Sứ giả của Thần Chết

Chương 16 - Phần 02


Bạn đang đọc Sứ giả của Thần Chết: Chương 16 – Phần 02


Đường dây im bặt.
Chàng quay số của một người bạn tại Bộ Ngoại giao. Khi nhân viên tổng đài thông đường dây cho chàng, chàng lên tiếng:
– Alô, Alfred?
– Benjie? Nấu nướng gì đấy?
– Lâu thật. Tôi nghĩ rằng mình có thể cùng nhau ăn trưa đấy!
– Tốt. Bạn có đề tài gì đấy?
– Tại sao không để đến lúc gặp anh hãy nói?
– Khá hay. Lịch của tôi hôm nay khá nhẹ đấy. Anh có muốn gặp tôi tại Watergate không?
Ben Cohn lưỡng lự.
– Tại sao chúng ta không đề cập chuyện ấy ở Regina tại Silver Spirings nhỉ?
– Chỗ ấy hơi hẻo lánh một tí, phải không?
– Ừ,- Ben nói, dừng lại một tí. – Tôi biết rồi.
– Một giờ chứ?
– Tốt!
Ben Cohn ngồi ở chiếc bàn trong góc khi người khách của chàng, Alfred Shuttleworth, đến chủ nhà, Tony Sergio, mời chàng ngồi.
– Các bạn thích uống rượu không?
Shuttleworth gọi một ly Martini.
– Tôi chẳng uống gì cả, – Ben Cohn nói.
Alfred Shuttleworth là một người trung niên trông vàng bủng làm việc tại Vụ châu Âu của Bộ Ngoại giao. Ít năm trước, chàng đã dính líu vào một tai nạn lái xe trong lúc say nên Ben Cohn phải đảm nhiệm tờ báo của chàng. Nghề nghiệp của chàng bị đe doạ. Cohn đã bưng bít câu chuyện và Shuttleworth đã cảm kích chàng bằng cách thỉnh thoảng cho chàng những mẩu tin.
– Tôi cần sự giúp đỡ của bạn, Al ạ.
– Nói ra đi và bạn sẽ được.
– Tôi muốn có tin tức nội bộ về tân đại sứ của chúng ta tại Rumani?
Alfred Shuttleworth cau mày.
– Bạn muốn nói gì?
– Có ba người gọi tôi bảo rằng đêm qua tại Toà đại sứ Rumani, bà ấy thực chai đá đến nỗi đã làm trò bỉ ổi trước mặt những nhân vật danh tiếng của Washington đấy. Bạn có đọc báo sáng nay hoặc những ấn phẩm trước của báo buổi chiều không?
– Có. Họ đề cập đến bữa tiệc tại toà đại sứ, nhưng chẳng đề cập gì đến Mary Ashley cả.
– Đúng đấy. Tin bạc đấy.
– Xin lỗi.
– Sherloek Holmes: Con chó ấy không chịu sủa. Nó im lặng. Báo chí cũng vậy. Tại sao những tay viết cột lượm lặt lại bỏ qua một câu chuyện hay ho như thế nhỉ? Có ai đấy đã bưng bít câu chuyện. Một người nào đấy quan trọng. Nếu có một nhân vật quan trọng nào khác công khai tự làm nhục mình, có lẽ báo chí sẽ được một ngày lễ hội của La Mã đấy.
– Việc ấy không cần thiết phải làm theo, Ben ạ.

– A, có một cô bé Lọ Lem đến từ đâu không biết, được chiếc đũa thần của Tổng thống chạm đến và bỗng biến thành Grace Kelly. Công chúa Di Jacqueline Kennedy cuộn lại thành một. Bây giờ tôi phải công nhận bà ấy đẹp, nhưng bà ấy không đến nỗi xinh đẹp như thế. Bà ấy xuất sắc, nhưng không đến nỗi xuất sắc như thế. Theo ý kiến thô thiển của tôi, việc giảng dạy một lớp ở khoa chính trị tại Trường đại học tiểu bang Kansas không hẳn tạo đủ điều kiện cho bất cứ ai làm đại sứ, tại một trong những điểm nóng hổi của thế giới như thế.
– Tôi sẽ cho bạn biết một điều vô trật tự khác. Tôi đã bay đến thị trấn Junction và nói chuyện với vị cảnh sát trưởng ở đấy.
Alfred Shuttleworth nốc cạn ly Martini còn lại.
– Tôi nghĩ rằng tôi muốn uống một ly Martini nữa. Bạn làm cho tôi lo âu đấy.
– Hãy đến câu lạc bộ. – Ben Cohn gọi một ly Martini.
– Tiếp tục đi, – Shuttleworth nói.
– Bà Ashley không nhận lời Tổng thống vì chồng bà ấy không thể bỏ công việc thực nghiệm y khoa của ông ấy. Rồi ông ta bị giết trong một tai nạn ôtô thích hợp. Thế là người phụ nữ có mặt tại Washington trên đường đi Bucarest. Đúng là có ai đấy đã xếp đặt kế hoạch ngay từ đầu.
– Một người nào đấy à? Ai thế?
– Đấy là một câu hỏi lớn!
– Ben à, anh đề nghị gì đấy?
– Tôi chẳng đề nghị gì cả. Để tôi cho anh biết Cảnh sát trưởng Munster đã đề nghị gì. Ông ta nghĩ rằng thật là đặc biệt vì có nửa chục nhân chứng lộ diện từ đâu không rõ giữa đêm đông giá lạnh, chỉ đúng lúc để chứng kiến tai nạn. Và anh còn muốn nghe một điều còn đặc biệt hơn không?
Tất cả bọn họ đều biến mất cả. Từng người một.
– Tiếp tục đi.
– Tôi đã đến pháo đài Riley để nói chuyện với tài xế xe tải quân đội đã giết chết bác sĩ Ashley.
– Và ông ta có gì để nói?
– Không nhiều đâu. Ông ta đã chết. Lên cơn đau tim. Hai mươi bảy tuổi.
Shuttleworth đang nghịch với đế ly của mình.
– Tôi cho rằng còn nữa phải không?
– Ồ vâng. Còn nữa. Tôi đến văn phòng CID tại pháo đài Riley để phỏng vấn đại tá Jenkins, vị sĩ quan phụ trách điều tra quân đội cũng là một trong những nhân chứng của tai nạn. Vị đại tá không còn ở đấy. Ông ta đã được thăng cấp và thuyên chuyển đi. Bây giờ ông ta là thiếu tướng ở đâu đấy tại hải ngoại. Hình như chẳng ai biết ở đâu cả!
Alfred Shuttleworth lắc đầu.
– Ben, tôi biết bạn là một phóng viên đại tài, nhưng tôi thực tâm nghĩ rằng lần này bạn mất dấu rồi đấy. Bạn đang xây dựng một ít sự kiện trùng hợp vào một phim truyện Hitcock đấy. Người ta vẫn bị chết vì các tai nạn ô tô. Người ta vẫn bị lên cơn đau tim và các sĩ quan vẫn được thăng cấp. Bạn đang tìm một loại âm mưu nào đấy ở nơi mà chẳng có gì cả.
– Al, bạn có nghe đến một tổ chức gọi là “Các nhà yêu nước vì tự do” không?
– Không. Cái gì đấy giống như DAR à?
Ben Cohn điềm tĩnh nói:
– Chẳng giống DAR chút nào cả. Tôi vẫn nghe tin đồn đại, nhưng tôi chẳng xác định được gì cả.
– Loại tin đồn nào thế?
– Nó được xem là một phe đảng của cánh hữu cấp cao và những người cuồng tín cánh tả từ hàng chục quốc gia phương Đông và phương Tây. Lý tưởng của họ đối lập hoàn toàn, nhưng điều đã đưa họ lại gần với nhau là sự sợ hãi. Các phần tử Cộng sản nghĩ rằng kế hoạch của Tổng thống Ellison là một trò của khối tư bản nhằm tiêu diệt khối Đông Âu Những người cánh hữu tin rằng kế hoạch của ngài sẽ là một cánh cửa mở để cho cộng sản tiêu diệt chúng ta. Do đó, họ đã thành lập cái liên minh xấu xa này.
– Chúa ơi! Tôi không tin!
– Còn nữa. Ngoài những nhân vật quan trọng người ta bảo rằng nhiều nhóm nhỏ của các cơ quan an ninh của các quốc gia khác nhau cũng dính líu vào. Bạn có nghĩ rằng bạn có thể phối kiểm lại giùm tôi được không?
– Tôi không biết. Tôi sẽ cố gắng.
– Tôi đề nghị bạn làm việc ấy một cách kín đáo nhé. Nếu tổ chức ấy có thực, họ sẽ không mừng run để cho bất cứ ai chõ mũi vào đâu!

– Tôi sẽ bàn lại với bạn sau, Ben.
– Cám ơn. Hãy gọi bữa ăn trưa nhé.
Món mỳ ống chiên giòn ngon tuyệt.
***
Alfred Shuttleworth hoài nghi về lý thuyết của Ben Cohn. Các phóng viên hay tìm những khía cạnh giật gân; Shuttleworth nghĩ thế. Chàng thích Ben Cohn, nhưng Shuttleworth chẳng có ý kiến gì về cách dò la về một tổ chức thần bí khả dĩ có được cả. Nếu nó có thực sự, nó sẽ có trong một chiếc máy điện toán nào đấy của chính phủ. Bản thân chàng không thể đến gần các máy điện toán được “Nhưng mình biết có người”, Alfred Shuttleworth nhớ lại. – Mình sẽ gọi ông ta.
Alfred Shuttìeworth đang uống ly Martini thứ hai thì Peter Connors bước vào quán rượu.
– Xin lỗi tôi đến trễ, – Connors bảo: “Một vấn đề nhỏ tại hãng nước chấm!”
Peter Connors gọi một ly Scoth và Shuttleworth một ly Martini khác.
Hai người đã gặp nhau vì bạn gái của Connors và vợ của Shuttleworth đã làm việc cùng hãng và kết bạn với nhau. Connors và Shuttleworth hoàn toàn đối nghịch, một người can dự vào những trò chơi điệp báo chết người và người kia làm việc như một quan lại bàn giấy. Tính cách khác biệt nhau ấy đã làm họ thích thú khi kết bạn với nhau, và thỉnh thoảng họ trao đổi cho nhau những tin tức hữu ích. Lần đầu tiên khi Shuttleworth gặp ông ta, Peter Connors là một người bạn vui tính và hấp dẫn. Ở đâu đấy suốt chặng đường, có một điều gì đấy đã làm ông ta trở nên gắt gỏng. Ông ta đã trở thành một người phản động cay cú hơn.
Shuttleworth hớp ly Martini của chàng.
– Peter. Tôi nhờ bạn một việc đặc biệt. Bạn có thể xem giùm tôi một điều trong máy điện toán của CIA không? Có lẽ không có ở đấy, nhưng tôi đã hứa với một người bạn rằng tôi sẽ cố gắng.
Connors cười thầm.
– Tên khốn khổ này có lẽ muốn tìm xem có ai đấy nện vợ hắn không.
– Được. Tôi có nợ bạn một ít. Bạn muốn biết về ai?
– Đấy không phải là ai, đấy là cái gì đấy. Và có lẽ nó cũng không có. Đấy là một tổ chức gọi là “Các nhà yêu nước vì tự do”. Bạn đã nghe đến chỗ nó chưa?
Peter Connors cẩn thận đặt ly rượu xuống.
– Tôi không thể nói rằng tôi biết, Al ạ. Bạn của bạn tên gì?
– Ben Cohn. Anh ấy là một phóng viên của tờ Post.
***
Sáng hôm sau, Ben Cohn đi đến quyết định.
Chàng bảo Akiko.
– Hoặc là anh nắm được câu chuyện của thế kỷ, hoặc anh chẳng có gì cả. Đây là lúc anh đã tìm ra!
– Cám ơn Chúa! – Akiko reo lên. – Arthur sẽ rất sung sướng đấy?
Ben Cohn gọi Mary Ashley tại văn phòng nàng.
– Chào Đại sứ. Ben Cohn. Bà nhớ tôi không?
– Vâng, ông Cohn. Ông đã viết câu chuyện ấy chưa?
– Thưa bà Đại sứ, đấy là điều tôi đến thăm bà đấy Tôi đã đến thị trấn Junction và nhặt được một số tin mà tôi nghĩ rằng bà sẽ quan tâm đến.
– Loại tin tức nào thế?
– Tôi không thích nói chuyện ấy qua điện thoại.
– Tôi không biết liệu chúng ta có thể gặp nhau đâu đấy không?

– Tôi có cả một thời khoá biểu thực khôi hài. Để tôi xem. Tôi rảnh được nửa giờ sáng thứ sáu, được không?
– Qua ba ngày! Tôi đoán là có thể đợi đến lúc đó.
– Ông có muốn đến văn phòng tôi không?
– Có một quầy cà phê tầng dưới trong toà nhà của bà. Tại sao chúng ta không gặp nhau ở đấy?
– Được rồi, tôi sẽ gặp ông vào thứ sáu.
Họ chào nhau và gác máy. Một lúc sau, có tiếng clic thứ ba trên đường dây.
***
Chẳng có cách nào để tiếp xúc trực tiếp vớỉ ngài chủ sự cả. Ông ta đã tổ chức và hỗ trợ cho tổ chức “Các nhà yêu nước vì tự do”, nhưng ông ta không bao giờ dự các buổi họp và ông ta hoàn toàn nặc danh. Ông ta là một số điện thoại – không thể tìm ra được (Connors đã cố gắng) – và một máy ghi bảo rằng, – Bạn có sáu mươi giây để chuyển công điện. – Số ấy chỉ được dùng trong những trường hợp khẩn cấp. Connors dừng lại tại một phòng điện thoại công cộng để gọi. Ông ta dùng đến máy ghi. Bức điện được nhận lúc 6 giờ tối. Tại Buenos Aires lúc ấy 8 giờ tối.
– Vị chủ sự nghe bức điện hai lần, rồi quay một số ông đợi đến ba phút mới nghe giọng của Neusa Munez trên máy.
– Vâng! Vị chủ sự lên tiếng, – Đây là người đã dàn xếp với cô trước kia về Angel. Tôi có một hợp đồng khác với ông ấy. Cô có thể tiếp xúc ngay với ông ấy không?
– Tôi không biết. – Nàng có vẻ say.
Ông cố kìm lại sự sốt ruột trong giọng nói của mình.
– Khi nào cô hy vọng được tin anh ấy?
– Tôi không biết.
– Con mụ quỷ quái thật. – Hãy nghe tôi đây.
Ông nói từ từ và thận trọng, dường như đang nói với một đứa bé. – Hãy bảo Angel rằng tôi cần làm ngay việc này. Tôi muốn ông ấy…
– Chờ một phút. Tôi phải đi cầu…
Ông nghe nàng bỏ điện thoại xuống. Vị chủ sự ngồi đấy, đầy thất vọng.
Ba phút sau, nàng trở lại đường dây.
– Uống nhiều bia làm mắc tiểu đấy. – Nàng lên tiếng.
Ông nghiến răng.
– Điều này rất quan trọng.
Ông ngại nàng sẽ chẳng còn nhớ gì cả.
– Tôi muốn cô lấy bút chì viết lại. Tôi sẽ nói từ từ.
***
Tối hôm ấy, Mary tham dự một bữa tiệc do Toà đại sứ Canada tổ chức. Lúc nàng rời văn phòng về nhà thay đồ, James Stickley nói:
– Tôi muốn đề nghị lần này bà sẽ nhấm các ly rượu chúc mừng!
Ông ta và Mike Slade là một cặp bài trùng tuyệt vời.
Bây giờ nàng đến dự tiệc và nàng mong được thoải mái với Beth và Tim. Những khuôn mặt ở bàn, nàng đều không quen. Bên phải nàng là một tay trùm tàu bè Hy Lạp. Bên trái nàng là một nhà ngoại giao Anh.
Một nhà tai mắt Philadelphia đeo đầy kim cương; bảo Mary.
– Thưa bà Đại sứ, bà thích Washington chứ?
– Rất nhiều, cám ơn bà.
– Có lẽ bà sung sướng run vì đã thoát khỏi Kansas của bà đấy!
Mary nhìn bà ta không hiểu.
– Thoát khỏi Kansas à?
Người phụ nữ tiếp tục nói:

– Tôi chưa bao giờ đến Trung Mỹ cả, nhưng tôi tưởng tượng có lẽ nó kinh khủng đấy. Tất cả những nông gia ấy và chẳng có gì cả ngoài những cánh đồng bắp và lúa mì ảm đạm. Thật là ngạc nhiên vì bà có thể chịu đựng lâu thật đấy.
Mary cảm thấy một cơn giận đang dâng lên, nhưng nàng tự chủ được giọng nói. – Bắp và lúa mì mà bà đang đề cập đến – nàng lịch sự bảo “Nuôi thế giới đấy”.
Người phụ nữ lên giọng kẻ cả.
– Xe cộ chúng ta chạy bằng xăng, nhưng tôi không muốn sống trong những vùng có dầu. Nói một cách văn chương, người ta phải sống tại Phương Đông, phải không? Bây giờ hoàn toàn đúng đắn – tại Kansas, trừ phi người ta phải ra đồng gặt hái cả ngày, thực sự chẳng có gì để làm cả phải không?
Những người khác ở bàn đều lắng nghe kỹ.
Thực sự chẳng có gì để làm cả, phải không?
Mary nghĩ đến những chuyến xe chở cỏ khô tháng 8, những phiên chợ trong thành phố, và những bi kịch cổ điển thú vị tại rạp hát của Trường đại học. Những buổi cắm trại Chủ Nhật tại công viên Milford, các cuộc thi đấu banh mềm và những cuộc câu cá trong hồ trong vắt. Ban nhạc chơi trên sân cỏ, các cuộc họp mặt trong sảnh đường thành phố, các bữa tiệc tập thể, các cuộc khiêu vũ đồng quê và niềm phấn khởi lúc gặt hái… những chuyến xe trượt tuyết và những đợt pháo bông ngày 4 tháng 7 sáng rực bầu trời Kansas êm ả.
Mary bảo người phụ nữ.
– Nếu bà thực sự chưa bao giờ đến Trung Mỹ bà thực sự không biết điều bà đang nói! Vì đấy là điều cả đất nước này cần đến. Nước Mỹ không phải là Washington, Los Angeles hoặc New York. Chính hàng nghìn những thành phố nhỏ mà bà chưa từng thấy hoặc nghe đến đã làm cho đất nước này vĩ đại. Đấy là những người thợ mỏ, những nông dân và những công nhân quần áo bẩn thỉu. Và vâng, tại Kansas chúng tôi có vũ kịch, nhạc giao hưởng và sân khấu. Và, để bà mở kiến thức, chúng tôi còn trồng nhiều thứ hơn cả bắp và lúa mì – chúng tôi trồng những con người trung tín với Thượng Đế.
***
– Bà biết rằng, dĩ nhiên, bà đã làm nhục em gái của một thượng nghị sĩ rất quan trọng đấy! – James Stickley cho Mary biết sáng hôm sau.
– Chưa đủ đâu. – Mary thách thức nói. – Chưa đủ đâu.
***
Sáng thứ năm Angel khó ở, chuyến bay từ Buenos Aires đến Washington DC phải hoãn lại vì một cú điện thoại đe doạ như bom nổ.
Cuộc đời không còn an toàn nữa, – Angel suy nghĩ một cách giạn dữ. Phòng khách sạn đã đăng ký trước tại Washington cũng quá hiện đại nữa – từ ấy là gì nhỉ “Plastic. Đúng là nó”. Tại Buenos Aires, mọi việc đều là “Autentico” cả.
Mình sẽ hoàn tất hợp đồng này và trở về nhà. Công việc đơn giản hầu như là một điều nhục mạ cho tài năng của mình. Nhưng tiền bạc tuyệt vời.
Đêm nay mình sẽ được bù khú. Mình không biết tại sao sự giết chóc làm mình cứ cương cứng lên. Lần dừng lại đầu tiên của Angel là ở một cửa hàng phụ tùng điện, rồi một tiệm sơn và cuối cùng là một siêu thị, nơi Angel chỉ mua sáu bóng đèn.
Thiết bị còn lại đang đợi trong phòng khách sạn hai thùng dán kín ghi “Dễ vỡ – Nhẹ tay”. Bên trong chiếc thùng thứ nhất là bốn quả lựu đạn tay sơn màu xanh quân đội. Trong thùng thứ hai là dụng cụ hàn.
Bằng cách làm việc thật chậm chạp, thật thận trọng, Angel cắt phần trên của quả lựu đạn thứ nhất ra rồi sơn phần đáy cùng màu với bóng đèn.
Bước kế tiếp là lấy thuốc nổ ra và thay bằng một loại chất nổ cực mạnh. Khi nó được nhét chặt vào, Angel thêm vào đấy những mảnh chì và kim loại.
Angel đập một bóng đèn vào bàn, giữ lại dây tóc và đế tim đèn. Chỉ mất không đầy một phút để hàn dây tóc của bóng đèn vào một ngòi nổ điện. Bước cuối cùng là nhét sợi dây tóc vào một chất đệm để giữ cho nó vững và rồi đặt nhẹ nó vào bên trong quả lựu đạn đã sơn. Khi Angel hoàn tất, nó trông y như một bóng đèn bình thường.
Angel bắt đầu làm đến các bóng đèn còn lại. Sau đấy, chẳng còn gì khác để làm ngoài việc chờ đợi một cú điện thoại.
Điện thoại reo lúc 8 giờ buổi chiều ấy. Angel nhấc điện thoại lên và lắng nghe, không nói gì cả.
Sau một lúc, một giọng bảo
– Hắn di rồi.
Angel gác ống nghe. Cẩn thận, thật cẩn thận bỏ cái bóng đèn vào một chiếc hộp nhồi vỏ bào và đặt vào một chiếc vali cùng với tất cả những mảnh vật liệu phế thải.
Chuyến taxi đến chung cư mất 17 phút.
Chẳng có người giữ cửa nào ở hành lang cả, nhưng nếu có, Angel đã chuẩn bị sẵn để đối phó.
Mục tiêu ở tầng năm. Phòng cuối của hành lang. Cái khoá là một cái Schlage kiểu xưa, rất đơn giản để sử dụng. Angel vào bên trong căn phòng chỉ trong vài giây, đứng im làng tai nghe. Chẳng có ai ở đấy cả Việc thay sáu cái bóng đèn trong phòng khách chỉ mất ít phút. Sau đấy, Angel hướng về sân bay Dulles để đáp chuyến bay nửa đêm về lại Buenos Aires.
***
Thật là một ngày dài cho Ben Cohn. Chàng đã theo dõi một cuộc họp báo vào buổi sáng do Bộ Trưởng Ngoại giao tổ chức, một bữa ăn trưa cho Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ về hưu, và đã được tường trình ngoài chương trình do một người bạn tại Bộ quốc phòng. Chàng đã về nhà tắm và thay đồ rồi lại đi ăn tối với một chủ bút lão thành của tờ Post. Khi chàng trở về toà chung cư cửa chàng trời đã gần nửa đêm.
– Mình phải chuẩn bị giấy tờ cho cuộc họp mặt với Đại sứ Ashley, ngày mai, – Ben nghĩ thế.
Akiko đã ra ngoài thành phố và chỉ trở về vào ngày mai. – Cũng thật đúng lúc. Mình có thể dùng phần thì giờ còn lại. Nhưng lạy Chúa – chàng bật cười nghĩ thế. – Người phụ nữ ấy chắc biết cách ăn một quả chuối nứt nẻ.
Chàng tra chìa vào ổ khoá và mở cửa. Căn phòng tối như mực. Chàng với tay lên công tắc đèn và ấn vào. Đột nhiên ánh sáng chớp loá và căn phòng nổ như một quả bom nguyên tử, tung toé những mảnh vụn của thân thể chàng vào bốn bức tường.
Ngày hôm sau, vợ của Alfred Shuttleworth báo cáo chàng mất tích. Không ai bao giờ tìm thấy chàng nữa.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.