Bạn đang đọc Phương Đông Lướt Ngoài Cửa Sổ – Chương 26: Tàu khách Huế – Đà Nẵng (P.1)
Từ trên không trung, mặt nước xám xịt của Biển Đông không phản chiếu ánh sáng trông thật giá lạnh, quanh những đầm phá quanh co có những ngôi mộ hình tròn của Phậi tử và kinh thành Huế nằm nửa chìm nửa nổi giữa những lớp băng trầm tích. Nhưng đó là cát ướt, không phải băng tuyết, còn những ngôi mộ tròn thực ra là hố bom. Huế có một vẻ ngoài kỳ dị. Ở Sài Gòn có rất nhiều dây thép gai trên những chướng ngại vật nhưng thật ra không bị chiến tranh hủy hoại nhiều; ở Biên Hòa có những căn nhà bị bom thổi bay; ở Cần Thơ có chuyện về các cuộc phục kích và một bệnh viện đầy người thương vong. Nhưng ở Huế tôi có thể tận mắt thấy và ngửi được mùi của cuộc chiến: đó là con đường lầy bùn hằn vết xe tải quân sự, những người mang bị chạy qua cơn mưa, những binh sĩ băng bó lê bước giữa cơn gió mùa nhớt nhát trong thành phố đổ nát, hoặc nhìn ngó xung quanh qua nòng súng trường từ trên những thùng xe tải chật kín. Chuyển động của những người này thể hiện sự kiệt quệ đồng đều. Những cuộn dây thép gai đối xứng được đặt trên hầu hết các con phố, những căn nhà được bao bọc bởi các bao tải cát xếp chồng xốc xệch. Ngày hôm sau, ở trên tàu, Hổ Mang Một (cùng với Hổ Mang Hai và Dial đến tham gia chuyến đi) nói, “Nhìn xem, căn nhà nào cũng có vết đạn riêng!” Điều này đúng; rất ít căn nhà không bị dính những vết đạn đầy bạo lực và hầu hết nhà cửa đều dính một loạt lỗ đạn như xẻ tường ra vậy. Cả thành phố nhuộm một màu đen tối của bạo lực, những dấu vết của cuộc tấn công vẫn còn trên những vũng nước dềnh lên. Thành phố vẫn giữ được vài dấu vết của thiết kế thời phong kiến (kiểu Việt Nam, kiểu Pháp) nhưng nét tinh xảo này chẳng khác những lời thất hứa là mấy.
Trời rất lạnh, cái lạnh đột ngột từ bầu trời sà xuống thấp và từ cơn mưa phùn kéo dài trong những căn phòng ẩm ướt. Tôi đi đi lại lại, tự ôm lấy mình để giữ ấm trong suốt bài giảng của mình ở Đại học Huế – một tòa nhà kiểu cách thời thực dân, thực sự trông chẳng có vẻ hàn lâm chút nào mà giống một cửa hàng Morin Brothers kệch cỡm, nơi những nhà quản lý đồn điền ở vùng hẻo lánh sử dụng làm nhà khách và kho dự trữ. Tôi giảng bài trong một căn phòng từng là phòng ngủ, từ ban công đầy gió tôi có thể nhìn thấy khoảng sân bỏ hoang, ao cá đã nứt vỡ và những cánh cửa tróc sơn trên cửa sổ các căn phòng khác.
Sau đó chúng tôi lái xe lên một dốc đứng bên trên Lăng mộ Hoàng gia, bên dòng sông Hương. “ Đây là khu vực cộng sản Việt Nam,” đó là lời ông Mc Taggart, một quan chức của USIS[1]. Ông có mái tóc trắng, tính tình vui vẻ, luôn tự nấu ăn và đôi khi đạp xe ra đến tận đây rồi luyện nói tiếng Việt với đám lính canh trên dốc. Bên kia sông, đất của cộng sản Việt Nam là những quả đồi trơ trọc vì bị phun thuốc rụng lá. Nhưng đôi khi vẫn xảy ra những vụ bắn nhau. Một con tàu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa nổ máy bình bịch tiến sát vào bờ của địch quân và bắn lên trên đồi suốt buổi chiều, chẳng vào một mục tiêu cụ thể nào cả, giống như con tàu chiến của Pháp trong truyện “Heart of darkness (Trái tim Đen tối) đã pháo kích vào rừng rậm châu Phi một cách vô định – và như Conrad nói, là như hóa rồ. Một người Việt Nam nói rằng tôi nên đến vào mùa nóng. Khi đó tôi có thể thuê một con thuyền cùng một cô gái, mang theo ít thức ăn rồi tôi có thể ở trên sông cả đêm như thế này, làm tình và ăn uống; trong trời đêm dịu mát.
[1] Cơ quan Thông tin Hoa Kỳ, một cơ quan chuyên về giao lưu nhân dân của Mỹ.
Tôi hứa là sẽ làm thế. Chúng tôi đi tới những lăng mộ cạnh đó. Ở Huế, công trình càng cổ xưa thì càng được bảo trì tốt: năm trước những căn nhà mái tôn đã sập thành từng mảnh, căn nhà bốn mươi năm tuổi của ông McTaggart tuy xác xơ nhưng lại tiện nghi, còn những Lăng mộ Hoàng gia cả trăm tuổi thì vẫn trong tình trạng tốt, cho dù chúng được xây từ những vật liệu cũ theo phong tục của Việt Nam (để nhấn mạnh tính khiêm tốn) – gỗ và đá cũ đã sử dụng, đồ gốm sứ bị vỡ và ngói sứt mẻ. Có những khu vườn rối rắm và những cổng chào chạm hình rồng đang phủ phục trên khung tò vò; và ở những căn phòng bên trong, lăng mộ phủ bụi, những bà lão đi tập tễnh qua từng đồ tạo tác đốt những dây nến để chỉ cho chúng tôi xem cái đồng hồ của Pháp (kim của nó đã rơi mất), cái chân đèn bằng pha lê, bàn thờ mạ vàng và những cái tủ khảm xà cừ, những cái quạt đuôi công đang rụng mất lông (“Bà ấy nói rằng những món đó là từ nhà vua Pháp đấy”). Bàn tay của những bà lão này run run khi đưa những ngọn lửa nến lại gần kho báu khô như bấc và tôi sợ rằng họ sẽ đốt cháy cả cái nơi này mất. Khi chúng tôi đi, họ thổi tắt các ngọn nến và ở lại trong lăng mộ tối om. Đây là một thành phố và mọi người thường xuyên phải chạy loạn, nhưng ở trong các lăng mộ, những bà già – quản gia cho nhà vua từ những năm 1920, 1930 – không bao giờ bỏ đi. Họ ăn uống và ngủ nghỉ tại khu vực xung quanh lăng mộ của Hoàng gia.
Đêm đó trời lạnh; chó sủa trên những con đường lầy bùn; và mặc dù trời lạnh nhưng phòng ngủ của tôi đầy những con muỗi khó chịu.
Tại nhà ga Huế sáng hôm sau, một người Việt nhỏ bé mặc đồ vải gaberdine, đội một cái mũ chóp bằng chạy vội về phía trước cầm lấy cánh tay tôi. “Chào mừng ông đến Huế,” anh ta nói, “Toa của ông đã sẵn sàng.” Đó là trưởng ga. Ông ta được thông báo về việc tôi đến và đã nối một toa giám đốc khác vào đoàn tàu khách đi Đà Nẵng. Đường sắt Việt Nam bị chia ra làm nhiều đoạn, mỗi đoạn lại có riêng một toa của vị giám đốc đỗ ở trên đường tránh của đoạn đó. Ngành đường sắt bất cứ nước nào khác cũng có thể có một toa như thế, nhưng Đường sắt Việt Nam có sáu tuyến riêng biệt, tự vận hành độc lập một cách vất vả. Như ở Sài Gòn, tôi lên một toa riêng với vài nỗi e ngại, khi hiểu rằng tay mình sẽ run nếu khi nào viết điều gì không rộng lòng với những người này. Tôi cảm thấy thật lố bịch trong khoang riêng, trong toa riêng của mình, nhìn những người Việt Nam xếp hàng mua những tấm vé để đi trên những toa xe chật chội. Ông trưởng ga kéo tôi đi nhanh qua cửa bán vé (“Ông không cần mua đâu!”), nhưng tôi kịp nhìn thoáng qua giá vé: một trăm bốn mươi ba đồng (hai mươi lăm xu Mỹ) để đi đến Đà Nẵng, có lẽ là chuyến chạy một trăm hai mươi ki lô mét rẻ nhất trên thế giới.
Dial, người phiên dịch cùng Hổ Mang Một và Hai lên tàu, cùng vào trong khoang với tôi. Chúng tôi ngồi im lặng, nhìn qua cửa sổ. Tòa nhà hình khối quét vôi trắng của nhà ga, một phiên bản của Alamo, thủng lỗ chỗ những vết đạn khiến những mảng vữa rơi xuống, phơi ra kết cấu bằng gạch đổ bên trong. Nhưng nhà ga này, cùng tuổi với căn biệt thự cửa sổ hướng ra biển của McTaggart và cửa hiệu Morin Brothers, được xây vững chãi – khác xa với những miếng vá bằng đất thải và nền xi măng ở ngay bên ngoài Huế, nơi doanh trại đổ nát của Sư đoàn Thủy quân Lục chiến số 1 đóng, và những lớp chướng ngại vật – vỡ vụn nằm chìm trong bùn. Cứ như thể hệ thống máy móc chiến tranh đã được hẹn giờ để tự phá hủy vào cái ngày người Mỹ rút đi, không để lại sau lưng dấu vết của cuộc phiêu lưu tàn bạo đó. Trên sân ga vài chiếc xe bọc thép lộ rõ những vết toạc rách trên lớp vỏ thép do mìn nổ đục thủng. Những chiếc xe giờ là nhà của vài đứa trẻ mặt mũi buồn thiu. Tại hầu hết những nước nhiệt đới, như William Blake mô tả, người lớn đứng ở phần rìa của những bãi cỏ xanh náo động, nhìn ngắm lũ trẻ chơi đùa. Nhưng ở Việt Nam trẻ con tự chơi một mình, dường như người lớn đã bị quét đi đâu mất; bạn tìm kiếm những bậc cha mẹ giữa một đám lớn trẻ con, tìm hình dáng một người lớn đứng ở hậu cảnh. Nhưng (điều này lại càng làm cảnh tượng méo mó), họ mất tích. Người giống như một bà già đang mang một đứa trẻ trên lưng kia, với cái áo dài đầy bùn và mái tóc ướt sũng mưa, hóa ra lại là một đứa trẻ khác.
Dial hỏi: “Các vị đã thấy cái chậu trong WC chưa?”
“Chưa.”
“Các vị vặn vòi và đoán xem cái gì chảy ra?”
“Gỉ,” tôi nói.
“Chẳng có gì cả,” Hổ Mang Hai đáp.
Dial trả lời, “Nước!”
Hổ Mang Một nói “Đúng rồi. Này Paul, ghi việc này lại nhé. Vòi nước vẫn hoạt động. Ở đây có nước chảy. Anh nghĩ thế nào về việc này?”
Có điều đây là chậu nước duy nhất trên tàu.
Người trưởng ga nói rằng tuyến đi Đà Nẵng đã mở được bốn tháng, sau khi ngừng hoạt động năm năm. Cho đến giờ thì gần đây vẫn chưa có gián đoạn gì cả. Tại sao việc mở lại tuyến này lại trùng hợp với việc quân Mỹ rút đi thì không ai lý giải được. Giả thiết của tôi là hiện không có xe tải Mỹ nào chạy tới chạy lui trên con đường duy nhất giữa Huế và Đà Nẵng, Quốc lộ 1, bị gọi một cách đau xót là “Con đường Sầu thảm”; việc các tuyến đường bộ tốn kém đang co rút lại khiến người Việt Nam có xu hướng nhạy bén hơn là mở lại đường sắt. Chiến tranh không thu hẹp lại, nhưng ít bị cơ giới hóa đơn, ít phức tạp hơn. Tiền và quân đội nước ngoài đã làm phức tạp hóa vấn đề, nhưng giờ đây người Việt Nam đã từ bỏ kiểu vận hành chiến tranh như vận hành công nghiệp của người Mỹ và quay lại với những kiến trúc thượng tầng thời thuộc địa, những phương tiện giao thông chậm hơn; người ta trở lại với việc đồng áng, ở trong những ngôi nhà cũ và sử dụng một hệ thống vận tải trên đường ray. Mô hình chiến tranh của người Mỹ đã bị bỏ qua – những căn cứ hỏa lực trống không, những khung xương của doanh trại và những con đường bộ vỡ nát thể hiện điều này, ta có thể nhìn thấy từ trên đoàn tàu khách kêu lách cách đi đến Đà Nẵng chở những rau củ trồng ở Huế.
Những cây cầu ở trên tuyến đường này kể những câu chuyện về chiến tranh; chúng mới được xây dựng gần đây và có gỉ mới ở rầm cầu. Những cây cầu khác đã gãy, xuất hiện trong tư thế bất động, bị những khối thuốc nổ tấn công làm méo mó và rơi xuống khe suối. Trên mấy con sông có những đống sắt vụn từ cầu gãy, những mối nối đen bằng sắt bó thành cụm thô kệch dưới mặt nước. Không phải tất cả những cây cầu đều còn mới. Ở các hẻm núi cả hai ba cây gãy, tôi nghĩ cây cũ nhất là dấu tích về một vụ ném bom của Nhật, còn những cây kia thì minh chứng cho sự hủy hoại của những hành động khủng bố trong thập kỷ 1950 và 1960, mỗi cuộc chiến những tàn tích riêng biệt. Chúng nham nhở một cách ấn tượng, giống như những tác phẩm khắc kim loại cổ quái. Và người Việt Nam phơi phóng quần áo lên chúng.
Chứng cứ rõ nhất là những người lính bên các bờ sông – tại những cây cầu này. Đây là những điểm chiến lược: một vụ đánh bom cầu có thể khiến tuyến đường bị ngưng hoạt động đến cả năm. Vì vậy ở mỗi đầu cầu, ngay phía trên những vỉa đá, có những chồng bao tải cát, nhà nhỏ và boong ke, nơi lính gác, hầu hết đều còn trẻ, cầm những khẩu cạc bin vẫy đoàn tàu. Trong nơi trú quân của họ những khẩu hiệu bay trên những băng rôn đỏ và vàng. Dial dịch những khẩu hiệu này cho tôi nghe. Một khẩu hiệu đặc trưng là HÂN HOAN CHÀO ĐÓN HÒA BÌNH NHƯNG KHÔNG NGỦ QUÊN TRONG CHIẾN TRANH. Những người lính mặc áo lót đứng loanh quanh; cũng có thể nhìn thấy họ đang đung đưa võng; có người bơi lội trên sông hoặc giặt quần áo. Vài người nhìn đoàn tàu, với khẩu súng trường trên vai, mặc những bộ quân phục quá khổ – một phép ẩn dụ về sự gán ghép không tương xứng luôn nhắc nhở tôi rằng những người đàn ông – những cậu bé – này đã được người Mỹ to lớn cấp cho quần áo và vũ khí. Khi người Mỹ đi rồi thì cuộc chiến này với họ thật quá to lớn, như một thứ quần áo quá khổ, thực vậy, chẳng khác nào những cái áo mà họ mặc với ống tay áo dài tận ngón và những mũ sắt trùm kín cả mắt.
“Cộng sản ở đằng kia,” Hổ Mang Một nói. Anh ta chỉ tay vào một loạt dải đất nhô lên tạo thành những ngọn đồi ở đằng xa. “Anh có thể nói rằng tám mươi phần trăm đất nước này do cộng sản Việt Nam kiểm soát, nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì vì họ chỉ có mười phần trăm dân số.”
Dial bảo: “Tôi đã từng lên trên đó.” Tôi vẫn cứ quên rằng Dial vốn là một lính thủy đánh bộ. “Chúng tôi tiến hành một cuộc đi tuần kéo dài ba tuần. Chúa ơi, bọn tôi lạnh lắm! Nhưng đôi khi chúng tôi ăn may, vào được một ngôi làng. Những người dân có thể đã nhìn thấy chúng tôi tới và chạy đi, còn chúng tôi dùng những túp lều của họ – ngủ trên giường họ. Tôi nhớ có vài lần – điều này làm tôi chết mất – chúng tôi đã phải đốt cháy hét đồ đạc của họ để giữ ấm. Chúng tôi không thể tìm được tí củi đốt nào.”
Những ngọn núi đã bắt đầu hiện lên, hình thù như những giảng đường có bậc thang với góc nhìn toàn cảnh ra Biển Đông; kỳ quái, trống không và xanh ngắt, các đỉnh núi có sương mù bao phủ và làn khói từ những đám đốt rẫy của người dân bay lên tận đỉnh. Chúng tôi đang đi trên một dải đất hẹp ven biển, trên tuyến đường ven biển chắp vá nằm giữa núi và biển, hiện vẫn nằm trong sự kiểm soát của chính quyền Sài Gòn. Thời tiết đã thay đổi, hoặc có thể chúng tôi đã được giải thoát khỏi cơn mưa phùn dai dẳng ở Huế. Bây giờ nắng ấm: những người Việt trèo lên nóc toa thả chân qua mái hiên toa tàu, Chúng tôi gần bãi biển đến mức nghe thấy tiếng sóng vỗ ầm ầm và ở phía trước, trên một con lạch quanh co rộng gấp đôi đoàn tàu, tàu thuyền đánh bắt cá đang cưỡi những lớp sóng sủi bọt để ra khơi, trên đó những người đàn ông đội mũ rộng quăng lưới bắt tôm.
“Chúa ơi, thật là một đất nước tươi đẹp,” Hổ Mang Hai nói. Chị ta chụp ảnh bên ngoài cửa sổ, nhưng chẳng có bức ảnh nào có thể sao chép được sự đan xen phức tạp của cảnh đẹp đó: ở đằng kia, mặt trời chiếu sáng trên một hố bom trong rừng và cạnh đó khói tỏa khắp lòng thung lũng, cột mưa của một đám mây phù du đang đổ nghiêng xuống sườn núi khác; và màu xanh da trời phải nhạt đi trước màu lá cây sẫm, màu xanh lá mạ trên những cánh đồng bằng phẳng, và qua một dải cát, màu xanh đó trở thành màu xanh thẳm của đại dương. Những khoảng không gian rộng lớn và phong cảnh mênh mông tới mức phải xem xét từng phần nhỏ một, giống như đứa trẻ ngắm một bức bích họa vậy.
Tôi nói, “Tôi chẳng biết nữa.” Trong tất cả những nơi mà tàu hỏa đã đưa tôi đi qua kể từ London, đây là nơi thơ mộng nhất.
Hổ Mang Hai nói: “Không ai biết được. Không ai ở Mỹ có ý niệm dù là nhỏ nhất rằng đất nước này tươi đẹp ra sao. Nhìn kìa – Ôi trời, nhìn kia kìa!”
Chúng tôi đang đi trên viền một vùng vịnh màu xanh lá cây lung linh tươi sáng trong ánh nắng. Trên mảng biển nhấp nhô màu ngọc bích, những vách đá nhô ra, và cảnh tượng một thung lũng rộng lớn tới mức cùng một lúc chứa đựng được cả ánh mặt trời, khói, mưa và mây – những khối màu độc lập. Tôi không thể ngờ lại được gặp một cảnh đẹp như thế này; nó làm tôi ngạc nhiên và thấy mình thật nhỏ bé cũng giống như khi tôi nhìn thấy sự trống trải ở vùng nông thôn Ấn Độ. Đã từng có ai nhắc đến một sự thật đơn giản, rằng những điểm cao ở Việt Nam lại chính là nơi có cảnh vật kỳ vĩ không thể tưởng tượng được? Khó mà trách một anh lính quân dịch Mỹ quá hoảng sợ nên không để ý đến vẻ tuyệt diệu này; nhưng ngay từ đầu chúng ta nên hiểu rằng, nếu vẻ đẹp viên mãn này không lôi cuốn những con mắt chiếm đoạt bên ngoài, thì có lẽ người Pháp đã không biến nơi này thành thuộc địa và người Mỹ cũng đã không tham chiến ở đây lâu đến vậy.
“Đây là thung lũng A Sầu,” Hổ Mang Một nói, trước đó anh ta vẫn làm những hành động hay ho bắt chước Walter Brennan. Những đỉnh núi vươn vào mây mù; phía dưới, trong làn khói và ánh mặt trời là những khe núi sâu đen ngòm được nhấn bởi những thác nước. Hổ Mang Một gật gù: “Nhiều chàng trai giỏi đã chết ở đây.”
Lóa mắt trước phong cảnh, tôi bước dọc đoàn tàu và nhìn thấy một người đàn ông mù đang lần sờ tìm đường ra cửa – tôi có thể nghe thấy phổi của anh ta làm việc như ống bể; những bà lão nhăn nheo răng đen mặc quần áo đen ôm những cái bị dệt bằng gai đựng hành tươi; và những tay lính tráng – một người mặt xám như tro tàn ngồi trên xe đẩy, một người chống nạng, những người khác thì mới được băng bó trên đầu và ở tay, tất cả bọn họ đều mặc quân phục Mỹ trông như một trò hề đúng nghĩa. Một viên chức rà soát các toa tàu, kiểm tra giấy tờ của những nam công dân, tìm kiếm những người trốn quân dịch. Tay viên chức này bị vướng vào mẩu dây mà một ông lão mù buộc vào bụng đứa trẻ đang dẫn ông ta đi. Rất nhiều lính tráng có vũ khí đi trên tàu nhưng chẳng ai trong số họ trông giống như đang đi hộ tống đoàn tàu này. Đoàn tàu được bảo vệ bởi binh lính tập trung ở những ụ súng quanh những cây cầu, đây có thể là lý do giải thích tại sao lại dễ cho nổ tung đường tàu với những quả mìn điều khiển trực tiếp thế. Những quả mìn này được chôn dưới đường ray vào ban đêm; và khi đoàn tàu đi qua, một người ẩn nấp – có thể là phía cộng sản mà cũng có thể là một kẻ đánh bom mà đám chủ xe tải ở Đà Nẵng thuê – kích hoạt số thuốc nổ đó.
Phương Đông lướt ngoài cửa sổ – Chương 25: Tàu khách Huế – Đà Nẵng (P.2)
Hai lần trên chuyến này, tại các đường tránh ở nhà ga nhỏ, những bà già lại đưa trẻ con cho tôi; những đứa da xanh xao, tóc sáng màu mà tôi thấy ở Cần Thơ và Biên Hòa. Nhưng chúng lớn hơn, có lẽ bốn hay năm tuổi, thật lạ lùng khi thấy những đứa trẻ trông như người Mỹ mà lại nói Tiếng Việt. Và càng lạ lùng hơn khi thấy những người nông dân Việt Nam nhỏ bé sống trong một phong cảnh hùng vĩ này, với những rặng cây, những khe núi tuyệt đẹp và những mảng đá màu ngọc bích – hiển hiện dưới những dải mây – lại có thể che chở kẻ thù của mình. Từ trên tàu, tôi có thể quay ra ngắm nhìn núi non và hầu như có thể quên đi tên đất nước này, nhưng sự thật thì ở gần hơn và nghiệt ngã: người Việt Nam bị làm tổn thương, bị bỏ rơi, gần như thể khi họ mặc quần áo của chúng ta, họ bị nhầm với chúng ta và vì thế bị bắn, như thể ngay vào lúc họ bắt đầu tin rằng chúng ta gắn bó với họ, thì chúng ta lại bỏ chạy. Để mô tả thời kỳ lịch sử đau buồn này không hoàn toàn đơn giản như thế, những cũng gần sự thật hơn là ý kiến khẩn thiết của những người Mỹ thống khổ đang mài dao cạo của Occam[2], cho rằng chiến tranh là một chuỗi những hành động chính trị hoàn toàn sai lầm, hoặc một phần của chủ nghĩa anh hùng bị gián đoạn. Bi kịch chính là chúng ra đã tới đây và ngay từ đầu, đã không có kế hoạch ở lại: Đà Nẵng là một ví dụ cho điều này.
[2] Chơi chữ Occam’s Razor, một phương cách giải quyết vấn đề, nội dung của nó là đơn giản hóa, hoặc xác định cốt lỗi vấn đề.
Đoàn tàu đang đi dưới đèo Hải Vân (đèo mây) hùng vĩ, biên giới phân chia tự nhiên ở phía Bắc Đã Nẵng, giống như một bức tường thành La Mã. Nếu cộng sản Việt Nam có thể vượt đèo thì con đường đến Đà Nẵng đã bày sẵn; họ cũng đã đóng trại đêm trên những sườn dốc xa, chờ đợi. Kéo dài từ Huế đến Đà Nẵng là những ngọn núi và thung lũng kỳ vĩ nhất, cũng là – và vẫn đang là – những bãi chiến trường kinh khủng nhất. Để vượt đèo Hải Vân chúng tôi đi vào một đường hầm dài. Lúc này tôi đã đi hết chiều dài của đoàn tàu và đang đứng trên ban công trước cửa đầu máy diesel, dưới đèn pha rực sáng. Phía trước, một con dơi to lao mình từ trên trần hầm xuống, vỗ cánh vụng về, bay loạn xạ, cố vượt lên trước đầu máy đang gầm rú. Con dơi bổ nhào, lướt qua đường ray rồi lại lao lên – giờ thì chậm hơn – khi cửa cuối đường hầm xuất hiện, mỗi lúc nó lại bay gần hơn vào đầu máy. Trông nó như một thứ đồ chơi bằng gỗ và giấy đã giãn lò xo, cuối cùng nó chỉ còn cách mặt tôi có ba mét, sinh vật tuyệt vọng màu nâu đang vỗ những cái cánh giơ xương. Nó mệt mỏi, buông mình xuống một quãng, rồi trong ánh sáng của lối ra đường hầm – thứ ánh sáng nó không thể nhìn thấy được – cánh con dơi sã xuống, nó rơi ra đằng trước và nhanh chóng bị nghiền dưới bánh xe của đầu máy.
“Con đường Sầu thảm” nằm ở phía trên khi chúng tôi đi qua một doi đất trơ trụi cây cối để tới cầu Nam Ho, cầu có năm nhịp được quấn những vòng dây thép gai to gỉ sét để chống đặc công thủy. Kia là những vùng bị bỏ hoang bên ngoài Đà Nẵng, một quận tập trung những căn cứ hậu cần đã bị quân đội Việt Nam Cộng hòa và những kẻ nhảy dù vào chiếm giữ; nhà cửa – thực ra là lều và những cái lán gá vào tường của những công trình khác – được dựng hoàn toàn bằng các vật liệu chiến tranh, những bao cát, các mảnh nhựa, những miếng tôn múi có dấu U.S. ARMY cùng những gói đựng thức ăn có tên viết tắt của các tổ chức từ thiện. Nếu có một nơi nào trông như bị đầu độc, thì đó là Đà Nẵng.
Tấn công và cướp bóc là những kỹ năng mà cuộc chiến đã buộc người Việt Nam phải học. Chúng tôi ra khỏi nhà ga Đà Nẵng và sau bữa trưa chúng tôi lái xe đi cùng với một quan chức người Mỹ đến phía Nam thành phố; nơi những lính Mỹ đã từng được đưa vào ở trong vài doanh trại lớn. Có lúc nơi đây hiện diện hàng ngàn lính Mỹ; giờ thì chẳng còn ai. Những doanh trại này ngập tràn người tị nạn; vì không được bảo trì nên chúng ở trong tình trạng tả tơi, trông như vừa bị pháo kích. Người ta treo đồ giặt lên cột cờ, cửa sổ thì bị phá đi hoặc đóng ván kín; trên đường người ta đốt những đống lửa lên để nấu nướng. Những người tị nạn ít may mắn hơn thì lấy những chiếc xe mất bánh làm nhà ở. Mùi nước thải thật kinh khủng – người ta có thể ngửi thấy mùi trại từ cách đó gần hai trăm mét.
Tay quan chức người Mỹ nói: “Dân tị nạn đã đợi sẵn ở cổng, bên ngoài những hàng rào kia từ lúc lính Mỹ bắt đầu gói ghém đồ đạc. Giống như là châu chấu hay con gì tôi cũng chẳng biết nữa. Ngay khi người lính cuối cùng rút đi là họ lao vào, cướp bóc các kho dự trữ và chiếm đoạt nhà cửa.”
Người tị nạn cướp bóc các doanh trại bằng kỹ năng; còn quan chức chính quyền Việt Nam cướp bóc những bệnh viện bằng ảnh hưởng. Tôi nghe được nhiều chuyện ở Đà Nẵng (và nghe lại ở thành phố cảng Nha Trang phía Nam) về ngày lính Mỹ rút đi, các bệnh viện đã bị khoắng sạch ra sao thuốc men, bình ôxy, chăn đắp, giường, các thiết bị y tế và bất cứ thứ gì có thể mang đi được. Tàu thuyền của người Trung Quốc đã neo sẵn ở ngoài khơi để nhận những đồ ăn cướp này, chuyển chúng tới Hồng Kông bán lại. Nhưng quả là trời có mắt: một thương gia Thụy Sĩ nói với tôi ràng phần nào những đồ y tế bị chôm chỉa đó lại được tìm được đường đi riêng của mình, qua Hồng Kông, đến Hà Nội. Còn người ta không biết điều gì xảy ra đối với những quan chức chính quyền làm giàu qua việc này. Một vài câu chuyện cướp bóc nghe có vẻ bị thậm xưng quá mức. Tôi thì tin vào câu chuyện về những bệnh viện bị tấn công vì không quan chức người Mỹ nào có thể cho tôi biết ở đâu có một bệnh viện đang tiếp nhận bệnh nhân, mà đó là điều một người Mỹ lẽ ra phải biết.
Trong khoảng vài cây số trên đường đi về phía Nam, những doanh trại bị cướp phá nhung nhúc người Việt, có thể thấy sự xâm lấn vội vã của họ qua những cánh cửa bị đục ra từ các bức tường bao quanh doanh trại, toàn bộ doanh trại bị hạ xuống để mười căn lều mỏng manh dựng lên. Bản thân các doanh trại cũng đã tạm bợ – chúng được dựng bằng những tấm gỗ dán, nứt nẻ khi trời ẩm, những tấm kim loại bong tróc và hàng rào thì xệ xuống – vì thế nên những thứ nhà cửa thô sơ kia càng không thể trụ được lâu. Nếu ai cảm thấy ái ngại cho những anh lính Mỹ thiếu nhuệ khí từng sống trong những doanh trại thảm hại này, thì hẳn còn thấy thương hại hơn cho những người tiếp quản cái đống tạp nham ấy.
Các quầy bar, với những biển hiệu bám đầy ruồi quảng cáo BIA LẠNH, NHẠC, GÁI, đã trống rỗng và trông gần như sập tiệm, nhưng phải đến buổi chiều tàn tôi mới thấy Đà Nẵng thực sự bị bỏ hoang như thế nào. Chúng tôi lái xe ra bãi biển, nơi chỉ cách những con sóng ầm ầm đổ vào mười lăm mét, có một căn nhà nghỉ còn tương đối mới. Đó là một bungalow bãi biển tiện nghi, xây ột tướng Mỹ mới tẩu thoát gần đây. Vị tướng này là ai? Không ai biết tên ông ta. Thế ngôi nhà bãi biển giờ thuộc về ai? Cũng không ai biết cả, nhưng Hổ Mang Một mạo muội nêu ý kiến, “Chắc là thuộc vế một tay chỉ huy quân đội Việt Nam Cộng hòa.” Ở ngoài cổng vòm có một người lính Việt Nam nhàn rỗi đeo khẩu cạc bin, đằng sau anh ta là cái bàn bày hẳn một bộ sưu tập các loại chai: vodka, whisky, rượu gừng, soda, một cái bình đựng nước cam và một xô nước đá. Từ trong căn nhà phát ra tiếng cười rầu rĩ của người say rượu.
Hổ Mang Một bảo: Tôi nghĩ ai đó đã chuyển vào. Ta đến xem sao.”
Chúng tôi bước qua anh lính gác và đi lên trên cầu thang. Cửa trước mở toang, trong phòng khách có hai người Mỹ đang ngồi trên sofa và hai cô gái Việt có bộ ngực nở nang đang mơn trớn họ. Đó là một cảnh lố bịch được sắp xếp đối xứng – cả hai tay này đều béo, cả hai cô gái đều đang cười và hai cái ghế sofa được đặt cạnh nhau. Nếu như câu chuyện tái hiện chủ nghĩa thực dân “Tiền đồn của Tiến bộ” của Corand được chuyển thể thành hài kịch thì chắc vở đó sẽ trông giống như cái cảnh này. Một người đàn ông nói: “Này, ta có bạn này!” Anh ta lấy nắm đấm đập vào bức tường phía sau đầu rồi đứng dậy châm lại điếu xì gà.
Trong lúc chúng tôi giới thiệu về mình, cánh cửa kéo trên bức tường mà gã hút xì gà đập vào mở ra, một người da đen lực lưỡng vội vã kéo quần lên. Rồi một cô gái Việt nhỏ bé như con dơi xuất hiện từ trong căn phòng. Gã da đen nói “Xin chào” và tiến ra cửa trước.
Hổ Mang Một nói: “Chúng tôi không định làm gián đoạn buổi dã ngoại của các anh,” nhưng anh không thể hiện là chúng tôi muốn bỏ đi. Anh khoanh tay lại và nhìn; Hổ Mang Một có khổ người cao lớn với cái nhìn chằm chằm dữ dội.
Gã hút xì gà lăn xuống khỏi sofa: “Các anh chẳng làm gián đoạn cái gì đâu.”
Viên chức người Mỹ lái xe đưa chúng tôi đến đây giới thiệu: “Đây là chỉ huy bộ phận an ninh.” Anh ta nói về gã béo hút xì gà.
Như để thừa nhận, gã béo châm lửa xì gà lần nữa. Rồi gã nói, “Đúng rồi, tôi là chỉ huy bọn quỷ sứ quanh đây. Các vị vừa đến à?” Gã vừa đạt đến độ say mà vẫn hoàn toàn ý thức được việc mình đang say, và đang cố che giấu cơn say. Gã bước ra ngoài, tránh xa những cái đệm bị xô đổ, những cái gạt tàn đầy và mấy cô gái ưỡn ẹo.
Khi chúng tôi nói với gã là đã đi từ Huế đến Đà Nẵng bằng tàu hỏa, gã CIA hỏi: “Các vị đi cái gì? Các vị thật may vì đến được đây; Hai tuần trước Việt Cộng vừa cho nổ tung nó.”
Hổ Mang Một đáp: “Trưởng ga Huế không nói với chúng tôi như thế.”
Gã CIA nói: “Tay trưởng ga Huế còn không biết là nên gãi đồng hồ hay lên dây cót cho cái mông ngứa của hắn nữa kia, Tôi đang nói với các vị là chúng đã cho nổ tung đường tàu. Mười hai người chết, tôi không biết bao nhiêu người bị thương.”
“Bằng mìn à.”
“Đúng, điều khiển trực tiếp. Thật khủng khiếp.”
Gã CIA, người đứng đầu lực lượng an ninh của tỉnh này đang nói dối; nhưng vào lúc đó thì tôi không có dữ kiện nào để bác lại câu chuyện của gã. Ông trưởng ga Huế nói rằng cả mấy tháng rồi không có vụ mìn nổ nào và điều này được những viên chức đường sắt ở Đà Nẵng khẳng định. Những gã CIA rất nóng lòng muốn gây ấn tượng với chúng tôi rằng gã đang nắm mạch máu của đất nước này, gã càng tỏ ra như thế khi bạn gái gã vào cùng ngồi và quấn quanh cổ gã. Gã béo còn lại trong bungalow, nói chuyện bằng những tiếng thì thào điên dại với một trong những cô gái, còn tay da đen ở cách cổng vòm một quãng, đang đu lên xà bắc giữa hai cây cọ. Gã CIA nói: “Có một điều các vị cần ghi nhớ. Các làng mạc không ủng hộ bọn Việt Cộng – nhưng cũng không ủng hộ cho lính chính phủ. Các vị hiểu chưa, đó là lý do vì sao ở đây lại yên tĩnh như thế.”
Cô gái người Việt véo má gã và gọi cô bạn ở rìa bãi biển đang nhìn tay da đen đung đưa một sợi dây chuyền nặng trịch quanh cổ hắn. Gã ở trong bungalow đi ra và tự rót whisky. Hắn uống một cách bồn chồn, nhìn gã CIA đang huênh hoang. Gã CIA nói: “Đó là một tình huống buồn cười. Như kiểu ông nói làng này thì sạch sẽ và làng kia thì toàn Charlie[3], nhưng có một điều các vị cần hiểu: hầu hết người dân không đánh nhau. Tôi chẳng quan tâm các vị đọc gì trên báo – các nhà báo cũng dở ẹc như món gà tây Giáng sinh. Tôi đang nói với các vị rằng ở đây rất yên tĩnh.”
[3] Việt Cộng.
“Thế còn mìn thì sao?”
“À, mìn. Các vị nên tránh xa tàu hỏa: đó là tất cả những gì tôi có thể nói.”
Gã uống whisky nói: “Buổi đêm thì khác.”
Gã CIA chêm vào: “Ờ, hiểu không, tức là buổi đêm thì như kiểu cái đất nước này đổi chủ.”
Hổ Mang Một lên tiếng: “Tôi nghĩ chúng tôi đi đây.”
Gã CIA hỏi: “Sao vội thế? Cứ ở đây!” rồi nói với tôi “Ông là nhà văn. Tôi cũng là nhà văn – ý tôi là, tôi có viết một ít. Thỉnh thoảng tôi viết mấy bài báo. Boy’s Life – tôi có viết cho Tạp chí Boy’s Life một vài bài và ờ…”
Những cô gái hét lên bằng tiếng Việt và cười khúc khích, bắt đầu làm gã sao nhãng.
“… dù vậy, ông nói là ông định đi đâu nhỉ? Ngũ Hành Sơn à? Ông nên tránh xa chỗ đó vào lúc này.” Gã nhìn đồng hồ. Lúc đó là năm rưỡi chiều. “Có thể có Charlie ở đó. Tôi không biết. Tôi không muốn phải chịu trách nhiệm đâu.”
Chúng tôi bỏ đi và khi vào trong xe, tôi nhìn lại căn bungalow. Gã CIA cầm xì gà vẫy chúng tôi; dường như không để ý cô gái người Việt vẫn còn đang bám vào gã. Bạn gã đứng ở cổng vòm với gã, tay lắc lắc một cái cốc giấy đầy whisky và rượu gừng. Tay da đen quay lại chỗ thanh xà cao: hắn đang lên xà; mấy cô gái đứng đếm. Người lính gác ôm khẩu súng. Phía ngoài họ là biển. Gã CIA gọi to, nhưng triều đang lên và tiếng sóng ầm ĩ nhấn chìm tiếng gã. Người dân tị nạn ở Đà Nẵng chiếm các doanh trại; ba gã này chiếm căn nhà cạnh bờ biển của một vị tướng. Theo cách nào đó, họ thể hiện tất cả những gì mà nước Mỹ còn lại sau khi đặt cược vào cuộc chiến tranh: một cảm xúc suy đồi, nỗi sợ hãi trong cơn say túy lúy và những suy nghĩ đơn giản. Với họ chiến tranh đã kết thúc: họ chỉ tự tìm vui và làm giàu một chút.
Cách chỗ đó về phía Nam chừng sáu bảy cây số, gần Ngũ Hành Sơn, ôtô chúng tôi bị kẹt đằng sau một cái xe bò ì ạch. Khi chúng tôi đang đợi, một thằng bé người Việt khoảng mười tuổi chạy vụt tới hét vào cửa sổ.
Hổ Mang Một hỏi: “Nó nói gì thế?”
Dial trả lời, “Đ. mẹ mày.”
“Thế thì biến ra khỏi đây đi.”
Tối hôm đó tôi gặp Đại tá Tuấn, người vẫn viết tiểu thuyết dưới cái tên Duy Lam. Ông là một trong số mười nhà văn của Việt Nam kể với tôi chế độ kiểm duyệt dưới thời Thiệu khắt khe ra sao – không chỉ có kiểm duyệt chính trị, kể cả vở kịch Chuyến tàu mang tên Dục vọng[4] cũng bị cấm.
[4] Tác phẩm của nhà văn Mỹ viết kịch Tennessee Williams.
Lo sợ sách của chính họ sẽ bị kiểm duyệt, các nhà tiểu thuyết Việt Nam đã chọn một cách an toàn hơn là dịch những tiểu thuyết vô thưởng vô phạt: các hiệu sách ở Sài Gòn đầy những phiên bản tiếng Việt cua Jane Eyre, Hải âu Jonathan Livingstone, các tác phẩm của Washington Irving và Dorothy Parker. Đại tá Tuấn nói rằng ông thích viết văn bằng tiếng Việt, cho dù ông có thể dễ dàng viết bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Anh.
Ông nói: “Tiếng Việt là một ngôn ngữ đẹp. Nhưng mà khó dịch. Ví dụ, có nhiều cách để một người đàn ông gọi vợ mình. Anh ta có thể gọi ‘cô’ – nhưng thế bị cho là thô lỗ. Hoặc anh ta có thể gọi vợ là ‘em’ và vợ gọi anh ta là ‘anh.’ Tuyệt nhất là khi một người đàn ông gọi vợ là ‘mình’ – anh ta sẽ nói với vợ ‘Mình thế nào rồi?’ Và có những cách khác nữa. Anh ta có thể gọi chị ta là ‘má nó’ và chị ta gọi anh ta là ‘ba nó’…”
Hổ Mang Một nói “Má nó, ba nó. Tại sao, vì ông Bà Front – Porch America nói thế!”
Trước khi Đại tá Tuấn đi, tôi hỏi ông ta về cảm giác chung của Việt Nam về người Mỹ sau bao năm chiến tranh, chia rẽ, chết chóc và sau bao nhiêu năm chiếm đóng như vậy.
Đại tá Tuấn nghĩ một lúc lâu trước khi trả lời, khi trả lời ông chọn từ rất thận trọng. “Chúng tôi nghĩ người Mỹ,” ông ta nói rồi lại dừng lại “Chúng tôi nghĩ rằng họ là những người có kỷ luật tốt… và họ mắc nhiều sai lầm trong chiến tranh. Tất nhiên chúng tôi thấy họ là những người hào phóng. Nhưng chúng tôi cũng tin họ không có văn hóa – không có chút nào, không ai trong số những người chúng tôi đã gặp. Tôi không nói cho bản thân tôi: tôi đã đọc Faulkner và nhiều nhà văn Mỹ khác. Tôi đang nghĩ như một người bình thường – như hầu hết những người ở Việt Nam. Đó là điều họ nghĩ.”
Tôi bay từ Đà Nẵng vào Nha Trang để bắt chuyến tàu đi Tháp Chàm, nhưng vào ngày tôi đến thì có một đội đặc công tấn công vào kho xăng ở bên ngoài Sài Gòn, tại Nhà Bè và năm mươi phần trăm nhiên liệu của Việt Nam đã bay sạch trong sáng hôm đó. Việc hạn chế phân phối nhiên liệu bắt đầu và tôi hủy bỏ chuyến đi. Đó là một sự phung phí không cần thiết, vì lẽ ra tôi phải được đưa trở lại một trăm sáu mươi ki lô mét bằng ô tô. Tôi kiếm được một cái xe đạp và đạp xung quanh thành phố của những căn biệt thự bỏ hoang, rồi ăn lươn ở một nhà hàng hướng ra biển. Ngày hôm sau tôi mất hàng giờ ở sân bay Nha Trang đợi máy bay về Sài Gòn; cuối cùng một chiếc máy bay cũng tới, một con C-123 chất đầy giấy Kleenex, Kotex, đậu, giấy vệ sinh, nước ép bưởi và một thùng lớn gạo Cal-Rose loại hảo hạng quá cảnh (thật lạ, vì Nha Trang nằm ở một vùng trồng gạo) và một chiếc xe Dodge 1967, của một trong những người Mỹ ở đó.
Chuyến bay trở lại Sài Gòn trong cơn dông bão làm tôi hết hồn. Tôi như bị cột vào thành bụng của một con cá voi nhồi sóng và ba tay phi cồng người Hoa chẳng làm tôi yên tâm tí nào. Tôi hồi phục sức khỏe đủ để giảng thêm hai bài nữa mà tôi nhớ không khác mấy so với những gì Auden đã mô tả trong “On the Circuit” (Trên vòng đua) là
Một bình luận ngu như lừa,
Một khuôn mặt làm tâm hồn mê đắm.
Rồi tôi rời đi, ngồi đợi ở sân bay Tân Sơn Nhất để đến Nhật Bản. Vào những lần khác thuận tiện hơn, tôi sẽ lên tàu đi Hà Nội, đổi tàu đi Bắc Kinh rồi qua Thẩm Dương, sau đó đi từ Seoul đến Busan để lên một chuyến tàu biển nối với một trong những tuyến tàu tốc hành trên đảo Kyushu của Nhật Bản. Hoặc có thể tôi sẽ đi thẳng từ Bắc Kinh đến Moscow qua Ulan Bator Mông cổ, rồi về nhà. Tuyến đường sắt từ ga đầu mối Hà Nội đến ga phố Liverpool ở London sẽ không có gì trở ngại. Có thể vào một ngày nào đó trong tương lai…[5]
[5] Giờ đây – tháng tư năm 1975 – hầu hết những thành phố Việt Nam mà tôi đi qua bằng tàu hỏa đã bị phá hủy, đoàn tàu nhỏ không còn chạy giữa Huế và Đà Nẵng nữa. (Tác giả chú thích, thời điểm xuất bản cuốn sách).