Bạn đang đọc Sherlock Holmes Mất Tích – Chương 7: Con Voi Đồng Thau
Ra khỏi cổng khách sạn, tôi nhảy xuống xe ngựa, tên đánh xe lưu manh đòi gấp đôi tiền xe thông thường với lý do trên xe có một quý ông người Anh. Tôi chửi hắn thậm tệ vì hành đọng bất lương đó rồi nhanh chóng tìm cách len đến phía sau khách sạn Taj Mahal. Trời đã tối hẳn. Tôi di chuyển thận trọng, chọn những chỗ tối nhất trong con hẻm mà đi. Tôi phải chờ mất một lúc, nép sau một đống thùng rỗng, trong lúc hai người khuân vác nặng nhọc khênh những cây nước đá đi qua lối đi tiếp phẩm của khách sạn. Khi họ đi khỏi, tôi nhanh nhẹn băng qua con hẻm và len vào toà nhà. Tôi mò mẫm leo lên những bậc thang nội bộ tối om, chật hẹp và vội vã bước tới hành lang tranh tối tranh sáng. Xung quanh không có một bóng người. Tôi gõ mạnh ba tiếng vào cánh cửa phòng 289. Anh chàng Strickland tính nóng như lửa mở phắt cánh cửa và gần như lôi tuột tôi vào trong.
“Muốn làm cho cả làng biết hay sao mà gõ mạnh thế! Vào nhanh lên, ông bạn. Hắn ta sẽ đến đây trong ít phút nữa thôi”.
Chúng tôi náu mình sau một tấm bình phong bằng đá cẩm thạch có lưới sắt ngăn giữa phòng ngủ với ban công trông ra cửa sổ Tôi tò mò muốn biết tại sao thám tử Sherlock Holmes lại cử Strickland bảo vệ phòng, cũng hồi hộp muốn biết nhân dạng của kẻ không mời mà đến và đang được chờ đợi hồi hộp như thế này; nhưng nhiều năm làm việc trong Bộ đã dạy tôi mọi thứ, chẳng hạn dạy tôi cách cầm ly nước đầy làm sao không để sánh ra ngoài một giọt trong khi bản thân đang bị chế ngự bởi một cảm xúc tiêu cực nào đó, mong rằng lối diễn đạt của tôi có thể chấp nhận được.
Chúng tôi đứng im như thóc trong bồ phía sau tấm vách ngăn của tấm lưới sắt, dần dần tôi cũng có thể phân biệt được hình dáng lờ mờ của các đồ vật trong phòng. Strickland khịt mũi một cách đầy nghi ngờ.
“Khiếp cái mùi đến kinh,” anh ta thì thầm với âm điệu cáu bẳn. “Ông không bao giờ có cơ hội dùng loại nước hoa nào có đẳng cấp hơn phải không, ông Hurree?”
“Chắc chắn là không, Strickkand ạ” tôi thủng thẳng tiếng một, trong lúc tìm cách “chơi” lại kẻ không biết người biết ta kia.
“Mùi thơm này bắt nguồn từ một loại mỹ phẩm dành cho tóc mà hàng ngày tôi vẫn xức lên da đầu. Đó là loại mỹ phẩm thượng hạng và đắt tiền, giá bán lẻ là một ru-pi và bốn anna một chai, sần phẩm chính hiệu của Hãng Armitage và Astruthers tại nhà máy hiện đại của họ ở Liverpool. Tôi xin mách nhỏ với anh, Strickland ạ, rằng nó có thể đem lại nhiều phép lạ cho kiểu tóc của anh đấy.
Anh ta thở dài chịu đòn. Chúng tôi lại tiếp tục canh chừng trong sự im lặng đầy ấn tượng. Đột nhiên Strickland nắm chặt lấy cánh tay tôi. Có tiếng lách cách nhẹ nhàng của một chiếc chìa khoá đang tra vào ổ. Cánh cửa được mở ra êm ru, không gây nên một tiếng động nào và kia, trong phút chốc hiện lên cái bóng rõ ràng là của một người đàn ông, nhờ ánh đèn khí hắt từ ngoài hành lang vào. Cánh cửa nhanh chóng được đóng lại. Cái người kia lén lút băng ngang qua gian phòng đến gần chiếc giường ngủ.
Một que diêm được đánh lên. Ngọn lửa nhỏ xíu trên đầu que diêm cũng đủ soi cho tôi thấy khuôn mặt núc ních đầy căng thẳng của tay thư ký người Bồ Đào Nha. Hắn thắp một ngọn nến nhỏ rồi đặt lên bàn trang điểm gần đầu giường, rồi nhanh chóng di chuyển cái bàn từ một góc phòng (cũng chính là cái bàn mà ông Holmes đã bình luận ngày hôm qua) đến bên giường.
Một tay cầm ngọn nến, hắn nặng nề leo lên trên giường rồi đứng hẳn lên ban. Hắn với tay tóm lấy con voi bằng đồng thau vãn được treo toòng teng phía trên giường, kéo nó lại gần và thực hiện một loạt động tác lén lút ám muội mà từ chỗ đang nấp chúng tôi không thể nhìn rõ.
Thật khó cho hắn trong khi vừa phải cầm ngọn nến lại vừa phải nắm sợi dây của con voi đồng những giọt mồ hôi to tướng rịn ra trên khuôn mặt bóng nhãy của hắn, cả các cơ trên mặt cũng như giật giật vì lo lắng, căng thẳng. Hắn rút một vật – trông như một cái hộp nhỏ – ra khỏi túi áo khoác và trút thứ gì đó từ trong hộp vào chiếc đèn. Cuối cùng, hắn thắp ngọn đèn trên bàn của con voi hằng đồng thau và để nó đung đưa nhẹ nhàng trên đầu.
Sau đó, hắn nhảy xuống, kê cái bàn về cho cũ, rồi lau mồ hôi túa trên mặt bằng một chiếc khăn tay rộng khổ. Đoạn hắn lén lút rời khỏi phòng, khoá cửa đằng sau lại. Strickland và tôi vẫn đứng im không nhúc nhích phía sau bức bình phong trong vòng mười phút cho tới khi có ba tiếng gõ cửa khác vang lên.
Strickland mở cửa bằng một chiếc chìa khoá lấy từ trong túi.
Sherlock Holmes đi vào, nhìn ngay lên ngọn đèn hình con voi đang cháy và bây giờ chỉ còn đung đưa nhè nhẹ.
“A ha ha! Tôi nhận thấy chúng ta đã có khách. Thật tuyệt vời tuyệt vời,” ông nhận xét, xoa xoa hai bàn tay vào với nhau.
“Làm ơn bật ngọn đèn khí lên giùm tôi. Có lẽ chúng ta sẽ có một màn giải trí nữa vào tối nay, nhưng lần này không phải là dành cho người bạn của chúng ta để xem kết qua hành động của hấn chỉ với ánh sáng của ngọn đèn kỳ lạ nào”.
Sự vui nhộn của ông Holmes không xua tan được nỗi sợ hãi trong tôi. Ngọn đèn hình con voi rõ ràng không phải là món đồ thủ công mỹ nghệ bình thường trong nhà bạn và vì vậy, việc ở trong cùng một phòng với nó quả có khiến cho tôi lo ngại ít nhiều.
“Tôi hy vọng hoạt động của nó không làm hại người khác,” tôi nói, giọng nói không giấu được những băn khoăn lo lắng.
“Chắc chưa phải ngay lúc này nhưng chúng ta sẽ sớm biết thôi” Holmes nói tránh xa ngọn đèn một chút và nhìn vào Strickland. “Nào, Strickland xin hãy cho tôi biết từng chi tiết?”
Ông ngồi xuống, ngả người duỗi dài trên sofa trong lúc Strickland thông báo tất cả những việc đã xảy ra trong phòng.
“Tôi đã làm theo những chỉ dẫn mà ông viết trong thư, ông Holmes ạ. Vào lúc năm giờ, ngay trước khi mặt trời lặn, tôi vào khách sạn mà không để ai nhìn thấy tất nhiên là từ phía sau, bằng lối đi nội bộ và lấy chìa khoá để dưới tấm thảm dừa ở trước cửa phòng. Từ lúc ấy đến giờ tôi chỉ việc chờ đợi, và đó là một cuộc chờ đợi dài dằng dặc nhưng kết cục tốt đẹp”.
“Phải, phải, nó đạt được một kết quả mỹ mãn,” Sherlock Holmes cười lớn, “Vì những sự cố mà anh quan sát cách đây ít lâu đều đã được dự báo từ trước. Chúng ta đã lường trước được mọi chuyện. Giờ thì hay kiểm tra tất cả các dữ liệu trước khi bắt đầu. Báo cáo của người khám nghiệm tử thi như thế nào?”
“À, thưa ông Holmes, bác sĩ Patterson ấy, ông ta hoàn toàn bó tay. Patterson nói chưa bao giờ gặp một vụ bất thường như thế này. Không có dấu hiệu của việc sử dụng bất cứ loại độc được nào, cũng không hề có bất cứ vết thương nghiêm trọng nào gây ra việc chảy máu nhiều đến thế, ngoài một vài vết thâm tím, cho nên cái chết gần như được quy cho việc ngã cầu thang. Thực tế, nhân viên điều tra đã lau sạch xác chết để kiểm tra và phát hiện gần như không còn một chút máu nào ở tất cả các mạch máu. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một người ban xứ nào tái dại đến thế trong suốt quãng đời làm việc của mình”.
“Anh đoan chắc là xác chết không có một vết thương nào chứ?” Holmes hỏi đi hỏi lại. “Tuyệt không có một vết thương nhỏ nào ư? Cả đến một vết thương đáng lưu ý nào đó trên da, quanh gáy hay cổ, cũng không có ư?”
“Ông Sherlock Holmes, nếu ông nghĩ người đàn ông kia chết vì một vết rắn cắn thì tôi có thể đảm bảo là không phải. Không có bò sát, tuy vậy thuốc độc thì có thể có…”
“Có bất cứ vết lõm nào không?” Holmes cắt ngang, giọng ông như đã mất hết kiên nhẫn.
“Có một vài vết xây xước nhẹ sau cổ, nhưng ông không thể gọi đó là những vết lõm hay lỗ thủng. Tôi đã nhìn thấy tất cả các kiểu rắn cắn ở nước này và nhiều dấu vết mà chúng để lại trên da. Nhưng dấu này nông hơn, chỉ là những vết khía và…”
“Vết xây xước đó có cái hình như thế này phải không?”
Holmes hỏi, chìa ra một mình giấy mà ông đã vạch sẵn một vài ký hiệu.
“Làm thế quái nào mà…” Strickland thốt lên, ngớ người ra.
“Tôi đã suy nghĩ rất nhiều,” Holmes kêu lên, bật những ngón tay dài kêu tanh tách. “Vụ phá án của tôi thế là đã hoàn chỉnh, thưa các quý ông, giờ đã đến lúc kết thúc vấn đề. Strickland, phiền anh hộ tống ông Carvalio, thư ký ở bộ phận Tiền sảnh lên đây một lúc. Tôi e là chỉ có cái mác của một sĩ quan nhà nước như anh mới có thể thành công trong việc diệu quý ông ấy lên đây một lần nữa. anh hãy đưa hắn ta đến thẳng chỗ giường ngủ và bắt hắn ngồi lên giường”. Holmes bắt đầu sắp xếp mấy cái ghế đói diện với chiếc giường. “Sau đó anh sẽ ngồi ở ghế này, nếu không thấy có gì phiền; còn Hurree, ông ngồi đây. Tôi thì ngồi trên chiếc ghế bành ở chính giữa. Tôi nghĩ như vậy chúng ta sẽ gây ấn tượng đủ mạnh để một kẻ độc ác phải chột dạ về tội ác của mình”.
Strickland rời phòng và chẳng mấy chóc đã quay lại với viên thư ký người Bồ Đào Nha. Gã này giật mình, lùi lại mấy bước, rõ ràng là hết sức sửng sốt và sợ hăi trước những bộ mặt hình sự của chúng tôi nhưng Strickland cương quyết ấn hắn ngồi lên giường.
“Mời ngồi, ông Carvallo, mời ngồi,” Sherlock Holmes nói giọng vui về. “Chúng tôi rất xin lỗi vì đã quấy quả ông trong lúc ông đang thực thi nhiệm vụ, nhưng chúng tôi mong ông sẽ thông cảm, điều tra về tấn thảm kịch tối qua phải được ưu tiên hơn tất cả những chuyẹn khác. Không, không, làm ơn ông hãy lên ngồi ở chính giữa giường ấy, ngồi ở sát mép như thế không được thoải mái đâu, ông cũng biết mà. Ông không cần phải đứng để tiếp chuyện chúng tôi”.
Viên thư ký loay hoay dịch dần thân hình phục phịch vào trong mép giường, thỉnh thoảng lại tia một cái nhìn lén lút lên ngọn đèn bằng đồng thau treo trên đầu. Khuôn mặt căng thẳng lo âu của hắn vã mồ hôi, thậm chí còn nhiều hơn cái lúc hắn lén lút đổ cái gì đó vào chiếc đèn, một việc mà chúng tôi đã chứng kiến từ đầu đến cuối.
“Thế tốt lắm,” Holmes nói, ngả lưng ra sau ghế. “Nào, ông Carvallo, xin ông vui lòng kể cho chúng tôi nghe sự thật về sự cố ngày hôm qua”.
Khuôn mặt béo tốt của gã đàn ông chuyển thành màu trắng bệch như tấm ga trải giường, trắng đến tận chân tóc.
“Tôi… tôi không hiểu ngài nói gì, thưa ngài…”, hắn lập bập nói, cố gắng tỏ ra bình tĩnh.
“Thôi mà, thôi mà. Ông đừng nghĩ chúng tôi quá khờ khạo như thế”.
“Thưa ngài, tôi hoàn toàn không biết gì về những việc đã xảy ra…”
“Vậy là xui xẻo quá,” Holmes vừa nói vừa lắc đầu. “Nhưng tôi sẽ nêu ra một số gợi ý ngõ hầu giúp khôi phục trí nhớ của ông vì hình như ông mắc căn bệnh đãng trí khá trầm trọng thì phải. Chúng tôi có đủ mọi lý do để tin rằng ông là một công cụ trong thảm kịch ngày hôm qua. Chúng tôi đã sẵn sàng đi đến một kết luận hợp lý rằng người chết không phải là nạn nhân trong dự định của ông mặc dù tôi không cho rằng kết luận này có thể gây ấn tượng tốt với một quan toà giúp ông ta giảm nhẹ cái án đưa ông lên đoạn đầu đài. Nạn nhân thực sự của ông chính là tôi, phải vậy không, thưa ngài Carvallo? Ông đã phạm một sai lầm nhỏ – kết quả của việc ông bị căng thẳng quá mức chăng – khi khiến cho máy móc hoạt động hơi sớm quá. Phải chăng ông đã dùng quá ít sáp? Có lẽ ông đã vô tình bật vào một cái gì đó khi đã làm xong nhiệm vụ ông không muốn nói gì à. Chao ôi, ông thật không biết điều chút nào”.
Kẻ phá hoại thè lưới liếm đôi môi dày và khô, nhưng vẫn không nói gì cả.
“À, cũng không sao. Chỉ là một điểm không mấy quan trọng và chúng ta có thể quay lại vấn đề này sau khi ông ở vào tam trạng muốn cộng tác”.
“Ôi! Không, không được,” Strickland kêu lên giận dữ, ẩy mạnh vào vai tên thư ký, buộc hắn quay lại chiếc giường mà hắn lại cố len lén lảng ra xa lần nữa.
“Ông, ông Carvallo,” Sherlock Holmes lắc ngón tay trỏ tỏ ý khiển trách. “Mời ông ngồi yên lặng ở chỗ đó cho đến khi tôi nói xong những gì cần phải nói. Nào, tôi đã nói đến đâu nhi? Á, phải. Người hầu phòng đáng thương trong khách sạn đã chiết như thế nào. Tôi nghĩ nhiều khả năng con người xấu số đó có việc đi ngang qua căn phòng này, nhìn qua cánh cửa mở – mà ông, do quá căng thẳng nên đã quên đóng – và là một người nhân viên mẫn cán, ông ấy phát hiện ra tấm ga trải giường không phẳng phiu như lẽ ra nó phải như thế. Tôi e, đó lại là một lỗi khác, hậu quả của việc hành sự cẩu thả hấp tấp của ông. Phải, là một nhân viên phục vụ chu đáo và gương mẫu của khách sạn này, người đàn ông quý hoá kia bước vào phòng, cúi gập người trên giường, bắt đầu vuốt vuốt tấm ga trên giường cho thẳng thêm.
Đó là lúc chuyện ấy xảy ra, đúng không? Phải, chúng ta có thể không bao giờ biết chắc mọi việc xảy ra theo trình tự như thế nào. Nhưng tôi nghĩ lập luận của mình là khá chính xác và hợp lô-gíc, ít nhất thì cũng đủ vang để thuyết phục được bồi thẩm đoàn. Anh có đồng ý với tôi không, Scrickland?
“Cả hai ta!”, Strickland nói giọng dứt khoát.
“Xin làm ơn. Làm ơn”. viên thư ký thì thào bằng giọng khàn khàn. Con người khốn khổ ấy bắt đầu run như giẽ vì kinh hoàng, đôi mắt hắn mở trợn trừng, mất hết thần sắc, hướng về phía chiếc đèn trên đầu như thể bị thôi miên bởi chiếc đèn hình con voi bằng đồng thau đang cháy sáng.
“Con voi này có gì hấp dẫn ông lắm à?” Sherlock Holmes hỏi, làm ra vẻ lần đầu tiên thấy chiếc đèn và quan sát nó với vẻ hiếu kỳ đầu thích thú của một nhà sưu tầm. “Chắc chắn nó là tác phẩm của một nghệ nhân bậc thầy, được làm bằng đồng thau Benaras, tôi dám nói như thế; mặc dù đây là lần đầu tiên tôi thấy một cái đèn như thế treo dưới một cái trướng. Tinh xảo lắm, hằn là ông nghĩ như vậy. Quả thật là rất tài tình”. Ông cố chua thêm một câu đầy vẻ đe doạ vào nhưng lời kết luận của mình.
Bị kích động đúng vào nổi kinh hoàng đang tràn ngập trong lòng, tên thư ký nhảy phắt ra khỏi giường, ngã sụp xuống trước mặt Sherlock Holmes. Hắn ôm lấy chân Holmes rồi nức nở kêu lên:
“Tôi thú nhận… Hức hức…Tôi thú nhận hết. Cái ấy nằm trong ngọn đèn. Đó là một cái bẫy. Xin… hãy để tôi rời khỏi phòng trước khi…”
Đúng lúc đó từ ngọn đèn vang lên một tiếng tách nhỏ; khi nhìn lên, chúng tôi thấy một nắp nhỏ bật tung ra từ mông con voi và một vật nhỏ, sáng màu rơi xuống giường. Viên thư ký hét lên một tiếng kinh hoàng. Vật đó màu đỏ và trông như đang phát sáng, dài không quá hai tấc, có cả độ dày lẫn hình dáng của một cái găng tay bạn mang đi làm vườn. Nó nhổm dậy, một đầu dựng lên trong không trung ngúc ngắc từ phía này sang phía khác.
“Chuyện quái quý gì thế này?” Strickland hỏi.
“Ma quỷ,” Holmes trả lời, đút một tay vào trong túi áo.
Ngay khi cái vật kia ngừng ngó ngoáy, nó cứng đờ toàn thân trong một giây rồi với những bước di chuyển khác thường, nó hướng về phía chúng tôi. Mặc dù nỗi kinh hoàng tột độ của viên thư ký chắc chắn là có tác dụng lan truyền nhanh nhất sang người bên cạnh sự hiếu kỳ thuần tuý khoa học buộc tôi dán mắt vào cách thức di chuyển kỳ lạ của cái vật đó. Ngay khi phần trên của nó rơi xuống đất thì phần sau lại nhổm dậy và ngọ nguậy rướn tới trước. Khúc trên lại nhỏm dạy lần nữa và nhảy về phía trước và khúc đuôi lập tức phối hợp theo. Nó thực hiện nhưng động tác này với tốc độ đáng kinh ngạc và nhanh chóng tiến về phía chúng tôi.
Viên thư ký mất hết cả hồn vía lùi mãi ra sau, ngã nhào, trốn sau ghế của tôi. Strickland và tôi, mặc dù không sợ đến mất hết cả hồn vía như hắn nhưng cũng phải rùng mình co người lại trước bước tiến của con vật, mơ hồ ý thức được mối nguy hiểm ghê gớm ẩn nấp trong con vạt, bất chấp kích thước không đáng kể của nó. Chỉ có Sherlock Holmes vẫn hoàn toàn bình thản.
Ông điềm nhiên ngồi trên ghế, và khi cái vật đó tiến đến gần chân mình thì thọc tay vào túi, lấy ra một lọ muối màu bạc, nhanh nhẹn cúi xuống trút cái chất đựng trong lọ lên cái vật kia.
Ngay khi muối chạm vào thân, con vật bắt đầu quằn quại và búng mình tanh tách dữ dội, như thể đang trải qua một sự đau đớn ghê gớm.
“Trời ơi, đó là một con đỉa!”, tôi kêu lên kinh ngạc.
“Nhưng không phải loại đỉa thông thưởng có thể tìm thấy ở bất cứ ao hồ nào”. Holmes nói, giọng nghiêm nghị, “Đây là một con thuộc giống đỉa đỏ khổng lồ(1) sống ở vùng thấp nhất của dãy Himalaya, tên khoa học của nó là Herudenia Himalaya Giganticus thuộc loài Haemadipse. Chúng ta phải cám ơn Thượng đế nhân từ vì đã giới hạn sự tồn tại của chúng chỉ trong khu vực nhỏ bé Kaladhungi tại phía Tây Himalaya. Chỉ vì loại này có một số lượng cực hiếm mà nó không vang danh thiên hạ như là một sát thủ đáng sợ nhất. Có lẽ các ông cũng biết rằng nước bọt của loài đỉa thông thường chứa những chất hoá học không chỉ gây tê vùng quanh vết thương, mà còn chứa chất hirudin chống đông tụ máu, đã được dùng trong y khoa để ngăn chặn việc máu đông thành cục. Tài liệu mà tôi đọc sáng nay tại Viện Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên cho biết rằng, loài đỉa đỏ khổng lồ này không chỉ lớn hơn đỉa thường mà người ta biết là có tới ba trăm loài, mà nước bọt của chúng còn chứa những chất hoá học tương tự, nhưng tính năng còn mạnh hơn mấy nghìn lần”.
“Hèn gì con người tội nghiệp đó đã chảy nhiều máu như thế,” tôi nói mà cảm thấy nỗi sợ luồn cá vào xương sống.
“Nhưng đó chưa phải là tất cả,” Holmes nói, giọng nghiêm nghị, kiểm tra lại nhưng ghi chép trên cổ tay. “Có hai chất hoá học phức tạp khác hiện có trong nước bọt của loài đỉa khống lồ này. Một chất hoạt hoá hệ thống phản ứng với dị ứng trong mô cơ thể để sản xuất ra chất histamine, một loại amin được hình thành từ histidiene, có tác dụng làm giãn nở mạch máu và các lỗ chân lông trên da. Chất thứ ba tạo ra một số lượng lớn chất paroxysmal tachycardia một môi trường trong đó tim đột nhiên chuyển sang đập thật dữ dội với tốc độ từ 250 đến 300 nhịp/phút, trong một khoảng thời gian đáng kể nào đó. Như vậy một khi nước bọt loài đỉa này xâm nhập vào mạch máu, cơ thế sẽ ở trong một trạng thái tích luỹ đến một mức độ khiến cho trái tim bị kích ứng dữ dội sẽ bơm tất cả dòng máu mệt mỏi trong thân thể ra ngoài qua các lỗ chân lông đã nở rộng dưới da”.
“Lạy Chúa tôi,” Strickland rùng mình. “Nhưng mà trước hết, làm thế nào mà con đỉa đó bò lên người nạn nhân được?”
“Nó đã rơi xuống gáy người này khi ông ta cúi xuống để vuốt phẳng tấm ga giường”.
“Đúng vậy, điều đó giải thích tại sao có những vết xây xước trên cổ,” Strickland kêu lên.
“Phải, loại đỉa có ba hàm cùng với những chiếc răng sắc nhọn đã tạo thành nhưng vết khía hình chữ Y mà ban nãy tôi đã vẽ cho anh xem. Các hàm và giác trên miệng nó bám chặt vào da thịt nạn nhân không rời ra. Có nhiều khả năng nạn nhân đã cố gắng dứt con đỉa ra khỏi cổ ngay sau khi ông ta lao bổ ra hành lang một cách hoảng loạn. Đó là nơi vết máu bắt đầu. Sau đó có lẽ ông ta đã vứt cái vật khủng khiếp đó xuống đất và đạp lên nó cho đến chết. Hurree, ông có nhớ cái “miếng cao su Ấn Độ” mà tôi đã phát hiện ở hành lang tối hôm qua không? Tất nhiên đó là con đỉa đã bơm thứ nước bọt đáng sợ của nó vào người nạn nhân và từ lúc đó không có gì và không ai có thể ngăn cản việc quả tim ông ta biến thành một cái bơm hoạt động hết công suất để tống máu ra ngoài cơ thể. Có quá nhiều chất chống đông tụ trong máu người chết đến nỗi thậm chí sau khi cái xác đã đó xuống sàn mà máu vẫn phun xối xả và trong hơn một tiếng đồng hồ sau, nó vẫn không có dấu hiệu đỏng lại”.
“Ông đã tình cờ chú ý đến hiện tượng này ngày hôm qua lúc chúng ta đi xuống tiền sảnh sau cuộc điều tra, phải không ông Sherlock Holmes?” tôi lêu len khi nhớ lại những sự việc hôm qua.
Nhưng Sherlock Holmes lại đang bận rộn trèo lên chiếc bàn mà ông đã đẩy đến sát cạnh giường. Ông nắm lấy chiếc đèn cẩn thận lót tay bằng một chiếc khăn tay, tháo sợi dây treo chiếc đèn lơ lửng trên trần nhà. Sau đó, ông nhẹ nhàng nhảy khỏi bàn và đặt con voi lên bàn ngắm nghía.
“Hừm. Thật tài tình. Một thứ vũ khí độc nhất vô nhị và mới khủng khiếp làm sao!”. Ông kiểm tra con voi kỹ lưỡng. “Lại là một tác phẩm nghệ thuật tinh xảo đến thế kia chứ. Nhìn xem này, hơi nóng của cái đèn bên trong cái khung được che trướng…”
“Cái bành voi, thưa ngài…” tôi chỉnh lại.
“Cám ơn,” ông đáp giọng cụt lủn. “… làm thế nào mà hơi nóng của cái đèn bên trong bành voi lại được chuyển đến bụng voi, đó là nhờ những sợi dây bằng đồng đó này. Hơi nóng dần dần làm tan chảy lớp sáp đã giữ một cơ quan tinh vi trong bụng voi và rồi, sau một khoảng thời gian đã được tính toán thật chính xác, căn cứ vào độ dày của lớp sáp được sử dụng, khiến cho cái nắp bật ra, mở một lối cho con đỉa kia rơi xuống. Tôi đã làm thí nghiệm với cái nắp bật tối hôm qua và phát hiện rằng nó sẽ chẳng có tác dụng gì một khi vẫn bị đóng kín – một khi chiếc đèn được đốt lên khoảng hơn hai giờ. Vì vậy, tôi biết chắc rằng sẽ không ai chuẩn bị cái bẫy độc ác này một lần nữa trước khi trời tối. Mặc dù vậy, để đảm bảo an toàn tuyệt đối nên tôi đã yêu càu anh Strickland ạ, ở trong phòng tôi trước khi mặt trời lặn. Khi gặp ông Carvallo ở tiền sảnh, tôi đã báo cho ông ta biết rằng tôi se đi nghỉ ngay sau bữa tối, sớm hơn thường lệ. Nhờ thế ông bạn của chúng ta sẽ có thời gian dư dả mà hành sự, trong lúc đó tôi ung dung dùng một bữa nhẹ và sau đó hỏi mượn nhà bếp một chiếc lọ đựng đầy muối”
“Nhưng sai lầm của ngày hôm qua là gì, thưa ngài Sherlock Holmes?”, tôi hỏi.
“Người bạn quá căng thẳng của chúng ta đây…” Holmes nói, quay mặt về phía tên thư ký đang co rúm người lại trong một góc phòng, “… đã dùng quá nhiều hơi nóng để dán sáp vào cái nắp bật hôm qua, nên đã khiến một phần sáp nhỏ xuống cái khăn trải giường. Như vậy lớp sáp mỏng đi là nguyên nhân khiến cho cái nắp bật ra sớm hơn. Nhưng có lẽ tôi đã đổ lỗi cho ông quá nhiều, ông Carvallo ạ. Suy cho cùng thì đây là một nhiệm vụ quá kinh khung và quá tinh vi mà một người yếu bóng vía như ông đây khó lòng đảm nhiệm mà không để lại sơ sót gì. Nó đòi hỏi bất cứ ai thực hiện cũng phải mang hết dũng khí ra để điều khiển một sinh vật như thế, chỉ một lần thôi, thế mà ông lại phải làm đến hai lần! Chà chà, một đòi hỏi quá cao và vượt ra ngoài cái được gọi là trách nhiệm. Hoặc cũng có thể là bởi vì chủ của ông sẽ không bỏ qua cho một sự thất bại chăng? Đó là một ông chủ vô cùng nghiêm khắc, không khoan nhượng phải không nào? Quả khó mà hình dung nổi một kẻ không hề biết tha thứ như cái tên côn đồ mà ông, thật không may, phải ở dưới trướng và chịu sự điều khiển. Mà này, hắn đã nắm được cái gót A-sin gì ở ông thế?”
“Tôi… tôi không thể nói được”. Con người khốn khổ kia rên rỉ kêu lên, vẫn giấu mặt sau hai bàn tay. “Đã quá trễ,” hắn nấc lên. Một lúc sau, hắn ngẩng đầu lên và với một nỗ lực lớn, cố đứng dậy. Hít một hơi thật sâu, hắn nói tiếp, vẻ phản kháng vô vọng càng nhấn mạnh tính bi thiết trong giọng nói của hắn.
“Không, thưa các ngài, dù thế nào tôi cũng không thể nói. Dù cái bản án mà luật pháp có thể áp đặt trong trường hợp của tôi là gì đi nữa, thì nó cũng còn tử tế hơn và êm ái hơn nhiều so với những gì mà tôi chắc chắn phải gánh chịu nếu phản bội chủ tôi”.
“Ồ, ông nghĩ thế thật sao?” Strickland nói với vẻ mặt nghiêm khắc, mở còng tay tròng vào tay hắn. “Để tôi nói cho ông biết, ông bạn, rằng nếu tôi có bất cứ điều gì để nói thì đó là việc ông sẽ chỉ treo lung lẳng dưới cái giá treo cổ cao nhất trong vùng Bombay này”. Anh ta quay sang tôi. “Làm ơn rung chuông đi, ông Hurree”.
Ít phút sau, thanh tra MacLeod và hai đồng sự đi vào.
Strickland giao cho họ một số chỉ thị trong công việc. Ít phút sau đó họ rời khỏi phòng cùng với tên phạm nhân khốn khổ.
“Sức mạnh của nỗi sợ hãi,” Sherlock Holmes nói một cách trang trọng khi đã ngồi yên vị trong chiếc ghế bành. “Tôi không nên đánh giá thấp nó. Hãy xem, thậm chí một kẻ đáng thương như tên thư ký người Bồ Đào Nha cũng có khả năng tôi luyện bản thân để chống lại chúng ta, phải, nôi ám ảnh kinh hồn về đòn trừng phạt của Moriarty đã phủ một cái bóng đen ngòm lên trái tim hắn…”
“Nhưng hắn đã chết rồi cơ mà,” tôi tranh luận. “Ông chẳng đã nói…”
“Người thì chết, đã đành thế,” Holmes chỉnh lại, “Nhưng sự nghiệp của hắn thì vẫn còn sống. Tên giáo sư có thể đã nằm dưới đáy thác Reichenbach, nhưng cái hội kín hội hở của hắn vẫn sống, vẫn còn sức mạnh để ban thưởng, và trong những việc có liên quan ít nhiều đến vụ án của chúng ta thì là để trừng phạt những kẻ dám mưu toan phản bội. Đảy là Ấn Độ, cả một dế chế tội ác rộng lớn được cai trị bởi một người bạn tri ký của Moriarty. Đó là kẻ đã thừa hưởng bộ não đen tối xấu xa của hắn. Đó cũng là kẻ đang ngày đêm đeo bám tôi”.
“Hãy cho tôi biết tên hắn đi, ông Holmes,” Strickland nói, “và tôi sẽ sớm làm cho hắn phải đổ mồ hôi hột đằng sau song sắt.
“Tôi đánh giá cao lòng nhiệt tình của anh, Strickland ạ. Nhưng tôi e rằng một hành động trực tiếp như vậy sẽ chỉ dẫn tới thất bại. Đại tá Sebastian Moran là một kẻ thù nguy hiểm và tinh ranh nhất. Vào lúc này, mạng lưới của chúng ta lại quá mong để có thể bắt giữ một con mồi ghê gớm đến dường ấy”
“Nhưng, mẹ kiếp”. Strickland kêu lên. “Người mà ông vừa nhắc đến là một quân nhân đáng kính trọng”.
Sherlock Holmes giơ hai tay ra tỏ vẻ cam chịu.
“Quả thật, mạng lưới của chúng ta quá mỏng khi một đại diện luật pháp lại không thể nhận ra kẻ thù ghê gớm nhất của mình”.
“Ông làm tôi kinh ngạc đấy Sherlock Holmes ạ”. Strickland phản đối. “Ông chờ đợi tôi phải tin rằng, một quý ông người Anh, một trong những thành viên sáng lập của quân đội Hoàng gia Ấn Độ, tay súng hạng nặng giỏi nhất xứ này, một tay săn cọp vô địch mà lại là một tên tội phạm nguy hiểm ư? Sao chứ, chỉ mới cách đây hai đêm tôi đã gặp mặt ông ta ở Câu lạc bộ Cố nhân. Chúng tôi còn cùng chơi bài Uýt với nhau cơ mà”.
“À,” Sherlock Holmes nhún vai, “tôi cho rằng quả không thể mong đợi anh lại là người có thể nhìn thấu tâm can hắn qua một cái vỏ bọc hoàn hảo như anh vừa mô tả. Với lại nói đâu xa, chỉ cách đây vài tháng thôi, thì thậm chí đến Scotland Yard cũng không biết đến sự tồn tại của giáo sư James Moriarty cơ mà. Nhưng xin hãy tin tôi, khi tôi khẳng định với anh rằng, sau vị giáo sư nọ thì Đại tá Moran đáng kính chắc chắn là tên tội phạm nguy hiểm nhất vẫn còn sống trên đời”.
Sherlock Holmes thọc tay vào túi quần lấy ra một cuốn sổ tay mỏng bọc da dễ thuộc.
“Hừm. Hãy xem cho đến nay, chúng ta đã biết được những điều gì về ông ra. Chỉ là một vài mục mà tôi đã chép lại từ bản liệt kê tiểu sử. A! Đây rồi”.
Ông trao một tấm thẻ bài cho Strickland. Tôi nhỏm dậy, vòng ra đứng đằng sau Strickland, dòm qua vai anh ta.
Moran Serbatian, đại tá
Không nghề nghiệp. Từng thuộc đội công binh Bangalore, số 1. Sinh ở London, 1840. Con trai của nam tước Augustus Moran, Công dân danh dự, từng là Đại sứ Anh tại Ba Tư. Học tại các trường Eton và Oxford. Đã phục vụ trong chiến dịch Jowaki, chiến dịch Afghanistan, Charasiab (đặc phái Sherpur, Cabul. Tác giả của cuốn Những trò chơi hạng nặng ở Tayy Himalaya (1881); Ba tháng trong rừng nhiệt đới (1884). Địa chỉ ở London: đường Conduit. Tham gia các câu lạc bộ: Cố nhân; Tankerville, Bagatelle Card. Địa chỉ ở Ấn Độ: biệt thự Auckland, căn cứ quân sự Lahore. Tham gia các câu lạc bộ: The Punjab (ở Lahore), Cố nhân (ở Bombay), The Black Hearts (ở Simla).
“Nhưng thưa ngài Sherlock Holmes,” tôi phản đối, “Trên phương diện binh nghiệp mà nói thì quý ông này là một quân nhân đáng kính”.
“Đó là một sự thật không thể chối cãi”, Holmes đáp. “Trên một phương diện nào đó thì đúng là ông ta rất đáng kính. Ông ta bao giờ cũng là một người có hệ thần binh thép và không nghi ngờ gì nữa, chắc là anh, Strickland ạ, đã nghe chuyện ông ta bò xuống một cái mương, nằm phía sau một con hổ ăn thịt người đang bị thương như thế nào. Có một số loài cây, ông Hurree ạ, một khi mọc cao đến một mức nào đó rồi thì đột nhiên phát triển các lỗ mọt trong thớ gỗ. Ông cũng sẽ thường xuyên phát hiện đặc điểm đó trong con người. Tôi đang xây dựng một lý thuyết rằng mỗi cá nhân đại diện cho sự phát triến của toàn bộ tổ tiên mình và việc đột nhiên rẽ ngoặt sang hướng phát triển tốt hay xấu là do một số ảnh hưởng mạnh mẽ và sâu xa từ trong cái dòng máu mà anh ta mang. Con người trở thành, như nó vốn vậy hình ảnh thu nhỏ của lịch sư dòng tộc mình”.
“Điều này chắc chắn là hơi có phần tưởng tượng,” Strickland chỉ trích.
“À, tôi cũng không khăng khăng rằng bất kể mình nói ra điều gì thì cũng đều từ đúng trở lên. Phải, dù với nguyên do gì đi nữa thì đại tá Moran cũng đã bắt đầu đi lầm dường. Tôi chắc chắn một điều, Strickland, nếu vụ xì căng đan trong chuyện đánh bài ở Hyderabad không làm hoen ở được danh tiếng của ngài Đại tá, thì cái chết bí ẩn của người quản gia bản xứ của ông ta ít nhất cũng làm lực lượng cảnh sát nảy sinh một số nghi ngớ đối với khá năng kiềm chế tình cảm của con người này”.
“Ông Holmes, chúng tôi cũng có biết một số sai lầm trong những việc làm của Đại tá Moran, nhưng ghép cho một người cái tội là thủ lĩnh một băng đảng tội phạm ghê tởm lại là chuyện khác, cũng cần phải trả lời khá nhiều vấn đề đấy”.
“Không nghi ngờ gì tính đúng đắn trong lời nói của anh,” giọng Holmes hơi gắt lên. Ông lấy một điếu xì gà trong cái hộp để trên bàn và châm lứa. Sau đó ông ngả hẳn người vào lưng ghế bành và nhìn đăm đăm lên trần nhà, bắt đầu nhả từng cuốn khói vào không trung. “Phải, đây là một ván bài nan giải, nhưng tôi nhất định phải chơi nếu cái danh tiếng nhỏ nhoi đáng thương của tôi như nó vốn thế, không bị tiêu tán mất. Này Strickland, vì anh đã từng chơi bài với Đại tá Moran, chắc anh củng nhận ra một điểm bất thường ở ngón cái bàn tay phải của ông ta”.
“Ông ta có một vết sẹo sâu, dài bắt chéo qua ngón tay cái. Kết quả của một tai nạn nào đó với một con dao săn”.
“Thật sự thì ông ta đã nhận vết thương đó trong một cuộc vật lộn với một người phụ nữ đang dùng dao, người mà ông ta đã phản bội và huỷ diệt một cách bẩn thiu. Nhưng vào lúc này, điều đó không nằm trong mối quan tâm của chúng ta. Nào, Hurree, nếu ông vui lòng cho tôi mượn một cái bút chì từ bộ sưu tập những dụng cụ viết lách rất đẹp mà tôi thoáng thấy ở túi áo ngực ông thì tôi sẽ cố gắng chứng minh cho lời tuyên bố của mình rằng Sebastian Moran là thủ phạm thực sự của tội ác ghê tởm này”.
Sherlock Holmes lấy một con dao nhíp ra khỏi túi áo và bắt đầu vót nhọn đầu cây bút chì. Ông gọt lớp gỗ, một đoạn ruột bút chì mềm dài vài phân bắt đầu nhô ra, sau đó ông thận trọng dùng dao cạo ruột chì lên một tờ giấy sạch. Khoảng mười phút sau, trên tờ giấy đã có một lớp bột chì mịn có màu đen óng rất đẹp. Quay lại chỗ con voi bằng đồng thau, ông bắt đầu dùng kính lúp săm soi nó từ trong ra ngoài một lúc lâu. Con voi đồng sáng lên lấp lánh khi Sherlock Holmes xoay nó lúc theo hướng này lúc lại chuyển sang hướng khác, bao giờ cũng dưới ánh sáng ngọn đèn khí; nhưng tôi nhận thấy ông cẩn thận không tiếp xúc trực tiếp với con voi mà khéo léo lót trên tay một chiếc khăn tay mỏng.
“Ôi, ông Carvallo ơi là ông Carvallo…” Holmes lẩm nhẩm một mình, “Lý ra ông không nên chà xát cái thứ này quá nhiều bằng đôi tay đâm mồ hôi của mình chứ”
Cảnh này diễn ra gần hai mươi phút, suốt thời gian ấy, vầng trán ông dường như được kẻ thêm nhiều nếp nhăn hơn do thất vọng cũng có mà bực mình cũng có. Rồi, thật bất ngờ với cả hai cử toạ chúng tôi ông nhảy phắt khỏi ghế, kêu lên một tiếng vô cùng sảng khoái.
“Hay! Hay lắm! Thật tài tình. Bây giờ, nếu quý vị không phiền mà bước lên vài bước gần hơn, tôi có thế khiến các ông kinh ngạc với chút mẹo vặt này”.
Hai chúng tôi xúm quanh bàn, Sherlock Holmes nhặt tờ giấy lên, hà hơi nhẹ nhàng để thổi đám mây bột chì lên bề mặt con voi, bên sườn trái của nó. Rồi ông vẫn dùng con dao nhíp cạo nhẹ lên mình voi, cho tới khi tất cả bột than chì rớt hết xuống bàn. Như thể có ma thuật, một số dấu vân tay, trong đó có cả dấu ngón cái hiện lên trên phần thân voi có dính bột chì. Những đường nét thẳng và xoắn đen đen của dấu vân tay hiện lên rất rõ dưới ánh sáng màu vàng nhẹ của ngọn đèn bằng đồng thau.
“Phải,” Holmes nói, “hầu hết những dấu tay này đêu thuộc về những ngón tay nhơm nhớp mồ hôi của anh bạn Bồ Đào Nha kia, nhưng nếu các ông quan sát kỹ hơn ở đây…”
Sử dụng mũi dao như một vật để điểm chỉ, ông chỉ vào một dấu tay to, rõ ràng, với những đường vân lượn tròn của một ngón tay cái thô kệch bị một đường chéo cắt ngang qua.
“Đó không phải là bằng chứng có sức thuyết phục cao”, Sherlock Holmes nói, gấp con dao nhíp lại bỏ vào túi, “nhưng ít nhất nó cũng có thể dùng để chứng minh rằng Đại tá Moran, ở một thời điềm nào đó, đã cầm tới vật này”
“Đó là bằng chứng tuyệt vời nhất, thưa ngài; quod erat demonstrandum(2) nếu tôi được miễn thứ cho một diễn đạt như thế,” tôi thốt lên khâm phục.
“Tôi nợ ông một lời xin lỗi, ông Holmes ạ,” Strickland nói, giọng rầu rĩ, “Tôi nên tin tưởng nhiều hơn vào tài năng của ông mới phải”.
“Anh đã khen ngợi tôi quá lời rồi đấy, Strickland ạ. Tôi phải thừa nhận là đã gặp may trong trường hợp này. Khi cân nhắc các khả năng, tôi đã không dám hy vọng một mẫu hoàn hảo đến thế về dấu ngón tay cái của ngài Đại tá, nhất là khi viên thư ký trung thành với chủ đã xoá đi gần hết dấu vân tay đã in lên trên mình voi trước đó bằng những hành động vụng dại, non nớt của mình.
Nhưng tôi đã nắm lấy cơ hội vì “a vaincre sans peril, on triomphe sans gloire”(3). Corneille(4) nói rất hay về những điều như thế. Nhưng để có được bằng chứng không thể chối cãi, anh cũng cần có trong tay một mẩu dấu ngón tay cái của đại tá đề so sánh vai dấu tay trên mình voi. Chắc anh cũng biết, không có hai người nào có dấu tay giống nhau”.
“Phải, ông Holmes,” Strickland trả lời, “tôi đã nghe một điều gì đó tương tự như thế; mặc dù cho đến nay tôi vẫn chưa hiểu rõ, không biết điều này liệu có ích gì trong thực tế, nhất là trong việc diệt trừ tội ác không?”
“Một vốn hiểu biết rộng và chính xác là vô cùng cần thiết cho việc cải thiện nghệ thuật điều tra của nghề thám tử”. Sherlock Holmes giải thích với tác phong của một ông thầy. “Từ thuở xa xưa, người Babilon đã lăn dấu tay lên đất sét để xác định tác giả của những kiểu chữ viết hình nêm và để chống lại việc giả mạo. Dấu tay cũng đã được người Trung quốc sử dụng từ rất sớm với mục đích nhận dạng. Có thể các ông chưa biết rằng tôi là tác giả của một chuyên khảo khiêm nhường về đề tài này. Trong cuốn sách có tựa đề Nét độc đáo và sự phân loại dấu tay và ngón tay ngón tay cái con người tôi đã phân ra thành năm nhóm chính với những đặc điểm tiêu biểu nhất cùng các nhóm phụ khác; theo đó dấu tay con người có thể được phân loại và lập hồ sơ theo hệ thống. Tôi đã dành trọn hai chương tập trung nói về những phương pháp, qua đó có thể phát hiện dấu tay trên các vật như thuỷ tinh, kim loại, gỗ, thậm chí cả trên giấy. Bản thân tôi cũng đã phát triển một phương pháp riêng, mà các ông vừa chứng kiến một cách sơ sài, nhờ thế các dấu vân tay gần như không thể nhìn thấy lại có thể được làm nổi bật hay hiện rõ lên bằng cách sử dụng khéo léo các loại bột mịn có màu sắc tương phản thích hợp với bề mặt của vật. Bột bám chặt vào các đường nét của dấu tay, vì chất dầu và mồ hôi trên cơ thể bao giờ cũng hiện lên trên bề mặt bàn tay con người và luôn để lại dấu vết bàn tay trên bất cứ bề mặt nào mà chúng ta chạm vào: Những dấu tay hiện rõ như thế có thể được chụp lại để cung cấp – như chúng ta có thể nói – như một vật chứng ở toà án.
“Trong chuyên khảo đó tôi cũng cung cấp nhưng bằng chứng không thể chói cai về một hệ thống dấu tay tốt hơn hệ thống của ngài Bertillon(5) trên phương diện nhân trắc học trong việc nhận dạng tội phạm. Nhưng chắc là tôi đã khiến các vị phải mệt mỏi về những ám ảnh của tôi về những chi tiết vụn vặt “
“Ồ, không phải như vậy,” Strickland háo hức nói. ” Đó là mối quan tâm lớn nhất của tôi. Chắc chắn, một hệ thống như ông miêu tả có thể tạo nên một cuộc cách mạng thật sự trong công việc của ngành cảnh sát”.
“Điều đó thì không có gì phải nghi ngờ nữa, nhưng nó không nằm trong thẩm quyền của một cố vấn điều tra độc lập nếu người này muốn áp dụng một hệ thống như thế để hưởng lợi nhiều nhất từ hệ thống. Một việc như vậy đòi hỏi nguồn lực của một tổ chức lớn thuộc về nhà nước, như Scotland Yard chẳng hạn, chỉ có họ mới có thể lập hồ sơ dấu tay của tất cả những tên tội phạm hay những kẻ bị tình nghi mà họ đã gặp rồi lưu trữ lại bằng cách thức nào đó khiến cho bất cứ dấu tay mẫu nào cũng luôn có sẵn để đối chiếu với dấu vân tay trên hiện trường vụ án. Nhưng có vẻ như Scotland Yard không phải là những người sẽ hào hứng ủng hộ cho bất cứ một hệ thống nào mang tính cách mạng”.
“Chà, ông Holmes ạ, tôi sẽ xem đó là một vinh dự lớn nêu như ông cho phép tôi áp dụng hệ thống dấu vân tay của ông trên đất nước này(6). Lực lượng cảnh sát Ấn Độ, mặc dù còn nhiều điểm thiếu hụt vẫn đủ trẻ trung để thỉnh thoảng đám nhận vai trò của người đi tiên phong”
“Vinh dự đó sẽ thuộc về tôi chứ, Strickland. Không hề có bằng sáng chế hay bảo hộ bản quyền cho những phương pháp của tôi đâu. Chỉ có một yêu cầu duy nhất, anh không được tiết lộ tên tôi, nhất là trong trường hợp những cố gắng của anh đơm hoa kết trái, đủ để thu hút sự chú ý của báo giới. Trong hoàn cảnh hiện nay thì điều phù hợp nhất với mục đích của tôi là hãy để cho cả thế giới này nghĩ là tôi đã chết. Rất tiếc là tôi không đem theo một bản sao chuyên khảo đó đến đây, nhưng anh có thể lấy nó ở chỗ Huber ở London, nếu anh muốn. Họ cũng có một số tác phẩm không đáng kể khác của tôi mà có lẽ cũng khiến anh quan tâm. Một cuốn có tên là Sự phân biệt giữa các tàn thuốc lá khác nhau có thể rất hữu ích cho anh. Còn điều này nữa, nếu anh có thể nhận ra được tàn thuốc lá màu đen loại Trichinopol tại hiện trưòng của một vụ giết người, vậy thì anh có thể tính Đại tá Sebastian Moran vào diện tình nghi, vì tôi biết ông ta hút loại thuốc đó”.
“Tốt lắm, ông Holmes ạ!” Strickland nói với một tiếng cười khe khẽ trong cổ, “dù là thuốc hiệu Trichinopoly hay Lunkah thì ông cũng có thể trông cậy vào chúng tôi trong việc buộc ông đại tá phải đứng sau song sắt trong một tương lai không xa. Một khi tên thư ký đã có thời gian để ngẫm nghĩ về thái độ của mình trong xà lim, hắn sẽ phải cân nhắc xem có nên thành thật khai báo để nhận cái án đi đày đến đảo Andaman vốn nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với việc treo toòng teng dưới giá treo cổ hay không”.
Đúng lúc đó có tiếng gõ hối hả vào cánh cửa. Strickland đứng dạy ra mở cửa. Đứng ở ngoài hành lang là gương mặt căng thẳng xớn xác của một viên cảnh sát sở tại.
“Havildar, có chuyện gì thế?” Strickland hỏi.
Viên cảnh sát lầm bầm điều gì đó mà chúng tôi nghe không rõ. Strickland quay gương mặt lo lắng về phía chúng tôi:
“Viên thư ký người Bồ Đào Nha vừa bị bắn chết ngay trước sở cảnh sát”.
Chú thích:
(1) Có thể nào con đỉa này có mối liên hệ nào đó với “câu chuyện ghê gớm về con đỉa đỏ” mà Watson đã nhắc tới ở phần giới thiệu trong cuộc phiêu lưu Chiếc kính kẹp mũi bằng vàng?(2) quod erat demonstrandum (tiếng Latin) sự việc đã được chứng minh(3) a vaincre sans peril, on triomphe sans gloire (tiếng Pháp): thắng mà không hiểm nguy thì cũng chẳng vinh quang gì.(4) Pierre Corneille (1606-1684): nhà soạn kịch vĩ dai người Pháp trong thế kỷ 17 được mệnh danh là “cha đẻ của bi kịch Pháp”.(5) Alphonse Bertillon (1853-1914), thám tử vĩ đại người Pháp, là cha đẻ của một hệ thống mang tính cách mạng trong việc phân loại và bắt tội phạm bằng cách đo và ghi chép lại những phần không thể thay đổi trong cơ thể người. Ông gọi phát minh của mình là “nhân trắc học” hay phép đo người.(6) Vào năm 1896, tại quận Hooghly ở Bengal, lần đầu tiên trên thế giới thanh tra trưởng sở cảnh sát đã giới thiệu hêh thống dấu tay nhận dạng tội phạm. Nhưng mãi đến năm 1901. Scotland Yard mới chấp nhận hệ thống phân loại dấu tay Henry dựa trên cơ sở “hình dáng và đường vân tay.