu của chúng tôi. Nhượng bộ hoặc là đóng cửa tờ Ngọn cờ. Tốt nhất là ông nên nhượng bộ.”
Wynand đã nghe thấy câu trả lời. Ông đã nghe thấy nó trong tất cả các bài phát biểu. Ông đã nghe thấy nó nhiều ngày trước buổi họp này. Ông biết rõ nó hơn bất cứ người nào ở đây. Câu trả lời là: Đóng cửa tờ Ngọn cờ.
Ông nhìn thấy một hình ảnh duy nhất: bảng tên hiệu mới được dựng lên trên cửa tòa soạn tờ Gazette.
“Ông nên nhượng bộ.”
Ông lùi lại một bước. Đằng sau ông không phải là một bức tượng. Chỉ là tay vịn chiếc ghế của ông.
Ông nghĩ đến cái khoảnh khắc trong phòng ngủ của ông, khi ông đã suýt kéo cò súng. Ông biết là bây giờ ông đang làm điều đó.
“Được rồi,” ông nói.
*
* *
Đó chỉ là một cái nắp chai, Wynand nghĩ khi nhìn xuống đốm sáng dưới chân; một cái nắp chai đã ăn sâu xuống vỉa hè. Có rất nhiều những thứ như vậy trên đường phố New York – những cái nắp chai, những cái ghim, những cái huy hiệu vận động bầu cử, những dây xích trong bồn rửa; thỉnh thoảng còn có những đồ trang sức đánh rơi – bây giờ tất cả chúng đều như nhau, phẳng lì, ăn sâu vào mặt đất; nó làm cho vỉa hè trở nên lấp lánh vào ban đêm. Đó là phân bón cho thành phố. Ai đó đã uống cạn nước trong chai và ném nắp chai đi. Đã có bao nhiêu ô-tô cán lên cái nắp chai đó? Có ai có thể dứt được nó ra khỏi lòng đường? Có ai có thể quỳ xuống, dùng tay trần để bới và dứt nó ra được không? Ta không có quyền hy vọng chạy thoát. Ta không có quyền được quỳ xuống và tìm kiếm sự cứu rỗi. Hàng triệu năm trước, khi trái đất đang được sinh ra, đã có những sinh vật sống như ta: những con ruồi bị sa vào nhựa cây để trở thành hổ phách, những động vật bị ngập trong bùn để trở thành hóa thạch. Ta là một con người trong thế kỷ hai mươi và ta đã trở thành một mẩu thiếc nằm dưới lòng đường, để cho các xe tải của New York cán lên.
Ông đi chậm, cổ áo khoác ngoài dựng lên. Đường phố trải dài trước mặt ông, trống rỗng, và những tòa nhà ở phía trước trông như những gáy sách xếp trên giá không theo một thứ tự nào, đủ mọi kích cỡ. Góc phố mà ông vừa qua dẫn tới những con kênh màu đen; những ngọn đèn đường tạo nên cái vỏ bảo vệ bên ngoài cho thành phố, nhưng thi thoảng lại có những điểm vỡ. Ông rẽ vào một góc phố khi ông nhìn thấy có một tia sáng chiếu xiên ở phía trước; nó ở cách ông khoảng ba đến bốn con đường.
Ánh đèn chiếu ra từ cửa sổ bày hàng của một tiệm cầm đồ. Tiệm đã đóng cửa nhưng một ngọn đèn sáng chói được treo trong khung kính để đề phòng những kẻ cướp cùng quẫn. Ông dừng lại và nhìn vào khung kính. Ông nghĩ, đó là một cảnh khiếm nhã nhất trái đất – cửa sổ bày hàng của một tiệm cầm đồ. Những thứ vốn là thiêng liêng đối với con người, và những thứ vốn quý giá đều bị phơi bày ở đây, để bị vầy vò và mặc cả, để trở thành những thứ vô giá trị dưới cặp mắt dửng dưng của những người lạ, để nằm chung với một mớ đồ hổ lốn; những cái máy chữ và đàn violin – công cụ của những giấc mơ; những bức ảnh cũ và những cái nhẫn cưới – dấu hiệu của tình yêu; tất cả nằm chung với những cái quần dài bẩn thỉu, với bình pha cà phê, với gạt tàn thuốc lá, với tượng lõa thể bằng thạch cao; tất cả chúng đã bị bỏ đi trong tuyệt vọng, bị mang đi cầm cố – không phải mang bán đứt, không phải hoàn toàn phủi tay dứt hẳn ra mà được đem cầm cố. Người ta đã hy vọng sẽ chuộc lại chúng, nhưng đấy là một niềm hy vọng đã chết từ trong trứng và những đồ vật không bao giờ được chuộc lại. “Chào Gail Wynand,” ông nói như thế đối với những đồ vật bên trong cửa kính, và rảo bước.