Đọc truyện Phong Hoa Tuyết Nguyệt Túy Mộng Sinh – Chương 21: Bổn nguyên
Ăn trưa xong, A Tư Mạc mới cùng Chu Ngọc Yên sư phó, Chu Đường Mộng tỷ tỷ đi vòng ra phía sau núi, chuẩn bị tiến vào cấm địa của Mộc Bảo sơn, đồng thời cũng sẽ là nơi tu luyện của A Tư Mạc sau này: Dược Đường Thủ Tĩnh động. Ba người xếp thành một hàng dọc, Chu sư phó đi đầu, vừa đi vừa nói với A Tư Mạc ở ngay đằng sau:
– A Tư Mạc, ngươi hiện tại đã đột phá lên Trúc Cơ kỳ, đồng nghĩa với từ nay về sau sẽ vào trong Thủ Tĩnh Động này tu luyện, mỗi lần đều không quá hai canh giờ, đã hiểu chưa?
– Đệ tử hiểu.
A Tư Mạc giọng căng thẳng đáp lại, đồng thời bất giác guồng bước chân lên nhanh một chút, cố gắng theo sát sư phó. Tuy ngữ khí của sư phó không có gì khác ngày thường, song sắc mặt lại vô cùng nghiêm túc, thậm chí còn pha chút thành kính. Chỉ một điểm đó thôi, cũng đủ cho A Tư Mạc tương tự im lặng bước theo sau. Mà Thủ Tĩnh động cũng không hổ là cấm địa trọng yếu của Dược Đường, trên một đoạn đường đi không hết một khắc thời gian, sư phó đã thi pháp khai mở hộ trận không dưới ba mươi lần, do đó có thể thấy nơi này sâm nghiêm cỡ nào. A Tư Mạc vừa vặn tiến vào Trúc Cơ kỳ, ý chí cứng cỏi hơn trước không chỉ gấp hai gấp ba, nhưng uy áp cấm chế phát ra vẫn khiến hắn cảm thấy ngạt thở.
Nguyên lai ngay gần nơi mình sống, còn có chỗ cường đại như vậy!
A Tư Mạc khẽ cảm giác, máu trong người mình từng chút nóng lên, hắn đối với Thủ Tĩnh động mình sắp tới vô cùng mong đợi.
Đi thêm một khắc thời gian, ba người A Tư Mạc mới dừng lại trước một vách đá phẳng lì như có người mài, chất đá vô cùng kì đặc, phản chiếu ánh sáng mặt trời mà lung linh như kim cương. Chu Ngọc Yên đến đay thì quay lại nhìn A Tư Mạc, lần đầu tiên thể hiện nét khiêm nhường mà trịnh trọng nói: “Thủ Tĩnh động này, là tôn sư của Dược Đường khám phá cùng kiến tạo, mục đích dùng cho môn hạ đệ tử tu luyện, chỉ có đệ tử Trúc Cơ kỳ trở lên mới có thể tiến vào.”
– Dược đường tôn sư pháp lực thông thiên, trong Thủ Tĩnh động này, rốt cục tận điểm cuối ở đâu, bên trong còn thứ gì ẩn giấu, ngay cả ta cũng không biết hết tường tận. Tuy Thủ Tĩnh động đã được các đời đệ tử khai phá rất lâu, song cũng chưa có ai nghiên cứu được hết. Lẽ dĩ nhiên, những nơi đặc dị hung hiểm hẳn vẫn còn, ngươi bởi vậy nếu thích có thể tự mình khám phá, song tương tự cũng phải tự lo an nguy.
A Tư Mạc nghe rất chăm chú, gương mặt lộ rõ sự háo hức cùng lo lắng. Mà nói đến đây, sư phó lại lấy ra một chiếc vòng bạc, đeo vào cổ tay của A Tư Mạc. Vòng bạc vừa chạm vào da thịt hắn, liền hơi tỏa ra phù quang, truyền ra một dòng điện tê tê chạy khắp cơ thể A Tư Mạc.
– Trên vòng bạc này có chứa một tiểu truyền tống trận, sau khi ngươi vào Thủ Tĩnh động đủ hai canh giờ, nó sẽ tự động truyền tống ngươi tới về một phòng ở Tĩnh Linh đường. Hơn nữa ngươi đeo vòng bạc này vào, tự nhiên không phải lo đến các cấm chế trên đường đi. Cuối cùng, nếu như trong Thủ Tĩnh động gặp cái gì nguy hiểm, ngươi tùy thời truyền chân khí vào đây, hô lên một chữ “Hồi”, liền sẽ được truyền tống ra ngoài. Song phải nhớ, một khi truyền tống ra, lại phải mười canh giờ sau, mới có thể vào lại Thủ Tĩnh động.
A Tư Mạc nhìn vòng bạc trên tay, rồi lại liếc qua Chu tỷ. Như hiểu hắn định hỏi gì, Chu tỷ khẽ giơ cổ tay lắc một cái, liền hiện ra một chiếc vòng tương tự như của A Tư Mạc. A Tư Mạc gật đầu, rồi quay lại nhìn về phía Chu Ngọc Yên:
– Thưa sư phó, con đã hiểu.
Chu Ngọc Yên nhìn tên tiểu đệ tử trước mặt, bất giác cao giọng nói: “Nói đi cũng phải nói lại, vào trong Thủ Tĩnh động, hung hiểm căn bản cũng là một loại bài tập. Luyện xong Châu Nhật Thượng Thanh Đạo tầng thứ ba là đã hội tủ vạn pháp căn cơ chắc chắn, ngươi cũng sẽ sớm bắt đầu có thể tu luyện pháp quyết các loại. Bởi vậy ngày sau nếu có gặp nguy hiểm gì, không thể lúc nào cũng sợ hãi mà chạy ra ngoài. Nên nhớ, tu giả chúng ta, theo đuổi bản tâm làm chuyện nghịch thiên, như chèo thuyền ngược dòng, không tiến thì lui, ngươi không được buông thả.”
Chu Ngọc Yên càng nói giọng càng to, khiến A Tư Mạc hơi có cảm giác, bản thân sao giống như đang ăn mắng vậy. Bất quá dưới cảnh đó, miệng lại vâng vâng dạ dạ, nhưng lòng hắn lại ấm ấp ngứa ngứa. Sư phó tuy không có hiền hòa, tính cách bình thường cũng lạnh chút, nhưng thật là một sư phó tốt, mấy lời này của người, đều là vì tốt cho hắn mới nói, thực sự rất quan tâm tới mình.
Chu Ngọc Yên nói đến đây thì thôi, liền chuyển mình định quay về phía vách đá. Song sực nhớ ra cái gì, liền quay người lại, đưa tay về phía A Tư Mạc.
– Đưa viên Đại Điện đan cùng nạp hư giới của ngươi đây.
A Tư Mạc nghe đến đây chợt hơi giật mình, song cũng vẫn ngoan ngoãn đưa hai thứ kia ra. Sư phó hẳn thấy bản thân tự nhiên có thể đưa ra một viên Đại Điện đan, liền đoán được là lấy từ trong nạp hư giới của Chu sư cô cho. Thực chất khi đó hắn là vì có lão thái gia Mặc Tư Tháp Pháp xúi giục chỉ cho, liền lấy Đại Điện đan này ra khỏi nạp hư giới đem đi cá cược, còn viên đan dược này, vốn hẳn như Ly Long Tử, là Chu Tiên Nhi sư cô đặt vào đây rất lâu về trước rồi.
Thu lấy Đại Điện đan xong, Chu Ngọc Yên để nạp hư giới trên tay, hai mắt nhắm nghiền trong phút chốc, rồi vứt lại về phía A Tư Mạc:
– Được rồi, trừ Ly Long Tử cùng Đại Điện đan ra, trong này cũng không còn gì. Đại điện đan này tạm thời ta thu lại, ngày sau hẵng trả lại cho ngươi, phòng ngươi lại đem nó ra làm trò quỷ. Đan dược phân cấp, một phần cũng là vì để tu giả đưa ra lựa chọn phù hợp. Đan dược quá cao cấp so với tu vi của bản thân, điểm tốt không khai thác được hết, ngược lại có thể có không ít chỗ bất lợi, một điểm này, ngươi ngày sau nhớ kỹ.
A Tư Mạc nghe sư phó giảng giải một hai câu cuối kia về đan dược, chợt nhận ra, giọng điệu của sư phó, hình như có chút… mong đợi?
– Thôi, hiện tại mấy chuyện đó ngươi còn chưa cần lo. Tạm thời cứ như vậy đã.
Chu sư phó vừa nói vừa áp tay lên vách đá, ánh sáng phản chiếu theo đó chợt mãnh liệt hơn, khiến A Tư Mạc trong nhất thời không khỏi lóa mắt, đến khi nhìn lại, đã thấy bản thân trong một thế giới khác.
Chỉ thấy cảnh vật trước mắt âm sâm tăm tối, khắp nơi chỉ tuyền một màu đen ngự trị. Như một bản năng, A Tư Mạc đưa mắt nhìn lên, song trên đầu hắn lại không phải là bầu trời, mà là trần động cao ba trượng (12m) tua tủa thạch nhủ rũ xuống, cùng vô vàn viên minh châu khảm lên trên tỏa ánh sáng lờ mờ lạnh lẽo. Mặt đất dưới chân hắn nếu không phải là nham thạch lạnh lẽo thì cũng là những bãi đất phủ cát đen. Thậm chí khi đôi mắt của A Tư Mạc đã quen dần với bóng tối, hắn vẫn chỉ nhìn thấy ở xa là một hoang mạc tuyền một màu đen như vậy, với những đồng cỏ đen, đấu đó rải rác những cây dương còi cọc không lá, và đương nhiên, cũng đen sì. Xa hơn nữa, là một dòng sông đang lặng lẽ chảy vào trong thứ màn đêm hẳn đã ngự trị ở đây từ thủa sơ khai. Quẩn quanh mũi A Tư Mạc là một thứ mùi gì đó tiềm tàng trong không khí, mùi ẩm mốc, mùi lưu huỳnh, và cả mùi của cái chết.
Suy nghĩ đầu tiên tràn ngập trong đầu của A Tư Mạc, chính là địa ngục. Hắn gian nan nuốt nước bọt, thần tình khẩn trương nhìn ngó bốn phía. Song một bàn tay chai sạn và nhăn nhoe nhẹ nhàng đặt trên vai hắn, còn một bàn tay nữa, nhỏ nhắn và ấm áp, cũng khẽ luồn vào giữa những ngón tay hắn.
– Đi thôi!
– Đúng vậy A Tư Mạc, chúng ta đi xem, ngươi rốt cục có bổn nguyên là gì nào?
A Tư Mạc có chút xúc động nhìn Chu sư phó từ tốn bước từng bước như có ý đợi hắn, cùng Chu Đường Mộng nắm tay khẽ kéo hắn đi, cảm giác lạnh lẽo đương tràn ngập trong cơ thể liền lặng lẽ rút lui. Khẽ hít vào một hơi, rồi hắn cất bước theo sư phó và nhị tỷ tiến về phía trước.
– Trừ lần này ra, sau này mỗi lần tiến nhập động, ngươi đều sẽ được truyền tống đến một nơi ngẫu nhiên. Bởi vậy mỗi khi bị truyền tống tới một địa phương khác lạ, cũng không cần lo bị lạc hay gì cả, hiểu chưa?
– Dạ.
A Tư Mạc lơ đãng trả lời, bởi hắn còn đang mải nhìn ngắm kết cấu nơi khảo cứu bổn nguyên của mình.
Không đặc sắc như mình vẫn tưởng, hắn nghĩ.
Tu giả luyện ở Phàm Cảnh, thiên địa nguyên khí ban đầu được tích trữ lại trong cơ thể đều là linh lực không có thuộc tính, hay còn gọi là vô nguyên chân khí. Mà sau khi tu giả trúc cơ tiến vào Hư Cảnh, cơ thể sẽ bắt đầu sản sinh ra vài tia linh lực có thuộc tính, từ đó định hình thuộc tính trời sinh của tu giả, hay còn gọi là bổn nguyên. Tu giả từ trước đến nay ghi chép lại, tổng cộng có tám loại thuộc tính, gọi là bát nguyên, bao gồm ngũ hành kim, mộc, thủy, hỏa, thổ cùng lôi, phong, hàn ba loại là tám.
Tu giả khi Trúc Cơ, cơ thể chỉ sản sinh ra một loại linh lực có thuộc tính duy nhất, tức là người ấy chỉ có một bổn nguyên, gọi là thuần nguyên tu giả. Chu Đường Mộng tỷ tỷ là một thuần nguyên hỏa tu giả điển hình. Tu giả có hai loại chân khí có thuộc tính, gọi là lưỡng nguyên tu giả. Chu sư phó và Thương Hùng sư huynh đều là lưỡng nguyên tu giả, Chu sư phó là hỏa mộc lưỡng nguyên tu giả, Thương Hùng sư huynh là hỏa lôi lưỡng nguyên tu giả. Tu giả có ba hoặc bốn bổn nguyên, được gọi là bán nguyên tu giả, nhiều hơn nữa thì đều gọi chung là hỗn nguyên tu giả. Bổn nguyên của tu giả giúp xác định, bản thân luyện hóa vô nguyên chân khí thành chân khí thuộc tính gì là thích hợp nhất, cũng đồng nghĩa sau này nên tu luyện các loại pháp quyết cùng pháp bảo như thế nào thì tốt.
Trên thực tế, không xét đến thiên tư, chỉ xét đến số lượng bổn nguyên nhiều hay ít, thì khó mà nói được cái gì tốt hơn, cái gì tệ hơn. Hỏa thuần nguyên tu giả như Chu tỷ, khi tu luyện hỏa hành pháp quyết hay pháp bảo, liền dễ dàng hơn tu giả không có hỏa thuộc tính như Sơn Thái Tuệ sư huynh là thổ mộc thủy bán nguyên, mà uy lực phát ra cũng cường đại hơn một đoạn. Song về thổ hành pháp quyết, tuy hỏa sinh thổ, nên Chu tỷ tu luyện thổ hành pháp quyết tuy nhỉnh hơn người không có thổ hành bổn nguyên, nhưng lại thua Sơn Thái Tuệ sư huynh có sẵn thổ hành thuộc tính. Mà thủy khắc hỏa, bởi vậy Chu tỷ luyện thủy hành pháp quyết, tự nhiên đã thua kém người bình thường thì chớ, càng không phải nhắc tới Sơn sư huynh. Lại nói, cùng một loại hỏa hành pháp quyết, song do Chu tỷ là thuần nguyên tu giả nên khi thi triển thì uy lực mạnh mẽ hơn hẳn Thương Hùng sư huynh là lưỡng nguyên tu giả.
Các loại diễn biến như trên, nhiều không kể hết, bởi vậy sau khi trúc cơ, việc phân tích bổn nguyên của bản thân để đưa ra phương án tu luyện hợp lý sau này là vô cùng quan trọng. Chỉ cần một sai sót trong giai đoạn này thôi cũng có thể khiến một thiên tài hỏa thuật bị chôn vùi trong mác của một tên phế vật đến thủy hành pháp quyết đơn sơ cũng phải vật lộn hàng năm trời mới tu luyện được. Từ bát nguyên có thể sinh ra hai trăm năm mươi nhăm tổ hợp từ thuần nguyên đến hỗn nguyên, biến hóa vô cùng, song nói chung, tu giả càng ít bổn nguyên sẽ càng chú trọng vào các loại pháp quyết trọng tinh thuần cùng uy lực, mà tu giả càng nhiều bổn nguyên, sẽ càng chú trọng vào các loại pháp quyết trọng đa dạng cùng biến hóa. Chiến đấu giữa các tu giả mà nói, chỉ nhìn vào bổn nguyên giữa hai ngươi thôi cũng đã tương tác tinh vi đến đau đầu, chưa cần phải xét đến các yếu tố khác.
Tu giả sau khi trúc cơ, cần đem chân khí vô nguyên trong cơ thể đi luyện hóa bằng cách tu luyện pháp quyết có thuộc tính. Chân khí vô nguyên ở đây chính là đạo khí lưu màu trắng trong nội thể A Tư Mạc, đạo khí lưu này sau thời gian dài tu luyện pháp quyết sẽ dần dần phân hóa thành các loại bổn nguyên khác nhau, một phần là vì chân khí bổn nguyên do cơ thể tự sản sinh sẽ càng ngày càng nhiều, phần khác là do thiên địa nguyên khí khi hấp thụ vào cũng sẽ được cơ thể tự động luyện hóa. Dù là tu giả tu luyện ngũ hành hay chỉ tập trung vào hỏa hành, thường thường đều cần bồi dưỡng cùng luyện hóa vô nguyên chân khí của mình thành ngũ hành chân khí hay hỏa hành chân khí tương ứng.
Ví như Chu tỷ, mấy năm trước sau khi tỷ ấy trúc cơ, cũng phải trải qua giai đoạn đầu này, tỷ ấy tu luyện kiếm quyết hỏa hành Viêm Vũ Kiếm Quyết, từ đó chuyển hoá linh lực trong nội thể thành hành hỏa chân khí. Mà theo tu vi đề thăng, hành hỏa chân khí trong thân thể tỷ ấy lại tự động chuyển hóa thành hành hỏa nguyên khí so với hành hỏa chân khí càng tinh thuần, càng mãnh liệt, cùng một pháp quyết tung ra mà uy thế cách biệt không thể bàn cãi. Lại trải qua luyện hóa không ngừng, hành hỏa nguyên khí càng tinh thuần, cuối cùng sẽ thành hành hỏa tinh khí, giơ tay nhấc chân, viêm thế hiển hách. Chân, Nguyên, Tinh, Linh, Thần năm cấp phân định độ tinh thuần cùng uy lực của linh lực trong cơ thể, cùng với thực lực, phân cấp công pháp pháp bảo pháp quyết và tương tác giữa bổn nguyên của hai bên, là bốn yếu tố quan trọng nhất để đánh giá tương quan thực lực giữa bản thân và đối phương. Loại kiến thức này, đến kẻ ngu ngơ như A Tư Mạc cũng phải nắm được.
Song tuy việc xác định bổn nguyên của bản thân trọng yếu như thế, nhưng để phát hiện được, thực sự khó vô cùng. Phương pháp đương nhiên chính là đi tìm những đạo bổn nguyên chân khí do cơ thể sản sinh ra, tuy nhiên nói thì dễ, làm mới khó, những đạo chân khí này ít ỏi đến đáng thương, xác định được thì rắc rối cùng tốn kém vô cùng. Hơn nữa dù có biết, cũng chưa chắc đã có pháp quyết tương ứng để tu luyện. Cái ví dụ thiên tài hỏa hành-phế vật thủy hành ở bên trên ngoài đời thật ra đầy rẫy; đối với các gia tộc tư sản dù có lớn một chút mà nói, có một loại pháp quyết để tu luyện đã là quý giá lắm rồi, lấy đâu ra nhiều cái, mỗi cái lại là một loại bổn nguyên khác nhau để ai thích luyện gì thì luyện. Khác biệt này chính là một phần lý do vì sao mà những cự đầu như Ngọc Tiết cung liên tục xuất hiện thiên tài tu luyện, cũng đồng thời giải thích, tại sao địa phương tích trữ lượng lớn pháp quyết như Thư Đường lại quan trọng đến vậy.
Chỉ thấy ba người A Tư Mạc lại rảo bước đi bộ tầm nửa khắc, liền rẽ vào một đoạn hang lớn mà nông. Thành hang trên dưới trái phải đều nhắn thính, màu đá xám bạc chứ không gồ ghề đen thui như những nơi khác. Hang sâu gần mười hai trượng (48m), hình dáng đại khái như nửa chiếc loa. Cổng vòm bên ngoài cao ba trượng, còn phần vòm ở cuối hang cao gần mười ba trượng (52m).
Chính giữa “căn phòng” này là một phiến ngọc đen tuyền hình lăng trụ tam giác, cao tầm ba thước (1m2). Ba người A Tư Mạc bước đến cách đó tầm năm sáu bước chân thì dừng lại, hay nói đúng hơn, là Chu sư phó cùng nhị tỷ dừng lại. A Tư Mạc nhìn khối ngọc trước mặt, khẽ nuốt khan một tiếng, rồi dấn bước tiến lên. Hắn tu chân cũng đã hơn bảy năm rưỡi, tự nhiên mỗi khi hiếm hoi được rảnh rỗi, cũng vẫn thường nghe đại sư huynh cùng nhị tỷ kể chuyện. Dẫu cho hắn không tính là giỏi giang gì, song thành tựu Trúc Cơ hiển nhiên có thể đạt được, Thương Hùng sư huynh theo đó trước đây đã kể cho hắn không ít lần về phiến ngọc đen này.
Khối ngọc này thực ra gồm hai thành phần, thành phần đầu tiên chính là thứ vật chất màu đen đương tràn ngập trong ngọc. Vật chất màu đen này vô cùng đặc dị, có khả năng hút lấy nội lực của bất cứ ai đến gần nó. Đệ tử Dược Đường trúc cơ thành công, nội lực trong người thường thường vừa đủ để nó hút cạn.
A Tư Mạc, giống như biết bao đời đệ tử Dược Đường trước đây, giờ đứng trước ngọc bích, chậm rãi vươn tay đặt lên mặt ngọc nhẵn nhụi hình tam giác. Hắn dự định sẽ bình thản để tay lên khối ngọc, rồi chậm rãi và hiên ngang quay về đứng cạnh sư phó và nhị tỷ. Song sự thật là đúng thời điểm làn da của A Tư Mạc chạm vào chất ngọc lạnh như băng, cơ bắp toàn thân của hắn như chảy nhão ra thành nước, còn hắn tí nữa thì ngã đập đầu xuống nền đá, nếu không phải có Chu tỷ nhanh tay đứng đằng sau đỡ hắn lại.
– Ngươi cũng thật yếu đi.
A Tư Mạc nghe một câu trêu vậy của Chu Đường Mộng, cũng chỉ biết mỉm cười cay đắng, rồi đưa mắt nhìn theo sự biến đổi của khối ngọc thạch trước mặt. Chỉ thấy bên trong khối ngọc như có một thứ chất lỏng trong suốt đổ vào, còn thứ vật chất màu đen đặc dị vốn nằm sẵn trong khối ngọc thì bị ép dần xuống dưới. Khối ngọc theo đó mới dần trở thành một lăng kính trong suốt, lưu trữ bên trong nó thập thành nội lực của A Tư Mạc, mà sàn đá bên dưới nó giờ chậm rãi mở ra, nuốt khối ngọc đó xuống đất.
Phần thứ hai của “dụng cụ thí trắc bổn nguyên” này, chính là chiếc lăng kính này đây. Nó có hai công dụng, công dụng thứ nhất là cường hóa những đạo bổn nguyên chân khí nhỏ bé có trong trong nội lực của tu giả. Công dụng thứ hai, chính là một khi lăng kính này chứa một mẫu chân khí có thuộc tính, tỉ dụ như hỏa lôi hai loại thuộc tính chẳng hạn, thì nó sẽ chỉ chứa thêm hỏa lôi hai loại thuộc tính thôi, sáu loại thuộc tính còn lại đều sẽ bị lọc ra hết. Theo đó bên dưới sàn đá là tám đoạn tiểu linh mạch nhân tạo có thuộc tính chạy song song với nhau, nếu đặt lăng kính này vào giữa các đoạn linh mạch đó, những đoạn linh mạch nào có cùng thuộc tính với bổn nguyên của A Tư Mạc sẽ có thể đi xuyên qua lăng kính, còn những đoạn còn lại sẽ bị phản ngược lại. Kết quả phân tích theo đó sẽ hiện lên mặt đá phía cuối hang động.
A Tư Mạc uể oải đặt người ngồi xuống sàn đá, khắp người lấm chấm mồ hôi lạnh. Lần đầu tiên cảm nhận thế nào là cạn kiệt chân khí trong người, quả thực có chút nuốt không trôi đối với hắn. Chân khí trong người bị rút cạn, cảm giác đại khái có hơi giống như sau khi hắn trải qua đặc huấn luyện thể của sư phó vậy, song cũng không giống hẳn, cơ bắp toàn thân cũng không cảm thấy rã rời như vậy, nói chung là rất khó diễn tả. Còn mấy chục năm sau này, khi đã rơi vào cảnh này không biết bao nhiêu lần rồi, A Tư Mạc tự nhiên sản sinh ra miễn dịch với cái tình trạng này rồi.
Chu Đường Mộng phủi qua mặt sàn một chút, rồi ngồi xuống bên cạnh A Tư Mạc. Chỉ thấy nàng lục lọi trong giới chỉ một lúc, liền lôi ra một viên đan dược bé tầm một đốt ngón tay út, đưa sang cho hắn.
– Dùng viên Hồi Khí Đơn này đi. Ngươi trông cũng thật tệ, mặt mày xanh lét hết rồi kìa.
A Tư Mạc chỉ biết cười khổ, đưa tay nhận lấy viên Hồi Khí Đơn rồi cho vào miệng nuốt xuống. Rất nhanh đan dược phát huy tác dụng, A Tư Mạc có thể cảm nhận được từng đạo chân khí ấm áp tỏa ra khắp cơ thể, tưới tắm cho từng đoạn kinh mạch đang khô hạn. Mà kinh mạch trong người hắn, vô cùng tham lam hút lấy từng tia chân khí dù nhỏ bé nhất mà đan dược đem lại, lại theo hắn vận khởi Châu Nhật Thượng Thanh Đạo liền đem chúng luyện hóa một lần, rồi rút về đan điền. Một viên Hồi Khí Đơn này, khôi phục tầm hai ba thành công lực cho A Tư Mạc.
– Người bình thường đột phá Trúc Cơ, nội lực trong người thường chỉ tăng đến bốn lần là cùng, ngươi có thể tăng những bốn lần rưỡi, khí hải hẳn lớn hơn người khác tầm một thành.
Chu Ngọc Yên sư phó hốt nhiên từ sau lên tiếng, như bâng quơ nói ra vài lời không liên quan như vậy, khiến A Tư Mạc cũng chỉ biết nhìn sư phó cười trừ. Song rất nhanh, bà lại tung lời búa tạ đập A Tư Mạc ra bã:
– Ngày sau luyện chế đan dược, lại phải tính đến một tên ăn hàng như người, chỉ nghĩ thôi cũng khiến ta đau đầu.
Hức. A Tư Mạc nghe đến đây liền quay ngoắt về phía trước , song hắn vẫn cảm nhận được, ánh mắt sư phó như dao nhọn từ phía sau đang đâm vào lưng hắn. Thở dài ra một tiếng, hắn cũng chỉ có thể cười khổ, quay sang thì thầm với Chu Đường Mộng:
– Sư phó hình như vẫn chưa tha cho đệ chuyện hôm trước.
– Ai bảo ngươi thích chơi trội, phục dụng Ly Long Tử rồi đi bơi chứ?
– Cả tỷ nữa, đến tỷ cũng như vậy sao?
– Hứ, ai buồn quan tâm đến chuyện đó chứ. Chỉ là nếu mấy môn đường khác phát hiện ra Dược Đường tự nhiên mất mất một tên đệ tử vì cái lý do lãng nhách như vậy, đám đệ tử chúng ta cũng thật xấu mặt đi.
A Tư Mạc càng nghe càng dở khóc dở cười, nha đầu này mồm miệng quả thực giống hệt sư phó, không có chút đức ngôn gì cả. Chu Linh Nhan sư cô ơi, người tính cũng thật sai, đem nhị tỷ vốn chẳng có đức công đến Dược Đường, giờ thành ra cũng chẳng còn đức ngôn nữa, tai hại tai hại thay. Giả vờ ủ dũ một chập, rồi A Tư Mạc lại rỉ tai Chu tỷ:
– Tỷ nghĩ đệ sẽ có bổn nguyên gì?
– Có lẽ sẽ có hỏa bổn nguyên.
– Tại sao?
Chu Đường Mộng búng ngón tay tách một cái, liền hiện ra một tiểu hỏa cầu.
– Ta là thuần nguyên hỏa tu giả, tự nhiên cảm nhận với hỏa hành chân khí tương đối mẫn cảm. Ta cảm thấy, ngươi cũng giống ta, cũng giống cả sư phó và đại sư huynh, đều có hỏa hành bổn nguyên.
A Tư Mạc nhìn thiếu nữ trước mặt lăn lăn hỏa cầu qua lại trên tay, đôi mắt đen sáng long lanh đương chăm chú nhìn theo hỏa cầu rực rỡ, liền thầm nghĩ trong lòng, chí ít nhị tỷ, vẫn còn có đức dung, vẫn còn có chút hi vọng. Song đúng lúc này, thạch bích cuối hang động sinh ra dị biến, hắn theo đó bật đứng dậy, có chút mong chờ nhìn về phía trước.
Thạch bích phẳng lỳ này vốn chỉ tuyền một màu xám, nay lại dần dần hiện ra những nét đen như mực, hệt như có một họa sĩ vô hình đương đưa bút vẽ ra một bức đồ họa lên đó vậy. A Tư Mạc nhớ lại, đại sư huynh có kể, thứ tự của tám bổn nguyên thuộc tính xuất hiện trên thạch bích theo thứ tự từ trái sang phải là hàn, kim, hỏa, lôi, phong, thủy, mộc, thổ. Hiện tại đang thành hình, là hình vẽ thể hiện…
– Hỏa hành, là hỏa hành. Ngươi nhìn xem, ta đã nói rồi mà.
Chu Đường Mộng vừa nắm lấy tay của A Tư Mạc, vừa chỉ hình vẽ xuất hiện trên thạch bích mà reo lên. Hỏa hành bổn nguyên được thể hiện bằng bức tranh trên có thái dương rực cháy, bên dưới là cảnh hỏa thần Chúc Dung đánh bại Cộng Công, dưới nữa là cảnh vua Toại Nhân tìm ra lửa để truyền bá cho nhân loại, rồi đến cảnh con người dùng lửa để nấu nướng, rèn đúc,…
Bức hình thứ hai xuất hiện là của phong nguyên thuộc tính, diễn tả Phong Bá đang thả gió ra từ trong túi, lại có cả hình cầm hạc liệng gió bay ngang, phía dưới nữa là những khóm tre đung đưa theo gió cùng những phong xa dẫn nước biển vào đồng muối. Ngay bên cạnh đấy lại là bức vẽ thủy hành, vẽ lại cảnh Vũ Sư tạo mưa, hay Tứ Hải Long Vương dưới long cung cùng bao loài tôm cá thuồng luồng, còn có cả cảnh loài người dùng nước tưới tiêu, lái thuyền trên biển…. Mà bức tranh thứ tư, cũng là bức tranh cuối cùng hiện ra, là bức tranh đại diện cho thổ hành nằm về phía tận cùng bên trái: trên vẽ bản đồ thế giới, dưới vẽ quang cảnh cày cấy, xây dựng, lại vẽ cả hình Thổ Công Thổ Địa.
Bốn bức đồ họa vừa rộng lớn phóng khoáng, lại chi tiết tỉ mỉ; cảnh sơn thủy thì thanh tục thoát trần, cảnh thần nhân thì sống động chân thực, đủ làm không ít họa gia phải ngả mình kính phục. Song cái thần kì của thạch họa, đến đó còn chưa phải là hết.
Chỉ thấy trong bốn bức tranh hiện lên, hai bức sau tượng trưng cho thủy thổ nhị nguyên tố đều chỉ tuyền một nét bút đen, song hai bức đầu đại diện cho hỏa phong bổn nguyên, lại tỏa ánh màu rực rỡ, hơn nữa nhân vật trong tranh, lại chuyển động y như thật: Hỏa họa sắc đỏ làm chủ, trên có thái dương đương phát ra những lưỡi lửa khi to khi nhỏ, dưới có Chúc Dung uy vũ dẫn quân đánh bại Cộng Công, binh lính chiến đấu vô cùng khốc liệt, thậm chí trong cảnh vẽ nhân gian, từng tia lửa nhỏ bé trong lò rèn cũng nhảy múa như thật. Phong đồ sắc bạc làm chủ, Phong Bá vừa thả gió ra khỏi túi, vừa cười đến rung cả vai; từng đàn ngân hạc ô cầm bay qua liệng lại vô cùng chân thực; những khóm trúc đung đưa theo gió, cùng phong xa chầm chậm quay, đều không khác gì ngoài đời thật. Chu Đường Mộng kinh ngạc nhìn hai bước tiên họa trước mắt, trong nhất thời còn như không thể tin vào mắt mình, song rất nhanh gương mặt càng lúc càng khởi sắc, nắm lấy vai A Tư Mạc mà tíu tít vui mừng:
– Song linh căn. Là song linh căn. A Tư Mạc, ngươi là tứ đại bán nguyên, lại còn có song linh căn nữa.
Bất quá trái với Chu Đường Mộng đang vô cùng phấn khích, A Tư Mạc ở bên cạnh chỉ thất thần nhìn sang một bên, trên gương mặt của hắn không có chút gì vui mừng.
Bởi theo ánh mắt của hắn, cách đó một đoạn, là Chu Đường Mộng sư phó.
Trên gương mặt của người, không có chút gì vui mừng, thậm chí cũng không phải là gương mặt băng lãnh vô cảm xúc thường ngày.
Trên gương mặt sư phó, chỉ có sự thất vọng vô cùng.