Sherlock Holmes Mất Tích

Chương 4: Nỗi Kinh Hoàng Màu Đỏ


Bạn đang đọc Sherlock Holmes Mất Tích – Chương 4: Nỗi Kinh Hoàng Màu Đỏ

Sự trùng hợp không ai đoán trước được giữa lời tuyên bố bất ngờ của Strickland với tiếng thét rợn gai ốc kia phần nào khiến cho đầu óc tôi trở nên rối bời. Riêng Strickland nhanh chóng đứng phắt dậy.
“Chuyện quái quỷ gì thế!”
Một tiếng rú khác vang lên trong không gian vừa yên ắng được vài giây.
“Mau lên nào, các ông…” Sherlock Holmes kêu to. “Nó vọng đến từ tiền sảnh”.
Chúng tôi lao ra khỏi phòng viên quản lý khách sạn và đâm bổ xuống hành lang. Trong lúc chạy thục mạng như vậy, một ý nghĩ choáng váng vụt lên trong đầu tôi: Sherlock Holmes của chúng ta đã chết cách đây hai tháng rồi cơ mà. Tất cả những tờ báo lớn nhỏ trong Đế chế, nói rộng ra là khắp thế giới, đều tường thuật câu chuyện bi thảm về cuộc chạm trán định mệnh giữa nhà thám tử tài ba với tên giáo sư độc ác tinh quái Moriarty tại thác Reichenbach ở Thuỵ Sĩ. Vậy thì thế lực nào đã đưa ông ta quay trở lại cuộc sống? Nhưng ngay trước khi có thể định thần để đặt ra một câu hỏi rõ ràng trong đầu thì tôi đã đứng trước một cảnh tượng quái đản và khủng khiếp đến nỗi chắc chắn tôi sẽ đem theo ký ức đáng sợ này xuống tuyền đài.
Trong gian tiền sảnh khách sạn được thắp sáng bởi ba ngọn đèn chùm kiểu thành Viên hết sức rực rỡ, tráng lệ, hiện có khá nhiều quý ông và quý bà ăn mặc trang trọng lịch lâm; mỗi người về phần mình đều chiếu ánh mắt vô cùng kinh hoàng lên đầu cái cầu thang ngăn đôi phần sau gian tiền sảnh. Tác giả của tiếng hét là một burra mem đứng tuổi, người mới đây, qua cái nhìn chê bai, đã từ chối sự hiện diện của tôi ở một nơi sang trọng đẹp đẽ như thế này. Còn bây giờ thì bà ta tách lên đứng trước nhóm người tụ tập ở chân cầu thang vài bước và dường như đang chuẩn bị lấy hết sức để phát ra thêm những tín hiệu của nỗi sợ hãi tột cùng.
Ở đầu cầu thang trên cùng, nơi thu hút tất cả những cái nhìn ngây dại của mọi người, là một hình ảnh biểu lộ nỗi kinh hoàng thuần tuý, đúng như cảnh địa ngục của người Hindu. Đó là một người đàn ông – hay ít nhất nó cũng có hình dáng của một người đàn ông – đỏ ối toàn máu là máu. Máu ở đâu ra mà nhiều thế, đến nỗi không ai có thể nhận ra một chi tiết nào về y phục hoặc hình thể học bên dưới lớp máu đỏ đang phát ra cái ánh mờ mờ ma quái. Cả cái thân hình nhuộm đỏ máu ấy đang rờ rẫm và loạng choạng như người mù tiến về phía trước. Trên hề mặt đỏ lòm của cái mặt ấy lộ ra một cái lỗ đen ngòm và từ đó phát ra tiếng tru hoang dại đau đớn của một con thú, tiếng kêu ấy tắt lịm đi trong tiếng ồng ộc chết người như thể còn bao nhiêu máu trong người đều theo đó ộc ra hết. Cả thân hình khuỵu xuống chậm rãi một cách lạ lùng rồi lăn tròn từng bậc cho đến tận chân cầu thang, đúng ngay dưới chân quý bà kia thì dừng lại làm máu vấy tung lên chiếc váy dài trắng muốt của bà ta.
Quý bà lại hét lên một tiếng chói tai nữa và ngã lăn ra ngất xỉu.
Strickland lao đến trước, tiếp theo là tôi, hai chúng tôi nâng bổng quý bà lớn tuổi kia lên, khiêng đến chỗ chiếc ghế dài nơi người quản lý khách sạn và mấy người đàn bà đang đúng rúm vào nhau với vẻ kinh hoàng; chúng tôi giao bà ta cho họ để họ chăm sóc.
“Mọi người vui lòng tránh xa khỏi chỗ này,” Strickland hét lên át cả những tiếng kêu náo loạn. “Tôi là sĩ quan cảnh sát và không có lý do gì phải sợ hãi quá đáng”. Anh ra hiệu cho người quản lý, người này nhanh chóng tiến lại gần. “Nhờ ông cho chuyển ngay lá thư này cho thanh tra MacLeod tại đồn cảnh sát Horniman,” anh ta ra lệnh, viết tháu vài dòng vào một mảnh giấy và trao ngay cho người quản lý đang run như cầy sấy.
“Thật là một chuyện khủng khiếp nhất trên đời, thưa ngài, một việc như thế chưa bao giờ…”
“Dẹp những chuyện ba láp đi ông bạn!” Strickland ngắt lời, vẻ sốt ruột. “Cử ngay ai đó đến đồn cảnh sát đi”.
Trong lúc ấy, Sherlock Holmes quỳ gối bên cạnh cái thân hình đẫm máu, chăm chú nhìn vào đồng tử nạn nhân mà ông đã vạch ra bằng cách kéo mí mắt lên. Khi Strickland quay lại, Holmes lắc đầu một cái rất dứt khoát.
“Ông ta chết đứ đừ rồi”. Sherlock Holmes vừa nói vừa lau các ngón tay vào một chiếc khăn mùi soa. “Bao nhiêu là máu chảy ở đây… Hừm… từ khắp mọi phần trên cơ thể”.
Mặc dù là một người có ăn có học và điều đó có nghĩa là tự trong bản chất tự nhiên, tôi đã dị ứng với máu me và bạo lực, nhưng vì tính chất nghề nghiệp của mình mà tôi đã tận mắt chứng kiến cái chết ở nhiều dạng thức và trong những cảnh huống khác nhau. Nhưng cái hình nhân đàn ông này, từ hình khối đến đường nét đều bị che phủ dưới tấm mền máu khủng khiếp này thì trông không có vẻ gì thuộc về con người mà giống như một con quỷ kỳ dị đỏ bầm, chỉ làm dậy lên trong lòng tôi một nỗi kinh hoàng mà tôi chưa từng nếm trải. Nhưng tất nhiên tôi không để lộ ra ngoài.
Sherlock Holmes thì dường như bị kích động chứ không bị sốc trong tình huống khủng khiếp này. Trông ông không hề có một biểu hiện nào của nỗi kinh hoàng đang bóp nghẹt trái tim tôi khi đứng trước cảnh tượng ghê rợn; trái lại, ông có dáng vẻ điềm tĩnh và an lạc của một thánh nhân đang ngồi kiết già trên tấm thảm da hoàng, trầm tư mặc tưởng về cái lẽ bí ẩn thâm sâu của sự sống và cái chết.
Ông nhanh chóng lau sạch khuôn mặt của người chết bằng khăn tay của mình. Tuyệt không thấy có bất cứ vết thương nào trên mặt nạn nhân, thế mà chỉ ít giây sau cả khuôn mặt kia, một lần nữa, lại phủ đầy máu.
“Một trường hợp độc nhất vô nhị,” đó là lời nhận xét duy nhất mà Sherlock Holmes thốt ra khi ném chiếc khăn tay đẫm máu đi. Ông quay sang Strickland: “Xin anh vui lòng ở lại đây và đảm bảo rằng không ai đến gần cái xác trong khi tôi lên lầu quan sát một chút, được không?”
“Chắc chắn rồi. Tôi sẽ lên chỗ ông ngay khi MacLeod và người của ông ta đến đây”.
Sherlock Holmes quay sang phía tôi.
“Ông có muốn đi cùng tôi không, ông Mookerjee? Có lẽ, có những câu hỏi cần lời giải đáp và sự dốt nát của tôi về người Hindu chắc chắn sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong vụ án này”.
“Thật là một vinh hạnh lớn cho tôi, thưa ngài, nếu tôi có bất cứ một tài mọn nào được chứng minh là có ích đối với ngài”.
Tôi đã hình dung trong đầu rằng Sherlock Holmes sẽ ngay lập tức lao vào điều tra những bí ẩn đằng sau vụ này, nhưng xem ra chẳng hề có chuyện như vậy. Với một dáng điệu dửng dưng, trong hoàn cảnh này thì gần như là kiểu cách, ông đủng đỉnh đi lên cầu thang. Lên đến đầu cầu thang, ông bình thản ném một cái nhìn lơ đãng khắp xung quanh trần nhà, sàn nhà và những hức tường vấy máu (toàn bộ khung cảnh trông giống như trong một lò mổ). Có vẻ như ông cho rằng thế là quá đủ cho phần khảo sát chiếu lệ của mình và với cái dáng hơi nhún nhảy nhẹ như mèo, Holmes tiếp tục rẽ vào hành lang bên trái, lần theo những vết chân màu đỏ rõ mồn một và những vũng máu không thể lẫn vào đâu.
Dọc theo hành lang, kéo dài qua khoảng năm phòng thì vết chân dừng lại, chỉ còn một vài đốm máu nhỏ trên tấm thảm.
Sherlock Holmes kiểm tra hai cái cửa nằm ở hai bên, nhưng chỉ có cánh cửa bên phải của phòng số 289 là mở được. Chìa khoá vẫn còn trong ổ. Holmes mở cửa bước vào.
“Hừm, có vẻ như là không có ai ở đây thì phải”.
“Có phải ngài đang chờ gặp một ai đó?”
“Sao ông lại hỏi thế?”

“Vâng, thưa ngài, nếu có kẻ nào đó trong vụ án này toan tính bất cứ một hành động bạo lực không thích hợp nào thì tôi không muốn nó xảy ra như một tình tiết chưa được chúng ta tính toán. Thần kinh của tôi khó chấp nhận một cú sốc nào như thế”.
“Vậy, ông nghĩ nạn nhân của chúng ta đã bị giết”.
“Còn có lời giải thích nào khác chăng?”
“Cả đống. Lại vẫn là sai lầm nghiêm trọng nhất khi đưa ra các giả thuyết trong lúc vẫn còn chưa có đủ các dữ kiện. Xin chào! Ai đó?”
Ở cuối hành lang xuất hiện một bhangi(1) đứng tuổi, trên tay cầm một cái chổi cán ngắn.
“Ông ta chỉ là một người quét dọn, thưa ngài, có thể khẳng định đó là một người lao công trong khách sạn”.
“Đưa ông ta đến đây khoảng một phút, được không?”
“Chắc chắn là được, thưa ngài. Người hầu phòng! Đến đây, mau lên!
Ông già lúp xúp tiến về phía trước trên đôi bàn chân trần không mang giày, khi tới gần chỗ chúng tôi, ông cúi chào Sherlock Holmes.
“Namaste, sahib”(2)
“Hỏi ông ta xem, vừa nãy ông ta có thấy bất cứ điều gì bất thường không?”.
“Nghe cho rõ đây, ông già,” tôi nói với ông ta bằng tiếng bản xứ. Ông có thấy gì không bình thường cách đây ít lâu không?”
“Babuji, tôi chẳng thấy gì suất, à nhưng mà có,” khuôn mặt già nua của ông già chợt sáng lên, “tôi có nghe một tiếng hét lớn, giống hệt như tiếng một chural(3)”.
“Tất cả những ai được Thượng đế ban cho đôi tai đều nghe được tiếng đó,” tôi ngắt lời một cách bực bội. “Giờ thì hãy nghe cho rõ, hỡi kẻ tôi tớ của Lal Beg(4). Sahib cao lớn này là một sakht burra atsar của cảnh sát. Có một người vừa mất mạng. Phải, đấy là tiếng thét mà lão vừa nghe thấy và sahib này có mặt ở đây là để điều tra. Nếu lão muốn giữ được chỗ làm của mình ở khách sạn này, hãy kể cho ta nghe tất cả mọi chuyện, không được giấu giếm bất cứ điều gì, nghe chưa?”
“Hai mai” lão già cất tiếng than van. “Thật bất công. Tôi chẳng thấy gì cả, thưa ngài. Chẳng có ai đi qua lối này cả. Chỉ có một sahib người Angrezi khác rời khỏi đây bằng cầu thang phía sau”.
“Bình thường các quý khách có sử dụng cầu thang đó không?”
“Không, thưa ngài. Nó chỉ dành cho những người phục vụ trong khách sạn mà thôi”.
“Gadha! Đồ con lừa! Tại sao lão không nói ngay từ đầu hả?”
Tôi quay sang giải thích cho Sherlock Holmes nghe cuộc trao đổi qua lại giữa người quét dọn và tôi.
“Nghe cho rõ đây, lão già,” tôi nói, trừng mắt nhìn lão lần nũa với cái nhìn nghiêm khắc, sahib đó trông như thế nào và ông ta rời khỏi đây khi nào?”
“Babuji,” ông già lại rên lên một tiếng, “tất cả các sahib người Angrezi trông đều giống nhau cả”.
“Này, cẩn thận, không thì lão vào nizamut(7) đấy,” tôi nghiêm giọng nói, “nếu lão không cố mà nhớ lại, nhanh lên”.
“Babuji, tất cả những gì mắt tôi thấy là một sahib mảnh khảnh, không còn quá trẻ, bộ ria mép trông rất buồn cười, mũi thì dài dài là. Ông ta có vẻ rất hoảng hốt lúc chạy ngang qua mặt tôi”.
Đôi môi mỏng của Sherlock Holmes mím lại khi tôi nói cho ông biết điều này.
“Hãy bảo ông ta trả lời chính xác xem người đó rời khỏi đây vào lúc nào”.
“Ông ta nói, chỉ vừa mới đây thôi, thưa ngài, chỉ trước khi chúng ta gọi ông ta. “
“Trời đất ơi! Vậy cái cầu thang đó ở đâu?”

“Người lao công nói nó ở cuối hành lang, thưa ngài, nó dẫn xuống lối đi dành cho nhân viên tiếp phẩm”.
Holmes chạy nhanh qua hành lang, lao xuống một cái cầu thang hẹp, không cho tôi một sự lựa chọn nào khác ngoài việc hớt hải chạy theo ông. Chúng tôi vội vàng lao qua cửa sau, chạy vào một lối đi hẹp. Nhưng rô ràng con mồi đã chuồn ngay trước mũi chúng tôi, vì kia kìa, chỉ cách chúng tôi khoảng gần một trăm mét, một chiếc xe ngựa ào ào lao xuống con đường tối om vắng người qua lại. Đến ngã tư, chiếc xe đột ngột rẽ ngoặt vào con đường chính và chỉ trong tích tắc, nó hiện lên rất rõ trong vùng sáng của ngọn đèn đường. Đúng lúc đó, người hành khách trong xe nhổm dậy khỏi ghế ngồi quay đầu lại nhìn. Đó chính là khuôn mặt chồn sương của gã đàn ông hồi chiều!
“Tôi e là chúng ta đã chậm chân một chút,” Sherlock Holmes vừa quan sát vừa nhét một khẩu súng lục có ổ quay lớn vào trong túi áo choàng. “Không biết liệu ông có nhìn được số đăng ký của chiếc xe ngựa không?”
“Không, thưa ngài, nhưng tôi lại thấy một điều khác,” tôi kể cho ông nghe về gã đàn ông mặt chồn sương khi chúng tôi leo lên cầu thang trở lại hiện trường.
“Đúng thế, đúng thế. Hắn ta có thể là một trong những kè đồng mưu,” ông nhận xét lúc chúng tôi quay lại hành lang. “Tôi nên lường trước một điều gì đó như thế này. Ô này, Strickland đang ở đây. Cảnh sát hẳn đã đến”.
“Thưa ngài Sherlock Holmes, ngài đã phát hiện được gì chưa?” Strickland sốt ruột hỏi.
“Tôi mới chỉ kịp lướt một vòng qua hiện trường gây án, trước khi sự chú ý của tôi bị phân tán bởi một tình tiết khác”.
Sherlock Holmes bắt đầu kể cho Strickland nghe câu chuyện của ông già quét dọn trong khách sạn và cuộc chạm trán thoáng qua của chúng tôi với kẻ bí ẩn có mặt chồn sương. Ông kết luận.
“Như vậy, bây giờ được sự cho phép của anh, tôi sẽ tiến hành điều tra”.
Nói xong, ông lấy từ trong túi áo ra một cái kính lúp cực mạnh và một thước dây. Với hai dụng cụ này, ông di chuyển dọc theo hành lang, không gây một tiếng động nào, đôi lúc dừng lại, có khi lại quỳ gối và có một lần nằm ép mặt xuống sàn nhà. Ông chăm chú quan sát một điểm, vẫy tay ra hiệu cho Strickland và tôi lại gần.
“Các anh có nhận ra đây là cái gì không?” ông hỏi, chỉ vào vật gì đó trên sàn.
“Nó trông như một cục máu lớn,” Strickland trả lời.
“Hừm… có khả năng; tuy nhiên, có ai trong các ông vui lòng cho tôi mượn chiếc khăn tay không?”
Tôi móc túi chìa ra cái khăn mùi soa của mình. Ông nhận lấy và lau cục máu đỏ. Bên dưới hiện ra một vật gì màu xam xám.
“Sao cơ, đó là một mẩu cao su Ấn Độ?” tôi kêu lên.
“Ông cho là thế ư?” Holmes nhận xét. “Tốt lắm, tôi nghĩ đó là tất cả những gì có thể tìm được ở đây. Nào, bây giờ chúng ta hãy di xa hơn nữa”.
Holmes hước hẳn vào trong phòng 289 và ở đó khoảng mười lăm phút để thực hiện một trong những cuộc điều tra công phu vốn là nền tảng vũng chắc cho những thành công vượt trội của ông. Thật là một kinh nghiệm để đời đối với tôi, khi lần đầu tiên được dịp tận mắt quan sát cách làm việc thực thụ của một chuyên gia đã đạt được những thành tựu vô tiền khoáng hậu và nhờ thế mà nổi tiếng khắp năm châu. Cái vẻ háo hức, thích thú trên khuôn mặt Strickland cho biết cảm nhận của anh ta cũng giống như của tôi: Vào lúc ấy tôi đã không ngăn được cảm giác vui sướng khi chứng kiến cảnh thám tử Sherlock Holmes vĩ đại lầm bẩm một mình suốt thời gian đó, liên tục thốt ra những thán từ và thỉnh thoảng lại huýt sáo miệng, dấu hiệu của sự phấn khích và hy vọng, nhưng đôi lúc ông lại cất tiếng rên rỉ và thở dài, cho thấy chắc chắn mọi việc không đơn giản.
Dừng lại cạnh chiếc giường lớn, Sherlock Holmes kêu to, đồng thời chỉ tay xuống sàn.
“Được lắm, được lắm. Xem chúng ta có gì ở đây nào?”
“Có vẻ như đây là những dấu vết của mấy cái chân ghế,” Strickland nhận xét.
“Cái bàn, anh bạn Strickland thân mến ạ, đích thị là một cái bàn. Khoảng cách giữa các dấu vết này quá rộng so với một chiếc ghế. Nhưng thường thì nó không được kê ở đây, vì nếu vậy dấu vết do nó để lại sẽ phải sâu hơn và phải làm cho màu sắc trên thảm ở ngay chỗ đó khác với màu xung quanh. Vì vậy, cái bàn này chỉ vừa mới được đặt vào đây không lâu. Mọi người hây nhìn đây lông trên tấm thảm ở ngay chỗ đó đang từ từ trở về tư thế cũ kia kìa”. Ông đứng thẳng lên, đưa mắt nhìn khắp phòng. “Và kia, chúng ta có một thứ ngay ở chỗ đó”.
“Nhưng còn có một cái khác giống nó ở đầu kia căn phòng,” tôi xen vào.
“À. Nhưng khả năng đây là một cái bàn thì cao hơn nhiều. Chỉ là vấn đề thuận tiện mà thôi. Con người thường có thói quen sư dụng những gì ở gần mình nhất”. Ông đi quanh bàn để kiểm tra. “Tôi cho là mình đã đúng. Hãy quan sát những vết trầy xước khá sâu trên lớp vecni kia. Trời ơi, ai lại nỡ đối xử với một món đồ đẹp dường này một cách thô bạo đến thế chứ. Rõ ràng đã có ai đó đứng trên mặt bàn. Mà lại còn dận một đôi giày to tố chảng nữa chứ. Hừm. Giờ hãy xem chúng ta có thể ráp các mảnh lại với nhau được chưa. Ông có thể giúp tôi một tay chứ?”
Sherlock Holmes và tôi nâng bổng cái bàn qua khỏi giường và cẩn thận đặt xuống sàn, sao cho chân bàn khít rịt với vết lõm để lại trên tấm thảm.
“Một sự trùng hợp hoàn hảo, thưa ngài Sherlock Holmes,” tôi nói, giọng thoả mãn. Nhưng Sherlock Holmes đã đứng lên trên bàn và đang giơ tay sờ vào một chiếc đèn bằng đồng thau, là đồ sản phẩm nội địa được treo vào một sợi dây mảnh ngay phía trên cái giường. Chiếc đèn, một tác phẩm thu công hiệu Benaras, rập theo hình dáng của một con voi, được chạm trổ công phu với nhiều đường nét phức tạp, hoàn hảo. Dùng chiếc khăn tay để cầm lấy chiếc đèn, ông kiểm tra nó thật kỹ lưỡng bằng cái kính lúp của ông. Cuối cùng, khoảng mười phút sau, ông để cho cái đèn đu đưa phía trên đầu, rồi nhảy xuống sàn.
“Thật tài tình. Đúng là một âm mưu hiểm độc, khéo léo không chê vào đâu được. Lẽ ra tôi không nên để mất nhiều thời gian như thế…” ông cúi xuống nghiên cứu cẩn thận tấm khăn trải giường với chiếc kính lúp trên tay. “Bây giờ, nếu mọi việc hợp lô-gíc thì ở đây nên có… A! Đúng như tôi đã mong đợi”.

Dùng một con dao nhíp nhỏ, Sherlock Holmes tỉ mẩn cạo một mảng nhỏ màu nâu từ một vết gì đó trên tấm ga trải giường rồi đưa nó tới gần phía dưới ánh sáng đèn để kiểm tra.
“Rành rành là một vết xi gắn. Các ông không nghĩ vậy ư, thưa quý ông?”
“Thưa ngài Sherlock Holmes,” Strickland đột nhiên kêu lên, giọng anh ta như đã mất hết cả kiên nhẫn, “phải có mối liên hệ nào đó giữa tất cả chuyện này với người vừa chết dưới kia chứ? Có phải người đàn ông kia bị giết không, nếu đúng như vậy thì việc đó đã xảy ra như thế nào? Và tại sao lại chay máu nhiều đến thế? Thật tình, tôi nghĩ ông nên đối xử với chúng tôi chân tình hơn một chút”.
“Trong mớ kinh nghiệm của mình, tôi không nhớ là còn có một nghiên cứu nào thú vị và khác thường hơn trường hợp này. Cuộc điều tra của tôi gần như đã hoàn tất, nhưng tôi cần phải xác minh lại một vài chi tiết trước khi có thể thông báo kết quả điều tra của tôi cho các vị. Tuy vậy, tôi đảm bảo với hai người rằng tôi sẽ chỉ hoãn việc trả lời những câu hỏi của các vị trong thời gian ngắn nhất. Trong lúc đó, tôi nghĩ quý vị nên biết rằng người đàn ông đã chết một cách tức tưởi dưới cầu thang kia là nạn nhân của một vụ giết người, đồng thời là một vụ tai nạn”.
“Thưa ngài, điều ngài nói xem ra rất mâu thuẫn,” tôi xen vào.
“Ông đang biến chúng tôi thành những kẻ ngốc đấy, thưa ông Sherlock Holmes,” Strickland giận dỗi nói.
“Chà, chà, anh bạn Strickland thân mến. Điểm đầu tiên mà tôi khám phá ở anh là việc anh dễ dàng nổi đoá. Dù sao thì đó cũng là lỗi của tôi. Tôi nên làm sáng tỏ mọi việc mới phải”.
“Sáng tỏ ư, ông Holmes?” Chúng ta thậm chí còn chưa biết người chết dưới kia là ai nữa”.
“Người chết là một người địa phương làm nghề bồi bàn ở ngay trong khách sạn này. Chẳng có gì phải nghi ngờ về việc anh ta bị ám sát. Nhưng cái chết của anh ta cũng lại là một tai nạn ngẫu nhiên, bởi anh ta, xui xẻo làm sao, lại chui đầu vào đúng cái bẫy chết người mà hung thủ giăng ra cho nạn nhân thực sự của hắn”.
“Vậy cái người mà kẻ sát nhân kia muốn ám sát là ai?”
“Còn ai khác ngoài Sherlock Holmes này, theo cách hình dung của tôi”.
“Ông ư, ông Sherlock Holmes?”
“Ồ, tôi phải thừa nhận có một mức độ xấu xa nào đó trong những vòng xoay tội ác này,” Holmes mỉm cười lặng lẽ, “nhưng mà đó là cả một câu chuyện dài và…”
Có một ký ức mơ hồ nãy giờ cứ luẩn quẩn trong đầu, đúng lúc này lại đột nhiên nảy ra trong óc tôi, trong vắt như pha lê.
“Con tàu, ông Sherlock Holmes,” tôi kêu lên.
“Sao, lại có chuyện gì?” Strickland gắt lên.
“Theo lịch trình, con tàu Kohinoor lẽ ra phải cập bến vào lúc giữa trưa, thế nhưng nó bị trễ, tận buổi chiều mới đến. Nếu mọi thứ diễn ra theo đúng lịch trình, ông Holmes không những có mặt ở khách sạn này vào buổi tối, mà thậm chí còn có thể đã ở trong phòng và rất có thể chính là căn phòng này, vào đúng lúc xảy ra tai nạn”.
“Như vậy, ông Holmes đây lẽ ra đã trở thành một cái xác đẫm máu, chứ không phải anh chàng xấu số kia?” Strickland hỏi.
“Có thể lắm,” Sherlock Holmes nhẹ nhàng nói. “Chỉ là có thể thôi. Tôi cả quyết với quý vị là tôi hoàn toàn không khoác lác về khả năng tiên liệu được vấn đề, khi tuyên bố rằng tôi đã lường trước được một cuộc tấn công nhắm vào cá nhân tôi. Từng có bốn vụ mưu sát nhắm vào tôi, chỉ tính riêng trong tháng này, dù vậy tôi vẫn phải thừa nhận âm mưu lần này là đáng quan tâm nhất”.
“Nhưng căn phòng,” Strickland kêu lên. “Làm thế nào tên sát nhân biết được rằng…”
Đúng lúc ấy một sĩ quan cảnh sát có vẻ mặt khắc khổ vận bộ đồ vải ka ki bước vào phòng. Ông ta xoắn xoắn bộ ria mép lởm chỏm ngả màu muối tiêu một cách lo lắng và nói.
“Xác chết đâm được chuyển tới nhà xác, thưa ngài,” ông ta nói với Strickland, giọng vùng Arbedonia khá nặng. “Trong suốt cuộc đời binh nghiệp của mình tôi chưa bao giờ nhìn thấy cái xác nào nhiều máu đến vậy. Không hiểu trên đời này có cái gì mà lại gây nên một cái chết khủng khiếp, thương tâm đến như thế nhỉ?”
“Ai cũng có một nhận định như thế, vào thời điểm này,” Stnckland trả lời. “Nhưng mọi chuyện sẽ trở nên sáng tỏ hơn một khi cái xác được khám nghiệm kỹ càng. Hôm nay ai trực ở phòng xét nghiệm?”
“Chắc là ông già Patterson, thưa ngài”.
“Hãy bảo ông ta rằng tôi muốn mổ xác khám nghiệm tử thi ngay lập tức. Tôi sẽ xuống hiện trường ngay khi kiểm tra xong một số điểm với ông Sigerson và người dẫn đường của ông ấy ở tại đây. Ông Sigerson đã kiểm tra kẻ xấu số vào phút cuối cùng, hẳn ông ấy đã nhìn thấy hoặc nghe được điều gì đó có liên quan đến vụ này”.
Một ngài sĩ quan chỉ huy, khi cần, cũng có thể nói dối trơn tru như một tên trộm cắp vặt.
“Như vậy, mọi việc có ổn không nếu người của khách sạn dọn sạch cái đống lộn xộn dưới kia? Chúng ta đã rà soát tất cả mọi chi tiết, nhưng có lấy được thông tin gì đâu”.
“Thôi được. Ông có dám chắc là người của các ông không bỏ sót bất cứ điều gì không?”
“Không một chút gì, thưa ngài. Tôi có thể đoan chắc là không có chuyện như vậy,” viên thanh tra đáp rồi nở một nụ cười buồn bã. “Người ta đang có một cuộc họp mặt cựu học sinh ở dưới gác – trường Đại học United Services, tôi nghĩ thế – còn người quản lý khách sạn thì được một phen hồn xiêu phách lạc. Khiếp máu ở đâu mà lắm thế, khắp cầu thang, chỗ nào cũng có”.
Ông ta bước ra khỏi phòng, vừa đi vừa sửa lại chiếc mũ cát két. “Tôi sẽ bố trí Havildar Dilla Ram và hai cậu bé ở lại đây làm nhiệm vụ”.
“Cám ơn ông, MacLeod. Chúc ngủ ngon”.
Sau khi viên thanh tra đi khỏi, Holmes ngước mắt nhìn lên trần nhà và thở dài. “Có thể thấy rõ cung cách làm việc của cảnh sát thành phố Bombay này cũng không khác gì lắm với cách làm của Scotland Yard trước đây”.

“Quay vào việc đi, ông Sherlock Holmes,” Strickland nói với giọng bị tổn thương. “Tôi thừa nhận là bọn chúng tôi hoàn toàn bất lực trong vụ án bí ẩn này và tôi cho là ông thì lại khác. Ông đã tung ra những gợi ý này khác ở chỗ này chỗ kia, nhưng tôi nghĩ chúng tôi có quyền hỏi thẳng, ông biết được bao nhiêu trong vụ này?”
“Anh bạn thân mến, tôi không hề có ý làm tổn thương tình cảm của anh đâu. Chỉ còn vài chi tiết cần được kiềm chứng, sau đó tôi đảm bảo với anh, tất cả sẽ được công khai. Nào, tôi muốn anh có mặt tại chỗ khám nghiệm tử thi và ghi chép tất cả mọi chi tiết một cách cẩn thận. Tôi không do dự khi cho rằng kết quả khám nghiệm có thể sẽ là giải pháp sống còn cho vụ án này”.
“Được ông Holmes,” Strickland nói, xem ra anh chàng đã được xoa dịu phần nào, “Ông có cách làm mọi chuyện trở nên phức tạp mới xong cơ, nhưng tôi đã biết cái tính kiệm lời của ông lâu đến nỗi tôi cho là mình có thể chịu đựng thêm một thời gian nữa”.
“Chà chà, anh bạn tốt của tôi,” Sherlock Holmes cười lớn, vỗ vỗ vào vai anh chàng. “Còn đây là việc cuối cùng và có thể nó nằm trong lĩnh vực được ông Mookerjee quan tâm nhiều: chỗ nào có thể kiếm được một bộ sưu tập sách liên quan đến quần thề thực vật và động vật của đất nước này?”
“À, thưa ngài,” tôi đáp lời, có phần hơi hoang mang sau câu hỏi hoàn toàn không được chờ đợi này, “nơi khả dĩ nhất chắc là thư viện của Hội Lịch sử Tự nhiên Bombay. Tôi cũng có quen biết chút đỉnh viên thư ký Hội, ông ấy tên là Symington; tôi đã từng cung cấp (một cách bán chính thức) cho ông ta những mẫu vật quý hiếm về cây anh thảo Tây Tạng. Ngoài ra, các trang thiết bị trong thư viện của họ rất tốt. Nhưng tôi e rằng giờ này thư viện đã đóng cửa”.
“Ồ không sao, không sao, đợi đến mai cũng được,” Sherlock Holmes nói giọng dễ dãi. “Tôi chờ ông ở đây, ông Mookerjee ạ, và sáng sớm ngày mai hãy đưa tôi đến thư viện ấy nhé. Giờ thì chúng ta hãy xuống dưới gác để thu xếp đồ đạc của tôi mang về phòng và cùng ăn lót dạ một chút”.
“Hẳn là ông rất đói,” Strickland nói, giọng rầu rĩ. “Lẽ ra tôi nên…”
“Chuyện không có gì mà ầm ĩ, anh bạn thân mến ạ,” Sherlock Holmes cắt ngang, và là người đầu tiên rời khỏi phòng.
“Thật là một buổi tối có nhiều chuyện đáng học hỏi nhất. Tôi sẽ không để lỡ mất một dịp như vậy. Anh vui lòng đóng cánh cửa sau lưng lại giùm tôi chứ? Không nên để mọi người biết chúng ta đang quanh quẩn ở đây”.
Có vẻ như viên quản lý khách sạn đã không mất nhiều thời gian để sắp xếp lại mọi thứ, bởi có một tốp nhân viên phục vụ đang bận rộn lau chùi cầu thang. Nhưng cho đến lúc ấy, họ vẫn chưa lau xong đầu cầu thang là nơi dẫm nhiều máu nhất.
Sherlock Holmes đột nhiên dừng lại trước khi xuống cầu thang, trên mặt ông xuất hiện nét băn khoăn khi ông chăm chú quan sát sàn nhà.
“Strickland, anh có nhận thấy bất cứ điều gì bất thường về những vết máu này không?”
“Chuyện gì vậy, ờ không,” Strickland trả lời. “Thì chỉ là có quá nhiều máu… Sao? Có gì bất thường ở đây ư?”
“Ồ không có gì,” Holmes phẩy tay đáp, tiếp tục đi xuống cầu thang, nhưng tôi loáng thoáng nghe ông lẩm bẩm một mình, “Thật xuất sắc, đúng là không chê vào đâu được”.
Chúng tôi đi ngang qua tiền sảnh, tiến lại gần quầy tiếp tân thì người quản lý vội vã rảo bước về phía chúng tôi.
“Xin gửi tới ông nghìn lời tạ lỗi, thưa ông Sigerson. Tôi thật khiếm khuyết trong nhiệm vụ của một người chu nhà. Nhưng cái tai nạn khủng khiếp này… “
“Hoàn toàn ổn cả mà. Tôi cũng vừa bỏ ra nửa giờ hũu ích đề lên một kế hoạch chi tiết cho chuyến đi thăm thú các địa điểm tham quan trong thành phố với người dẫn đường của tôi, ông Mookerjee, một người dân sở tại ở thành phố này. Giờ xin cảm phiền ông…”
“Chắn chắn rồi, thưa ngài. Này ông Carvallo!” ông ta ra hiệu cho một nhân viên thư ký đứng sau quầy tiếp tân. “Một phòng dành cho quý ông đây”.
Ông Carvallo – một thanh niên trẻ, dáng người phục phịch béo tốt, chắc chắn là con cháu người Bồ Đào Nha – cúi xuống bàn nhón lên một chiếc chìa khoá và dùng ngón tay cái nhấn lên cái chuông. Ngay lập tức, một người bản xứ mặc đồng phục nhân viên phục vụ hành lý nhanh nhảu bước lại gần. Anh ta được giao chìa khoá phòng cùng với một số hướng dẫn, rồi đi lấy số hành lý ít ỏi của ông Holmes từ phòng người quản lý ra và chuẩn bị leo lên cầu thang. Sherlock Holmes đã toan đi theo người khuân vác, nhưng lại quay về phía chỗ chúng tôi.
“Nếu các ông đợi tôi trong phòng ăn, tôi sẽ không bắt các ông phải đợi lâu đâu. Tôi muốn lấy một chiếc khăn tay sạch để trong va li”.
Strickland và tôi đến phòng ăn, chọn một cái bàn nhỏ kê ở một góc phòng. Rõ ràng, bữa tiệc họp mặt của các cựu nam sinh (có các quý bà đi kèm) trường Đại học United Services chưa kết thúc, vì ở giữa phòng ăn còn kê nhiều bàn tiệc cùng những quý ông và quý bà mặc đồ đại lễ, họ cũng chính là những người lúc chạng vạng tối đã được một phen sợ mất mật khi chứng kiến cái chết thê thảm của người bạn xấu số của chúng ta. Khỏi cần phải nói thêm rằng bữa tiệc đã không có được không khí vui vẻ như người ta mong đợi. Trong lúc người phục vụ bàn mặc chế phục trắng tinh, đầu quấn khăn im lặng rót nước cho chúng tôi thì nhà đại thám tử linh lợi bước vào phòng, lặng lẽ cười theo cái kiểu lạ lùng của riêng ông trong khi ngồi xuống ghế và trải khăn ăn ra.
Thật là một điều hết sức thú vị! Các ông có thể đoán là tôi được người ta bố trí ở phòng nào không?”
“Chắc không phải là…” tôi kêu lên một cách kinh ngạc, nhưng tôi đã đoán đúng.
“Chính xác, phòng số 289”.
“Trời đất quỷ thần ơi!” Strickland kêu lên, “chắc chắn là do tên quản lý giả dối, trơn tuột như lươn đó. Để tôi lôi cố hắn đến đồn cảnh sát và tôi sẽ buộc hắn phải mở miệng, cũng nhanh như việc treo cổ Jack Ketch lên vậy”.
“Hãy bình tĩnh lại nào, anh bạn Strickland,” Sherlock Holmes nói, đưa tay ra với một cử chỉ tỏ vẻ khẩn khoản. “Tôi đảm bảo với anh rằng tôi đã lường trước được những bước đi này. Dù sao đi nũa, chúng ta cũng đâu có bằng chứng gì về sự đồng loã của tay quản lý trong vụ này. Vả lại, dù hung thủ là ai thì chúng ta cũng không được rút dây động rừng, làm cho hắn sợ hãi ở ngay đoạn đầu của cuộc chơi”.
“Nhưng còn tính mạng của ông, thưa ông! Chắc là ông không định ngủ ở đó tối nay chứ?”
“Đó chính là ý định của tôi đấy. Sẽ không có chuyện gì xảy ra trong căn phòng đó vào đêm nay đâu, anh bạn thân mến. Tôi đạt cược cái thứ còn lớn hơn cái danh tiếng tội nghiệp của tôi vào đấy cơ. Còn bây giờ chúng ta đừng tự làm phiền mình thêm nữa với những câu hỏi hóc búa này. Ái chà, cái món xúp Solferino và gà nướng Moghul quá lứa này chính là những đồ ăn có tác dụng giải toả tâm lý tốt nhất. Tôi có nên gọi một chai Montrachet để uống mừng việc của tôi… Hừm, một chuyến đi xem ra có biết bao nhiêu là biến cố quan trọng đến bờ biển của Đế quốc Ấn Độ không nhỉ?”
Chú thích:
(1) Bhangi: người hầu phòng. người dọn dẹp (tiếng Hindu).(2) Namaste, sahib: Xin chào Ngài. (Sahib là từ chỉ một người đàn ông da trắng sống ở Ấn Độ, theo cách nói tôn trọng tiếng Hindu).(3) Churail: ma quỳ (tiếng Hindu).(4) Lai Beg theo tín ngưỡng của người Hindu là vị thần bảo trợ cho những người đi ở.(5) Sakht burra atsar: lãnh đạo cao cấp.(6) Hai mai: Trời đất ơi.(7) Nizamut: nhà giam, nhà đá.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.