Bạn đang đọc Quỷ ám – Chương 30 – part 03
Karras nhìn, nhớ lại anh ta trong xe của Kinderman. Lại thêm một chuyện kỳ bí. Rối tung rối mù. Mệt mỏi, ông mở cửa. Trời đã vào đêm. Thất vọng, ông bước ra khỏi trũng tối tăm để đi vào vùng tăm tối.
Ông băng qua đường về cư xá, lần mò về với giấc ngủ, nhưng ngay lúc bước vào phòng, ông nhìn xuống trông thấy một mảnh giấy nhỏ hồng trên sàn nhà. Ông nhặt mẩu giấy lên. Frank nhắn tới đây. Về vụ những cuộn băng. Có ghi số điện thoại tư thất. ” Xin gọi đến… ”
Ông nhấc điện thoại lên, xin số. Chờ đợi, đôi tay ông run rẩy vì một niềm hy vọng mỏng manh.
” A lô ?” Giọng một cậu bé trai. Lanh lảnh.
” Làm ơn cho tôi được tiếp chuyện với bố cháu.”
” Vâng ạ, xin đợi một chút.” Có tiếng điện thoại buông lách cách. Rồi lại nhanh chóng được bốc lên. Vẫn cậu bé. ” Ai ở đầu dây đấy ạ ?”
” Cha Karras.”
” Cha Karras ạ ?”
Tim đập rộn ràng, Karras nói, vẫn giọng đều đều. ” Karras. Cha Karras.”
Điện thoại lại bỏ xuống một lần nữa.
Karras ấn mấy ngón tay lên chân mày.
Tiếng điện thoại.
” Cha Karras ?” ” Vâng, chào Frank. Tôi đang cố nói chuyện với ông cho bằng được đây.”
” Ồ, xin lỗi. Tôi mãi bận với mấy cuộn băng của cha tại nhà.” p>
” Đã xong chưa ạ ?”
” Vâng, đã xong. À này, có điều nội dung hơi kỳ quặc đấy.”
” Tôi biết.” Karras cố san bằng nét căng thẳng trong giọng nói ông. ” Câu chuyện như thế nào, Frank ? Ông đã tìm ra chưa ?”
” Chà, cái tỷ lệ “đặc trưng tiêu biểu” này, trước hết… ”
” Vâng ?”
” Chà, tôi chưa có đủ một mẫu tuyệt đối chính xác, cha hiểu đấy, nhưng tôi có thể nói là nói khá chính xác, hay ít ra cũng chính xác hết mức mà ta có thể đạt được đối với những vấn đề như thế này. Vâng, vâng, bằng mọi giá, tôi xin nói rằng hai giọng nói khác nhau trên những cuốn băng ấy có thể là của những cá nhân riêng biệt ?”
” Có thể à ?”
” Chà, tôi chẳng muốn ra toà để thề thốt điều ấy đâu, nhưng trên thực tế, tôi phải nói là chỗ khác biệt quả thực là khá tế vi.”p>
” Tế vi… ” Karras thẩn thờ lập lại. Chà, ra trò chơi là đây đây !
” Còn vụ nói huyên thuyên thì sao ?” Ông hỏi không chút hy vọng. ” Đó có phải là một loại ngôn ngữ nào không ?”
Frank cười khúc khích.
” Có gì buồn cười chăng ?” Vị linh mục hỏi, dáng ảm đạm. ” Đây có phải đúng là một thứ trắc nghiệm tâm lý bí mật nào đó không, thưa cha ?”
” Tôi không biết ông muốn nói gì, Frank ạ.”
” Chà, tôi đoán là cha đã pha tạp lẫn mọi thứ trong mấy cuộn băng đó. Nó… ”
” Frank, đó có phải là một thứ ngôn ngữ hay không ?” Karras cắt ngang.
” Ồ, tôi phải nói đó chính là một ngôn ngữ, đúng vậy.”
Karras cứng hẳn người. ” Ông đùa chăng?”
” Không, tôi không hề đùa.”
” Ngôn ngữ gì ?” Ông hỏi, không tin được.
” Anh ngữ.”
Trong một lúc. Karras ngậm câm, và lúc ông cất lời, nghe trong giọng ông có mòi sắc cạnh. ” Này Frank, hình như đường dây điện thoại của ta hôm nay nghe tồi quá, hoặc giả ông muốn đem tôi ra làm trò đùa gì đây chăng ?”
” Cha có máy ghi âm ở đó không ?” Frank hỏi.
Chiếc máy đang ở trên bàn làm việc của ông. ” Vâng, có.”
” Máy có nút quay ngược băng không ?”
” Chi vậy ?”
” Mà máy có nút ấy không ?”
” Chi vậy ?”
” Mà máy có nút ấy không ?”
” Đợi một lát.” Bực bội, Karras bỏ điện thoại xuống, nhấc nắp máy ghi âm ra kiểm soát lại. ” Vâng, máy có nút ấy, Frank ạ, nhưng mà mọi chuyện này là nghĩa lý gì ?”
” Cha hãy lắp băng vào máy và cho quay ngược lại.”
” Cái gì ?”
” Cha có nuôi quỷ phá nhà đấy,” Frank cười lớn. ” Cứ quay băng đi rồi mai tôi sẽ nói chuyện cha nghe. Chúc cha ngủ ngon.”
” Chúc ông ngủ ngon, Frank.” ” Chúc nhiều điều thú vị.”
Karras gác máy. Ông có vẻ bối rối. Ông lục cuộn băng “nói huyên thuyên” ra rồi lắp vào máy. Thoạt tiên, ông cho băng chạy tới trước, lắng nghe. Lắc đầu. Không lầm lẫn gì nữa. Đó là những câu nói huyên thuyên, vô nghĩa. Ông để băng chạy đến hết rồi chạy ngược lại. Ông nghe thấy tiếng ông nói, lộn ngược. Rồi tiếng Regan – hay ai đó – nói bằng Anh ngữ !
… Marin marin Karras be us let us…
Ông nghe kỹ trọn cuốn băng, rồi trả băng lại, nghe suốt một lần nữa. Rồi một lần nữa… Lúc đó ông nhận ra được rằng thứ tự tiếng nói bị đảo ngược cả..
Ông cho băng ngừng, trả băng ngược lại. Với bút chì và giấy, ông ngồi xuống bàn làm việc, bắt đầu cho băng chạy lại từ đầu, rồi ông sao chép các từ. Ông làm việc thật cần mẫn và lâu dài với các đợt tắt, mở máy gần như liên tục. Rốt cuộc, khi đã làm xong, ông sao một bản nữa trên tờ giấy thứ hai, lần này đảo ngược thứ tự các từ. Sau đó, ông dựa ngửa, đọc bản sao thứ hai đó :
… ” nguy hiểm. Chưa đâu. (Không giải mã được) sẽ chết. Ít thời gian. Bây giờ cái (không giải mã được). Để cho con nhỏ đó chết. Không, không, cưng ! Thân thể nó thật đáng yêu ! Ta cảm thấy. Có một (không giải mã được). Thà (không giải mã được) còn hơn là cõi trống không. Ta sợ tên tu sĩ. Hãy cho chúng ta thời gian. Sợ tên tu sĩ ! Hắn thì (không giải mã được). Không, không phải tên này : cái tên (không giải mã được), cái tên mà (không giải mã được). Á, máu, cảm thấy máu (hát ?) thế nào.”
Tới chỗ này, có giọng Karras hỏi, ” Ngươi là ai ?” và tiếng trả lời: ” Ta không là ai. Ta không là ai.” Lại tiếng Karras ” Phải tên ngươi đó không ?” và tiếp theo:
… ” Ta không có tên. Ta không là ai. Nhiều. Để chúng tao yên. Để chúng tao ấm áp trong cơ thể này. Đừng (không giải mã được) ra khỏi cơ thể này để rơi vào cõi hư vô, vào cõi (không giải mã được). Để mặc chúng tao. Mặc chúng tao. Để chúng tao yên. Mặc chúng tao. Để chúng tao yên. ( Marin ? Martin ?)… ”
Ông cứ đọc lại mãi đoạn văn đó, bị ám ảnh bởi giọng văn, bởi cái cảm giác có hơn một con người đang nói, mãi cho đến cuối cùng, chính sự lập đi lập lại đó đã làm cùn nhụt, những từ ấy trở thành tầm thường. Ông bỏ bản sao ấy xuống và chà xát mặt mày, chà xát đôi mắt và cả những ý nghĩ của ông. Không phải là một thứ tiếng lạ. Khả năng biết lộn ngược lưu loát khó có thể coi là phi phàm hay ngay cả bất thường gì. Nhưng mà nói lộn ngược: điều chỉnh và thay đổi ngữ âm trong cách thế sao cho khi nói ngược lại thì sẽ có ý nghĩa, một thành tích như thế há không phải đã vượt qua cả một trí tuệ bị tăng kích thích đó sao ? Trạng thái vô thức được gia tốc như Jung đã bàn đến. Không phải. Một cái gì đó cơ…
Ông nhớ rồi. Ông ra kệ sách tìm một cuốn: “Tâm Lý Học Và Bệnh Lý Học. Những Hiện Tượng Được Gọi Là Thần Bí” của tác giả Jung. Có điều gì đó tương tự ở đây, ông nghĩ. Điều gì vậy? Ông tìm ra rồi: đoạn mô tả một cuộc thí nghiệm về trạng thái viết tự động, trong đó phần vô thức của người được thực nghiệm dường như đã có thể trả lời được các câu hỏi và những phép đảo chữ cái của ông ta.
Phép đảo chữ cái !
Ông dựng đứng cuốn sách mở ngỏ ấy lên bàn, nghiêng người đọc đoạn mô tả một phần của cuộc thực nghiệm:
…
NGÀY THỨ 3
Ngươi là ai ? Clelia. Ngươi là phụ nữ à ? Phải.
Ngươi có sống trên trái đất không ? Không
Ngươi sẽ sống lại chứ ? Phải
Khi nào ? Sáu năm nữa.
Tại sao ngươi trò chuyện với ta ? E if Clelia El
Người được thực nghiệm giải thích câu trả lời này như một phép đảo chữ cái cho câu ” Chris Clelia feel” ( Ta Clelia cảm thấy.)
NGÀY THỨ 4 Ta có phải là người trả lời các câu hỏi không ? Phải.
Có Clelia đó không ? Không.
Vậy thì ai ở đó ? Không ai cả.
Clelia có hiện hữu chút nào không ? Không.
Thế thì hôm nay ta đã nói chuyện với ai vậy ? Với chẳng ai cả.
…
Karras ngừng đọc, lắc đầu. Đây chẳng phải là một thành tích phi phàm gì, chỉ là khả năng vô hạn của tâm trí đấy thôi.
Ông với lấy một điếu thuốc, ngồi xuống và châm lửa. ” Ta không là ai cả. Nhiều.” Kỳ quái thật. Thế thì nó đến từ đâu, ông thắc mắc, cái nội dung ngôn từ của cô bé ?
” Với chẳng ai cả.”
Có phải nó đến từ cùng một chỗ với Clelia không ? Các bản ngã lộ diện này?
” Marin… Marin… ” ” Á, máu… ” “Hắn bị bệnh.” Đầu óc bị ám ảnh, ông liếc bộ sách “Satan” rồi ảm đạm lật đến câu đề từ : “Chớ để con rồng làm kẻ thủ lĩnh ta… ” Ông phà khói và nhắm mắt lại. Ông ho. Cổ họng ông cảm thấy đau buốt và sưng tấy. Ông dí tắt điếu thuốc, nước mắt ràn rụa vì khói. Mệt nhoài. Các xương cốt ông cứ như những ống nước bằng sắt. Ông đứng dậy, treo tấm biển ” Đừng Quấy Rầy” trên cửa, rồi ông tắt đèn phòng, buông mành cửa sổ, đá văng giày ra và nằm sụp xuống giường.
Những mảnh vụn vỡ. Regan. Dennings. Kinderman. Làm gì đây ? Ông cần phải giúp đỡ. Bằng cách nào ? Cố thuyết phục Đức Giám mục với chút xíu chứng cớ trong tay thế sao ? Ông không nghĩ vậy. Ông chẳng thể nào biện bạch cho vụ việc này một cách đầy đủ sức thuyết phục được. Ông nghĩ đến chuyện cởi quần áo, chui vào chăn. Quá mệt mỏi. Cái gánh nặng này. Ông muốn được rảnh tay.
” … Hãy để chúng tao yên..”
Hãy để tôi yên, ông trả lời cho cái manh mún đó. Ông trôi vào giấc ngủ tối đen, bất động của loài đá hoa cương.
° ° ° Tiếng chuông điện thoại đánh thức ông dậy. Lảo đảo, ông lần mò tìm núm bật đèn. Mấy giờ rồi vậy? Hơn ba giờ sáng vài phút. Ông loạng quạng với tay tìm điện thoại. Có tiếng trả lời. Sharon đó. Cô gái hỏi ông có vui lòng đến ngay nhà được không. Ông sẽ đến. Ông gác máy, cảm thấy bị sa bẫy trở lại, bị ngột ngạt và lúng túng như cũ.
Ông vào phòng tắm vã nước lạnh lên mặt, lau khô rồi bắt đầu rời phòng, nhưng đến cửa, ông quay lại, trở vào lấy chiếc áo len. Ông chui đầu vào áo rồi bước ra ngoài phố.
Không khí loãng và tĩnh mịch trong bóng đêm. Vài con mèo hoang đang moi thùng rác hoảng hốt bỏ chạy lúc ông băng qua đường đến ngôi nhà kia. Sharon đón ông ở cửa. Cô gái mặc áo len, quấn thêm một chiếc mền. Trông cô hoảng sợ. Bối rối. ” Xin lỗi cha,” cô thì thầm lúc ông đã bước vào nhà. ” Nhưng tôi nghĩ là cha cần trông thấy điều này.” p>
” Điều gì vậy ?”
” Rồi cha sẽ thấy. Bây giờ ta phải khẽ khàng. Tôi không muốn đánh thức Chris. Chị ấy cũng chẳng nên chứng kiến điều này.” Cô gái ra hiệu cho ông bước tới. p>
Ông theo sau cô, rón rén lên cầu thang đến phòng Regan. Lúc bước vào, vị linh mục cảm thấy lạnh buốt xương. Căn phòng như ướp nước đá. Ông cau mày kinh ngạc nhìn Sharon, và cô gái nghiêm trang gật đầu với ông. ” Vâng, lò sưởi vẫn mở thường xuyên,” cô thì thào. Rồi cô quay lại nhìn chăm chăm Regan, nhìn đôi tròng trắng của cô bé ngời lên kỳ dị dưới ánh đèn. Hình như cô bé đang trong cơn hôn mê. Hơi thở nặng nề. Bất động. Chiếc ống truyền dịch theo đường lỗ mũi-dạ dày vẫn ở yên vị trí, chất Sustagen vẫn chảy rỉ rả vào cơ thể nó.
Sharon khẽ khàng đến bên giường, Karras theo sau, vẫn còn choáng váng vì lạnh. Lúc hai người đứng bên giường, ông trông thấy những giọt mồ hôi rỉ trên trán Regan ! Ông liếc xuống trông thấy đôi tay cô bé bị buộc chặt dưới những sợi dây da.
Sharon. Cô gái nghiêng người, khẽ vạch cổ áo pi-ja-ma của Regan ra. Một niềm thương xót vô bờ xoắn lấy Karras lúc ông nhìn thấy khuôn ngực héo hon phơi rõ từng chiếc xương sườn của cô bé, trên khuôn ngực đó người ta có thể đếm được từng tuần, từng ngày còn lại của cuộc đời nó.
Ông cảm thấy cặp mắt lạc thần của Sharon chiếu lấy ông. ” Tôi không biết là nó đã chấm dứt hay chưa,” cô gái thì thầm. ” Nhưng cứ quan sát, cứ nhìn chăm lên ngực con bé.”
Cô gái quay lại và nhìn xuống. Vị linh mục Dòng Tên dõi theo tia nhìn của cô. Yên lặng. Tiếng thở. Quan sát. Sự lạnh giá. Thế rồi đôi mày vị linh mục nhíu lại lúc ông trông thấy một cái gì đó hiện lên trên làn da : một vết đỏ phảng phất; nhưng sắc nét, giống như tuồng chữ viết tay. Ông nhìn kỹ hơn.
” Đó, nó xuất hiện rồi đó,” Sharon thì thầm.
Bất chợt, hai tay Karras nổi da gà, không phải vì cái lạnh băng giá của căn phòng, nhưng vì cái điều ông đang trông thấy xuất hiện trên khuôn ngực Regan, vì nét viết chạm nổi hằn lên thành từng chữ cái rõ ràng, đỏ như máu, trên da. Hai từ: ” Cứu con”
” Tuồng chữ của con bé đó,” Sharon thì thầm.
° ° °
Đúng chín giờ sáng ngày hôm ấy, Damien Karras đến gặp Viện trưởng Viện Đại học Georgetown xin phép đạo đạt thỉnh nguyện lên bề trên xin chuẩn y một lễ đuổi quỷ. Ông được Viện trưởng chấp thuận, ngay sau đó, ông đã đến gặp Đức Giám mục địa phận, vị này lắng nghe với sự quan tâm nghiêm chỉnh tất cà những điểm Karras tường trình.
” Cha tin là trường hợp này xác thực chứ ?” Vị Giám mục rốt cuộc hỏi.
” Con đã nhận xét hết sức thận trọng và thấy rằng trường hợp này phù hợp với các điều kiện đòi hỏi trong bộ ” Lễ Nghi”, Karras trả lời một cách tránh né. Ông vẫn chưa dám tin. Không phải là thần bí mà chính là con tim ông đã lôi kéo ông đến khoảng khắc này. Lòng thương xót và niềm hy vọng về một phương chữa bằng ám thị. ” Cha muốn đích thân hành lễ đuổi quỷ chứ ?” Vị Giám mục hỏi.
Ông cảm thấy một khoảng khắc phấn khởi phơi phới, trông thấy cánh cửa mở tung ra về phía những cánh đồng, giải thoát ông khỏi gánh nặng ưu phiền oằn oại và thoát khỏi cuộc đối đầu mỗi khi hoàng hôn xuống với bóng ma của lòng tin ông. ” Vâng, hẳn thế ạ.” Karras đáp.
” Sức khỏe cha ra sao?”
” Tốt ạ.”
” Trước đây, cha có tham dự vào một việc như thế này bao giờ chưa ?”
” Thưa chưa ạ.” ” Chà, để ta xem. Tốt hơn hết có lẽ nên có một người từng trải. Dĩ nhiên, những người như thế không nhiều lắm, nhưng có lẽ có một vị nào đó từ những hội truyền giáo hải ngoại trở về. Để tôi xem có ai đó quanh đây không. Lâm thời, tôi sẽ gọi cha ngay khi chúng tôi có tin tức.”
Karras về xong, Giám mục điện thoại ngay cho cha Viện trưởng Viện Đại học Georgetown, hai người lại thảo luận về Karras lần thứ hai trong ngày hôm đó.
” Vâng, ông ấy quả có biết rõ về quá trình của bệnh nhân.” Vị Viện trưởng bàn đến một điểm giữa cuộc điện đàm. “Tôi không tin là có gì nguy hiểm trong việc chỉ cử ông ấy làm phụ lễ thôi. Vả lại, cũng cần phải có sự hiện diện của một nhà tâm thần học.”
” Còn nhà đuổi quỷ thì sao đây ? Có ý kiến gì không ? Tôi chẳng nghĩ ra được ai.”
” Vâng, hiện nay Lankester Merrin đang có mặt ở Mỹ.”
” Merrin à ? Tôi tưởng ông ấy vẫn còn ở bên Irak chứ. Tôi nhớ là tôi có được đọc về tin ông ta đang tiến hành một công trình khai quật ở vùng Ninive.”
” Vâng, ở bên dưới đô thị Mosul. Đúng thế ạ. Nhưng ông ấy đã hoàn tất công việc và đã hồi hương khoảng ba bốn tháng nay rồi, Mike ạ. Hiện ông ta đang ở Woodstock.” ” Dạy học ư ?”
” Không, đang viết một cuốn sách khác.”
” Thật Chúa giúp ta ! Dù vậy, cha không nghĩ là ông ấy già quá đấy chứ ? Sức khỏe ông ấy ra sao ?”
” Chà, hẳn là phải ổn thôi, chứ không thì ông ấy đã không còn chạy ngược chạy xuôi mà khai quật các lăng mộ như thế được mãi. Đức cha có nghĩ thế không ?” ” Phải, tôi cũng nghĩ vậy.” p>
” Với lại, ông ta có kinh nghiệm, Mike ạ.”
” Tôi không biết điều đó đấy.” ” Vâng, ít nhất đó cũng là lời truyền tụng.”
” Chuyện ấy xảy ra bao giờ thế ?”
” Ồ, có lẽ mươi, mười hai năm trước gì đó, tôi nghĩ vậy, tại Phi Châu. Hình như đâu cuộc đuổi quỷ ấy đã kéo dài hàng mấy tháng trời. Tôi nghe nói trận ấy suýt giết chết ông ấy đấy.”
” Chà, nếu thế thì, tôi không mấy tin là ông ta muốn đảm đương thêm một lần nữa đâu.”
” Ở đây, chúng ta làm những gì chúng ta được sai làm, Mike ạ. Hỡi các ông, những tu sĩ thế tục, với các ông thì mọi lời phản kháng đã chấm dứt.”
” Cảm ơn đã nhắc nhở tôi.”
” Vậy thì Đức Cha nghĩ sao ?”
” Coi kìa, tôi giao hoàn toàn việc đó cho cha và Cha Giám tỉnh.”
Vào chớm buổi tối đang được lặng lẽ chờ đợi đó, có một chủng sinh đang đợi thụ phong linh mục lần bước trên sân Chủng viện Woodstock thuộc bang Maryland. Thầy đang tìm kiếm một vị tu sĩ Dòng Tên cao niên, tóc hoa râm, dáng người thanh mảnh. Thầy tìm thấy vị linh mục này trên một lối đi, đang bách bộ ngang một lùm cây. Thầy trao cho linh mục đó một bức điện tín. Con người cao niên này cảm ơn thầy, phong thái đầy thanh thản, đôi mắt thật đôn hậu, rồi quay lại tiếp tục trầm tưởng, tiếp tục cuộc bách bộ qua một cảnh trí thiên nhiên mà ông yêu mến. Thỉnh thoảng, ông dừng chân lắng nghe tiếng hót của một chú chim cổ đỏ, lặng ngắm một nàng bướm sặc sở lượn lờ trên một cành cây. Ông không mở đọc bức điện ấy. Ông biết nội dung thế nào rồi. Ông đã biết rồi. Ông đã đọc được nội dung đó trên cát bụi của những đền đài thành Ninive. Ông đã sẵn sàng.
Ông tiếp tục đi chào từ giã.