Sherlock Holmes Mất Tích

Chương 3: Ấn Độ-người Na Uy Bí Ẩn


Bạn đang đọc Sherlock Holmes Mất Tích – Chương 3: Ấn Độ-người Na Uy Bí Ẩn

“Mảng trời trên biển A rập sau một đợt gió mùa thường trong vắt và xanh biếc như một miếng ngọc lam Ba Tư. Không khí, được gột rửa sau những cơn mưa vừa tạnh, trở nên tươi mới và trong treo đến nỗi trong lúc dừng chân tại Mũi Malabar ở Bombay, người ta tướng đâu có thể nhìn thấy dường viền của bờ biển A rập và thậm chí nghe dìu dịu trong cơn gió nhẹ “… mùi hương xứ I-ê-mem-cô từ bờ biển đậm hương vị của xứ A rập đầy hạnh phúc”(1).
Tất nhiên đó chỉ là sản phẩm tưởng tượng lãng mạn thuần túy của tôi; xứ sở kia ở quá xa để có thể ngửi hay nhìn thấy, nhưng từ một vị trí thuận lợi, tôi cố gắng nhìn ra cái mà tôi đã đi ngần ấy dặm đường để tìm cho được.
Vượt qua những chiếc thuyền buồm A rập đậu rải rác trên mặt biển với những cánh buồm duyên dáng nghiêng nghiêng theo chiều gió, con tàu S. S. Kohinoor của Công ty rau Vận tải hơi nước Peninsular & Oriental rẽ mặt biển xanh tiến tới, hai ống khói đen của nó hắt lên bầu trời xanh những dải khói mỏng tang. Tàu đến trễ, lẽ ra nó phải cặp bến sáng nay. Qua cặp ống nhòm tầm xa tậu được ở chợ trời Bhindi, tôi chỉ có thể đọc được cái tên gắn trên vòm cổng ở cảng. Tôi nhanh chóng băng qua đường để đón ticca-ghari(2). Vừa ngồi vào chỗ, tôi đã ra hiệu cho người đánh xe lên đường.
“Chalo”(3)
“Đi đâu, Babuji?(4)
Đến bến tàu, jaldi!(5)
Ông ta giơ tay quất con ngựa non gầy gò bằng một thanh cật tre dài cong vút và xe ngựa lăn bánh xuống đường Ridge. Tôi bỏ một miếng cau vào miệng và nhai một cách trầm tư trong lúc rà soát lại kế hoạch hành động một lần nữa.
Bốn tháng đã trôi qua kể từ khi tôi đến Bombay. Tôi đã có một khoảng thời gian an lành để thực hiện các ghi chép dân tộc học về tục sùng bái nữ thần địa phương Mumba ở chính cái thành phố mang tên bà. Nhưng Đại tá hằn có suy nghĩ rằng những mối nguy hiểm tiềm tàng giờ đây cũng đã lui về phía sau (còn tôi thì được hưởng một kỳ nghỉ xả hơi tốt lành trong khi vẫn được thanh toán nửa lương). Thế nên cách đây khoảng một tuần, một người đưa thư trong vùng – một ông già người Tamil cao lớn đến từ Tuticorin – đã mang taar (từ mà người địa phương dùng để gọi một bức điện tín) đến nơi tạm trú của tôi phía sau nhà thờ Hồi giáo Zakariya.
Lá thư được gởi cho “Hakim Mohendro Lall Dutt” – một trong những bí danh thường dùng của tôi – trong đó toàn là những lời quanh co, luẩn quẩn, tưởng chừng như vô hại, một lối nói rất đặc trưng của Bộ dùng để đảm bảo an toàn cho những liên lạc thư tín giữa chúng tôi, sub rosa(6). Thông điệp chính của nó là có một du khách người Na Uy tên Sigerson, có lẽ là nhân viên của một Lực lượng miền Bắc thù nghịch, ông này đang đến Bombay trên con tàu S.S. Kohinoor. Nhiệm vụ cấp trên giao cho tôi là phải cố lấy lòng ông ta, có thể với vai trò hướng dẫn viên du lịch hay đại loại như thế, để tìm hiểu động cơ khiến ông ta đến Ấn Độ.
Để chuẩn bị cho việc này, tôi phải gia nhập một hãng tàu biển của một ông già là tín đồ của Bái hỏa giáo, vốn là người quen với tôi, một sự tính toán chu đáo quá hóa thừa.
“Hai, rukho”(7) người đánh xe quát con ngựa nhỏ đang kéo chiếc xe tới trước cổng bến tàu Ballard. Tôi xuống xe và mặc cho lời kèo nài tráo trở của gã đánh xe đòi cho được hai anna, tôi chỉ trả cho hắn dúng giá là một anna, rồi vội vã bước qua cầu tàu.
Dưới bến san sát những chiếc tàu buôn và tàu chiến của Anh, nhưng tôi kịp trông thấy con tàu Kohinoor đang từ từ được những chiếc tàu kéo nhỏ tỏa khói mù mịt kéo vào bờ.
Phòng làm việc tối om và phủ đầy bụi của chủ bến tàu gần như trống hoác, chỉ có mỗi viên thư ký người Gujurati đang ngồi, vẻ mơ màng biếng nhác sau bàn giấy, xỉa xỉa hàm răng đỏ quết trầu(8). Một đồng ru-pi hào phóng tiền “trà nước” tạo cho tôi cơ hội liếc qua bảng danh sách hành khách có mặt trên tàu Kohinoor. Du khách người Na Uy ở cabin 33, trong khoang hạng nhất.
Khi tôi ra khỏi cái văn phòng mốc meo đó, thủ tục cho tàu vào cảng đã hoàn tất, bọn cu li và phu cảng từ các hướng đổ xô tới mạch đường màu xám rộng lớn, nơi cầu tàu đang xoay hướng với những sợi dây cáp to và dày trùng trục. Con tàu trắng lừng lững vượt lên trên mọi người và mọi vật xung quanh như một tảng băng trôi khống lồ. Khi ván cầu được bắc lên, trong vai một nhân viên của hãng, tôi cũng lao lên tàu, dùng vai huých đẩy để lách qua đám đông toàn nhân viên phục vụ trên tàu, cu li, thuỷ thủ người Ấn và cả những gì gì nữa. Sau khi đi qua những hành lang đông đúc, phòng ăn, phòng chơi bài, phòng đánh bi-a và một phòng khiêu vũ tráng lệ, cuối cùng tôi cũng lên đến được boong tàu phía trên trông ra ngoài cảng và cabin số 33.
Người Na Uy đang đứng trước cửa cabin của mình, dựa người vào lan can tàu, hút tẩu thuốc một cách trầm ngâm trong lúc nhìn xuống đám đông hỗn loạn dưới cầu tàu. Cả con người lẫn vẻ mặt ông đều có cái gì đó thu hút sự chú ý ngay cả của một kẻ qua đường bàng quan nhất. Đó là một người đàn ông cao dễ đến 1,90 mét, thân hình gầy nhẵng. Thấy tôi bước lại gần, ông đứng thẳng lên khỏi rào chắn và lúc này trông ông như còn cao hơn nữa.
“Thưa, có phải là ngài Sigerson không ạ?”
“Vâng!”
Ông ngoảnh hẳn mặt về phía tôi. Chiếc mũi diều hâu nhòn nhọn tạo cho khuôn mặt ông một vẻ đặc biệt linh hoạt và quyết đoán, cả cái cằm cũng làm nổi bật những đặc điểm của một con người cương nghị và mạnh mẽ. Rõ ràng, ông không hề giống với một người mà ta có thể nói những chuyện bông phèng vớ vẩn được.
Tôi bèn chuẩn bị để tự biến mình thành một kẻ khúm núm và giỏi tâng bốc.

“Thưa ngài, tôi là Satyanarayan Satai, một sinh viên thi trượt vào trường Đại học Allahabad,” tôi nói, trang trọng cúi đầu theo lối chào của người Hồi giáo. “Thật là một vinh dự và đặc ân to lớn đối với tôi, với tư cách người đại diện của hãng tàu biển Messrs Allibhoy Vallijee and Sons, được chào mừng ngài đến bờ biến của Đế quốc Ấn Độ và được làm tất cả để đảm bảo cho chuyến viếng thăm và thừa hành công vụ của ngài tại thành phố lớn Bombay được hoàn toàn tiện nghi thoải mái”. (Lúc nào việc một người bản xứ tạo cho một quý ông người Âu rằng anh ta là một kẻ có giáo dục theo lối nửa mùa cũng mang lại những lợi ích lớn)
“Cám ơn”. Ông quay lại chiếu vào tôi cặp mắt long lanh khác thường, phát ra thứ ánh sáng sắc sảo, dò xét không lấy gì làm dễ chịu. “Ông đã từng ở Afghanistan, tôi nghĩ vậy”.
Dĩ nhiên, tôi hoàn toàn không chờ đợi một nhận xét bất ngờ đến vậy, nhưng tôi tin rằng mình đã cố hết sức trấn tĩnh, khởi động đầu óc đủ nhanh để có một câu trả lời dẫu không hoàn toàn có sức thuyết phục thì cũng thích hợp trong hoàn cảnh này.
“Cái gì… Ôi, không, không thưa ngài. Tôi chỉ là một người Hindu hèn mọn nhất đến từ Oudh, một kẻ tiện nhân hiện đang có một chỗ làm khá béo bở và được trả lương hậu hĩnh, với tư cách là nhân viên văn phòng bán chính thức – pro tem – trong công ty tàu biển đáng kính trọng này. Còn Afghanistan ư? Chà, chà! Thưa quý ngài, đó là vùng đất lạnh lẽo khốn khổ, thiếu những cơ sở hạ tầng cần thiết và những tiện nghi văn minh, còn bọn người bản xứ đều là những kẻ giết người man rợ, một loại người Hồi giáo tồi tệ nhất, vô phương cứu vãn, nằm ngoài phạm vi luật pháp oai nghiêm của người Anh. Tại sao tôi lại phải đến Afghanistan cơ chứ?
“Thực vậy sao?”. Ông khách trả lời với một tiếng cười gằn cụt lủn không giấu vẻ cay độc. “Nhưng hãy quay lại vấn đề ông đã nêu ra, tôi cho rằng mình hoàn toàn có thể xoay xở được mà không lạm dụng lòng tốt của ông, mặc dù tôi dám chắc rằng lời đề nghị của ông có lẽ rất hữu dụng và cần thiết. Tôi chỉ mang theo một ít hành lý và có thể tự mình lo mọi việc. Xin cám ơn ông”.
Đặt trước cửa cabin của ông là một cái xắc du lịch hiệu Gltone và một cái hộp dẹp hình bầu dục, tồi tàn vì sử dụng lâu ngày. Trông nó giống một cái hộp đựng đàn vĩ cầm, cũng cái loại mà Da Silva, một nhạc công trẻ người Goa sống cạnh nhà tôi thường mang theo mỗi khi ra ngoài vào buổi tối để chơi nhạc trong bữa ăn tại dinh Thống đốc.
Tất nhiên, chỉ riêng việc này thôi đã gây ra không ít những nghi ngờ. Không một quý ông người Âu có lòng tự trọng nào đi du lịch đến Ấn Độ mà lại không mang theo ít nhất là ba rương hành lý, đó là chưa kể tới những món lặt vặt khác như hộp dựng mũ, bao súng, chăn gối và một hộp đựng công văn, giấy tờ. Lại nữa, không một quý ông người Anh nào, chí ít nếu người ấy là một pukka(9), mà lại chơi vĩ cầm cả. Âm nhạc là thứ dường như chỉ dành riêng cho người Pháp, người Eurasia và các nhà truyền giáo (mặc dù trong trường hợp nhà truyền giáo, thì dàn đạp hơi là nhạc cụ được yêu thích hơn cả).
Và cũng không có quý ông nào lại khệ nệ mang hành lý một mình. Thế mà đó lại là việc mà vị khách Na Uy này muốn làm. Với cái xắc Gltone bên tay trái, hộp đựng đàn vĩ cầm bên tay phải và chiếc tẩu ngậm trong miệng, ông sải những bước dài di ngang qua boong rồi bước xuống ván tàu và bình thản đi giữa đám đông lộn xộn trên cầu tàu, tất cả ồn lên như ong vỡ tổ với những lời chèo kéo nhao nhao mời chào của đám cu li; hẳn là bọn họ đề nghị mang hành lý cho ông để kiếm chút tiền.
Dĩ nhiên, thất bại tạm thời trong kế hoạch của tôi chỉ đơn thuần là do thiếu may mắn, hay do kismet(10) như chúng tôi vẫn nói theo tiếng bản địa. Dù vậy, tôi không thề ngăn được cảm giác băn khoăn lo lắng trước trí tuệ quá thông minh sắc sảo của người Na Uy này. Nhân danh tất cả các vị thánh thần của người Hindu, làm thế nào mà ông ta biết được, ngay từ cái nhìn đầu tiên, rằng tôi đã từng ở Afghanistan? Tôi sẽ không phủ nhận rằng mình đã đến đất nước lạc hậu đó cách đây không lâu. Trong lần đầu tiên ấy, khi khoác áo một quan toà, khi thì giả danh một bác sĩ địa phương, tôi đã kín đáo thực hiện một số vụ điều tra về những mối quan hệ bất chính có thể có giữa liên minh năm tiểu vương với quốc vương Afghanistan, nhưng thật không may tôi đã chẳng thu được kết quả nào. Sau đó khá lâu, ngay sau cuộc tập trung quân trừng phạt năm ông vua kể trên, tôi từng phải vượt qua những ngọn đèo ngập tuyết bên kia dãy Khyber, lần này thì trong vai một nhân viên lao động tiền lương đến chỗ các công nhân xây dựng đang thi công một con đường mới cho người Anh. Vào một đêm cũng trong cái chuyến thám hiểm ấy, tôi gặp phải một cơn bão tuyết khủng khiếp, mà nào đã hết đâu, tôi còn bị tên dẫn đường người Afridi cố tình bỏ lại một mình cho đến chết. Bàn chân tôi đông cứng lại, một ngón chân bị rụng… nhưng thôi, điều này chẳng có gì can dự đến câu chuyện đang kể.
Có điều gì đó thật mơ hồ, khó lý giải về người bạn Na uy của chúng ta, cái mà bạn chỉ có thể cảm nhận chứ không thể ước định bằng mắt, càng không thể đưa ra một lời nhận xét rõ ràng.
Trí tò mò của tôi trỗi dậy. Người Bengal chúng tôi – tôi nói điều này với tất cả sự khiêm tốn – không giống như hầu hết những tộc người thờ ơ lãnh đạm khác, chúng tôi là một dân tộc luôn cháy bỏng niềm khát khao kiến thức. Nói tóm lại, chúng tôi là những người hiếu kỳ, thích tìm hiểu về mọi sự trên đời.
Tôi bám theo người Na Uy đi xuống tàu, vượt qua đám đông hỗn loạn đứng ở cầu tàu. Với chiều cao như vậy, rất dễ nhận ra ông khách trong đám đông và dù ở đâu tôi cũng có thể nhìn thấy mái đầu xương xương của ông vượt lên cao hơn hẳn mọi người.
Tôi hết sức thận trọng không để ông phát hiện, may mà tôi có nhiều cơ hội ẩn mình sau những đống hành lý và hàng hoá chất cao trên bến tàu.
Ghé mắt nhìn qua một đống sọt, tôi thấy người Na Uy đi vào nhà khách, một kacha (11) dài, lợp tôn múi loại có phủ PWD.
Tôi nhanh nhẹn đi đến gần, lẻn đến chỗ cánh cửa hé mở và nhìn vào bên trong. Người Na Uy đặt cái xắc Gltone và hộp đàn violon lên một trong những cái quầy dài mạ kẽm và đang gõ gõ những ngón tay dài mảnh dẻ lên mặt quầy vui vẻ thiếu kiên nhẫn vì phải chờ đợi. Hoàng hôn đổ những cái bóng dài xuống mọi vật và do khoảng không gian tranh tối tranh sáng trong phòng mà thoạt đầu tôi không chú ý ngay đến một sĩ quan cảnh sát trẻ trong bộ đồ vải ka ki, lúc này hắn đang tiến về phía ông khách Na Uy. Người này dong dỏng cao, nước da tai tái, thuộc lực lượng sĩ quan cảnh sát quận, gọi tắt là DSP, hắn mang thắt lưng và đai, đội mũ sắt, đinh thúc ngựa bóng loáng; tóm lại có đủ lệ bộ của một kẻ đang thi hành công vụ, hắn ta đi đi lại lại dáng khệnh khạng, một tay đưa lên vân vê bộ ria đen nhánh.
Tôi giật mình. Chính là Strickland! Trời đất ơi, cái ngày quái quỷ gì mà chỉ toàn xảy ra những sự việc ngoài dự tính thế này!
Có lẽ, tôi cũng cần có một lời giải thích với quý độc giả: ngài đại uý E. Strickland, mặc dù trên danh nghĩa chính thống là một sĩ quan đáng tin cậy và đáng trọng của cảnh sát Ấn Độ, nhưng ở khía cạnh khác của cuộc đời lại là một trong những tay chơi giấu mặt của “cuộc chơi” (cái từ có hàm ý rất xấu của cái ông Kipling ấy), và là một trong những người giỏi nhất(12). Vậy mà người ta bảo tôi rằng anh ta đang ở Bikaner, một thành phố bí ẩn trong Sa mạc Vĩ đại của Ấn Độ (nơi có các giếng nước nằm cách mặt đất hơn 100 mét và xương lạc đà chất thành từng đống), nhưng tôi có thể hiểu được điều này. Anh ta giống như loài cá sấu, bao giờ cũng dầm mình ở những chỗ nước cạn.
Anh ta bắt tay người Na Uy và nói điều gì đó với ông. Tôi không nghe được những gì họ trao đổi với nhau bởi tiếng ồn của đám đông hỗn loạn không thể kiểm soát ngoài bến tàu. Một lúc sau, Strickland quay ra nói gì đó với một nhân viên người lai, rồi cúi xuống cầm cái xắc du lịch lên và cùng người Na Uy rời khỏi nhà khách. Tôi bám theo sau, cố giữ một khoảng cách an toàn.
Ra khỏi cổng, Strickland gọi một chiếc xe ngựa. Cả hai biến vào thùng xe, chiếc xe bon bon chạy khỏi khu vực cảng, đi xuống đường Frere Road.

Một trực giác may mắn nào đó xui khiến tôi tiếp tục nán lại phía sau những cây cột đồ sộ xây theo kiều Corinth trong toà nhà chính của bến tàu; vì ngay sau đó một người đàn ông nhỏ thó mặt choắt như mặt chồn sương, khoác trên người hộ đồ bằng vải bông dày kiểu nhiệt đới – cái màu trắng nguyên thuỷ của nó giờ đã thành ra màu đưa khú – trên đầu tùm hụp một chiếc mũ cát to quá khổ.
Hắn lén la lén lút chuồi ra khỏi bóng tối cái nhà kho gần đó và đi vào khu vực được chiếu sáng bởi những ngọn đèn khí đốt vừa thắp lên, phát ra những tiếng xèo xèo, loại đèn dùng đề chiếu sáng tại bến xe và lối vào Cảng Lớn. Cả dáng điệu lẫn con người hắn đều toát lên một vẻ gì đó gian giảo, có vẻ hắn đang bí mật theo dõi Strickland hoặc người Na Uy và như để chứng minh cho sự nghi ngờ của tôi, thoắt một cái, hắn đã nhảy lên một trong những chiếc xe ngựa đang xếp hàng dài chờ khách. Yên vị trên xe rồi, hắn liền nói cái gì đó hướng dẫn người đánh xe, hắn còn đưa cả tay ra chỉ về phía chiếc xe ngựa vừa nhanh chóng khuất dạng, mang theo mấy con mồi. Người đánh xe vung roi quất vào lưng ngựa và họ đuổi theo sát nút chiếc xe kia.
Sự cố này khiến cho buổi tối của tôi trở nên thực sự sôi động, toàn “những lời cảnh báo và những cuộc rượt đuổi” như một thi sĩ có thể viết. Đến lượt mình, tôi cũng gọi một chiếc xe ngựa và tức tốc đuổi theo.
Cuộc sống về đêm của thành phố vừa mới bắt đầu. Những người có nhiệm vụ đem lại ánh sáng cho đô thị đã hoàn thành công việc thắp đèn trên các đường phố. ở bất cứ đâu cũng có thể thấy từng đám cu li, mặt mũi den nhẻm, mồ hôi nhễ nhại đang còng lưng đẩy những chiếc xe cút kít quá tải lẩn vào dòng người tuôn chảy trên đường phố, mà đa số là các thư ký và công chức cấp thấp. Vận áo khoác màu trắng, họ túa ra từ các văn phòng chính phủ, hối hả trở về nhà sau một ngày làm việc. Những người bán bánh kẹo dạo và các kunjri hèn mọn (những người bán trái cây và rau quả) gân cố lên rao hàng trên vỉa hè, các quầy hàng của họ được thắp sáng bằng những ngọn đèn bám đầy muội, mùi khói cay xè trộn lẫn với cái mùi hỗn hợp của đủ mọi loại hương thơm khác: mùi gia vị, mùi hoa nhài, cúc vạn thọ, gỗ đàn hương và cả phấn hoa bán theo mùa. Một đám lâu nhâu những thằng nhãi con gần như ở truồng không biết từ đâu lao ra đường, vừa gào thét vừa nhay lên bám vào các xe ngựa chạy ngang, đôi lúc chúng còn nhảy lên nhảy xuống những chiếc xe điện kêu leng keng, trước cơn giận dữ của những người bán vé.
Tại vòng xoay Horniman, một đám rước dâu rầm rộ khiến giao thông gần như bị ngưng trệ. Những người phu mang theo đèn lồng, xúm lại thắp sáng cho cái cảnh tượng hỗn độn đầy màu sắc này, trong lúc đó một ban nhạc địa phương, không có vẻ gì phù hợp với thị hiếu của người dân nơi đây, đang ra sức chơi trống định âm và kèn cố, tạo ra một thứ âm thanh nghe rất chối, nhưng lại hết sức sôi động, làm nền cho một nhóm vũ công đang bước đi với những điệu nhảy hoang dã ngay phía trước chú rể.
Nhân vật chính của sự kiện này tất nhiên trông hết sức lộng lẫy. Anh ta diện một bộ trang phục đi đánh trận của một ông hoàng Rajput, trong tư thế ngồi giạng chân sang hai bên với dáng vẻ căng thẳng, gò bó trên lưng một con ngựa chiến trang trí theo lối cổ Một cái mạng che mặt kết bằng những bông cúc vạn thọ, ngăn không cho thiên hạ chiêm ngưỡng khuôn mặt của một gã đàn ông hạnh phúc đang trên đường đến nhà cô dâu của mình, cái mạng rủ xuống đến tận quả táo phía trước yên ngựa.
Tôi đưa mắt nhìn hai chiếc xe ngựa đứng bất động ngay phía trước, cách xe của tôi khoảng bảy mét. Người đàn ông có khuôn mặt chồn sương làm ra vẻ tò mò, chú mục vào đám rước trước mặt, tuy vậy hắn ta cứ chốc chốc lại làm như tình cờ, lia ánh mắt dò xét nhìn vào chiếc xe ngựa phía trước để kiểm tra xem nó còn đó không, dù biết chắc rằng xe cộ trên đường ken vào nhau chật như nêm cối. Khuôn mặt quắt lại, sắc cạnh với một cái mũi nhỏ, nhọn hoắt tương xứng với nó, nhưng cái vẻ chưng diện của hắn hoàn toàn không ăn nhập với dáng người ốm đói; chòm râu đỏm dáng của hắn mà tôi nghĩ là theo “mốt sườn cừu”, kiểu thịnh hành cách đây khoảng mười năm về trước. Một người da trắng, nhưng rõ ràng không thuộc tầng lớp trên.
Cuối cùng, nhờ vào cung cách làm việc mẫn cán và cương quyết, cùng tiếng còi đầy uy lực của một “cây mao lương hoa vàng Bombay” – biệt danh đặt cho những viên cảnh sát trong thành phố này bởi chiếc mũ lưỡi trai tròn màu vàng rất đặc trưng của họ – đám rước dâu quẹo về phía nhà ga Churchgate và xe cộ lại được phép lưu thông. Ít phút sau, chiếc xe ngựa đầu tiên chở Strickland và người Na Uy rẽ trái, hướng về phía bến cảng Apollo, sau đó chạy vào một con phố nằm ngang, rồi phóng thẳng vào lối đi dành cho xe ngựa của khách sạn Taj Mahal. Toà nhà đồ sộ nguy nga, cao năm tầng với những dãy cuốn và ban công trang trí rất hoa mỹ dẫn đến một mái vòm trung tâm lớn (cùng những mái vòm nhỏ hơn ở bốn góc) tạo nên ấn tượng về cung điện của một ông hoàng Ấn Độ hơn là một khách sạn thông thưởng.
Không thấy chiếc xe chở gã có khuôn mặt chồn sương đâu cả. Tôi thận trọng nhìn ra xung quanh, nhưng nó đã biến mất. Tôi bèn trả tiền cho người đánh xe ở ngay ngoài cổng, rồi đi vào.
Bất chấp ánh mắt nghi ngờ soi mói của anh nhân viên gác cửa khổng lồ người Sikh, tôi làm vẻ đĩnh đạc bước qua cánh cửa của cái nơi sau này sẽ trở thành Cung điện Nghìn lẻ một đêm, vừa đúng lúc bắt gặp cảnh Strickland đang trao đổi điều gì đó với một người châu Âu mặc trang phục dạ hội mà tôi phán đoán một cách chính xác là quản lý khách sạn này. Sau đó, viên quản lý lịch sự dẫn Strickland và người Na Uy đến một hành lang nằm khá xa tiền sảnh và vài giây sau ông ta quay lại, chỉ có một mình. Tôi vội vã băng qua tiền sảnh thênh thang trong khách sạn, cố hết sức không để ai chú ý đến. Một burra mem(13) trang nghiêm rất mực – đích thị là phu nhân của một uỷ viên tài phán nào đó – vận váy dài dạ hội trắng lốp như bông chằm chằm nhìn tôi qua chiếc kính cầm tay. Ánh lửa lóe lên nơi khóe mắt khép hờ của quý bà lộ một vẻ kiêu kỳ đến khiếp khiến tôi hiểu, bà ta cho rằng một kẻ như tôi không xứng đáng bước chân vào một khung cảnh tráng lệ như thế này. Tôi nở một nụ cười cầu thân, nhưng với một tiếng khịt mũi đầy khinh rẻ, bà tay quay lại với cuốn sách. Không còn ai khác chú ý đến tôi.
Dọc theo hành lang là một dãy phòng vệ sinh và ở cuối dẫy là văn phòng của viên quản lý. Gần tới cửa, tôi bước nhón chân, cố dỏng tai lên nghe, láng máng nhận ra giọng nói của người Na Uy.
Trên cánh cửa có một lỗ khoá khá to. Tôi cho rằng đứng ở đây tôi sẽ không bị người ở tiền sảnh trông thấy, vả lại hễ có ai đi xuống hành lang, tôi có thể nhanh chóng lẩn vào một trong những phòng vệ sinh gần đấy. Vì vậy, sau khi lẩm bẩm thật nhanh lời cầu nguyện thành tâm với tất cả những vị thần thánh mà tôi nhớ ra được, tôi cúi xuống và nhẹ nhàng áp tai phải vào lỗ khoá.
Tôi thừa nhận rằng đó là một việc làm của một tên vô lại, nhưng một người dân thuộc địa lại đi làm cái nghề như tôi thì chẳng mong được người đời nhìn nhận là chính nhân quân tử.
“Tôi thành thật xin lỗi vì những bất tiện mà ông có thể đã phải chịu đựng,” giọng nói của Strickland vang lên, rõ ràng như thể anh ta đang nói ngay bên cạnh tôi. “Nhưng Đại tá Creighton vừa nhận được điện tín từ London cách đây hai ngày và ông ấy vội phái tôi đến đây, càng nhanh càng tốt đề đón ông”.
“Tôi hy vọng thông tin về việc tôi đến đây được giữ bí mật hoàn toàn”.
“Chắc chắn rồi. Chỉ có Đại tá và tôi biết chuyện,” Strickland nói, giọng hơi có vẻ ngập ngừng. “Ừm, nếu nói một cách hoàn toàn thành thực thì có lê có ai đó cũng đã nhận được thông tin, nhưng lúc này thì điều đó không thành vấn đề nữa”.
“Dù vậy, tôi sẽ rất cảm kích, nếu anh vui lòng kể rõ cho tôi biết ngọn ngành”.
“Ông biết đấy, cách đây khoảng ba tuần, chúng tôi nhận được một bức điện từ một trong những nhân viên của chúng tôi, một người Ai Cập làm việc tại cảng Said. Ông ta thông báo rằng có một người đàn ông tự nhận mình là một du khách người Na Uy, nhưng không có đồ đạc hay bất cứ hành lý gì cả, người này đã xuống một con tàu tiếp phẩm ở cảng Said và đăng ký đến Ấn Độ trên một chiếc tàu thuỷ của công ty P&O có tên là Kohinoor. Chúng tôi đã thông báo cho tất cả người của mình tại những cảng mà con tàu này đi qua, lệnh cho họ báo cáo tường tận về tất cả những người châu Âu đến Ấn Độ với bất cứ mục đích nào có vẻ khác thường. Ông biết đấy, trong mấy năm qua, chúng tôi đã gặp khá nhiều rắc rối với các nhân viên của… chẳng hạn, Lực lượng phương Bắc hay gây hấn, bọn chúng khuấy động những bất đồng với nhà cầm quyền địa phương, chậc, thì đại loại những việc như thế. Do đó, trước khi bức điện từ London đến chỗ chúng tôi, Đại tá đã cử một người trong chúng tôi ở đây để theo dõi ông. Nhưng bây giờ thì mọi chuyện đã ổn cả. Có vẻ như là tôi đã đến gặp ông trước ông ta”.

“Ồ tôi cũng không rõ…”
Tiếp sau đó là một thoáng im lặng ngắn ngủi, đột nhiên cánh cửa vững chắc mà tôi đang tựa vào bật mở, rồi một bàn tay cứng như gọng kìm lôi tuột tôi vào phòng bằng cách kẹp chặt vào cổ tôi. Thật là một kiểu ra mắt đáng xấu hổ và tôi lấy làm hổ thẹn cho mình.
“Chuyện quỷ quái gì thế…” Strickland kêu lên, nhưng sau khi nhìn thấy mặt kẻ gian thì anh ta trở lại bình tĩnh. Người Na Uy không còn kẹp lấy cố tôi một cách dữ tợn nữa mà đã buông ra và quay lại đóng cửa. Tiếp đó ông đi vòng ra sau một chiếc bàn giấy bằng gỗ gụ phủ khăn bằng vai len tuyết và đĩnh đạc ngồi xuống ghế, bắt đầu châm tẩu thuốc.
“Tôi đã nghe thấy tiếng người này từ năm phút trước, nhưng không muốn cắt ngang câu chuyện thú vị của anh”. Ông nói với Strickland rồi quay đầu về phía tôi và một lần nữa khuất phục tôi bằng cái nhìn soi thấu tâm can người khác. “Chỉ vài tiếng khò khè thôi, có phải không, thưa ngài? Hơi thở của ông có phần hơi nặng nề so với loại công việc này”.
“Tôi e rằng tất cả chỉ là một…” Strickland cố xen ngang vào câu chuyện.
“Không cần phải giải thích, anh bạn Strickland thân mến,” người Na Uy nói với một cái khoát tay thờ ơ. “Tất nhiên, mọi thứ đã rõ như ban ngày. Quý ông người địa phương to lớn đang tỏ vẻ bối rối kia chắc chắn là tay chân thân tín mà Đại tá Creighton đã phái đến theo dõi một tên Na Uy xấu xa. Ít nhất thì diện mạo và khả năng của ông ta cũng tạo được niềm tin theo cách đánh giá của Đại tá. Chà, một người thông minh, không còn nghi ngờ gì nữa, và là một học giả, hay ít nhất cũng là người quan tâm đến một vấn đề học thuật uyên thâm nào đó. Đồng thời cũng là một chuyên viên lập bản đồ địa chính kỳ cựu và một nhà thám hiểm đã dành nhiều thời gian du khảo trên dãy Himalaya. Và, vì tôi đã có hân hạnh được tiếp chuyện ông ta cách đây vài giờ nên tôi biết, đó là một người từng ở Afghanistan. Hơn nữa, tôi e là ông ta có quen biết anh, Strickland ạ, trong một mối quan hệ không trực tiếp đến Bộ của anh. Tôi có đúng không, nếu mạo muội cho rằng đó là mối quan hệ thông qua một hội kín”
“Trời đất ơi!” Strickland kêu lên. “Làm thế quái nào ông đoán ra được tất cả những chuyện ấy?”
“Tôi chưa bao giờ đoán cả,” người Na Uy trả lời, giọng có vẻ hơi khó chịu, “phỏng đoán là một thói quen tai hại, nó phá hỏng khả năng suy luận lô-gíc”.
“Đây là điều tuyệt vời nhất,” tôi bất giác thốt lên, trong khi bản thân vẫn bị chấn động bởi cú sốc trước những điều vừa được tiết lộ ngoài mong đợi như thế.
“Chậc, chỉ là những chuyện tầm thường,” người Na Uy nói. “Đó thuần tuý là vấn đề tự rèn luyện để thấy được những gì mà người khác bỏ sót”. Ông ngả lưng vào thành ghế, duỗi thẳng đôi chân dài trong lúc chụm các đầu ngón tay vào với nhau.
“Anh thấy đấy, Strickland thân mến,” ông bắt đầu nói với một giọng điệu hồi tưởng của một giáo sư đang lên lớp. “Mặc dù khi ngồi, phần thân phía trên của quý ông này dễ làm cho người ta nhầm lẫn, nhưng bắp chân của ông ta, lồ lộ dưới ống quần may hằng vải dệt tay của người địa phương, cho thấy những mạch máu nổi rõ và một cơ bắp phát triển, điều này chỉ có thể được giải thích bằng việc đi bộ thưởng xuyên và tích cực, nhiều khả năng là ở những khu vực có nhiều núi đồi. Bàn chân phải ông ta, đang xỏ trong đôi xăng đan đục lỗ kia, thiếu mất ngón giữa. Nó không thề bị đứt lìa trong một tai nạn hay một cuộc đọ sức dữ dội nào vì những ngón chân bên cạnh có vẻ không hề hấn gì; ngoài ra chúng ta phải khẳng định rằng các ngón chân không thề bị tòe ra như những ngón tay dù có trải qua bất cứ thủ thuật cắt tiện tiên tiến nào di nữa. Bởi vì nhìn qua cũng biết, nước da nhuận sắc khỏe khoắn của quý ông này cho thấy ông ta đủ sức khỏe chống lại bất cứ loại bệnh tật nào, như bệnh phong chẳng hạn. Từ đó, tôi đi đến một kết luận hoàn toàn có cơ sở rằng việc bị mất một ngón chân của quý ông này là do bị lạnh quá mức, và còn có nơi nào khác trên đất nước này ngoài dãy Himalaya, nơi phải hứng chịu những cơn bão tuyết dữ dội nhất.
“Tôi cũng nhận thấy rằng ông ta có tật máy mắt phải, đó là căn bệnh nghề nghiệp của các nhà thiên văn học, các nhà nghiên cứu làm việc trong phòng thí nghiệm và nhân viên lập bản đồ địa chính, những người thường xuyên phải nheo một con mắt nào đó khi nhìn quá lâu qua kính thiên văn, kính hiển vi hay máy kinh vĩ. Kết hợp với sự thật là ông ta thường đi dạo trên dãy Himalaya, thì công việc trắc địa là nghề nghiệp khả dĩ nhất trong trường hợp này. Tất nhiên nghề trắc địa cũng là một công việc vô hại, không hề có mối liên hệ thông thường nào với những người đang đóng vai một người khác. Vì thế trong trường hợp này, tôi đi đến kết luận rằng, ông ta đã thực hành những kỹ năng của mình tại những vùng lãnh thổ, nơi mà bản chất công việc và nhân thân thật sự của ông ta cần phải giữ trong vòng bí mật, nhất là trong những khu vực thù địch và cho đến nay vẫn chưa được khám phá.
Thế đấy, nhà thám hiểm Himalaya của chúng ta. Voilà tout”(14).
“Thế còn nhận định cho rằng tôi thông minh và có hứng thú đối với nghiên cứu khoa học?” Tôi kinh ngạc hỏi.
“Điều đó rất đơn giản,” ông cười lớn. “Mức độ thông minh có thể dễ dàng suy ra từ việc đầu ông có kích cỡ lớn hơn mức bình thường. Đó là một câu hỏi về công suất hình khối. Một bộ não lớn như thế hẳn phải có cái gì bên trong chứ. Xu hướng quan tâm đến khoa học của ông có thể dễ dàng được nhận biết từ mép cuốn tạp chí màu xanh mà tôi đã thoáng thấy từ túi chiếc áo choàng của ông. Màu và gáy của tờ Asiatic Quarterly Review rất dễ nhận ra”.
“Nhưng còn về Afghanistan? ” tôi nói, giọng hơi the thé vì xúc động.
“Điều đó chẳng quá rõ hay sao? Tôi sẽ không hạ thấp một trí tuệ mà tôi vừa mới tán dương bằng cách nói toạc ra rằng tôi biết được điều đó một cách dễ dàng như thế nào đâu”.
Có một tia sáng vụt long lanh trong mắt người Na Uy khi ông quay lại nói với Strickland.
“Khi cổ áo sơ mi đồng phục của một viên cảnh sát người Anh thấp thoáng hình dáng đặc biệt của một lá bùa hộ mạng kỳ lạ của người bản xứ, cũng cái loại bùa được công khai quấn quanh cổ quý ông người địa phương đây, thì nhất định ta có thể cho rằng ắt hẳn giữa hai người phải có mối liên hệ nào đó. Trong khi cân nhắc các khả năng thì việc hai người các anh thuộc về một hội đoàn nào đó, có thể là một tổ chức bí mật, là khá cao.
Hơn nữa, theo những gì đã đọc được về đề tài này, tôi được biết rằng nước Trung quốc láng giềng với đất nước các anh bị quấy phá khá nhiều bởi những tổ chức kín như vậy. Ryder, trong cuốn Lịch sử của những hệ thống thờ cúng tôn giáo bí mật, cung cấp rất nhiều thông tin về chủ đề đó”.
“Trời đất thánh thần ơi?” Strickland vừa kêu lên, vừa lắc đầu kinh ngạc. “May phước là chúng ta không sống ở thời Trung cổ, ngài Holmes ạ, nếu không thì chắc ngài sẽ bị chết cháy trên giàn hoả thiêu mất”. Anh ta ngả lưng ra sau ghế và thở dài, “Saat Bhai hay Bầy huynh đệ là một tổ chức Mật giáo(15) đã tuyệt tích từ rất lâu rồi, nhưng ông Hurree Chunder Mookerjee đây đã có công khôi phục lại vì lợi ích của một số người trong Bộ chúng tôi. Lá bùa hộ mạng này còn gọi là hawa-dilli (có nghĩa là khuyến tâm) đã được bà phù thuỷ mù Huneefa trao cho tôi sau lễ kết nạp thành viên mới, gọi là dawat. Bà ta chỉ làm bùa cho chúng tôi mà thôi. Mụ phù thuỷ già hoàn toàn tin rằng mình đang làm bùa cho một hội kín thực sự và còn đính kèm miếng bùa một mảnh giấy trong đó có ghi tên các vị thần thánh và cả những thứ khác không thuộc về thần thánh nữa. Lá bùa giúp chúng tôi nhận ra một thành viên mà chúng tôi chưa gặp bao giờ hoặc giả người này đang cải trang làm một người nào đó. Tất nhiên toàn bộ chuyện này không hề chính tắc chút nào”.
Cách nói năng thân mật của Strickland khiến tôi hiểu rằng cái ông được gọi là “người Na Uy” này tuyệt đối không phải người ngoài, mà là một nhân vật có một mối liên hệ nào đó với Bộ và chắc chắn mối quan hệ ấy được thiết lập qua một kênh quan trọng và có ảnh hưởng lớn.

“Ngài thấy đấy, thưa ngài,” tôi giải thích thêm, “đó cũng là một hình thức để bảo đảm an toàn. Có một niềm tin đã tồn tại từ lâu giữa những người bản xứ, rằng Saat Bhai không chỉ đang tồn tại, mà còn là một hội kín hùng mạnh với rất nhiều thành viên. Và hầu hết những người dân bản địa chúng tôi, nếu không ở trong tình trạng quá kích động, bao giờ cũng dừng lại cân nhắc cẩn thận trước khi ra tay giết kẻ nào nói rằng anh ta thuộc về một tổ chức cụ thể nào đó. Vì thế trong những tình huống nguy hiểm – giả sử có ai đó kề dao vào cổ ngài hay làm một việc gì đại loại thế – ngài có thể nói, “Tôi là con trai của Bùa phép,” điều đó có nghĩa rằng có thể ngài là thành viên của tổ chức Saat Bhai, nhờ vậy may ra ngài còn có thể thở được”.
“Tôi từng thuộc về nhiều môn phái tôn giáo khác nhau,” Strickland nói, thở dài đầy nuối tiếc. “Các ông thần bà thánh ấy chắc cũng cảm thấy rằng tôi đang rời bỏ dần các tông phái với việc đi lang thang khắp chốn cùng nơi dưới nhiều vỏ bọc khác nhau, và tôi cũng được thần thánh chỉ dụ là phải rời bỏ các môn phái ấy(16). Hiện nay, tôi chỉ còn thuộc về Saat Bhai mà thôi, vì thế tôi hy vọng ông sẽ không tố cáo tôi”.
“Anh bạn thân mến của tôi,” người Na Uy nói và lặng lẽ cười theo một kiểu rất riêng, “trong chừng mực các buổi đại yến tiệc của cái hội gì gì đó của các anh không khuấy động thiên hạ bằng việc lấy máu người hiến tế cho các vị thần thì tôi hứa sẽ mang bí mật này của các anh xuống mồ”.
“Ôi vậy thì tốt lắm,” Strickland mừng rỡ reo lên. “Tốt hơn cả tôi nên đi đánh một bức điện báo cho Đại tá biết về chuyến đi an toàn của ông. Vào giờ này chắc người quản lý khách sạn đã chuẩn bị sẵn phòng cho ông rồi”.
“Tốt lắm, chỉ còn một vấn đề nho nhỏ cần nghĩ đến mà thôi,” người Na Uy nói, nhìn thẳng vào tôi. “Ông Mookerjee à, bằng những nỗ lực của mình ông đã phát hiện ra ít nhiều về những việc có liên quan đến tôi, nên tôi cảm thấy thật không phải, thậm chí có lẽ còn không khôn ngoan nữa, nếu không cho ông ấy biết đầy đủ những chuyện bí mật giũa chúng ta. Phải không Strickland?”
“Tất nhiên,” Strickland đáp. “Ông Hurree đây là một người thận trọng và ông có thể hoàn toàn tin tưởng ông ấy trong việc giữ bí mật”. Anh ta quay sang tôi với một nụ cười kẻ cả. “Này ỏng bạn Hurree, người đã tóm được ông chỉ vì ông tỏ ra thiếu khôn ngoan đến mức để cho sự tò mò trẻ con sai khiến, không ai khác chính là vị thám tử vĩ đại nhất thế giới, thám tử Sherlock Holmes”.
“Anh làm tôi xấu hổ đấy, Strickland ạ,” Holmes nói với giọng khẩn khoản.
Đúng lúc ấy, nghe vang lên một tiếng thét rùng rợn, kéo dài khắp các hành lang của khách sạn Taj Mahal.
Chú thích:
(1) Milton, Thiên đường đánh mất.
(2) Ticca-ghari: xe ngựa chở thuê có bốn bánh.
(3) Chalo: Đi thôi đi nào! (tiếng Hindu).
(4) Babuji: Babu là từ chỉ người bàn xứ có học làm việc cho chính quyền nhà nước, ji là hậu tố thêm vào khi nói chuyện với người đối diện tỏ ý kính trọng. Babuji có thể hiểu là thưa ông (tiếng Hindu).
(5) Jaldi: Nhanh lên (tiếng Hindu).
(6) sub rosa: (tiếng Latinh): nghĩa là sự kín đáo.
(7) Hai, rukho: họ, dừng lại.
(8) Nguyên văn paan: tương tự như trầu không ở ta, nhai chung với hạt cau, vôi. cùng một vài loại gia vị khác. Paan làm cho môi và răng có màu đỏ. Nhiều người Ấn thời đó có thói quen nhai paan.
(9) Pukka: quý ông sang trọng.
(10) Kismet: số mệnh, số phận.(11) Kacha: một loại nhà ở tam bợ, xây bằng những vật liệu dễ hỏng, như loại nhà tranh của ta.(12) Sự thiếu thận trọng của Kipling liên quan đến Lực lượng bí mật Ấn Độ, dường như không chi giới hạn trong vấn đề về “Phà hệ của giống ngựa bạch”. Độc giả đọc Kipling sẽ biết rằng Strickland và những hoạt động bí mật của ông được nhắc đến không chỉ trong cuốn truyện Kim mà còn trong một số truyện ngắn khác. Strickland được miêu tả như là một thanh tra tài giòi, cho dù chắc chắn không thể sánh được với Holmes. Ông là bậc thày về cải trang và có kiến thức sâu rộng về những phong tục và văn hoá dân gian Ấn Độ, đặc biệt là trong những hoạt động bí mật và ám muội.(13) Burra mem: quý bà.(14) Tiếng Pháp trong nguyên bản, nghĩa là “Chỉ có vậy thôi”.(15) Mật giáo hay Mật tông: Một trong những tông phái của Phật giáo bắt nguồn từ Ấn Độ rồi được truyền sang Trung Hoa Nhật Bản… và phát triển đặc biệt mạnh mẽ ở Tây Tạng. Ở đây. Mật tông còn được gọi là Kim Cương thừa với ý nghĩa biểu trưng về một con đường thẳng dốc đứng để đi lên dinh núi, điều đó nói lên tính siêu việt cũng như những khó khăn, nguy hiểm của đường lối tu Mật giáo.
(16) Về những chuyện có liên quan đến nhân vật Strickland, mời các bạn đón đọc truyện ngắn Miss Yougal s Sais trong tập truyện Những chuyện kể chân thật vùng trung du của Kippling


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.