Quỷ ám

Chương 31 - part 01


Bạn đang đọc Quỷ ám – Chương 31 – part 01

Chương 12
Trong bóng tối sinh động nơi văn phòng làm việc quạnh quẽ của mình, Kinderman trầm tư trên bàn làm việc.
Ông điều chỉnh tia sáng đèn bàn một nấc. Bên dưới ông là các chồng biên bản, các tang vật, hồ sơ cảnh sát, các bản báo cáo của phòng thí nghiệm hình sự, các ghi chú viết tay. Trong trạng thái trầm mặc, ông tẩn mẩn xếp mớ giấy má đó thành một tấm tranh ghép có hình một bông hồng, như thể đính chính lại cái kết luận tồi tệ mà những thứ giấy má ấy đã đưa ông đến, mà ông đã không thể nào chấp nhận.
Engstrom vô tội. Đúng lúc xảy ra cái chết của Dennings, anh ta đang đến thăm con gái mình, cho tiền cô ta mua ma tuý. Anh ta đã nói dối về hành tung của mình trong đêm hôm ấy để bảo vệ con gái và che giấu mẹ cô gái, người mẹ vẫn tin là Elvira đã chết và đã thoát khỏi mọi nỗi tàn hại và sự suy đồi.
Không phải nhờ Karl mà ông biết được việc này. Vào cái đêm hôm nọ chạm trán nhau nơi hành lang căn hộ của Elvira, người gia nhân ấy vẫn ngậm câm như thóc. Mãi đến lúc Kinderman thông báo cho cô con gái biết sự dính líu của bố cô ta trong vụ Dennings thì Elvira mới chịu khai ra sự thực. Có các nhân chứng xác nhận sự thực đó. Engstrom được vô can. Vô can và lặng lẽ đối với những biến cố xảy ra trong ngôi nhà của Chris MacNeil.
Kinderman cau mày nhìn cánh bông hồng bằng giấy ghép. Có một cái gì không ổn trong bố cục. Ông khẽ di chuyển một chóp đài hoa – góc của một tờ cung khai – chếch xuống dưới và qua phải. Những đoá hoa hồng. Elvira. Ông đã nghiêm khắc cảnh cáo cô ta rằng nếu nội trong hai tuần lễ mà cô chưa chịu đến đăng ký vào bệnh viện để chữa trị, ông sẽ săn đuổi cô với đầy đủ các lệnh truy nã cho đến khi nào có đủ bằng cớ là ông bắt giữ ngay. Tuy nhiên, ông ta vẫn không hẳn tin là cô ta sẽ chịu đi. Đã có lắm lúc ông đã trơ mắt ra nhìn không chớp vào luật pháp như kiểu ông ngó lên mặt trời lúc chính ngọ với hy vọng là nó sẽ tạm thời làm loá mắt ông, để ột con mồi – một kẻ phạm pháp nào đo – chuồn đi.
Engstrom vô tội. Thế thì còn lại gì đây? Kinderman, vừa thở khò khè, vừa chuyển sức mạnh thân mình qua một vị trí khác. Rồi ông nhắm mắt tưởng tượng ra mình đang ngụp lặn trong bồn tắm nước nóng bập bềnh. Bán đại hạ giá món tâm thần đây ! Ông giương khẩu hiệu ra với chính mình: Nhất định mọi việc phải chuyển ! Trong một lúc ông cứ chờ đợi, không mấy tin chắc. Thế rồi. Nhất định mà ! Ông nói thêm một cách nghiêm khắc.
Ông mở mắt ra và kiểm tra lại một lần nữa các dữ kiện đầy rắc rối đó.
Mục : Cái chết của đạo diễn Burke Dennings dường như có liên quan thế nào đến phép phù thủy và kẻ phạm thánh xảy ra tại Giáo đường Ba Ngôi. Cả hai đều dính líu đến phép phù thủy và kẻ phạm thánh vô danh đó dễ dàng có thể là kẻ đã giết Dennings.
Mục : Một chuyên gia về vấn đề phù thủy, một linh mục Dòng Tên, đã được trông thấy lui tới ngôi nhà của gia đình MacNeil nhiều lần.
Mục : Tờ giấy đánh máy mang nội dung báng bổ thần thánh gắn trong tấm thẻ bàn thờ tìm thấy ở Giáo đường Ba Ngôi đã được kiểm tra để tìm vết dấu tay. Các dấu vết được tìm thấy ở cả hai mặt. Một vài dấu vết là do Damien Karras lưu lại. Nhưng còn có một bộ dấu tay khác cũng được khám phá ra mà xét theo kích thước của chúng, đã được suy đoán là của một người có đôi bàn tay Rất Nhỏ, Hoàn Toàn Có Thể Là Một Đứa Trẻ Con.
Mục : Chữ đánh máy trên tấm thẻ bàn thờ đã được phân tích và so sánh với nét chữ trên bức thư dang dở mà Sharon Spencer đã lôi ra khỏi máy chữ, vò viên rồi ném vào giỏ rác, nhưng lại ném hụt lúc Kinderman đang hỏi Chris. Ông đã nhặt bức thư ấy và lén đem ra khỏi nhà. Nét chữ đánh trên bức thư này và nét chữ đánh trên tờ giấy gắn trong tấm thẻ bàn thờ kia đã được thực hiện Trên Cùng Một Bàn Máy Chữ. Tuy nhiên theo bản báo cáo, lực tiếp xúc máy của hai người đánh máy lại khác nhau. Người đánh máy bản văn phạm thánh Có Sức Chạm Máy Mạnh Mẽ Hơn Hẳn Sharon Spencer. Hơn nữa, vì dạng chữ đánh máy trên thẻ bàn thờ không phải là loại được đánh kiểu “mò mổ” nhưng lại được thực hiện khá khéo léo, có kỹ thuật, điều đó khiến ta nghĩ rằng người đánh máy vô danh thực hiện nội dung văn bản trên tấm thẻ bàn thờ kia là Một Người Có Sức Mạnh Phi Thường.
Mục : Burke Dennings – ngoại trừ trường hợp ông ta chết vì tai nạn – đã bị giết bởi một người có sức mạnh phi thường.
Mục : Engstrom không còn là kẻ bị tình nghi nữa.
Mục : Cuộc kiểm tra danh sách những người giữ chỗ trên các hãng hàng không quốc nội cho thấy Chris MacNeil đã từng đưa con gái bà đến Dayton, bang Ohio. Kinderman đã biết con gái bà bị bệnh và được đưa đến một y viện. Nhưng cái y viện ở Dayton đó hẳn phải là Barringer rồi. Kinderman đã kiểm chứng và y viện đó đã xác nhận là cô bé đó đã được đưa vào bệnh viện để theo dõi. Mặc dù y viện từ chối tiết lộ tính chất bệnh, rõ ràng đó là một tình trạng rối loạn tâm thần trầm trọng.
Mục : Những rối loạn tâm thần trầm trọng lắm khi tạo ra sức mạnh phi thường.

Kinderman thở dài và nhắm mắt lại. Cũng thế thôi. Ông cũng trở về với một kết luận đó thôi. Ông lắc đầu. Rồi ông mở mắt, nhìn đăm đăm vào tâm của bông hồng giấy: một tờ tạp chí tin tức toàn quốc cũ, đã phai màu. Trên bìa tạp chí là ảnh Chris và Regan. Ông nghiên cứu cô con gái : gương mặt đầy tàn nhang, khả ái, với những lọn tóc tết đuôi ngựa cột nơ, chiếc răng cửa bị sún giữa cái cười toét miệng.
Ông trông qua cửa sổ, nhìn vào vũng tối. Một cơn mưa phùn bắt đầu lún phún rơi.
Ông xuống nhà xe, leo vào chiếc xe đen đã ngụy trang kỹ, rồi lái xe băng qua những con đường bóng nhẫy loang loáng mưa, đến khu vực Georgetown. Đến nơi, ông đậu xe ở phía đông phố Prospect. Và ngồi đó suốt mười lăm phút. Cứ ngồi yên như thế, nhìn đăm đăm vào cửa sổ phòng Regan. Ông có nên gõ cửa, đòi gặp cô bé không đây ? Ông cúi đầu. Dụi chân mày. William F. Kinderman ơi, mi bệnh rồi! Mi bị đau yếu rồi! Về nhà đi ! Uống thuốc. Đi ngủ!
Ông lại ngước nhìn cửa sổ và buồn bả lắc đầu. Chính đây là nơi mà cái luận lý đầy ám ảnh của ông đã dắt ông đến. Ông đảo tia nhìn lúc một chiếc tắc xi chờ tới ngôi nhà. Ông mở máy xe, bật cần gạt nước mưa. Từ trên tắc xi bước xuống một ông già cao lớn. Áo mưa đen, mũ và một chiếc va li cũ mèm. Ông trả tiền xe, rồi quay lại đứng yên, nhìn đăm đăm ngôi nhà. Chiếc tắc xi lao đi, rẽ qua phố Ba Mươi Sáu. Kinderman liền phóng xe theo. Lúc ông rẽ quanh góc phố, ông nhận thấy ông già cao lớn kia không đi tới mà cứ đứng yên dưới ánh sáng đèn đường, trong sương mù như một người lữ hành u sầu. Nhà thám tử nhá đèn mấy lượt vào chiếc tắc xi.
Cùng lúc đó, bên trong nhà, Karras và Karl đang kềm chặt tay Regan để Sharon chích Librium cho cô bé, nâng tổng số lượng thuốc được chích trong vòng hai giờ qua lên đến 400 miligam, liều lượng đó, Karras biết rõ, thật đáng kinh hãi. Nhưng sau thời gian lắng dịu mấy tiếng đồng hồ, con quỷ đã đột ngột thức giấc, trong một cơn giận hoảng điên cuồng cho đến nỗi cơ thể suy yếu của Regan không còn có thể kham nổi được mấy đỗi nữa.
Karras mệt nhoài. Sau khi đến Toà Bí thư Giám mục sáng hôm đó, ông trở lại ngôi nhà thuật lại tự sự cho Chris biết. Kế đó, ông lắp đặt dụng cụ truyền dịch vào tĩnh mạch cho Regan, trở về phòng riêng ở cư xá và ngã người xuống giường. Tuy nhiên, mới ngủ đây đó được một tiếng rưỡi, điện thoại đã lôi ông dậy. Sharon. Cô gái cho biết Regan vẫn còn mê man và mạch cô bé đang từ từ tụt xuống. Karras liền tức tốc xách túi y khoa đến ngay nhà và véo vào vùng gân Achilles của Regan, dò xem phản ứng đau đớn. Không có phản ứng gì. Ông bấm mạnh lên một móng tay cô bé. Vẫn không có phản ứng gì. Ông đâm lo ngại. Mặc dù ông biết trong chứng loạn thần ít-tê-ri và trong những trạng thái ngủ sâu, đôi khi bệnh nhân không còn nhạy cảm với sự đau đớn, nhưng giờ đây, ông lo sợ là chứng hôn mê, một trạng thái mà từ đó Regan dễ dàng có thể trôi luôn vào cõi chết. Ông đo huyết áp cho cô bé: 90 trên 60, rồi nhịp mạch : 60. Sau đó ông đợi trong phòng, và cứ mười lăm phút một, lại kiểm soát huyết áp và nhịp mạch trong suốt một tiếng rưỡi đồng hồ, rồi ông mới thấy hài lòng là huyết áp và nhịp mạch đã ổn định, điều đó chứng tỏ là Regan không phải bị sốc, mà là đang trong trạng thái sững sờ. Ông căn dặn Sharon tiếp tục thăm mạch mỗi giờ. Rồi ông về phòng riêng ngủ tiếp. Nhưng một lân nữa, điện thoại lại gọi ông dậy. Thầy đuổi quỷ, phòng Bí thư Giám mục thông báo cho ông biết, sẽ là Lankester Merrin, Karras sẽ phụ lễ.
Tin ấy khiến ông bàng hoàng cả người. Merrin ! Nhà triết học – nhà cổ sinh vật học ! Một bậc trí thức vĩ đại, cao vời ! Những tác phẩm của ông đã làm rúng động Giáo hội, vì chúng đã minh giải trên tinh thần khoa học, xem đó như một thể vật chất vẫn còn đang tiến hoá, được định sẵn để trở nên tinh thần và hoà nhập với Chúa.
Karras lập tức điện thoại cho Chris, để thông báo tin tức đó, nhưng khám phá ra là nàng đã được đức Giám mục trực tiếp thông báo điều đó rồi. Đức Giám mục đã cho nàng biết là Merrin sẽ đến vào ngày hôm sau. ” Tôi đã thưa với đức Giám mục là cha Merrin có thể lưu lại nhà tôi.” Chris nói. ” Công việc chắc chỉ một ngày là xong thôi, phải không ?” Karras ngập ngừng rồi mới trả lời: ” Tôi không biết”. Rồi lại ngập ngừng nữa, ông nói: ” Bà chớ nên hy vọng cho lắm.” ” Nếu việc ấy có hiệu quả thì tôi hy vọng chứ,” Chris đáp. Giọng nàng đã dịu lại. ” Tôi không hề có ý ám chỉ là việc ấy không hiệu quả.” Ông trấn an nàng, ” Tôi chỉ muốn nói là việc ấy có thể mất nhiều thời gian.” ” Bao lâu ?” ” Không nói trước được.” Ông biết rằng một cuộc đuổi quỷ thường mất nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng; biết rằng việc đó thường là thất bại hoàn toàn. Ông mong là nó sẽ thất bại, mong là cái gánh nặng đó, cái lối cứu chữa bằng cách ngăn chận xuyên qua phép ám thị đó, rốt ráo sẽ sụp đổ một lần nữa lên người ông. ” Con bé phải chịu đựng bao lâu, thưa cha Karras ?” ” Có thể mất vài ngày hay vài tuần.” Ông bảo nàng.
Gác máy xong, ông cảm thấy nặng nề, ray rứt. Duỗi thẳng người trên giường, ông nghĩ đến Merrin. Merrin ! Một niềm phấn khởi và hy vọng len lách vào người ông. Theo sau đó là một nỗi băn khoăn se sắt. Theo lẽ tự nhiên đúng ra chính ông mới là kẻ phải được chọn để làm thầy đuổi quỷ, thế mà Đức Giám mục đã lờ ông đi. Sao vậy? Có phải vì Marrin đã từng đuổi quỷ rồi hay không ?
Lúc nhắm mắt lại, ông nhớ rằng các thầy đuổi quỷ được tuyển chọn trên căn bản ” đạo hạnh” và ” các phẩm chất đạo đức cao quý”, ông nhớ một đoạn trong sách phúc âm Thánh Mathieu đã kể lại đấng Kitô khi được các môn đồ hỏi lý do tại sao họ lại thất bại khi đuổi quỷ, đã trả lời họ: “…bởi vì các ngươi ít đức tin.”
Vị linh mục Giám tỉnh đã biết rõ vấn đề của ông, cha Viện trường cũng thế. Karras suy nghĩ. Có vị nào trình lên Đức Giám mục chăng ?
Lúc đó, ông đã trăn trở trên giường, nản lòng, thối chí, ông cảm thấy một cách nào đó mình bất xứng bất tài, bị loại bỏ. Điều đó làm ông đau nhói. Vô lý, nhưng mà sao vẫn đau nhói. Thế rồi cuối cùng, giấc ngủ tràn đến rót đầy nỗi trống rỗng, đong đầy các hang hốc, các vết nứt rạn trong trái tim ông.
Thế mà một lần nữa, chuông điện thoại lại réo ông dậy. Chris gọi đến cho ông hay Regan đang lâm vào một cơn điên loạn mới. Trở lại ngôi nhà, ông bắt mạch cho Regan. Mạch mạnh quá. Ông chích Librium, chích nữa. Rồi lại chích nữa. Cuối cùng, ông lần lối xuống bếp, ngồi xuống bàn uống cà phê với Chris trong chốc lát. Nàng đang đọc sách, một tác phẩm của Merrin mà nàng đã đặt hiệu sách giao đến tận nhà cho nàng. ” Cao quá, tôi không hiểu nổi,” nàng nhỏ nhẹ bảo ông, tuy nhiên, trông nàng bối rối và cảm động sâu sắc. ” Nhưng có vài đoạn thật hay, thật tuyệt diệu.” Nàng lật nhanh trở lại qua các trang, đến một đoạn nàng đánh dấu và trao quyển sách qua bàn cho Karras. Ông đọc :
” … Chúng ta đã kinh nghiệm quen thuộc về trật tự, về tính bất biến và sự đổi mới bất tuyệt của thế giới vật chất chung quanh ta. Mong manh và phù du là bản chất của mọi thành phần trong thế giới ấy; xao động và biến đi là bản chất của các nguyên tố cấu thành nó, vậy mà nó vẫn trường tồn. Nó được cố kết lại bởi mọi luật trường cửu, và mặc dù cho nó từng chết, nó vẫn hằng sống lại. Sự phân hủy chỉ là để khai sinh cho các mô thức cấu tạo mới, và một cái chết là cha đẻ của hàng ngàn sự sống… … Chúng ta than khóc cho những bông hoa tháng Năm vì chúng tàn héo; nhưng chúng ta biết rằng tháng Năm chắc chắn có ngày rửa được thù vào tháng Mười một, bởi sự xoay chuyển của vòng tuần hoàn uy nghi không hề ngưng nghỉ ấy, điều đó dạy dỗ chúng ta đang lúc ở đỉnh cao của hy vọng phải hằng biết điều độ, và trong trũng sâu của sầu muộn chớ hề thất vọng.”
” Vâng, hay thật,” Karras nhỏ nhẹ nói. Mắt ông vẫn dán lên trang sách. Cơn giận hoảng của con quỷ trên lầu càng thêm huyên náo.

“… Đồ con hoang… cặn bã… đồ đạo đức giả !”
” Nó vẫn hay đặt một bông hồng trên khai ăn của tôi… buổi sáng… trước khi đi làm.”
Karras ngước lên với đôi mắt hỏi han. ” Regan.” Chris bảo ông.
Nàng nhìn xuống. ” Vâng, đúng thế đấy. Tôi quên, cha đâu đã gặp con bé bao giờ.” Nàng hỉ mũi và chấm chấm mắt. ” Cha muốn dùng chút rượu mạnh với cà phê không? Thưa cha Karras?” Nàng hỏi.
” Cám ơn, không ạ.”
” Cà phê nhạt nhẽo quá,” nàng run giọng thầm thì, ” tôi phải đi lấy chút rượu mạnh. Xin lỗi.” Nàng nhanh chóng rời bếp.
Karras ngồi một mình, rầu rĩ nhấm nháp cà phê. Ông cảm thấy hâm hấp nóng trong chiếc áo len ông mặc bên dưới áo chùng. Cảm thấy yếu đuối vì đã không an ủi được Chris. Rồi một hồi ức về thuở ấu thời lung linh sống dậy đầy u buồn, một hồi ức về Ginger, con chó lai của ông, gầy trơ xương và mê mụ trong một chiếc hộp trong căn hộ; Ginger run lên vì sốt và cứ mửa thốc tháo trong lúc Karras lấy mấy chiếc khăn lông đắp lên người nó, cố ép nó uống sữa nóng, mãi đến khi một người hàng xóm trờ tới và nhận thấy nó bị sốt ho, lắc đầu bảo: ” Con chó của cháu cần phải chích thuốc ngay.” Rồi một buổi xế trưa tan học…đi ra đường…theo từng nhóm xếp hàng hai một ra góc phố…mẹ ông đã ở đó đón ông…thật bất ngờ…mặt buồn hiu hắt…rồi nắm lấy tay ông dúi vào đó một đồng nữa đô la sáng nhoáng…phấn khởi…nhiều tiền quá thế này ! …rồi giọng bà nhẹ và âu yếm, ” Ginger chết rồi…”
Ông nhìn xuống chất nước men đắng, bốc hơi nghi ngút trong chiếc tách và cảm thấy đôi tay ông trống vắng cả niềm an ủi lẫn sự chữa lành.
” …đồ con hoang sùng tín kia !” Con quỷ đó. Vẫn điên cuồng giận hoảng.
” Con chó của cháu cần phải chính thuốc ngay…”
Ông vội quay về phòng Regan. Đến nơi, ông giữ cô bé cho Sharon chích Librium, nâng liều lượng tổng cộng lên đến 500 miligam.
Sharon xoa cồn vào vết chích trong lúc Karras nhìn Regan bối rối. Những lời tục tĩu cuồng dại kia dường như không nhằm vào ai trong phòng, mà là vào một người nào đó vô hình hoặc không hiện diện.
Ông gạt bỏ ý nghĩ đó qua một bên. ” Tôi sẽ quay lại,” ông bảo Sharon.
Lo âu về Chris, ông xuống bếp, ở đó ông lại gặp nàng đang ngồi một mình nơi bàn. Nàng đang rót rượu mạnh vào cà phê. ” Cha có chắc là cha không muốn dùng chút đỉnh không, thưa cha ?” nàng hỏi.

Lắc đầu, ông bước đến bên bàn, mệt mỏi ngồi xuống. Ông nhìn đăm đăm sàn nhà. Nghe những tiếng lách cách của muỗng quấy cà phê chạm vào tách sứ. ” Bà đã thảo luận với bố cô bé chưa ?” ông hỏi.
” Có. Có, anh ấy đã gọi tới.” Một lúc ngập ngừng. ” Anh ta muốn nói chuyện với Rags.”
” Và bà đã bảo ông ấy những gì ?”
Một lúc ngập ngừng. Rồi thì, ” Tôi đã bảo anh ta là con bé đi dự tiệc rồi.” 
Yên lặng. Karras không nghe thấy những tiếng lách cách nữa. Ông ngước lên, thấy nàng đang nhìn đăm đăm trên trần nhà. Thế rồi chính ông cũng nhận thấy điều đó, những tiếng la hét trên lầu rốt cuộc đã chấm dứt.
” Tôi nghĩ là thuốc Librium đã ngấm.” Ông nói đầy vẻ biết ơn.
Tiếng chuông cửa ngân vang. Ông liếc về phía âm thanh đó, rồi về phía Chris, nàng bắt gặp tia nhìn đầy ức đoán của ông với một nét nhướng mày âu lo, han hỏi.
Kinderman chăng ?
Những giây trôi qua. Tic-tac. Hai người chờ đợi. Willie đã ngủ yên. Sharon và Karl vẫn ở trên lầu. Không ai ra mở cửa. Căng thẳng. Chris đứng bật dậy khỏi bàn, đi ra phòng khách. Quỳ gối trên một trường kỷ, nàng khẽ hé màn len lén nhìn vị khách qua cửa sổ. Không phải Kinderman. Thay vào đó, nàng trông thấy một ông già cao lớn trong chiếc áo mưa cũ sờn, đầu ông lão cuối xuống một cách nhẫn nại trong màn mưa. Ông xách một chiếc va li cổ lỗ sĩ, cũ mèm. Trong một thoáng, một chiếc móc khoá ngời lên dưới ánh đèn đường lúc chiếc va li khẽ chao đảo trong tay ông.
Tiếng chuông cửa lại ngân vang.
Ai thế nhỉ ?
Bối rối, Chris tụt xuống trường kỷ, đi ra hành lang. Nàng mở hé cửa, nheo mắt nhìn ra ngoài trời tối lúc một cơn mưa bụi lất phát rơi trên mặt nàng. Vành mũ che khuất mặt ông khách. ” Vâng, chào ông. Tôi giúp gì được ông đây ạ !”
” Bà MacNeil ?” Một giọng nói cất lên từ bóng tối. Giọng nói dịu dàng, lịch sự, nhưng đầy ấm áp như mùa gặt.
Lúc ông đưa tay lên giở mũ thì Chris đang cúi đầu, thế rồi đột nhiên nàng nhìn vào đôi mắt ấy, đôi mắt tràn ngập chan chứa cả người nàng, đôi mắt sáng ngời trí tuệ và niềm cảm thông ân cần; với một vẻ thanh thoát, từ đôi mắt ấy nó rót vào người nàng giống như nguồn nước của một con sông chữa lành và ấm áp.
” Tôi là cha Merrin.”
Trong một thoáng, nàng lộ vẻ lúng túng lúc nàng ngắm khuôn mặt khổ hạnh gầy guộc ấy, ngắm đôi lưỡng quyền như được đẽo tạc, bóng láng như đá xà phòng, thế rồi nàng nhanh chóng mở toang cửa. ” Ôi Chúa! Xin mời vào ! Ôi, xin mời vào. Chà, tôi thật… Thú thật, tôi cũng không biết trí khôn tôi để đâu.”
Ông bước vào và nàng đóng cửa lại.

” Ý tôi muốn nói là tôi ngỡ đến mai cha mới đến cơ !”
” Vâng, tôi biết,” nàng nghe ông nói thế.
Lúc nàng quay lại đối diện với ông, nàng thấy ông đang đứng mà đầu nghiêng ngó, liếc lên phía trên như thể ông đang lắng nghe – không phải, đang cảm nhận thì đúng hơn, nàng nghĩ thế – về một sự hiện diện nào đó ngoài tầm mắt… một sự rung động xa vời nào đó đã quen và đã biết. Bối rối, nàng nhìn ông. Làn da ông như dãi dầu nhiều với nắng gió của đường xa xứ lạ, bởi một vầng mặt trời chiếu sáng ở một nơi khác, một nơi tít tắp xa cách thời gian và không gian nàng sống.
Ông ta đang làm gì nhỉ ?
” Để tôi đỡ chiếc va li cho cha. Bây giờ chắc nó phải nặng hàng tấn.”
” Không sao,” ông khẽ nói. Vẫn cảm nhận. Vẫn thăm dò. ” Nó giống như một phần cánh tay của tôi rồi, rất già cũ… rất tả tơi.” Ông nhìn xuống với một nụ cười mỏi mệt nồng nàn trong ánh mắt. ” Tôi đã quen với gánh nặng… Cha Karras có ở đây không ?” Ông hỏi.
” Vâng, có ạ. Cha ấy ở trong bếp. À, mà cha đã dùng bữa tối chưa, thưa cha ?”
Ông bắn tia nhìn lên lúc có tiếng cửa mở. ” Rồi, tôi đã dùng bữa trên tàu hoả.” ” Cha chắc là minh không muốn dùng thêm chút gì khác chứ ạ?”
Một khoảng khắc. Rồi có tiếng cửa đóng. Ông nhìn xuống. ” Không, cám ơn bà.”
” Chà, mưa gì mà mưa mãi,” nàng phản đối, vẫn còn bối rối. ” Giá biết cha đến, tôi đã ra ga đón rồi.”
” Không sao.”
” Cha có phải đợi tắc xi lâu không ?”
” Vài phút thôi.”
” Để tôi đỡ nó, thưa cha.”
Đó là Karl. Anh đã xuống thang lầu rõ nhanh, đỡ chiếc va li từ tay vị linh mục và xách nó xuống hành lang.
Vị linh mục Dòng Tên thong thả tiến tới quên cả Karl, quên cả Chris đang há hốc mồm vì kinh ngạc, cả Karras đang từ bếp bối rối lộ diện trong khi những tiếng nện ầm vang và những tiếng ồm ồm như ác mộng vẫn tiếp tục. Ông bình thản bước lên cầu thang, bàn tay mảnh khảnh giống như thạch cao lướt lên thành cầu thang.
Karras trờ tới bên Chris, cả hai cùng đứng dưới nhìn lên lúc Merrin bước vào phòng Regan và đóng cánh cửa lại phía sau lưng. Trong một lúc, hoàn toàn yên lặng. Thế rồi con quỷ bỗng phá lên cười gớm ghiếc và Merrin bước ra. Ông đóng cửa lại và bắt đầu đi xuống hành lang. Phía sau ông, cánh cửa phòng ngủ lại mở và Sharon nhô đầu ra, nhìn sững theo ông, nét mặt cô trông thật kỳ lạ.


Sử dụng phím mũi tên (hoặc A/D) để LÙI/SANG chương.