Bạn đang đọc Sơn Hà Bất Dạ Thiên – Chương 162
Mai Thắng Trạch, tự Linh Phủ.
Mấy ngày trước, Mai Thắng Trạch và Vương Tiêu bị Dư Triều Sinh bắt giữ và áp giải về kinh.
Vụ việc này không rầm rộ nhưng cũng chẳng bị che đậy, nên đã nhanh chóng đến tai nhà họ Mai ở Bắc Trực Lệ.
Mai gia không phải dòng họ quyền quý lâu đời mà chỉ là nhà hương thân giàu có.
Tổ tiên Mai gia từng đỗ Tiến sĩ, sau này còn có thêm hai, ba Cử nhân.
Mai Thắng Trạch là Tiến sĩ thứ hai của dòng họ Mai.
Hiện giờ anh gặp nạn, gia đình bó tay không thể giúp đỡ, cực chẳng đã, cha Mai Thắng Trạch phải cầu cứu Đường Thận.
Cha Mai Thắng Trạch nức nở: “Đường đại nhân, thảo dân đâu dám quấy quả ngài.
Thực tình, thảo dân cùng đường mạt lộ rồi.
Giờ Linh Phủ gặp nạn, bị giam giữ ở đại lao bộ Hình, nhà họ Mai tôi tuy không bề thế gì cho cam, nhưng chưa bao giờ để cháu nó ăn đói mặc rách.
Tôi xin ngài đoái tới tình đồng song mà cứu Linh Phủ, thảo dân khấu đầu lạy ngài!”
Chưa nói dứt câu, cha Mai Thắng Trạch đã toan quỳ lạy tiếp.
Quan sai theo hầu Đường Thận là người lão luyện trong quan trường, có những câu Đường Thận không tiện nói, người này nhìn ánh mắt cậu là hiểu ý ngay.
Hắn đỡ lấy cánh tay người cha, nói: “Cụ ơi cụ làm gì thế này? Đây là nha môn bộ Công, cụ quỳ lạy Hữu thị lang đại nhân ở đây để ngày mai quan Ngự sự khiển trách ngài trên triều đình à?”
Cha Mai Thắng Trạch: “Chuyện này…”
Quan sai: “Mời cụ qua đây hẵng.”
Đường Thận khoan thai nói: “Bác à, xin bác cứ theo cháu về phủ trước.”
Tạm đưa ông cụ rời khỏi nha môn bộ Công, vừa về đến phủ Hữu thị lang, Đường Thận sai Phụng Bút bưng trà rót nước mời ông ngay.
Cậu ân cần nói: “Anh Linh Phủ vừa bị áp giải về kinh bốn ngày trước mà hôm nay bác đã đến, chắc dọc đường không kịp nghỉ ngơi mấy phải không?”
Mắt người cha cay xè: “Không dám dối đại nhân, thảo nhân làm sao chợp mắt nổi.”
Đường Thận thở dài.
Lần này Mai Thắng Trạch gặp nạn tuy không phải do cậu, nhưng cậu không hoàn toàn vô can.
Người mà Dư Triều Sinh muốn xử lí là Vương Trăn.
Vương Tiêu hay Mai Thắng Trạch cũng chỉ là phương tiện cho anh ta mà thôi.
Triều đại này không xử tử quan văn, nếu không có gì bất ngờ, nhiều khả năng Mai Thắng Trạch sẽ bị giáng xuống thành một viên Huyện lệnh túng bần ở vùng quê hẻo lánh hoang vu nào đó đến hết đời.
Còn tái phạm, anh phải chịu bãi quan về quê, không được trở lại quan trường nữa.
Đường Thận trịnh trọng nói: “Bác yên tâm đi, có cháu ở đây, anh Linh Phủ nhất định sẽ ổn thôi.”
Cha Mai Thắng Trạch nghe thế mới vững dạ.
Nhưng rồi nghĩ đến một chuyện, ông lại nơm nớp lo sợ, rối ruột rối gan: “Đại… đại nhân, giờ này Linh Phủ vẫn kẹt trong đại lao bộ Hình, điều kiện tù đày nào phải thứ người bình thường có thể chịu đựng.
Tôi van đại nhân cứu lấy Linh Phủ, ở trong ngục nó không sống nổi mất.”
Đường Thận vỗ nhẹ mu bàn tay ông: “Bác chớ lo âu, chuyện này cháu tự có cách, cháu không khoanh tay đứng nhìn đâu.”
Bấy giờ cha Mai Thắng Trạch mới thở phào nhẹ nhõm.
Không để Đường Thận kịp phản ứng, người cha đã quỳ phịch xuống, rập đầu1 côm cốp hai lần liền.
Ông toan rập đầu đến lần thứ ba thì Đường Thận vội vàng đỡ ông dậy.
“Đại nhân, ngài chính là đại ân nhân của họ Mai chúng tôi, là phụ mẫu tái sinh ra họ Mai chúng tôi.
Kiếp sau, già này xin làm trâu làm ngựa để báo đáp ngài!”
Đường Thận: “Bác làm thế này thì cháu tổn thọ mất.
Cháu với anh Linh Phủ là bạn đèn sách bao năm nay, cháu đâu thể thấy anh ấy mắc nạn mà không cứu giúp.
Bây giờ bác ở lại Thịnh Kinh cũng không ích gì, trước hết cứ về Bắc Trực Lệ đã.
Bao giờ sự tình có chuyển biến tốt, cháu sẽ báo cho bác ngay.”
Tiễn ông cụ về, nét mặt Đường Thận nặng trĩu.
Cậu gọi Phụng Bút: “Ngươi cầm thủ lệnh của ta đến bộ Hình, làm như vầy…”
Phụng Bút tuân lệnh, cầm thủ lệnh của Đường Thận đi ngay, nhưng chưa ra đến cửa thì Đường Thận đã ngăn lại.
“Thôi, ngươi có đi cũng chỉ công cốc.
Bộ Hình là sân nhà của Dư Triều Sinh, quan viên bộ Hình sẽ nghe y răm rắp, chẳng ai thèm nể mặt ta đâu.” Đường Thận suy nghĩ một thoáng rồi cũng nảy ra chủ ý, bèn thay xiêm áo, tranh thủ lúc mặt trời chưa lặn đi ngay sang phủ Thượng thư.
Vương Trăn đang ăn cơm trong nhà, thấy Đường Thận tới thì vui ra mặt, bèn đứng lên đón.
“Sao lại sang đây thế?”
Đường Thận tất tả chạy sang, trán lấm tấm mồ hôi vì đi vội.
Cậu không trả lời, chỉ nhìn Vương Trăn không chớp mắt.
Vương Trăn hiểu ý, ra lệnh: “Các ngươi lui xuống đi.”
Quản gia: “Vâng.”
Trong phòng khách chỉ còn hai người Vương Đường, Đường Thận không trì hoãn, đi thẳng vào đề: “Đại Tống không xử tử quan văn nhưng không cấm dùng nhục hình.
Ta biết bộ Hình và Đại lý tự có rất nhiều thủ đoạn bẩn thỉu để hành hạ người ta mà không để lại dấu vết.
Sư huynh, lúc trước Dư Triều Sinh không dám chủ quan nên đã dâng tấu để dò xét thực hư chuyện của huynh.
Hiện giờ y đã nắm được, nhất định sẽ xuống tay với Đại Nhạc và Thắng Trạch.”
Vương Trăn chẳng nói chẳng rằng, liếc Đường Thận một cái rồi lia mắt đi.
Chàng gắp con tôm bỏ vào bát cậu.
“Tiểu sư đệ ăn tôm này.”
Đường Thận sững người mất một lúc lâu, cậu không động đũa, cứ nhìn Vương Trăn.
Vương Trăn lại gắp thêm cho cậu miếng thịt và một con cua đồng.
Giờ đây Đường Thận đã trấn tĩnh hơn hẳn, cậu miên man suy nghĩ, cân nhắc hết thủ đoạn của Dư Triều Sinh, tình cảnh của Vương Tiêu, Mai Thắng Trạch và cả thái độ của Vương Trăn hiện giờ.
Đoạn Đường Thận thở dài đánh thượt, nói: “Sư huynh không phải người bạc tình bạc nghĩa.
Nếu có thể, sư huynh đã ra tay tương trợ từ lâu rồi, nhưng huynh có hai lí do để không làm thế.”
Vương Trăn: “Ồ? Hai lí do nào cơ?”
Đường Thận: “Một là hiện giờ sư huynh không tiện cứu họ ra.
Huynh vốn đã bị hàng vạn con mắt săm soi, nếu giúp đỡ, chỉ sợ sẽ thành mục tiêu cho người ta chỉ trích.
Hai là… có lẽ Vương Tiêu và Mai Thắng Trạch phải chịu khổ một chút thì sư huynh mới thoát thân được.
Mặc dù ta vẫn chưa nghĩ ra sư huynh định làm gì, nhưng ta cho rằng huynh có quyết định của riêng mình.”
Vương Trăn cười nhẹ, cầm đũa chỉ vào các món ăn, hỏi: “Tiểu sư đệ còn muốn ăn mấy món này không?”
Đường Thận bất lực nói: “Còn tâm trạng nào mà ăn cơm nữa.”
Vương Trăn để đũa xuống: “Tốt thôi, thế thì vào thư phòng với ta nào.
Em mài mực cho ta nhé.”
Mắt Đường Thận rực sáng: Rốt cuộc Vương Tử Phong chịu hành động rồi ư?
Cậu nhanh nhẹn đi theo chàng vào thư phòng, hết sức kiên nhẫn mài mực cho Vương Trăn.
Vương Tử Phong thong dong lấy một quyển tấu trắng từ trên giá sách xuống, đặt lên án thư.
Chàng giơ cây bút lông dê, nhưng chưa hạ xuống thì đã dừng tay lại.
Ngắm nghía một hồi, Vương Trăn lắc đầu cất quyển tấu đó đi, lựa quyển khác dày hơn.
Vương Trăn: “Cảnh Tắc, mài mực cho ta nào.”
Đường Thận rướn cổ nhìn.
Cây bút lông dê đầu mảnh lia vun vút, từng hàng chữ tiểu Khải thanh tao đẹp đẽ nối đuôi nhau trải kín mít trang tấu.
Vương Trăn múa bút nhanh thoăn thoắt nên Đường Thận đọc theo cũng liền mạch.
Nhưng xem một hồi, cậu bỗng biến sắc, thốt lên khe khẽ: “Thư thú tội?!”
Vương Trăn cười nhẹ tênh, tay vẫn viết lia lịa không dừng.
Chàng viết rất mau nhưng cũng rất nhiều.
Chừng nửa giờ sau thì Đường Thận đã thấm mệt.
Cậu mài mực cho chàng mỏi nhừ tay, vậy mà Vương Trăn vẫn chưa viết hết!
Nếu không tận mắt chứng kiến, chắc cả đời Đường Thận không nghĩ rằng Vương Tử Phong sẽ rút ruột rút gan viết một bức thư thú tội tâm huyết dài hơn vạn chữ!
Hầu hết những bản tấu viết đến hàng vạn chữ chỉ toàn lời văn hoa bóng bẩy, khóc gió than mưa.
Trái lại, Vương Tử Phong có thể viết mạch lạc đến từng từ, khiến người đọc tin phục qua từng câu.
Ở nửa đầu bức thư, người đọc sẽ cảm thấy từ đầu chí cuối chàng đích thị là hạng bề tôi đớn hèn gian xảo, còn nửa sau bức thư lại tỏ rõ lòng ăn năn trước sự đã rồi.
Biết bản thân phạm phải tội sâu nghiệt nặng, trúc ghi không hết, chàng chẳng dám cúi xin khoan hồng, chỉ xin bãi quan về quê, mong hoàng đế nguôi giận.
Khi Vương Trăn chấm mực chuẩn bị viết tiếp, Đường Thận xót xa hỏi: “Vẫn chưa viết xong à?”
Vương Trăn dừng bút, ngẩng lên nhìn cậu: “Chưa hết đâu, tiểu sư đệ mệt rồi hả?”
Đường Thận: “Ta không mệt.
Nhưng mà sư huynh làm thế này liệu có tác dụng không? Lá thư thú tội thành tâm này… sẽ khiến Thánh thượng tha thứ cho huynh thật chứ?”
Vương Trăn cười bảo: “Dĩ nhiên là không rồi.
Tội Dư Triều Sinh muốn gán cho ta đã phạm phải giới hạn mà bệ hạ chúng ta đặt ra cho thần tử.
Có dâng thư thú tội này lên thì xin xuống phạt nhẹ đã là giỏi lắm rồi.”
Đường Thận: “Chỉ thế thôi à?”
Vương Trăn thành thật nói: “Chỉ thế thôi.”
Vương Tử Phong cực kì thạo phỏng đoán ý vua, ngay đến chàng cũng không chắc thì còn ai dám chắc đây?
Đường Thận vừa lo âu vừa thở phào nhẹ nhõm.
Đã thế, xem ra đống chứng cứ giả cậu ngầm sai người chuẩn bị từ trước không phí hoài rồi.
Nếu cơ sự đến nước ấy, quan hệ giữa cậu với nhóm Vương Tiêu, Mai Thắng Trạch sẽ trở thành cái cớ hoàn hảo để cậu gánh tội thay, giúp sư huynh thoát hiểm.
Sau khi viết xong lá thư thú tội dày cộp, Vương Trăn thổi khô mực rồi quay sang nhìn, bắt gặp ngay bộ mặt trĩu nặng tâm sự của Đường Thận.
Vương Trăn bước tới, bảo: “Đừng lo lắng làm gì.”
Đường Thận nghĩ bụng: Làm sao ta không lo được cơ chứ? Song cậu nói: “Tất nhiên ta tin tưởng sư huynh rồi.”
Vương Trăn cười: “Trông mặt em thế kia, có phải đang nghĩ đến chuyện thế chỗ để ta thoát thân không?”
Đường Thận thầm hoảng hốt, cậu không ngờ Vương Trăn chỉ nói một câu mà trúng phóc suy nghĩ trong lòng mình, càng không ngờ Vương Trăn lại nói bằng giọng hân hoan đến vậy.
“Sư huynh còn cười được à?” Đường Thận bặm môi, chẳng nói nữa.
“Em cảm thấy ta không có cách xoay chuyển ý vua, nên phen này thể nào cũng thất bại chứ gì? Thế đã bao giờ em nghĩ có một người khác ta sẽ làm được điều ấy không? Và liệu em có từng nghĩ, lòng vua ta chẳng thể xoay chuyển, nhưng ta có thể tác động lên… một người khác?”
Đường Thận: “Người khác ư?”
Ánh mắt đanh lại, Vương Trăn điềm nhiên cất tiếng cười, thành tâm cảm khái: “So với ta, Dư Hiến Chi đúng là một vị quan tốt!”
Mùng một tháng Tám năm Khai Bình thứ ba mươi sáu, Tây Bắc báo tin vua Liêu đột ngột băng hà, nước Liêu đại loạn.
Nước Liêu có tổng cộng bốn hoàng tử.
Trong đó, Đại hoàng tử và Tứ hoàng tử đã bị giam lỏng hoặc biếm trích từ lâu, không còn khả năng tranh ngôi báu.
Tam hoàng tử Gia Luật Hàm ở Thượng Kinh trông giữ bên giường rồng, nghiễm nhiên trở thành nhà vua tạm quyền sau khi vua Liêu mất.
Lúc này Nhị hoàng tử Gia Luật Xá Ca vẫn ở phủ Đại Đồng.
Nghe tin vua Liêu băng hà, y tức đến nỗi mắt long sòng sọc, vung kiếm chẻ đôi cái bàn.
“Sao nó dám! Sao thằng Gia Luật Hàm dám làm thế!!!”
Gia Luật Xá Ca xách kiếm toan lao ra ngoài quân trướng.
Gia Luật Cần vội ngăn y lại.
Nước mắt chực trào mi, người đời thường nói tình phụ tử chẳng tồn tại trong nhà vua chúa, thế nhưng vua Liêu lại đối xử với y hết lòng hết dạ.
Ngay cả khi Gia Luật Xá Ca cực kì mong ông ta qua đời, y vẫn đau buồn tột độ khi chính tai nghe tin dữ.
“Gia Luật đại nhân, tuy phụ hoàng hôn mê bất tỉnh nhưng thương thế của người đã ổn định từ lâu.
Làm sao bỗng dưng băng hà được? Làm sao có thể! Thằng Gia Luật Hàm ăn gan hùm hay sao mà dám giết cha, làm sao nó dám giết vua! Ta phải chém đầu thằng súc sinh đó, để nó không được chết tử tế!”
Gia Luật Cần nói lớn: “Điện hạ! Ngài chớ vọng động, ngài nhất thiết phải giữ bình tĩnh, phải giữ bình tĩnh!”
Nước mắt lã chã rơi trên gương mặt Gia Luật Xá Ca: “Quân súc sinh!”
Gia Luật Cần: “Điện hạ!”
Phải mất một lúc lâu, Gia Luật Xá Ca mới dừng bước, tra kiếm vào vỏ.
Cả người y run lên bần bật, mặt đỏ gay.
Y nhắm mắt, mặc cho dòng lệ lăn dài từ khóe mi.
Sau một hồi, y mở mắt ra, đưa tay lau nước mắt, lấy lại vẻ bình tĩnh đến tàn nhẫn.
“Phải… Xá Ca quá xúc động rồi.”
Gia Luật Cần thở phào, nói: “Điện hạ, chúng ta không thể thay đổi sự thật là bệ hạ đã băng hà, nhưng bây giờ chúng ta đang ở phủ Đại Đồng, việc cần kíp ngay lúc này là trở về Thượng Kinh.
Mười vạn quân Sói Đen vẫn còn sáu vạn, chúng ta về kinh rồi, Gia Luật Định có thể đòi quân bất cứ khi nào.
Điện hạ, sáu vạn quân Sói Đen… vẫn là quá nhiều.”
Tia sáng lóe lên trong mắt Gia Luật Xá Ca, y hờ hững nói: “Đúng là nhiều thật.”
Gia Luật Cần: “Điện hạ thấy bao nhiêu thì đủ?”
“Phụ hoàng cho ta ba vạn quân Hổ Bôn, hai vạn quân Kim Giáp.
Quân Sói Đen là thiết kỵ hàng đầu Đại Liêu, sức một địch mười… Tối đa một vạn, một vạn quân Sói đen là đủ rồi.”
Ngoài thành U châu, đại doanh Tây Bắc.
Tô Ôn Duẫn sốt ruột đến nỗi đỏ cả tai, gắt lên: “Ngươi để mặc tên Dư Triều Sinh bắt bớ thế hả? Đất U châu này không phải địa bàn của ngươi hay sao? Y bắt người mà ngươi cũng để yên à?”
Lý Cảnh Đức nhắm mắt bảo: “Y toàn tóm quan văn ty Ngân dẫn, bản tướng quân quản thế nào được…”
Tô Ôn Duẫn mắng: “Quản thế nào ư? Đồ vô tích sự! Y sai người đi bắt thì ngươi phải xua quân ra chặn chứ! Đang thời chiến, ai cần biết y là tướng hay là quan? Trời cao hoàng đế xa, ngươi có hiểu không!”
Lý Cảnh Đức: “Hơ, sao ngươi lại mắng ta!”
Tô Ôn Duẫn phỉ nhổ: “Mắng đồ đầu đất nhà ngươi chứ còn gì! Ai mà biết không dưng vua Liêu lại băng hà.
Giành về ba vùng Tiêu Châu rất đơn giản, trận này kiểu gì cũng ăn chắc.
Nhưng giữ đất được bao lâu thì phải xem đánh thế nào! Nếu quân Sói Đen không bị tiêu diệt, người Liêu có thể quật lại bất cứ lúc nào ngay khi đại cục nước Liêu ổn định, hoàng đế mới lên ngôi.
Lý Cảnh Đức, chẳng nhẽ ngươi muốn đánh Liêu thêm mười năm nữa, đánh tới lúc dân chúng biên cương mười hộ chết chín ư?”
Đại Tống, Thịnh Kinh.
Dư Triều Sinh vừa ra khỏi đại lao bộ Hình, ngực đẫm mồ hôi dưới cái nắng cuối thu bỏng da bỏng thịt.
Anh ta vừa bước chân vào nhà Thượng thư, một quan sai đã tất tả chạy đến.
Không hiểu sao, Dư Triều Sinh nhìn khuôn mặt đỏ nhừ vì chạy vội của người quan sai mà nghe đánh thịch trong lồng ngực, dấy lên dự cảm chẳng lành.
Quan sai vội vàng báo cáo: “Thượng thư đại nhân, bệ hạ cho đòi, xin ngài vào cung gấp.”
Dư Triều Sinh: “Thánh thượng có gì sai bảo thế? Sao không truyền khẩu dụ mà lại triệu bản quan vào cung?”
Quan sai đáp: “Không chỉ riêng đại nhân đâu, bệ hạ triệu tập toàn thể tướng công trong điện Cần Chính nữa.”
Dư Triều Sinh ngẩn người: “Phát sinh chuyện gì rồi?”
Quan sai: “Vua Liêu băng hà!”.